Xu Hướng 5/2023 # Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Xã Hội Chủ Nghĩa Trong Bối Cảnh Phát Triển Kinh Tế Thị Trường, Hội Nhập Quốc Tế # Top 13 View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 5/2023 # Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Xã Hội Chủ Nghĩa Trong Bối Cảnh Phát Triển Kinh Tế Thị Trường, Hội Nhập Quốc Tế # Top 13 View

Bạn đang xem bài viết Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Xã Hội Chủ Nghĩa Trong Bối Cảnh Phát Triển Kinh Tế Thị Trường, Hội Nhập Quốc Tế được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển 2011) được thông qua tại Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu ra 8 phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó có nhiệm vụ “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Đây là nhiệm vụ xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế đòi hỏi phải giải đáp những vấn đề cơ bản sau:

1. Một số vấn đề lý luận chung về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa 1.1. Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan. Tính tất yếu khách quan này được quy định bởi đặc điểm của thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Phù hợp với chế độ tư bản chủ nghĩa là nhà nước pháp quyền tư sản – bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản bằng pháp luật tư sản. Phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa nhất định phải là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa – bảo vệ lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động bằng pháp luật của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn xuất phát từ đặc điểm, điều kiện lịch sử của Nhà nước Việt Nam. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội không phải từ một nước tư bản phát triển mà từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến, bỏ qua chế độ tư bản, xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân rồi nhà nước xã hội chủ nghĩa. Quá trình ấy đòi hỏi phải “Phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn” 1. Do vậy, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan của quá trình hoàn thiện Nhà nước dân chủ nhân dân lên Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn thể hiện ở chỗ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là hình thức tối ưu để thực hiện quyền lực nhà nước thuộc nhân dân. Bởi lẽ, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là phương thức tổ chức dân chủ, quyền lực nhà nước mà theo đó pháp luật là cơ sở cho việc thực hiện dân chủ, thực hiện quyền lực cũng như thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mọi chủ thể trong xã hội. Hơn nữa, trong thế kỷ XXI này việc xây dựng nhà nước pháp quyền đang trở thành một yêu cầu mang tính giá trị đặt ra cho các nhà nước; một xu thế khách quan tất yếu đối với các quốc gia dân chủ trong thế giới hiện đại. Việt Nam cũng không nằm ngoài quỹ đạo chung đó.

1.2. Bản chất và đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Về bản chất, ngay từ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (1994) khi lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ nhà n­ước pháp quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định bản chất của Nhà nước pháp quyền Việt Nam: “Tiếp tục xây dựng và từng b­ước hoàn thiện Nhà nư­ớc pháp quyền Việt Nam. Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật” 2. Từ Đại hội IX trở đi, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khảng định bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam – là nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất và thuộc về nhân dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân ủy quyền cho nhà nước quyền lực của mình. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do nhân dân nghĩa là do nhân dân trực tiếp phổ thông đầu phiếu, hoặc thông qua đại biểu của mình gián tiếp bầu lên cơ quan nhà nước và các đại biểu của mình tham gia quản lý quyền lực nhà nước. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vì nhân dân nghĩa là mọi chính sách, pháp luật của Nhà nước đều phải phục vụ nhân dân, nếu không phục vụ nhân dân, không vì nhân dân thì cần phải được thay đổi.

Từ bản chất trên của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, từ lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời gian qua, có thể rút ra một số đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam:

Một là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Hai là, trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam các cơ quan công quyền và công dân bình đẳng về quyền về quyền và nghĩa vụ, quan hệ đồng trách nhiệm; các quyền tự do, dân chủ và lợi ích chính đáng của con người được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng pháp luật.

Ba là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đề cao vai trò thượng tôn của pháp luật trong quản lý xã hội, trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước.

1.3. Cơ sở của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Bốn là, trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, các tổ chức đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Sự lãnh đạo của Đảng và quyền làm chủ của nhân dân được thể hiện tập trung ở Nhà nước, được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động của Nhà nước 3.

Một là, cơ sở kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”” 4. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng: (1) Có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; (2) Có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; (3) Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; (4) Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu giải phóng sức sản xuất; (5) Các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường 5.

Hai là, cơ sở chính trị của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chế độ dân chủ nhất nguyên do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Chúng ta đều rõ, bản chất của một nền dân chủ không phụ thuộc vào chế độ nhiều đảng hay chế độ một đảng, mà phụ thuộc vào đảng cầm quyền đại diện cho lợi ích của ai, giai cấp nào, sử dụng quyền lực nhà nước bảo vệ lợi ích của ai. Cả về mặt lý luận, cả về mặt thực tiễn Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam “không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống chính trị. Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Điều này ghi rõ trong Hiến Pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

1.4. Chức năng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Ba là, cơ sở xã hội của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mà nòng cốt là liên minh công – nông – trí. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cơ quan quyền lực của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa và của nhân dân lao động. Lợi ích của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức không khác biệt, không mẫu thuẫn mà thống nhất với lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động khác và của cả dân tộc. Do vậy, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế sâu rộng cần tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mà nòng cốt là liên minh công – nông – trí.

1.5. Cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như mọi nhà nước khác đều thực hiện chức năng vốn có của Nhà nước. Đó là chức năng chính trị (giai cấp) và chức năng xã hội. Tuy nhiên, do bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do tình hình, điều kiện mới nên từng chức năng chính trị (giai cấp) và chức năng xã hội của nó cũng như mối quan hệ giữa hai chức năng này cũng có sự thay đổi. Chức năng chính trị hòa quện cùng chức năng xã hội và mở rộng hơn trong các nội dụng kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, v.v.. Chức năng xã hội cũng được mở rộng hơn so với thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc. Hơn nữa, chức năng xã hội ngày càng trở nên quan trọng và chủ yếu. Đồng thời, bảo đảm sự thống nhất giữa tính giai cấp với tính nhân dân và tính xã hội của Nhà nước. Bởi lẽ, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Lợi ích của nhân dân thống nhất với lợi ích toàn xã hội. Do vậy, về nguyên tắc tính giai cấp đồng nhất với tính nhân dân và tính xã hội. Cũng vì vậy, thực hiện chức năng giai cấp cũng là thực hiện chức năng bảo vệ nhân dân và thực hiện chức năng xã hội. Đây là điểm khác biệt quan trọng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với Nhà nước pháp quyền tư sản.

1.6. Nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Khoản 3, Điều 2, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) ghi rõ: “3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Từ Đại hội lần thứ VII của Đảng (1991), với ” Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phân công, phối hợp giữa các cơ quan quyền lực nhà nước được khẳng định. Đến Hội nghị Trung ương tám khoá VII (1995), cơ chế vận hành Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được điều chỉnh: quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Từ Đại hội XI và Cương lĩnh xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đại hội XII cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp tục theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đã được hoàn thiện một bước quan trọng. Quan điểm về sự thống nhất quyền lực nhà nước có sự phân công, phối hợp, kiểm soát chặt chẽ giữa các cơ quan quyền lực nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là quan điểm có tính nguyên tắc chỉ đạo trong thiết kế mô hình tổ chức và cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Khác với cơ chế vận hành của nhà nước pháp quyền tư sản – tam quyền phân lập – cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phân công, phối hợp, kiểm soát chặt chẽ giữa các cơ quan quyền lực nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Bởi lẽ, quyền lực nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thống nhất và thuộc về nhân dân. Cho nên, về nguyên tắc và bản chất không chia sẻ cho cá nhân hay tổ chức nào khác. Các cơ quan nhà nước khi thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là thực hiện các quyền của nhân dân giao phó, ủy quyền. Ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều có mục đích duy nhất là phục vụ nhân dân.

Một là, bảo đảm, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là nguyên tắc căn bản không chỉ mang tính “nguyên tắc” được khẳng định từ lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, mà còn là kết quả tổng kết lý luận được rút ra từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Do vậy, bảo đảm, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhằm bảo đảm cho Nhà nước Việt Nam thực sự mang bản chất của giai cấp công nhân; bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Bảo đảm, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là cơ sở, điều kiện để bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất và thuộc về nhân dân. Đồng thời cũng là cơ sở, điều kiện để phối hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, giúp nhà nước hoàn thành chức năng của mình và giữ vững bản chất xã hội chủ nghĩa của nhà nước pháp quyền.

2. Thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam Thành tựu:

Hai là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp, gắn với đổi mới đồng bộ hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Chúng ta đều rõ, để bảo đảm tính đồng bộ trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam chúng ta đồng thời phải xây dựng cả lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nếu chỉ một trong ba bộ phận được xây dựng thì sẽ tạo ra sự khập khiễng, không đồng bộ. Khi ấy, hiệu lực quản lý của Nhà nước sẽ không hiệu quả. Hơn nữa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải gắn với đổi mới hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Một là, chức năng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được thay đổi phù hợp với cơ sở kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Quan hệ Nhà nước – công dân, Nhà nước – thị trường, Nhà nước -doanh nghiệp được nhận thức lại và thay đổi từ mang nặng quản lý sang theo hướng Nhà nước kiến tạo, phát triển.

Hai là, tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đại hội XII khẳng định: “Quan điểm và thể chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được bổ sung, hoàn thiện một bước quan trọng và cơ bản”. “Nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước được quy định đầy đủ hơn trong Hiến pháp năm 2013: … Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của tổ chức bộ máy nhà nước được xác định rõ hơn và có những bước tiến trong hoạt động”. “Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước được xác định rõ hơn và trong tổ chức thực hiện đã có những bước tiến nhất định”. Quốc hội, Chính phủ và cơ quan tư pháp có nhiều đổi mới về tổ chức, nội dung, phương pháp hoạt động, vì vậy hiệu quả hoạt động được nâng lên. Nói khác đi, tổ chức và cơ chế hoạt động của các thiết chế trong bộ máy nhà nước có nhiều đổi mới trong thực hiện chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ của mình.

Ba là, hệ thống pháp luật, các đạo luật trong quản lý nhà nước và xã hội ngày càng được coi trọng, được đổi mới, sửa đổi, bổ sung ngày càng đầy đủ, phù hợp hơn, nhất là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính tối cao của Hiến pháp được bảo đảm, Hiến pháp giữ vị trí tối thượng trong hệ thống pháp luật, nguyên tắc mọi văn bản quy phạm pháp luật phải phù hợp và không được trái Hiến pháp được tôn trọng. Thể chế pháp luật về kinh tế tiếp tục cải cách sâu rộng. Nhiều văn bản pháp luật được sửa đổi, bổ sung và ban hành mới.

Hạn chế:

Bốn là, Quốc hội có những đổi mới quan trọng, hoạt động ngày càng dân chủ, thiết thực, hiệu quả. Chính phủ tiếp tục đổi mới và nâng cao hơn năng lực hành pháp, hoạch định chính sách, quản lý vĩ mô, tổ chức bộ máy của Chính phủ và chính quyền địa phương có những đổi mới tích cực và sắp xếp lại hợp lý hơn. Cải cách hành chính được đẩy mạnh. Các cơ quan tư pháp phân định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động. Tổ chức bộ máy của Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, các cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn, bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, hạn chế tình trạng oan, sai,v.v..

Một là, “chưa chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp”. Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà nước còn chưa thật sự hợp lý. Chưa khắc phục được sự chồng chéo, vướng mắc về chức năng, nhiệm vụ giữa các thiết chế.

Hai là, “Hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, nhiều nội dung chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, còn chồng chéo; tính công khai, minh bạch, khả thi, ổn định còn hạn chế”. Kỷ cương, kỷ luật trong quản lý nhà nước còn bất cập; cải cách hành chính chậm, thiếu đồng bộ; thủ tục hành chính còn phức tạp. Vẫn còn tình trạng văn bản pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn. Một số luật được thông qua và ban hành nhưng chất lượng hạn chế, chưa sát thực tiễn cuộc sống, tính khả thi hạn chế, phải điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung nhiều lần.

Ba là, hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước pháp quyền ở địa phương còn nhiều hạn chế, vẫn còn tình trạng nhũng nhiễu, oan sai trong hoạt động tư pháp. Cải cách tư pháp còn chậm. Việc thực hành dân chủ có lúc, có nơi còn mang tính hình thức. Cơ chế bảo đảm thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân vẫn chưa được tạo lập đầy đủ; khả năng kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía nhân dân còn hạn chế.

3. Phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam Một là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Bốn là, tổ chức và hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp còn có những mặt hạn chế. Hiệu quả thực hiện chức năng giám sát tối cao của Quốc hội chưa như mong muốn. Vẫn còn những Hội đồng nhân dân hoạt động có tính chất hình thức. Bộ máy của Chính phủ chưa thực sự tinh gọn; quản lý liên ngành và quản lý chuyên ngành còn có những hạn chế nhất định. Giữa các bộ, ngành vẫn còn một số nội dung quản lý trùng lặp hoặc phân công không rõ. Việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa bộ, ngành Trung ương và chính quyền địa phương trên nhiều vấn đề chưa được phân định cụ thể, thiếu rõ ràng, dẫn đến hiệu lực, hiệu quả chưa cao.

Hai là, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị nói chung, đối với xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng. Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam bằng các chủ trương, chính sách lớn, lãnh đạo thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật, lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất và năng lực, lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách và hệ thống pháp luật; chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp. Các tổ chức của Đảng và đảng viên phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Đồng thời phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Có phát huy được dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mới giải quyết được mối quan hệ Nhà nước – công dân; Nhà nước – thị trường; Nhà nước – xã hội và quan hệ trong nội bộ nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa một cách hiệu quả. Có phát huy được dân chủ xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm được nhà nước không quan liêu, không xa dân, không cồng kềnh, như vậy mới hiệu quả, hiệu lực được. Có phát huy được dân chủ xã hội chủ nghĩa mới phát huy được vai trò của nhân dân, của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc tham gia kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước, góp phần giữ gìn kỷ cương, kỷ luật, tính tối cao của pháp luật. Thực hành dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ cương, kỷ luật, trách nhiệm xã hội, trách nhiệm công dân của nhân dân của công chức nhà nước.

Ba là, từng bước hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trên cơ sở Hiến pháp 2013, cần từng bước hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả. Phát huy dân chủ tranh luận, phản biện, giám sát, đưa ra các quyết định dưới hình thức luật của Quốc hội. Nghiên cứu làm rõ hơn trách nhiệm của Chủ tịch nước theo yêu cầu Nhà nước pháp quyền. Từng bước kiện toàn tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh gọn, hợp lý, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm tính độc lập của hoạt động tư pháp. Nghiên cứu các cơ chế kiểm soát quyền lực đồng thời với việc tiếp tục duy trì cơ chế giám sát, kiểm tra giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, giữa cơ quan trung ương và địa phương,v.v..

Bốn là, hoàn thiện hệ thống pháp luật.

GS.TS. Trần Văn Phòng Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về quyền con người, quyền công dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 và các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Đồng bộ hoàn thiện pháp luật về môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, pháp luật trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, an sinh xã hội, an ninh, quốc phòng. Đặc biệt, đổi mới hoàn thiện quy trình lập pháp theo hướng: chú trọng đến chất lượng và tính khả thi của các dự án luật./.

Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế Của Việt Nam Trong Bối Cảnh Hiện Nay

Thực hiện chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, những năm qua, tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam đã đạt một tầm cao mới. Nguồn: internet

Chủ động đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế toàn diện

Trong hơn 30 năm đổi mới, các chủ trương cơ bản về hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT) được đề cập tại nhiều nghị quyết, chỉ thị quan trọng của Đảng và Nhà nước, cụ thể tại Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị (khóa XI) về hội nhập quốc tế (trong đó xác định HNKTQT là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế) và Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 5/11/2016 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về thực hiện có hiệu quả tiến trình HNKTQT, giữ vững ổn định chính trị – xã hội trong bối cảnh Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới.

Trên cơ sở đó, các bộ, ngành, địa phương đã xây dựng và ban hành các chương trình, hành động phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và đặc thù của từng bộ, ngành, địa phương và được triển khai rộng rãi với nhiều hình thức phong phú; Tăng cường thực thi hiệu quả các FTA mà Việt Nam đã ký kết, góp phần đưa kinh tế Việt Nam phát triển nhanh và bền vững.

Theo Báo cáo của Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế, công tác HNKTQT của Việt Nam đang phải đối diện với không ít khó khăn, thách thức. Chủ nghĩa bảo hộ ngày càng nổi lên rõ nét hơn. Mất cân đối thương mại toàn cầu vẫn chưa được cải thiện, làm gia tăng xung đột thương mại, cạnh tranh chiến lược và cọ sát kinh tế, đặc biệt giữa các nền kinh tế chủ chốt… Mặc dù, tình hình kinh tế thế giới, khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường, nhưng Việt Nam vẫn kiên trì chủ trương HNKTQT toàn diện với trọng tâm là HNKTQT, coi HNKTQT và tự do hóa thương mại là xu thế tất yếu khách quan. Một số thành tựu của tiến trình HNKTQT toàn diện của Việt Nam gồm:

Một là, HNKTQT đã góp phần gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia. Nền kinh tế Việt Nam từng bước được cơ cấu lại gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế được tăng cường, nguồn nhân lực để cung ứng cho phát triển kinh tế – xã hội (KT-XH) ngày càng phát triển. Môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện, minh bạch, bình đẳng hơn, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên.

Việt Nam được nhiều tổ chức quốc tế đánh giá là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất trong khu vực cũng như trên thế giới và có triển vọng tốt nhờ kinh tế vĩ mô tiếp tục được duy trì ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm, lạm phát được kiểm soát, tạo môi trường, động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Quy mô kinh tế Việt Nam năm 2019 dự báo đạt 5,5 triệu tỷ đồng, tương đương 240,5 tỷ USD, gấp trên 1,3 lần so với năm 2015, hiện đứng thứ 44 trên thế giới theo GDP danh nghĩa và thứ 34 theo sức mua tương đương.

Hai là, HNKTQT tác động mạnh đến tăng trưởng, góp phần thúc đẩy phát triển KT-XH. GDP bình quân đầu người tăng từ 2.109 USD (năm 2015) lên 2.587 USD (năm 2018), khoảng 7.650 USD theo sức mua tương đương. Đặc biệt, sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam đã duy trì tốc độ tăng trưởng cao, trong năm 2007, tăng trưởng GDP đạt 8,46% (mức cao nhất trong vòng 11 năm trước đó). Tuy nhiên, 4 năm sau đó, do ảnh hưởng từ những biến động của kinh tế thế giới, nên tăng trưởng GDP trong giai đoạn 2011 – 2013 giảm xuống còn 5,6%. Đáng chú ý những năm tiếp theo, kinh tế khởi sắc hơn. Cụ thể, năm 2014 đạt 5,98%, năm 2015 đạt 6,68%; 2016 đạt 6,1%, năm 2017 GDP đạt 6,81%, năm 2018 đạt 7%, quy mô nền kinh tế đạt khoảng 240 tỷ USD, bình quân đầu người đạt 2.540 USD, mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 10 năm qua (2008-2018).

Ba là, HNKTQT thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam phát triển mạnh giúp gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu (XNK), mở rộng thị trường đa dạng các loại hàng hóa tham gia XNK. Việt Nam đã trở thành một bộ phận của nền kinh tế toàn cầu với tổng kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu đạt gần 480 tỷ USD, gấp gần 2 lần GDP. Từ chỗ thường xuyên nhập siêu, Việt Nam đã chuyển sang cân bằng XNK, thậm chí là xuất siêu. Việt Nam hiện đã có quan hệ thương mại với trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Là thành viên của WTO, Việt Nam đã được 71 đối tác công nhận là nền kinh tế thị trường, nhiều sản phẩm dần có chỗ đứng và khả năng cạnh tranh trên nhiều thị trường có yêu cầu cao về chất lượng như Liên minh châu Âu, Nhật Bản, Mỹ…

Bốn là, HNKTQT sâu rộng hơn góp phần đưa Việt Nam trở thành một “mắt xích” quan trọng trong mạng lưới các liên kết kinh tế với các nền kinh tế hàng đầu thế giới (gồm 12 FTA đã ký và đang thực thi; 2 Hiệp định đã ký kết, 4 FTA đang đàm phán bảo đảm cho kết nối thương mại tư do, ưu đãi cao với 60 nền kinh tế, chiếm 90% kim ngạch thương mại của Việt Nam); đồng thời, tạo động lực mới và cả “sức ép” mới để thúc đẩy mạnh mẽ hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Môi trường pháp lý, chính sách kinh tế, cơ chế quản lý trong nước được cải cách theo hướng ngày càng phù hợp với các cam kết tiêu chuẩn cao trong các FTA và ngày càng minh bạch hơn, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh trong nước ngày càng thông thoáng hơn, tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế cao của khu vực và thế giới.

Năm là, thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam đạt được nhiều kết quả ấn tượng. Hội nghị Liên Hợp quốc về thương mại và phát triển đánh giá, Việt Nam nằm trong 12 quốc gia thành công nhất về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Hiện nay, có gần 26.000 doanh nghiệp (DN) FDI đang hoạt động ở Việt Nam, với số vốn cam kết đầu tư trên 330 tỷ USD đến từ gần 130 quốc gia và đối tác. Vốn FDI vào Việt Nam chiếm 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Các đối tác đã cam kết viện trợ hơn 3 tỷ USD cho Việt Nam trong giai đoạn 2018-2020. Việt Nam từng bước trở thành một trong những công xưởng của thế giới về cung ứng hàng điện tử, dệt may, da giầy, điện thoại di động…

Một số vấn đề đặt ra

Bên cạnh những kết quả đạt được, tiến trình HNKTQT của Việt Nam còn tồn tại một số hạn chế, khó khăn. Cụ thể như:

– Chính sách, pháp luật về HNKTQT còn thiếu và chưa đồng bộ. Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về HNKTQT chưa nghiêm và quyết liệt. Trình độ năng lực điều hành, quản lý kinh tế của DN trong nước còn yếu kém. Hạn chế đó tác động tiêu cực tới việc làm tăng nguồn lực cho phát triển KT-XH đất nước.

– Chiến lược HNKTQT chưa toàn diện, dẫn đến chưa tận dụng được hết lợi ích của HNKTQT trong thực hiện các mục tiêu phát triển KT-XH đất nước. Trong một số trường hợp, HNKTQT còn bị động, chưa phù hợp với thực trạng phát triển đất nước, chưa phát huy được đầy đủ các hiệu quả và lợi ích của hội nhập mang lại.

– Trong nền kinh tế còn tồn tại một số hạn chế nội tại như: Cân đối vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế chưa vững chắc; Môi trường đầu tư kinh doanh và năng lực cạnh tranh chậm được cải thiện; Thủ tục hành chính còn nhiều vướng mắc; Tình hình sản xuất, kinh doanh còn nhiều khó khăn; Số lượng DN giải thể, ngừng hoạt động lớn; Năng lực tài chính, quản trị của phần lớn DN trong nước còn hạn chế…

– Một bộ phận đầu mối về HNKTQT tại một số bộ, ban, ngành và địa phương còn chưa chú trọng đến khâu phối hợp và tham vấn với các chương trình hành động về HNKTQT. Chính vì vậy, việc triển khai công tác HNKTQT chưa đạt được kết quả như mong muốn.

Giải pháp thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế

Mặc dù, tiến trình HNKTQT đã đạt được những kết quả tích cực, song trong bối cảnh thế giới diễn biến khó lường như hiện nay, Việt Nam cần chủ động triển khai HNKTQT lên mức toàn diện, sâu rộng, đổi mới sáng tạo và hiệu quả hơn. Trước mắt, cần chú trọng vào một số nội dung trọng tâm sau:

Thứ nhất, hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và chỉ có thể thành công khi có sự tham gia hưởng ứng của các DN và người dân. Do vậy, cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành cần quyết liệt vào cuộc, để tiếp tục đẩy mạnh HNKTQT trên tinh thần Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế; Chỉ thị số 25-CT/TW về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030 và các nghị quyết, chương trình hành động, kế hoạch công tác hội nhập của Chính phủ.

Thứ hai, cùng với đẩy mạnh các hoạt động thương mại, đầu tư, Việt Nam cần nâng cao năng lực phòng chống, giải quyết, xử lý các tranh chấp, khiếu nại, khiếu kiện về thương mại, đầu tư quốc tế, trong đó chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ luật sư, cán bộ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân và DN.

Thứ ba, nhận diện các động thái, xu hướng phát triển lớn của thế giới, từ đó có điều chỉnh đúng đắn, kịp thời trong chiến lược phát triển, tận dụng triệt để những cơ hội mới mở ra. Tại phiên họp thứ nhất năm 2019 (tháng 6/2019), Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế đã đề nghị: Các bộ, ngành, địa phương cần coi trọng, tăng cường nghiên cứu, đánh giá, dự báo các vấn đề mới của HNKTQT tác động tới Việt Nam…

Thứ tư, cần nắm bắt cơ hội và nhận diện rõ những thách thức của các FTA để có hội nhập phù hợp song không để bị lệ thuộc và bị cuốn theo các trào lưu ngắn hạn, các xu hướng loại trừ và hình thành những liên kết khép kín trong làn sóng FTA.

Thứ năm, thiết lập một nền kinh tế thị trường đầy đủ, minh bạch và hiện đại vừa là mục tiêu vừa là yêu cầu của hội nhập. Để có được điều này cần có những chính sách củng cố quyền sở hữu nhằm thúc đẩy đầu tư dài hạn; thực hiện hiệu quả cải cách hành chính công nhằm tăng tính minh bạch, giảm quan liêu và hạ chi phí giao dịch vốn có ảnh hưởng không nhỏ đến các DN nhỏ và vừa.

Thứ sáu, tạo điều kiện thuận lợi, phát huy hơn nữa vai trò của địa phương, của DN trong công tác HNKTQT. Dư địa phát triển lớn nhất nằm ngay trong sự nỗ lực không ngừng, sức sáng tạo của mỗi DN, mỗi người dân. Địa phương, DN là chủ thể trung tâm của hội nhập, phải được thụ hưởng thành quả của hội nhập. DN, người dân phải chủ động hơn, thực thi đầy đủ, nghiêm túc các cơ chế, chính sách, quy định pháp luật về hội nhập, không để tình trạng vi phạm quy định pháp luật tiếp diễn, ảnh hưởng đến uy tín và hình ảnh đất nước, con người Việt Nam.

1. Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế; 2. Chỉ thị số 25-CT/TW về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030; 3. Quyết định số 596/QĐ-TTg ngày 23/4/2014 của Thủ tướng Chính phủ thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế; 4. Quyết định số 27/QĐ-BCĐHNQT ngày 26/4/2014 của Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế ban hành Quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế; 5. Quyết định số 04/QĐ-BCĐLNKT ngày 09/1/2015 của Ban Chỉ đạo liên ngành kinh tế ban hành Quy chế tổ chức, hoạt động của Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế; 6. Vũ Văn Hiền (2018), Đổi mới tư duy về hội nhập kinh tế quốc tế, Hội đồng Lý luận Trung ương; 7. Thanh Giang (2019), Hội nghị tăng cường hội nhập quốc tế chủ động, sáng tạo, hiệu quả vì phát triển nhanh và bền vững, Báo Nhân dân diện tử; 8. Lê Hoài Trung (2019), Đối ngoại đa phương góp phần đẩy mạnh hội nhập quốc tế, tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất nước; 9. Hoàng Xuân Hòa (2019), Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế sau 5 năm nhìn lại, Văn phòng Chính phủ.

Xây Dựng Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa

Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức mà thông qua đó, đảng của giai cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội; là một tổ chức chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng dựa trên cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội; đó là một nhà nước kiểu mới, thay thế nhà nước tư sản nhờ kết quả của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa; là hình thức chuyên chính vô sản được thực hiện trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Với tư cách là một trong những tổ chức cơ bản nhất của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân. Đó là một công cụ quản lý do chính đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo nhân dân tổ chức ra nhằm thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân, đồng thời cũng thông qua nó, giai cấp công nhân và chính đảng của mình thực hiện sự lãnh đạo đối với toàn xã hội trong quá trình bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân, được thể hiện tập trung qua hai chức năng chủ yếu của nó, đó là chức năng thống trị giai cấp và chức năng xã hội.

b) Đặc trưng, chức năng và nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa

Khác với các hình thức nhà nước đã từng có trong lịch sử, nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước đặc biệt. Đó là kiểu nhà nước có những đặc trưng cơ bản sau đây:

Một là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ cơ bản để thực hiện quyền lực của nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản.

Hai là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ chuyên chính giai cấp, nhưng vì lợi ích của tất cá những người lao động tức là tuyệt đại đa số nhân dân; thực hiện sự trấn áp đối với những lực lượng chống đối, phá hoại sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Ba là, trong khi nhấn mạnh sự cần thiết của bạo lực và trấn áp, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn xem mặt tổ chức, xây dựng là đặc trưng cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa, của chuyên chính vô sản. V.I.Lênin cho rằng, chuyên chính vô sản không phải là bạo lực đối với bọn bóc lột, và cũng không phải chủ yếu là bạo lực mà mặt cơ bản của nó là tổ chức, xây dựng toàn diện xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.

Bốn là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là yếu tố cơ bản của nên dân chủ xã hội chủ nghĩa. Theo V.I.Lênin, con đường vận động, phát triển của nó là ngày càng hoàn thiện các hình thức đại diện của nhân dân, mở rộng dân chủ nhằm lôi cuốn đông đảo quần chúng nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

Năm là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước đặc biệt, “nhà nước không còn nguyên nghĩa”, là “nửa nhà nước”. Sau khi những cơ sở kinh tế – xã hội cho sự tồn tại của nhà nước mất đi thì nhà nước cũng không còn, nhà nước “tự tiêu vong”. Đây cũng là một đặc trưng nổi bật của nhà nước vô sản.

Những đặc trưng cơ bản đó cho thấy chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa biểu hiện tập trung ở việc quản lý xã hội trên tất cả các lĩnh vực bằng pháp luật.

Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa được thực hiện cả bằng tổ chức có hiệu quả công việc xây dựng toàn diện xã hội mới, cả bằng việc sử dụng những công cụ bạo lực để đập tan sự phản kháng của kẻ thù chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước, giữ vững an ninh xã hội.

Bạo lực, trấn áp là cái vốn có của mọi nhà nước, do đó bạo lực, trấn áp cũng là cái vốn có của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đều cho rằng, với bản chất của nhà nước vô sản, thì việc tổ chức, xây dựng mang tính sáng tạo nhằm cải biến xã hội cũ, xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là chức năng căn bản, chủ yếu của nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Khi xác định những nấc thang, những giai đoạn phát triển của một cuộc cách mạng xã hội do giai cấp công nhân lãnh đạo nhằm đi tới giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và phát triển toàn diện con người, C.Mác và Ph.Ăngghen đều cho rằng, việc giai cấp công nhân giành lấy quyền lực nhà nước mới chỉ là giai đoạn đầu tiên. Trong giai đoạn tiếp theo, phải sử dụng quyền lực nhà nước “để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất”. Như vậy, rõ ràng chức năng tổ chức và xây dựng phải là chức năng chủ yếu của nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về vấn đề này, V.I.Lênin khẳng định, việc tích cực xây dựng chủ nghĩa cộng sản, sáng tạo ra một xã hội mới, đó là chức năng quan trọng của nhà nước xã hội chủ nghĩa, quan trọng hơn cả việc đập tan sự phản kháng của giai cấp tư sản.

Từ hai chức năng trên, nhà nước xã hội chủ nghĩa có những nhiệm vụ chính là: quản lý kinh tế, xây dựng và phát triển kinh tế: cải thiện không ngừng đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, quản lý văn hóa – xã hội, xây dựng nên văn hóa xã hội chủ nghĩa. thực hiện giáo dục – đào tạo con người phát triển toàn diện, chăm sóc sức khỏe nhân dân… Ngoài ra, nhà nước xã hội chủ nghĩa còn có chức năng, nhiệm vụ đối ngoại nhằm mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau vì sự phát triển và tiến bộ xã hội đối với nhân dân các nước trên thế giới.

Từ thực tế xây dựng xã hội mới ở nước Nga Xôviết. V.I.Lênin đã làm rõ nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa trên hai lĩnh vực kinh tế và xã hội

Đối với lĩnh vực kinh tế, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của nhà nước vô sản là phải nhanh chóng phát triển mạnh số lượng sản phẩm, cùng cố kỷ luật lao động mới và nâng cao năng suất lao động.

Đối với lĩnh vực xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa phải xây dựng được quan hệ xã hội mới, hình thành những tổ chức lao động mới, tập hợp được đông đảo những người lao động có khả năng vận dụng những thành tựu của khoa học – kỹ thuật vào sản xuất, thực hiện từng bước cải tạo những người tiểu sản xuất hàng hóa thông qua những tổ chức thích hợp.

c) Tính tất yếu của việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa

C.Mác và Ph. Ăngghen cho rằng, giai cấp công nhân khi thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, xóa bỏ tình trạng người bóc lột người và mọi sự tha hóa của con người do chế độ tư hữu sản sinh ra, thì trước hết họ phải cùng với nhân dân lao động “phá hủy nhà nước tư sản” chiếm lấy chính quyền thiết lập chuyên chính vô sản. Bởi vì, “giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nên chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản .

Sau khi trở thành giai cấp cầm quyền, giai cấp công nhân phải nắm vững công cụ chuyên chính, phải xây dựng nhà nuớc xã hội chủ nghĩa vững mạnh, trở thành một công cụ trấn áp các thế lực đi ngược lại lợi ích của nhân dân để bảo vệ thành quả cách mạng nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

Sự cần thiết tất yếu phải xác lập chuyên chính vô sản, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa vững mạnh còn xuất phát từ thực tiễn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ còn tồn tại các giai cấp bóc lột, chúng hoạt động chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều đó khiến cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động thông qua nhà nước phải trấn áp bằng bạo lực khi cần thiết. V.I.Lênin xem dấu hiệu tất yếu, điều kiện bất buộc của chuyên chính là trấn áp bằng bạo lực những kẻ bóc lột, phản động với tính cách là một giai cấp. Đồng thời, trong thời kỳ quá độ cũng còn có các giai cấp, tầng lớn trung gian khác và do địa vị kinh tế – xã hội vốn có, các giai cấp này thường dao động, không thể tự mình đi lên chủ nghĩa xã hội. Trước thực tế đỏ, giai cấp công nhân phải tuyên truyền, thuyết phục, lôi cuốn họ đi theo mình trong công cuộc xây dựng xã hội mới. Do đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa đóng vai trò là thiết chế cần thiết bảo đảm sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với toàn xã hội.

Để mở rộng dân chủ tới mức tối đa đối với mọi tầng lớp nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống lại mọi hành vi đi ngược lại những chuẩn mực dân chủ, vi phạm những giá trị dân chủ chuyên chính của nhân dân, đòi hòi phải có một thiết chế nhà nước phù hợp. Chính vì vậy trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước phải được củng cố, xây dựng để trở thành công cụ bảo vệ và phát triển thành quả của dân chủ. Dân chủ cần phải có chuyên chính để giữ lấy dân chủ, để những hành vi gây tác hại tới quyền dân chủ của nhân dân được xử lý kịp thời… Các quyền đó phải được thể chế hóa trong hiến pháp, pháp luật và được thực hiện bằng những thiết chế tương ứng của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Do đó, quá trình xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa tất yếu gắn liền với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Quá trình này cho thấy, dân chủ và pháp luật, dân chủ và kỷ cương không bài trừ và phủ định nhau, trái lại, đó chính là sự thống nhất biện chứng, là điều kiện, tiền đề tồn tại và phát triển của nhau.

Xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng. Với ý nghĩa đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa là phương thức, phương tiện, là một công cụ chủ yếu của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bởi vậy, để bảo đảm cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công thì việc xây dựng và không ngừng hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa – một trong những công cụ chủ yếu của quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, là một yêu cầu tất yếu khách quan trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa.

chúng tôi

Về Thể Chế Phát Triển Giáo Dục Trong Điều Kiện Kinh Tế Thị Trường Và Hội Nhập Quốc Tế

Về thể chế phát triển giáo dục trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế

                                                

           Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã xác định một trong ba đột phá chiển lược là “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao”, để thực hiện đột phá chiến lược này phải “Đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế ”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của BCH TW Đảng (khóa XI) đã nêu rõ “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ tư duy, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục – đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học”; “Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách quan”; “Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo. Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng, miền”; “Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo. Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo”; “Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh xã hội hóa, trước hết đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học; khuyến khích liên kết với các cơ sở đào tạo nước ngoài có uy tín. Có chính sách khuyến khích cạnh tranh lành mạnh trong giáo dục và đào tạo”; “Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo”. Việc nhận thức cho đúng, đầy đủ, sâu sắc và hệ thống những nội dung trên có ý nghĩa then chốt trong việc triển khai thực hiện thành công sự nghiệp “Đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam” và  Đột phá chiến lược về phát triển nguồn nhân lực mà Đại hội XI của Đảng đã xác định. Một trong những nội dung quan trọng cần nhận thức cho rõ là phải xây dựng và hoàn thiện Thể chế – cơ chế phát triển giáo dục – đào tạo phù hợp và hiệu quả trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, vì thể chế – cơ chế vừa đóng vai trò cơ sở nền tảng vừa đóng vai trò động lực chủ yếu cho sự phát triển giáo dục trong giai đoạn mới .  

I. Bản chất của hoạt động giáo dục trong điều kiện kinh tế thị trường

1. Giáo dục là phúc lợi xã hội và giáo dục là hàng hóa dịch vụ

  Hiện nay vẫn đang tồn tại hai nhận thức khác nhau (có khi đối nghịch nhau về hoạt động giáo dục, nhất là trong giáo dục đại học và giáo dục nghề), đó là nhận thức coi giáo dục chỉ như là một phúc lợi xã hội, và nhận thức coi giáo dục là hàng hóa dịch vụ.

Giáo dục là phúc lợi xã hội: quan điểm này được xét từ phương diện quyền và lợi ích của người học, lợi ích của xã hội. Trong đó mọi người dân đều có quyền được tiếp cận và hưởng thụ giáo dục như nhau; Nhà nước có nghĩa vụ đảm bảo và đáp ứng nhu cầu học tập của mọi người. Do đó giáo dục được xếp vào lĩnh vực sự nghiệp phúc lợi xã hội, được Nhà nước bao cấp hoàn toàn. Quan điểm này chưa đề cập tới lợi ích cá nhân khác nhau của mỗi người học và đi theo đó là trách nhiệm cá nhân đối với việc học tập; chưa đề cập tới cơ chế cung ứng giáo dục như thế nào cho có hiệu quả nhất trong điều kiện kinh tế thị trường.

   Giáo dục là hàng hoá dịch vụ: Nhận thức này cho rằng trong điều kiện kinh tế thị trường, giáo dục – đào tạo, nhất là giáo dục đại học, được coi là một lĩnh vực dịch vụ; dịch vụ giáo dục có những điểm giống và những điểm khác với hàng hoá dịch vụ (HHDV) thông thường khác. Do HHDV giáo dục có đặc điểm mang lại “lợi ích tràn xã hội”…. (lợi ích do giáo dục mang lại không chỉ cho riêng người học mà còn cho cả xã hội), cho nên HHDV giáo dục về cơ bản nói chung không phải là hàng hoá tiêu dùng (HHTD) cá nhân thuần túy, cũng không phải là HHTD tập thể thuần túy, mà về cơ bản là HHTD bán tập thể. Xét cả về lý luận và thực tế, HHDV giáo dục – đào tạo nói chung và nhất là giáo dục đại học không đáp ứng đầy đủ hoàn toàn các đặc tính cơ bản của HHDV công cộng thuần túy (HHDV công cộng thuần túy có hai đặc tính cơ bản là không có sự cạnh tranh – Non – rivalrous; và đặc tính không loại trừ – non – excludable). Giáo dục – đào tạo chứa đựng cả lợi ích công cộng và lợi ích cá nhân, tuy nhiên tương quan giữa lợi ích công cộng và lợi ích cá nhân ở các cấp bậc học là khác nhau. Tính chất công cộng, lợi ích công cộng thể hiện đậm nét và chiếm ưu thế ở các bậc học thấp, giáo dục cơ bản, giáo dục phổ cập bắt buộc (tại các cấp và các hình thức giáo dục này tính chất cạnh tranh và tính chất loại trừ yếu; thậm chí nếu là giáo dục bắt buộc sẽ không có cạnh tranh và không có loại trừ); còn tính chất cá nhân, lợi ích cá nhân tăng lên ở các bậc học cao, như giáo dục đại học và gắn với đào tạo nghề nghiệp, gắn với mục tiêu cá nhân đầu tư để có nghề nghiệp nhằm nâng cao thu nhập của mỗi cá nhân (đối với các loại hình đào tạo này tính chất loại trừ và tính chất cạnh tranh cao hơn nhiều). Chính vì vậy, xét về phương diện chung cung ứng HHDV, giáo dục – đào tạo về cơ bản không phải là HHDV công cộng thuần túy, mà là HHDV công cộng không thuần túy, và tính chất này ở các cấp bậc học và hình thức đào tạo có khác nhau.

Mức độ, quy mô và hình thức Nhà nước đáp ứng tính công cộng trong giáo dục – đào tạo (cũng chính là mức độ đảm bảo phúc lợi xã hội trong giáo dục – đào tạo), và việc phát triển hàng hóa dịch vụ giáo dục với quy mô và phạm vi nào phụ thuộc vào quan điểm, cơ chế chính sách và tiềm lực thực tế của mỗi nước, đồng thời cũng thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường, người học và xã hội trong phát triển giáo dục – đào tạo. Trên thế giới, xu thế phát triển chung coi giáo dục đại học là lĩnh vực mang tính hàng hóa dịch vụ cao, và do đó tiếp cận cơ chế thị trường sâu rộng hơn so với các cấp, bậc giáo dục phổ cập, giáo dục cơ bản, giáo dục bắt buộc. Do đó đối với giáo dục đại học, ở nhiều nước đầu tư công (của Nhà nước) thường có thể chiếm tỷ trọng ít hơn so với đầu tư công trong giáo dục phổ thông. Điều đáng lưu ý là tại một số nước đầu tư công cho giáo dục đại học chiếm tỷ trọng không cao hơn, thậm chí ít hơn so với đầu tư tư nhưng lại có nền giáo dục đại học có chất lượng thuộc loại hàng đầu thế giới, như Mỹ, Canada, Anh, Úc, Nhật Bản, Israel, Korea, New Zeland…    

 

Biểu đồ : Đầu tư tư và đầu tư công cho giáo dục ở các nước

2. Tác động của kinh tế thị trường – cơ chế thị trường đối với Giáo dục

1) Về lý luận và thực tiễn thấy rõ tác động của kinh tế thị trường lên giáo dục – đào tạo ở những mặt chủ yếu sau:

(i)- Hình thành mục tiêu – tiêu chí giáo dục gắn với yêu cầu về nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực trình độ cao, chất lượng cao, tư duy sáng tạo, năng lực thực hành… đối với giáo dục đại học trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, đi vào phát triển kinh tế rti thức.

(ii)- Hình thành các giá trị xã hội, giá trị văn hoá, giá trị con người thích ứng với đòi hỏi vai trò chủ thể phát triển kinh tế – xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng.

       (iii)- Hình thành nội dung, chương trình và phương thức giáo dục phù hợp với đòi hỏi của sự phát triển và thay đổi nhanh của nền kinh tế thị trường và của cách mạng KH – CN. 

       (iv)- Đòi hỏi giáo dục gắn trực tiếp hơn, hiệu quả hơn với nhu cầu phát triển mọi mặt của xã hội, gắn hữu cơ với cơ cấu và sự chuyển dịch của thị trường nhân lực quốc gia và quốc tế, nhất là thị trường nhân lực trình độ cao.

       (v)- Hình thành thị trường HHDV giáo dục – đào tạo, tạo sự cạnh tranh trong giáo dục; quốc tế hóa quá trình giáo dục, nhất là giáo dục đại học được đẩy mạnh, hình thành các chuẩn, các tiêu chí giáo dục quốc tế, khu vực.

       (vi)- Sự thay đổi vai trò của Nhà nước và vai trò của cơ chế thị trường trong phát triển giáo dục, thay đổi cơ chế phát triển giáo dục, thay đổi vai trò và trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt động giáo dục (đa dạng hóa các chủ thể tham gia đầu tư và cung cấp dịch vụ giáo dục)…

        Những tác động trên có cả những mặt tích cực và những tác động tiêu cực.

Từ thực tiễn và sự phân tích có thể rút ra kết luận là các yếu tố và các quá trình của giáo dục, nhất là trong giáo dục đại học, đều vận hành trong điều kiện thể chế kinh tế thị trường; kinh tế thị trường – cơ chế thị trường tác động một cách khách quan, phổ quát, toàn diện lên tất cả các yếu tố, quá trình, các chủ thể tham gia giáo dục – đào tạo, với những mức độ khác nhau, có nhiều mặt tích cực nhưng cũng có những mặt hạn chế, tiêu cực, làm cho giáo dục trong điều kiện kinh tế thị trường có nhiều đặc điểm khác biệt so với giáo dục trong nền kinh tế bao cấp.  

   2) Cần nhận thức rõ các yếu tố, các quá trình giáo dục “đi” vào kinh tế thị trường với những cấp độ khác nhau. Xét một cách tổng thể có thể chia làm 3 cấp độ sau: cấp độ 1, không chấp nhận hay không được để tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, cơ chế thị trường; cấp độ 2, tham gia vào kinh tế thị trường, cơ chế thị trường với những mức độ hạn chế khác nhau, không hoàn toàn theo cơ chế thị trường; cấp độ 3, tham gia hoàn toàn vào kinh tế thị trường, cơ chế thị trường. Về thực chất đây là mối tương quan về vai trò giữa Nhà nước và Thị trường trong phát triển giáo dục đối với từng yếu tố và quá trình giáo dục khác nhau. Điều này được thể hiện rõ trong giáo dục đại học.

3.  Giáo dục trong bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa.

Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế là xu thế lớn, khách quan, sự phát triển của giáo dục – đào tạo thế giới và của Việt Nam cũng nằm trong xu thế chung đó, với những đặc điểm riêng, đồng thời có sự tương quan với tất cả các lĩnh vực khác.

  1) Hội nhập quốc tế về giáo dục – đào tạo được thực hiện với nhiều cấp độ và hình thức; từ cấp độ toàn cầu với những quy định của WTO – GATS và UNESCO, đến cấp độ các khu vực, đến cấp độ giữa các quốc gia, giữa các cơ sở giáo dục – đào tạo đến cấp độ giữa các chuyên gia, cá nhân. Các hình thức hợp tác và hội nhập quốc tế rất phong phú và đa dạng, song có thể khái quát thành 2 loại: loại không vì lợi nhuận và loại vì lợi nhuận. Loại vì lợi nhuận thường được thực hiện theo khuôn khổ quy định của GATS với 4 hình thức chủ yếu: cung cấp dịch vụ giáo dục – đào tạo xuyên quốc gia; tiêu thụ ở nước ngoài; hiện diện cá nhân; hiện diện thương mại. Trong quá trình hợp tác và hội nhập quốc tế về giáo dục – đào tạo các nước, các chủ thể, các cơ sở giáo dục – đào tạo có những mục đích tương hợp với nhau nhưng cũng có những mục đích khác nhau, đặc biệt là về mặt lợi ích giữa các nước “xuất khẩu” và các nước “nhập khẩu” giáo dục – đào tạo. Chính vì vậy quá trình hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá về giáo dục – đào tạo chứa đựng cả 2 phương diện hợp tác và cạnh tranh với nhau giữa các khu vực, quốc gia, các cơ sở giáo dục – đào tạo. Hiện nay, xu thế hợp tác và hội nhập quốc tế mang tính lợi nhuận ngày càng phát triển mạnh và nổi trội hơn .

2) Quá trình hội nhập và hợp tác quốc tế về giáo dục – đào tạo mang lại những kết quả và tác động tích cực rất quan trọng, nhưng cũng tiếm ẩn những tác động tiêu cực không thể xem thường, nhất là đối với những nước ở “thế yếu” hơn, đặc biệt là về chất lượng hợp tác quốc tế có thể không đáp ứng yêu cầu, bị cạnh tranh mạnh về thị phần thị trường giáo dục, có thể làm tổn hại tới bản sắc và vị thế nền giáo dục quốc gia… Chính vì vậy, để hợp tác và hội nhập giáo dục – đào tạo có hiệu quả và chất lượng cần có một chiến lược đúng và hệ thống cơ chế, chính sách, giải pháp phù hợp.

 4. Vận dụng cơ chế thị trường trong phát triển giáo dục

 Vận dụng cơ chế thị trường trong phát triển giáo dục – đào tạo được xem xét ở 3 cấp độ: cấp độ hệ thống giáo dục – đào tạo; cấp độ cơ sở giáo dục – đào tạo; và cấp độ các yếu tố, quá trình cụ thể của giáo dục – đào tạo.

          1) Đối với cấp độ hệ thống: Cho đến nay, trên thế giới chưa có nước nào coi nền giáo dục nội địa nước mình và đối với học sinh của nước mình là một ngành kinh tế – kinh doanh, dù đã coi giáo dục là ngành dịch vụ. Nhưng yếu tố kinh tế, hiệu quả đầu tư ngày càng được coi trọng hơn. Đồng thời, trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế từng phân hệ thống của hệ thống giáo dục – đào tạo lại được vận dụng cơ chế thị trường ở những cấp độ khác nhau. Ví dụ, hệ thống trường công hướng vào xuất khẩu giáo dục – đào tạo (tại chỗ hay đầu tư ra nước ngoài), hệ thống trường tư vận hành theo cơ chế thị trường, gắn mục tiêu giáo dục với mục tiêu kinh tế (lợi nhuận). Điều này được thể hiện rất rõ trong chiến lược phát triển giáo dục đại học của các nước tiên tiến nhằm giành và giữ thị phần cao trong thị trường giáo dục đại học quốc tế như Mỹ, Anh, Úc…; đồng thời một số nước mới phát triển, mới nổi, hoặc đang phát triển cũng có chiến lược phát triển giáo dục đại học với mục tiêu vươn lên thành trung tâm đào tạo nhân lực trình độ cao của khu vực và quốc tế, chiếm thị phần ngày càng tăng trên thị trường đào tạo nhân lực quốc tế như Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Malayxia, Singapore…Hiện nay thị trường giáo dục đại học trên thế giới phát triển rất nhanh, với 4,3 triệu sinh viên du học [5] và tổng giá trị kinh phí lên tới khoảng hơn 90 tỷ USD/năm. Mỹ là nước chiếm thị phần lớn nhất, theo  Báo cáo thường niên của Viện Giáo dục quốc tế (Institute of International Education – IIE), các trường ĐH Mỹ đã đón đạt mức cao kỷ lục là 819.644 SV nước ngoài trong năm học 2012-2013, tức là tăng 7,2% so với năm trước [6]. Riêng chi tiêu của sinh viên quốc tế ở cả 50 bang đã đóng góp gần 24 tỷ USD vào nền kinh tế Hoa Kỳ. Ba nước tiếp tục có số lượng sinh viên đông nhất tại các trường của Mỹ là Trung Quốc, Ấn Độ và Hàn Quốc, chiếm 49% tổng số sinh viên nước ngoài.

Riêng Việt Nam, theo Báo cáo năm 2012, số lượng sinh viên Việt Nam đang học tập tại nước ngoài đã tăng lên con số 106.104 trong niên khóa 2011-2012, tại 49 nước [7]. Bộ Tài chính dự đoán người Việt Nam chi cho con em ra nước ngoài học với tổng số tiền lên đến khoảng 1-1,6 tỷ USD/năm. Tại Mỹ, số lượng sinh viên Việt Nam theo học niên khóa 2012-2013 là 16.098 người, tăng 3,4% so với niên học 2011-2012, tiếp tục xếp ở vị trí thứ 8 về số lượng sinh viên quốc tế học tại Mỹ. Năm 2013 có gần 100 trường ĐH, CĐ Hoa kỳ tham dự Triển lãm Giáo dục tại chúng tôi Hà Nội và Đà Nẵng

Tại châu Âu, hiện nay khẳng định Anh là nhà “lãnh đạo” giáo dục đại học quốc tế khi có đến 34.660 sinh viên Mỹ du học tại Anh năm học 2011-2012, tăng 4,5 lần so với các năm học trước đó. Điều này có nghĩa Anh là điểm đến hàng đầu tại nước ngoài của các sinh viên Mỹ [5].

           2) Đối với cấp độ cơ sở giáo dục – đào tạo : Trong điều kiện kinh tế thị trường, mức độ tiếp cận cơ chế thị trường cũng rất khác nhau. Có thể khái quát làm 4 loại cơ sở giáo dục – đào tạo sau: (a) – cơ sở công lập được bao cấp hoàn toàn; (b) – Cơ sở công lập hoạt động theo cơ chế tự chủ; (c) – Cơ sở ngoài công lập hoạt động theo cơ chế không vì lợi nhuận; (d) – cơ sở ngoài công lập hoạt động theo cơ chế vì lợi nhuận. Về nguyên tắc các loại cơ sở giáo dục đó dù khác nhau về chủ thể sở hữu và bản chất kinh tế, song phải giống nhau ở mục tiêu giáo dục – đào tạo. Trên thực tế cơ chế thị trường được vận dụng ở tất cả các loại hình trường trên với các cấp độ khác nhau. Hiện nay, trên thế giới đang có xu hướng phát triển mạnh các loại hình cơ sở giáo dục – đào tạo kết hợp nguồn lực và cơ chế hoạt động công lập và ngoài công lập, vì lợi nhận và không vì lợi nhận, nhằm phát huy có hiệu quả các mặt mạnh và ưu thế của các loại hình trong phát triển giáo dục, nhất là đối với giáo dục đại học.

3) Đối với cấp độ các yếu tố, quá trình giáo dục – đào tạo : Các yếu tố, quá trình giáo dục – đào tạo tham gia hoặc vận dụng cơ chế thị trường là rất đa dạng, có ý nghĩa khác nhau, có thể là trực tiếp, có thể là gián tiếp. Mức độ vận dụng cơ chế thị trường đối với các yếu tố, quá trình giáo dục – đào tạo phụ thuộc vào cấp bậc giáo dục đào tạo, loại hình cơ sở giáo dục – đào tạo nêu trên, vào đặc điểm, tính chất của các yếu tố, quá trình giáo dục, và vào chính sách cụ thể. Đối với giáo dục đại học trên thế giới tính chất bao cấp của Nhà nước ngày càng giảm đi (trừ các đối tượng chính sách), sự chia sẻ chi phí đào tạo từ phía người học và xã hội tăng lên, cũng có nghĩa là việc vận dụng cơ chế thị trường tăng lên. Ở đây không đơn giản là thiếu nguồn lực cho phát triển giáo dục đại học, mà còn xuất phát từ tính “lợi ích tư” trong giáo dục đại học và việc tạo động lực và hiệu quả trong phát triển giáo dục đại học. 

Việc vận dụng cơ chế thị trường trong giáo dục có những cấp độ khác nhau, không chỉ phụ thuộc vào tính chất đặc biệt chung của giáo dục trong điều kiện kinh tế thị trường, mà còn phụ thuộc rất quyết định vào trình độ thể chế kinh tế thị trường, vào chính sách và cơ chế phát triển giáo dục của mỗi nước.

II. Thể chế phát triển giáo dục trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế

1. Khái niệm Thể chế

Từ điển Tiếng Việt định nghĩa thể chế như sau:  “Những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội buộc mọi người phải tuân theo”.  Theo cách định nghĩa của Ngân hàng Thế giới thì thể chế là các quy định theo đó các cá nhân, công ty và nhà nước tác động lẫn nhau, “thể chế được nhìn nhận như là yếu tố chính quyết định sự phát triển lâu dài của một quốc gia”.

Thể chế là một khái niệm rộng, được định nghĩa bao quát, gồm những luật chơi chính thức hoặc phi chính thức tạo nên quy tắc ứng xử của con người, của các tổ chức. Xây dựng thể chế phù hợp là một trong các tiền đề – điều kiện cho phát triển hiệu quả bền vững. Một thể chế phù hợp, tiến bộ sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho sự đổi mới và phát triển, nhưng một khi thể chế không còn phù hợp nữa thì nó có thể trở thành lực cản kìm hãm mọi sáng tạo, khát vọng, tâm huyết và hiệu quả hoạt động của các chủ thể. Bản thân Thể chế cũng không phải là bất biến, mà nó phải được liên tục đổi mới, hoàn thiện và phát triển cùng với sự phát triển và trình độ xã hội hóa cao hơn của xã hội. Nâng cao chất lượng thể chế là khâu đột phá trong chính sách phát triển.

           Điều này cũng phù hợp với quan điểm của Đảng ta nêu trong Văn kiện Đại hội XI : “Coi hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá chiến lược”.

Có thể nêu một cách rất khái quát Thể chế gồm cấu trúc hệ thống các chủ thể và cơ chế (quy tắc) chế đinh sự tương tác giữa các chủ thể trong quá trình hoạt động theo những mục đích xác định. Như vậy, Thể chế là một cấu thống nhất bao gồm các chủ thể tham gia (gọi là người chơi), các quy tắc chế định hoạt động và tương tác giữa các chủ thể (gọi là luật chơi), và nội dung hay môi trường trong đó các chủ thể và luật chơi vận hành (gọi là sân chơi).

1. Thể chế phát triển giáo dục

          Thể chế phát triển giáo dục là một phân hệ của thể chế phát triển kinh tế – xã hội chung của cả nước, với những đặc điểm riêng của lĩnh vực giáo dục. Xét về phương diện cấu trúc, Thể chế phát triển giáo dục bao gồm các yếu tố cấu thành chủ yếu sau :

1) Các chủ thể, các đơn vị tham gia vào hoạt động giáo dục và cung cấp dịch vụ giáo dục. Trong đó Nhà nước đóng vai trò định hướng – điều tiết chủ đạo. Vai trò của các Tổ chức xã hội và cộng đồng dân cư …

2) Hệ thống giáo dục; các hình thức tổ chức hoạt động giáo dục và liên kết hoạt động giáo dục, cung cấp dịch vụ giáo dục.

3) Hệ thống pháp luật và cơ chế vận hành nền giáo dục;  trong điều kiện hội nhập quốc tế thì đó còn là các cơ chế, quy tắc, “luật chơi” của quốc tế (song phương hay đa phương)

4) Cơ chế thị trường và vai trò của cơ chế thị trường

Cơ chế phát triển giáo dục là cơ chế chế định sự tác động tổng hợp giữa các chủ thể, yếu tố, quá trình đảm bảo cho giáo dục – đào tạo phát triển theo định hướng và mục tiêu đặt ra .

Trong điều kiện kinh tế thị trường, Thể chế phát triển giáo dục được hình thành trên cơ sở thay đổi và hình thành các chức năng mới của các chủ thể tham gia quá trình giáo dục.

   i) Sự thay đổi chức năng của các chủ thể:

   Trong cơ chế thị trường, cấu trúc và vai trò của các chủ thể tham gia vào quá trình Giáo dục – Đào tạo, đã có sự thay đổi đáng kể :

– Nhà nước : Tập trung vào 3 nhiệm vụ chủ yếu là quản lý Nhà nước; là người cung cấp tài chính lớn nhất; đồng thời đảm bảo các chính sách xã hội trong phát triển giáo dục.

– Đa dạng hoá các chủ thể và cơ chế cung cấp HHDV Giáo dục – Đào tạo (công lập, ngoài công lập, trong nước, ngoài nước, KVLN và VLN,…); Tăng cường vai trò tự chủ của các cơ sở giáo dục, đào tạo, nhất là đối với giáo dục đại học và giáo dục nghề.

– Đa dạng hoá các chủ thể cung cấp tài chính, nguồn lực cho Giáo dục – Đào tạo.

– Ví trí và vai trò của người học cũng có những thay đổi, trách nhiệm tăng lên (cả về học tập và chi phí).

– Vai trò của xã hội tăng lên đáng kể (vừa là chủ thể tham gia phát triển Giáo dục – Đào tạo, vừa là “đối tác”đóng góp với nhà nước về hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý, kiểm định giáo dục…).

– Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế với sự thay đổi cấu trúc và chức năng của các chủ thể, từ lý luận và thực tiễn cho thấy đang phát triển mạnh xu thế kết hợp những mặt mạnh của Nhà nước với những mặt tích cực của cơ chế thị trường trong phát triển giáo dục.

          ii) Hình thành cơ chế mới phát triển Giáo dục :

          Trong những năm qua trên thế giới đã hình thành và ngày càng phát triển rộng mô hình quản lý công mới (New public managerment) với bản chất là đặt sự vận động và phát triển của các lĩnh vực dịch vụ công trong mối tương tác giữa Nhà nước – Thị trường – Xã hội dân sự. Cơ chế phát triển Giáo dục có những nét chung với các lĩnh vực HHDV công cộng khác, nhưng cũng có những đặc điểm riêng do Giáo dục – Đào tạo không hoàn toàn là HHDV công cộng thuần túy.

          Cơ chế phát triển Giáo dục – Đào tạo nêu trên được hình thành là một đòi hỏi khách quan, tuy nhiên nội dung cụ thể ở mỗi nước có khác nhau, và đối với từng cấp bậc học, loại hình đào tạo cũng khác nhau, tuỳ thuộc vào điều kiện, trình độ phát triển và chính sách cụ thể của mỗi nước. Đối với giáo dục đại học, do tính chất “công cộng thuần túy” của HHDV giảm đi và tính chất ‘lợi ích tư” tăng lên nên sự kết hợp giữa vai trò của Nhà nước với vai trò của Thị trường và vai trò của người học, của xã hội mạnh hơn so với trong giáo dục phổ cập bắt buộc.

Cập nhật thông tin chi tiết về Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Xã Hội Chủ Nghĩa Trong Bối Cảnh Phát Triển Kinh Tế Thị Trường, Hội Nhập Quốc Tế trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!