Xu Hướng 5/2023 # Xây Dựng Chính Quyền Cấp Xã # Top 10 View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 5/2023 # Xây Dựng Chính Quyền Cấp Xã # Top 10 View

Bạn đang xem bài viết Xây Dựng Chính Quyền Cấp Xã được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

1. Về Hội đồng nhân dân cấp xã

Hội đồng nhân dân (HĐND): “là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”(2). Từ đó, chức năng, nhiệm vụ của HĐND (có 8 điểm theo Luật tổ chức chính quyền địa phương(3), chủ yếu gồm: ban hành nghị quyết hoặc quyết định các vấn đề quan trọng ở địa phương; quyết định công tác nhân sự (bầu cử, bãi nhiệm, miễn nhiệm,…) và công tác đầu tư, thu chi ngân sách…; về tổ chức thực hiện hoạt động giám sát; …

HĐND cấp xã đã chú ý việc thực hiện chức năng giám sát và đạt được những kết quả nhất định. Nhiều HĐND cấp xã đã chủ động tìm tòi và áp dụng các hình thức, biện pháp giám sát, kiểm tra phù hợp với tình hình thực tế. Qua việc nghe và xem xét các báo cáo, qua việc chất vấn và trả lời chất vấn, việc tổ chức các đoàn đã giám sát, kiểm tra xuống tận các thôn bản ở cơ sở để thu thập ý kiến của cử tri, giúp HĐND cấp xã nắm tình hình, có ý kiến kịp thời về nhiều vấn đề bức xúc cần được giải quyết. Hoạt động giám sát của HĐND cấp xã có những đóng góp tích cực vào việc giải quyết nhiều vụ, việc tiêu cực, hạn chế việc vi phạm pháp luật xảy ra ở địa phương. Nhiều đoàn giám sát đã phát hiện được những sai phạm trong việc chấp hành pháp luật ở cơ sở để kiến nghị cấp có thẩm quyền giải quyết xử lý kịp thời; phát hiện những tiêu cực trên các lĩnh vực như giải phóng mặt bằng, đầu tư xây dựng cơ bản, thu chi ngân sách, chính sách đối với giáo dục, xóa đói giảm nghèo…

Nhiều HĐND cấp xã đã phát huy tốt hoạt động giám sát của đại biểu thông qua việc tiếp dân. Qua đó, giải quyết thắc mắc, khiếu nại, tố cáo của các cá nhân, tổ chức tại địa phương, đảm bảo thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở, ngăn chặn hạn chế những hiện tượng tiêu cực trong bộ máy chính quyền cơ sở, góp phần đảm bảo an ninh, trật tự, ổn định chính trị, xã hội.

Cơ cấu tổ chức của HĐND cấp xã gồm Thường trực HĐND (Chủ tịch và Phó Chủ tịch HĐND), các đại biểu HĐND, Ban pháp chế, Ban kinh tế – xã hội. Qua hoạt động, Thường trực HĐND và các đại biểu HĐND cấp xã đã từng bước khẳng định được vai trò, vị trí của mình, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động. Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND cấp xã đã tích cực phối hợp với Ủy ban nhân dân (UBND) cùng cấp trong việc chuẩn bị kế hoạch tổ chức hoạt động của HĐND giữa hai kỳ họp như tổ chức một số cuộc giám sát, tiếp dân, sinh hoạt với tổ đại biểu HĐND. Thường trực HĐND đã bám sát quy chế phối hợp cùng Mặt trận Tổ quốc lấy phiếu tín nhiệm các chức danh do HĐND bầu gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND và UBND cấp xã. Đã phối hợp với UBND đưa ra HĐND cấp xã xem xét, bãi nhiệm những đại biểu vi phạm tư cách đại biểu hoặc cho thôi giữ các chức vụ do tín nhiệm thấp. Thường trực HĐND giữ được mối liên hệ thường xuyên với đại biểu HĐND, đôn đốc và theo dõi được việc thực hiện chính sách đối với đại biểu HĐND. Tạo điều kiện cho các đoàn công tác của HĐND cấp trên và Đoàn đại biểu Quốc hội ở địa phương về công tác.

Tuy nhiên, quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của HĐND cấp xã còn có những hạn chế, tồn tại. Cụ thể như sau:

Hai là, công tác giám sát là một trong các nhiệm vụ quan trọng của HĐND, nhưng một số HĐND cấp xã chưa xây dựng được lịch hoạt động giám sát định kỳ hoặc có xây dựng nhưng mang tính hình thức, không tổ chức thực hiện. Các đoàn giám sát xuống cơ sở nhiều khi chưa phân biệt rõ được mục đích, tính chất, nội dung của cuộc giám sát và việc chuẩn bị các bước cần thiết chưa chu đáo nên kết quả giám sát chưa cao, các kết luận thường chung chung, thiếu tính thuyết phục, chưa phản ánh đúng bản chất của vấn đề. Vì vậy, đánh giá, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các kết luận, các kiến nghị không có hiệu quả.

– Việc đôn đốc, kiểm tra và giám sát UBND cùng cấp trong việc thực hiện nghị quyết HĐND và giám sát hoạt động của các cơ quan, tổ chức khác đóng tại địa bàn xã còn nhiều khiếm khuyết. HĐND nhiều xã không thể thực hiện được nhiệm vụ này do hạn chế về trình độ và bị cản trở việc thực hiện quyền giám sát. Việc tổ chức các cuộc họp thường xuyên của Thường trực HĐND chưa được thực hiện tốt hoặc thường lồng ghép vào các cuộc họp khác kết hợp với nhiều nội dung.

– Luật quy định HĐND cấp xã thành lập Ban pháp chế và Ban kinh tế – xã hội nhưng lại hoạt động kiêm nhiệm, không còn các Tổ đại biểu của HĐND cấp xã như trước đây. Quá trình thực hiện luật nhiều ý kiến cho rằng như vậy làm “phình” bộ máy và phát sinh đòi hỏi chế độ, chính sách đối với người giữ chức danh Trưởng ban, Phó trưởng ban của HĐND cấp xã(4).

2. Về Ủy ban nhân dân cấp xã

UBND cấp xã “do HĐND cùng cấp bầu, là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước HĐND và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên”(5). UBND cấp xã hoạt động thông qua các phiên họp tập thể của UBND; sự chỉ đạo, điều hành của Chủ tịch UBND. Với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, UBND cấp xã phải thể hiện vai trò quản lý hành chính nhà nước trên tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội ở địa phương; đồng thời, cũng là cơ quan quản lý việc chấp hành, thực hiện các quyết định, chỉ đạo của HĐND cấp xã và UBND cấp huyện gắn với các chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Thể hiện trên các hoạt động kinh tế – xã hội, văn hóa, an ninh, quốc phòng và môi trường xã hội trên địa bàn. Đến nay, phần lớn cấp xã đã có đường ô tô đến được trung tâm; cơ sở vật chất phục vụ sự nghiệp giáo dục – đào tạo, y tế, văn hóa được quan tâm đầu tư; đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; công tác chăm sóc sức khỏe của nhân dân được duy trì, không để dịch bệnh lớn xảy ra; tỷ lệ hộ nghèo giảm hàng năm; bản sắc văn hóa được duy trì và phát huy; đời sống vật chất tinh thần của người dân được nâng lên rõ rệt; quốc phòng, an ninh được củng cố và giữ vững; các hoạt động tư pháp được thực hiện khá tốt; cải cách thủ tục hành chính có bước chuyển biến rõ rệt. Nhiều xã, phường, thị trấn đã xây dựng được quy chế làm việc và duy trì hoạt động theo quy chế. Quy chế làm việc của cấp xã đã đề cao được trách nhiệm cá nhân của từng thành viên UBND; trách nhiệm của Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp xã, đơn giản hóa các thủ tục hành chính; ràng buộc trách nhiệm trong giải quyết các công việc; chống phiền hà, tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí; đảm bảo nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, phục vụ tốt nhất cho các tổ chức, đơn vị kinh tế và nhân dân.

Tuy nhiên, hoạt động của UBND cấp xã hiện vẫn còn những mặt hạn chế, tồn tại sau:

Một là, hoạt động quản lý hành chính của UBND một số xã, phường, thị trấn … còn yếu, tùy tiện; cá biệt ở một số nơi có biểu hiện chưa tổ chức hoạt động theo quy định của pháp luật, nặng về tập quán, thói quen, tình cảm… Việc ban hành các quyết định, văn bản quản lý, áp dụng pháp luật còn nhiều sai sót, không đúng thẩm quyền, thể thức. Giải quyết một số vụ việc sai luật, nhất là trong lĩnh vực quản lý đất đai, tài chính, xử lý vi phạm…

Hai là, việc tổ chức điều hành thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, an ninh trật tự, thu, chi ngân sách… còn lúng túng. Năng lực công tác, tính chủ động trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ chưa cao, chưa thực hiện tốt chức năng là cơ quan chấp hành của HĐND.

Ba là, một số nơi UBND có xu hướng đẩy việc xuống cho thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố, tự biến thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố thành cấp trung gian, làm cho các trưởng thôn, tổ trưởng dân phố phải làm những việc vốn là thuộc nhiệm vụ của UBND xã, phường, thị trấn… Ví dụ như: thu thuế, tuyên truyền phố biến pháp luật, văn hóa thông tin… trong khi tổ chức thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố chỉ thuần túy là các tổ chức cộng đồng dân cư, không phải là tổ chức hành chính cấp dưới của xã, phường, thị trấn. Từ đó, dẫn tới hiệu quả hoạt động và chất lượng công việc thấp. Công tác nắm tâm tư nguyện vọng và vận động quần chúng của nhiều xã, phường còn nhiều yếu kém.

Năm là, trong hoạt động điều hành của UBND cấp xã còn có tình trạng không phân biệt được việc nào Chủ tịch UBND quyết định, việc nào tập thể UBND quyết định nên gây nhiều khó khăn, trở ngại khi thực hiện. Đặc biệt là khi xảy ra sai phạm khó xác định lỗi thuộc về tập thể UBND hay thuộc về Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND. Mặt khác, do chưa phân định rõ chức năng, thẩm quyền nên có nơi, cán bộ, công chức của UBND cấp xã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi cá nhân, gia đình thậm chí cho cả dòng họ gây ra sự bất bình trong nhân dân.

Sáu là, do năng lực quản lý, điều hành yếu kém nên một số nơi UBND cấp xã không kiểm soát được tình hình, để mặc cho thôn xóm tự đề ra quy chế, hương ước trái với quy định của pháp luật như việc tự đặt ra các hình thức xử phạt và mức phạt không đúng quy định (bằng thóc hoặc bằng tiền), cho rằng “phép vua thua lệ làng” khiến cho tình hình trị an ở nông thôn vốn đã phức tạp nay càng phức tạp hơn. Bên cạnh đó, việc giải quyết công việc còn chịu ảnh hưởng bởi mối quan hệ họ mạc, làng xóm, quen biết nên làm cho nội bộ của UBND cấp xã một số nơi mất ổn định, sinh ra bè phái, làm giảm hiệu quả điều hành và làm mất lòng tin của nhân dân ở chính quyền nói chung và UBND cấp xã nói riêng.

3. Những vấn đề đặt ra và hướng giải quyết đối với xây dựng chính quyền địa phương nhìn từ góc độ chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy

Thứ nhất, cần thực hiện nghiêm túc chủ trương của Đảng về phân cấp giữa các cấp chính quyền địa phương theo hướng: “Việc nào do cấp nào quản lý và giải quyết sát thực tiễn hơn thì giao nhiệm vụ và thẩm quyền cho cấp đó”, xóa bỏ dấu ấn của cơ chế cấp dưới xin ý kiến chỉ đạo hoặc phê duyệt của cấp trên. Tiếp tục rà soát, xác định rõ nhiệm vụ và thẩm quyền của chính quyền cấp xã theo hướng “một cấp”: những công việc giải quyết theo nhu cầu của người dân mà cấp xã quyết định được thì giao quyền cho chính quyền cấp xã thực hiện và chịu trách nhiệm trước pháp luật; công việc giải quyết theo nhu cầu của người dân phải qua cả chính quyền cấp xã và chính quyền cấp huyện thì giao cho cấp huyện thực hiện.

Thứ hai, xác định và phân biệt rõ thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể UBND cấp xã với thẩm quyền, trách nhiệm của Chủ tịch UBND cấp xã trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn. Thống nhất thực hiện nguyên tắc “tuân thủ pháp luật và việc ai nấy làm”, chính quyền cấp xã chỉ giải quyết nhu cầu và phục vụ người dân theo đúng các nhiệm vụ đã được pháp luật quy định. Không chuyển việc hoặc đẩy việc thuộc trách nhiệm của cấp huyện xuống cấp xã thực hiện; không chuyển việc thuộc trách nhiệm của cấp xã cho thôn, tổ dân phố thực hiện. Khắc phục xu hướng hành chính hóa hoạt động của thôn, tổ dân phố, hạn chế tính tự quản của cộng đồng dân cư.

Thứ ba, cần phân biệt tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của chính quyền ở khu vực đô thị, nông thôn và hải đảo với những quy định mang tính đặc thù. Nghiên cứu sửa đổi quy định HĐND cấp xã có 2 ban hoạt động kiêm nhiệm (Ban pháp chế và Ban kinh tế – xã hội), để khắc phục xu hướng “phình” bộ máy, phát sinh thêm chế độ, chính sách đối với chức danh Trưởng ban, Phó trưởng ban của HĐND cấp xã(6). Xác định rõ nhiệm vụ của trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố theo hướng chỉ tổ chức thực hiện và quản lý các vấn đề mang tính tự quản của cộng đồng dân cư ở thôn, tổ dân phố.

Thứ tư, khẩn trương ban hành quy chế hoạt động của HĐND cấp xã và quy chế làm việc của UBND cấp xã theo Luật tổ chức chính quyền địa phương.

Thứ năm, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính ở UBND cấp xã, trong đó tập trung rà soát nhằm bảo đảm rút ngắn quy trình xử lý, giảm số lượng và đơn giản hóa, chuẩn hóa nội dung hồ sơ thủ tục hành chính; thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính. Triển khai có hiệu quả Quyết định số 09/2015/QĐ-TTg ngày 25/3/2015 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Tổ chức thực hiện có hiệu quả việc tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết thủ tục hành chính; các dịch vụ công phổ biến được cung cấp trực tuyến ở mức độ 3 trở lên nhằm giảm chi phí, thời gian cá nhân, tổ chức khi giải quyết thủ tục hành chính ở cấp xã những nơi có đủ điều kiện.

TS. Trần Anh Tuấn – Thứ trưởng Bộ Nội vụ

Ghi chú:

(1 ) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.1995, tr. 371.

(2) Điều 113 Hiến pháp năm 2013, Nxb Hồng Đức.

(3) Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, Nxb CTQG.

(4) Ví dụ như các tỉnh Lạng Sơn, Hà Giang, Đắk Nông…

(5) Điều 114 Hiến pháp năm 2013, Nxb Hồng Đức.

(6) Văn bản đề nghị của các tỉnh Lạng Sơn, Hà Giang, Đắk Nông…

1. Hiến pháp năm 2013.

2. Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.

3. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5 khóa IX về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”.

4. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 khóa X ” Về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên”.

5. Kết luận số 63-KL/TW ngày 27/5/2013 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về ” Một số vấn đề cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải cách đến năm 2020″.

6. Kết luận số 64-KL/TW ngày 28/5/2013 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về “Một số vấn đề tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở”.

7. Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị “về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức”.

8. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.

tcnn.vn

Xây Dựng Chính Quyền Điện Tử

       Có nhiều định nghĩa về “Chính quyền điện tử”, ở đây chúng tôi chỉ đưa ra khái niệm mang tính tương đối: “Chính quyền điện tử” là môi trường quản lý, trong đó các cơ quan của Chính phủ sử dụng công nghệ điện tử trong hoạt động giúp cho người dân/doanh nghiệp tiếp cận các thông tin và dịch vụ công do Chính phủ cung cấp một cách thuận tiện, cải thiện chất lượng dịch vụ công và mang lại cơ hội tốt hơn cho người dân/doanh nghiệp trong cuộc sống, trong sản xuất, kinh doanh, trong việc đóng góp các ý kiến với các cơ quan của Chính phủ.

       1. Mục đích của “Chính quyền điện tử”

       – Người dân có thể đóng góp ý kiến dễ dàng hơn đối với các cơ quan của Chính phủ;

       – Người dân có thể nhận được các dịch vụ công tốt hơn từ các cơ quan của chính phủ bất kỳ lúc nào (24h x 7 ngày) tại bất kỳ đâu và vì bất kỳ lý do chính đáng nào;

       – Người dân có thể nhận được nhiều dịch vụ tích hợp hơn từ các cơ quan Chính phủ, bởi các cơ quan này sẽ phối hợp một cách hiệu quả hơn với nhau;

       – Người dân có được thông tin một cách tốt hơn vì họ có thể nhận được các thông tin cập nhật toàn diện về các chính sách và dịch vụ của Chính phủ.

       2. Cơ sở pháp lý xây dựng Chính quyền điện tử

       – Luật giao dịch điện tử năm 2005;

       – Nghị định số 61/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 4 năm 2018 của Chính phủ về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính;

       – Nghị định số 130/2018/NĐ-CP ngày 27 tháng 9 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số;

       – Nghị định số 30/2020/NĐ-CP ngày 05 tháng 3 năm 2020 của Chính phủ về công tác văn thư;

       – Nghị định số 47/2020/NĐ-CP ngày 09 tháng 4 năm 2020 của Chính phủ về quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước;

       – Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07 tháng 3 năm 2019 của Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển chính phủ điện tử giai đoạn 2019 – 2020, định hướng đến 2025;

       – Quyết định số 28/2018/QĐ-TTg ngày 12 tháng 7 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc gửi, nhận văn bản điện tử giữa các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước.

       Một trong những nội dung quan trọng của các văn bản quy phạm pháp luật nói trên là việc quy định tài liệu điện tử có giá trị pháp lý như tài liệu giấy, cụ thể như sau:

       – Khoản 1, Khoản 2 Điều 8 Nghị định số 130/2018/NĐ-CP ngày 27 tháng 9 năm 2018 quy định chi tiết thi hành Luật giao dịch điện tư về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số  quy định: “Trong trường hợp pháp luật quy định văn bản cần có chữ ký thì yêu cầu đối với một thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng nếu thông điệp dữ liệu đó được ký bằng chữ ký số; Trong trường hợp pháp luật quy định văn bản cần được đóng dấu của cơ quan tổ chức thì yêu cầu đó đối với một thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng nếu thông điệp dữ liệu đó được ký bởi chữ ký số cơ quan, tổ chức”;

       – Khoản 1 Điều 5 Nghị định số 30/2020/NĐ-CP ngày 05 tháng 3 năm 2020 về công tác văn thư quy định: “Văn bản điện tử được ký số bởi người có thẩm quyền và ký số của cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật có giá trị pháp lý như bản gốc văn bản giấy”.

       3. Cơ sở hạ tầng thông tin quản lý phục vụ tin học hoá của các cơ quan Chính phủ hướng tới “Chính quyền điện tử”

       Khái niệm về nền kinh tế tri thức: khi thông tin và tri thức trở thành một dạng sản phẩm hàng hoá có giá trị cao trong nền kinh tế quốc dân thì những hàng hoá này tạo ra giá trị thặng dư rất lớn, hơn nữa nó được kết tinh trong giá trị sản xuất của tất cả các sản phẩm hàng hoá vật chất khác và có các đặc trưng sau:

       – Về dạng kết cấu hạ tầng của nền kinh tế tri thức là kết cấu hạ tầng thông tin quốc gia;

       – Về dạng sản phẩm: sản phẩm của kinh tế tri thức có hình thái thông tin, vì vậy cả 2 thuộc tính (giá trị và giá trị sử dụng) của loại hàng hoá sản phẩm này đều có ý nghĩa lớn trong sự phát triển nền kinh tế dựa trên tri thức;

       – Về dạng nguyên liệu: để tạo ra sản phẩm của hàng hoá này là các loại thông tin được số hoá;

       – Về dạng lao động: ở đây đòi hỏi phải là loại hình lao động lành nghề được đào tạo công phu.

       Chiến lược số hoá hoạt động quản lý được coi là bộ phận không thể tách rời của chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở các quốc gia. Trên cơ sở đó nhanh chóng hình thành cơ sở hạ tầng thông tin quản lý của Chính phủ nhằm:

       – Trợ giúp quá trình chỉ đạo điều hành của Chính phủ trong hoạch định chính sách, phân tích tiến trình thực thi chính sách, kịp thời điều chỉnh định hướng chính sách quản lý một cách hữu hiệu;

       – Tích hợp và chuyển các hoạt động dịch vụ của Chính phủ đến người dân, mà không bị ràng buộc bởi không gian và thời gian.

       4. Ứng dụng CNTT trong các cơ quan Chính phủ hướng theo mô hình “Chính phủ điện tử” – Xu thế chung của quốc tế

       Chính sách và biện pháp nhằm chuẩn bị cho việc phát triển kinh tế tri thức và xã hội thông tin ở các nước tuy có những điểm khác nhau tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của mỗi nước, nhưng cũng có điểm chung đó là:

       – Xây dựng một kết cấu hạ tầng thông tin vững chắc trên cơ sở phát triển các trung tâm dữ liệu điện tử và mạng máy tính với siêu xa lộ thông tin (Super Hight Way Infomation);

       – Phổ cập nền “Văn hoá thông tin” trong dân chúng, tạo tiền đề hình thành xã hội tri thức;

       - Phát triển phương thức kinh doanh mới dựa trên công nghệ thông tin và tri thức để tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, hình thành nền kinh tế thông tin và môi trường thương mại điện tử;

       – Đào tạo lại nguồn lao động và tạo ra những ngành nghề, việc làm mới trong lĩnh vực kinh tế tri thức;

       – Cơ cấu lại hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước (về bộ máy, nhân sự, thông tin chính sách), số hoá các quy trình nghiệp vụ và thủ tục quản lý nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động, hoàn thiện chức năng phục vụ của các cơ quan Chính phủ theo hướng “Chính phủ điện tử”.

       Các biện pháp thực hiện:

       – Đào tạo đội ngũ công chức, viên chức làm quen với kỹ năng làm việc trong môi trường điện tử;

       – Kết nối các cơ quan Chính phủ, từng bước phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật thông tin theo yêu cầu;

       – Đẩy nhanh việc cung cấp thông tin của Chính phủ cho người dân và doanh nghiệp thông qua môi trường mạng;

       – Triển khai hệ thống thông tin điện tử của Chính phủ, làm cho thông tin của Chính phủ có khả năng đến được với người dân và doanh nghiệp nhiều hơn;

       – Thúc đẩy việc tin học hoá các dịch vụ công;

       – Nghiên cứu cách thức đưa ra các điểm giao dịch một cửa của Chính phủ, cho phép người dân có thể thực hiện các giao dịch công trên môi trường mạng.

       5. Thực trạng xây dựng “Chính quyền điện tử” hiện nay

       a) Một số kết quả đạt được

       Hiện nay, các Bộ, ngành, địa phương đã có nhiều cố gắng và đạt được những kết quả bước đầu quan trọng làm nền tảng trong triển khai xây dựng Chính phủ điện tử như: tham mưu, từng bước hoàn thiện hành lang pháp lý thúc đẩy việc xây dựng Chính phủ điện tử; xây dựng và đưa vào vận hành một số cơ sở dữ liệu như Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, Cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm; đang triển khai xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia; đã cung cấp một số dịch vụ công trực tuyến thiết yếu cho doanh nghiệp và người dân như đăng ký doanh nghiệp, kê khai thuế, nộp thuế, hải quan điện tử, bảo hiểm xã hội…; một số Bộ, ngành đã xử lý hồ sơ công việc trên môi trường mạng; tại một số địa phương, hệ thống thông tin một cửa điện tử được đưa vào vận hành, nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm của đội ngũ công chức; chất lượng nhân lực về công nghệ thông tin của Việt Nam cũng được nâng cao, đặc biệt một số kết quả nổi bật đã đạt được trong thời gian qua như sau:

       – Khai trương và đưa Cổng Dịch vụ công Quốc gia (DVCQG) vào hoạt động: Xây dựng Cổng DVCQG là một nhiệm vụ quan trọng trong xây dựng “Chính phủ điện tử”, kết nối Chính phủ với người dân và doanh nghiệp. Với phương châm “lấy người dân, doanh nghiệp là trung tâm phục vụ”, Cổng DVCQG hướng tới số hóa hồ sơ, giấy tờ giấy, chuyển hoạt động sử dụng hồ sơ, văn bản giấy, giao dịch trực tiếp sang hoạt động sử dụng hồ sơ, văn bản điện tử, giao dịch điện tử và cung cấp dịch vụ công không phụ thuộc vào thời gian, địa giới hành chính.

       Cổng DVCQG đi vào vận hành đã thúc đẩy cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin. Đến nay đã có các bộ, ngành, địa phương kết nối, tích       hợp với Cổng Dịch vụ công Quốc gia: Bộ Công Thương, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tài chính, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam; 9 tỉnh/thành phố: Thành phố Hà Nội,  Thành phố Hồ Chí Minh,  Quảng Nam, Nam Định,  Ninh Thuận, Thanh Hóa, Bắc Kạn, Hà Tĩnh,  Quảng Ninh; cơ quan khác gồm: Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông quân đội Việt Nam, Tổng công ty Viễn thông Mobifone, Tổng công ty Bưu điện Việt Nam, Công ty Cổ phần Viễn thông Di động Vietnamobile, Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam…

       – Khai trương và đưa Hệ thống thông tin phục vụ họp và xử lý công việc của Chính phủ (e-Cabinet) vào hoạt động: E-Cabinet chính thức đi vào hoạt động là công cụ quan trọng, góp phần đẩy mạnh phát triển Chính phủ điện tử tại Việt Nam, hướng tới phục vụ tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp, thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

       – Khai trương và đưa vào hoạt động Trục liên thông văn bản quốc gia: đã có 95/95 cơ quan ở Trung ương và địa phương (gồm Văn phòng Trung ương Đảng; 31 bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) đã hoàn thành kết nối các hệ thống quản lý văn bản và điều hành trên Trục liên thông văn bản quốc gia.

       Các phần mềm quản lý văn bản của bộ, ngành, địa phương đã được kết nối, liên thông cả theo chiều dọc và chiều ngang một cách thông suốt và có tính hệ thống, văn bản điện tử được gửi, nhận nhanh chóng, an toàn giữa các cơ quan nhà nước.

       b) Khó khăn, vướng mắc

       – Thiếu khung pháp lý về phát triển Chính phủ điện tử và một số cơ chế, chính sách quan trọng;

       – Thiếu pháp lý về xác thực cá nhân, tổ chức và các giao dịch trên môi trường mạng, đặc biệt khi cung cấp dịch vụ hành chính công;

       – Thiếu quy định về tiêu chuẩn hóa thông tin và quy trình hóa công việc để tiến tới điện tử hóa;

       – Thiếu CSDL Quốc gia phục vụ chỉ đạo điều hành của Chính phủ và thiếu cơ chế chia sẻ thông tin, dữ liệu, gửi nhận văn bản điện tử giữa các cơ quan tổ chức trong hệ thống hành chính công;

       – Người đứng đầu một số Bộ, ngành, địa phương còn thiếu quyết liệt trong chỉ đạo triển khai xây dựng “Chính quyền điện tử;

       – Phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương trong triển khai thực hiện và bảo đảm nguồn lực còn yếu;

       – Thiếu công cụ đánh giá, giám sát việc triển khai của người đứng đầu Bộ, ngành, địa phương;

       – Thiếu sự gắn kết chặt chẽ giữa cải cách hành chính với ứng dụng công nghệ thông tin;

       – Chất lượng cổng dịch vụ công triển khai ở địa phương và Bộ ngành hạn chế, công bố dịch vụ công trực tuyến nhưng thực tế rất ít thực hiện; quy trình vẫn từ giấy đến điện tử – điện tử đến giấy gây phiền hà thêm cho người dân, doanh nghiệp;

       – Thiếu kỹ năng quản lý và kỹ năng công nghệ trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức;

       – Đầu tư phân tán, nhỏ giọt không đi kèm các chương trình kinh tế – xã hội trọng tâm trọng điểm của quốc gia hay địa phương; đầu tư cho quá trình vận hành, duy trì và phát triển hệ thống chưa thật sự được chú trọng;

       – Thiếu định danh điện tử của cá nhân, tổ chức; chi phí chứng thư số còn cao so với thu nhập của người dân (1 triệu/người/năm). Để có “Chính quyền điện tử” thì người dân và doanh nghiệp phải thực hiện các giao dịch điện tử trên các hệ thống dịch vụ công của Chính phủ. Tuy nhiên, người dân/doanh nghiệp có khi một năm chỉ có một vài giao dịch hoặc không thực hiện giao dịch nào, nhưng vẫn phải có chứng thư số (theo quy định và chi phí trên), như vậy rất khó khả thi.

       6.  Một số giải pháp về công nghệ thông tin để tiến tới “Chính quyền điện tử”

       – Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về Chính quyền điện tử;

       – Cần tái cấu trúc hạ tầng công nghệ thông tin để đáp ứng yêu cầu xây dựng “Chính phủ điện tử”;

       – Xây dựng chương trình đào tạo theo từng đối tượng chủ thể:

       + Cán bộ, công chức, viên chức chung;

       + Công chức, viên chức quản lý vận hành các hệ thống mới;

       + Người dân, doanh nghiệp.

       – Thiết kế, xây dựng giải pháp “đơn giản hóa ứng dụng công nghệ”;

       – Đầu tư có chỉ đạo tập trung, theo ưu tiên với một số hệ thống và cơ sở nền tảng cho “Chính phủ điện tử”; ngân sách đầu tư chú trọng ngân sách hàng năm cho duy trì, vận hành, phát triển;

       – Rà soát, tìm điểm nghẽn để chỉ đạo tháo gỡ;

       – Bổ sung CSDL phục vụ chỉ đạo điều hành:

       + Chuẩn hóa CSDL về thủ tục hành chính làm nền tảng cho triển khai dịch vụ công trực tuyến.

       Trong môi trường “Chính quyền điện tử”, người dân có thể bị phân hoá nhanh chóng thành hai nhóm: Nhóm những người có kỹ năng và có công cụ để sử dụng công nghệ mới và nhóm những người không có những điều kiện nói trên. Mục đính của “Chính quyền điện tử” là đưa mọi người xích lại gần nhau, chứ không phải tách họ ra, do vậy Chính phủ phải hoạch định kế hoạch tổng thể, chương trình và lộ trình để khắc phục những bất cập này như:

       – Tạo điều kiện truy cập Internet công cộng cho những ai, vì lý do nào đó không có khả năng truy cập Internet tại nhà riêng;

       – Sử dụng các chương trình giáo dục và thông tin công cộng để giúp những người dân dù trẻ hay già sử dụng được các công nghệ mới.

       Trong giai đoàn đầu của “Chính quyền điện tử”, người dân có thể thực hiện được những việc sau:

       – Đăng ký thông tin điện tử với Chính phủ;

       – Tiến hành giao dịch tài chính với các cơ quan tài chính qua phương tiện điện tử;

       – Điền và gửi toàn bộ các mẫu giấy tờ từ một nơi trên trang Web của Chính phủ;

       – Đóng góp ý kiến về các chính sách của Chính phủ trên môi trường mạng;

       – Giảm thời gian trong các giao dịch bởi thông tin về các giao dịch đã được số hoá và các giao dịch có thể được tiến hành qua các phương tiện điện tử;

       – Cập nhật về những thay đổi cá nhân, qua đó chỉ một lần cập nhật trên Internet có thể bảo đảm việc sử dụng, xác thực thông tin cá nhân đó trong các giao dịch sau này với các cơ quan của Chính phủ.

       Để đạt được các mục tiêu trên, cần phải thực hiện qua các giai đoạn sau:

       Giai đoạn 1: Phát hành/phân phối thông tin.

       Giai đoạn 2: Giao dịch hai chiều chính thức.

       Giai đoạn 3: Tạo lập các cổng truy cập đa chiều.

       Giai đoạn 4: Cá nhân hoá các cửa dịch vụ.

       Giai đoạn 5: Phân cụm các dịch vụ công.

       Giai đoạn 6: Hoàn thành việc tích hợp các dịch vụ công.

Ths. Lê Văn Năng (Giám đốc Trung tâm Lưu trữ quốc gia tài liệu điện tử, Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước)

Theo: https://luutru.gov.vn/

Xây Dựng Lực Lượng Công An Xã Chính Quy

Nghị quyết số 22 – NQ/TW ngày 15 tháng 3 năm 2018 của Bộ Chính trị “về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy Bộ Công an tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” đã xác định nội dung xây dựng và bố trí lực lượng Công an xã chính quy.

Trước hết, cần khẳng định đây là một chủ trương mang tính đột phá trong chiến lược bảo đảm an ninh, trật tự tại địa bàn nông thôn trong tình hình hiện nay. Chiếm 80% diện tích của cả nước, địa bàn nông thôn, hàng ngày, hàng giờ đang bị tác động bởi nhiều áp lực từ các nguy cơ tiềm ẩn về an ninh, trật tự. Nông thôn và vấn đề an ninh nông thôn đã trở thành mối quan tâm nóng bỏng, đa chiều nhìn từ các góc độ kinh tế – chính trị – văn hóa – xã hội. Việc bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội tại địa bàn nông thôn hiện nay đang được giao chủ yếu cho lực lượng Công an xã đảm nhiệm. Là lực lượng vũ trang, bán chuyên trách, công cụ trọng yếu của Đảng và Nhà nước ở xã, thị trấn để đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở, Công an xã chịu sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của cấp ủy Đảng, sự quản lý điều hành của Ủy ban nhân dân xã và sự chỉ đạo hướng dẫn của Công an cấp trên. Trong nhiều thập kỷ qua, với chức năng, nhiệm vụ được giao, lực lượng Công an xã đã phát huy tốt hiệu quả góp phần vào việc bảo đảm an ninh trật tự ở địa bàn cơ sở.

Điều đó cho thấy, vai trò và hoạt động của lực lượng Công an xã cần thiết phải được cải cách, đổi mới về tổ chức bộ máy, quy mô, chất lượng và tính chất hoạt động. Tại điều 4, Luật Công an nhân dân năm 2014 quy định: “Công an nhân dân gồm lực lượng An ninh nhân dân, lực lượng Cảnh sát nhân dân và Công an xã”; Là “lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm”.

Dù còn nhiều quan điểm và ý kiến bàn luận đa chiều, nhưng cả về phương diện lý luận và thực tiễn, quan điểm của chúng tôi cho rằng: Chính quy hóa lực lượng Công an xã trong tình hình hiện nay là xu thế tất yếu, phù hợp với thực tế khách quan.

Vấn đề chỉ còn ở chỗ, khi đã xác định Công an xã là lực vũ trang, chính quy, hoạt động chuyên trách trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm an ninh, trật tự tại địa bàn nông thôn, thì cần phải tiếp tục xây dựng, bổ sung cơ chế pháp luật đảm bảo, dự kiến quy mô tổ chức bộ máy, tiêu chuẩn về nhân sự ở các chức danh cụ thể… như thế nào?

Thực tế đang có nhiều câu hỏi đặt ra: Khi chính quy hóa lực lượng Công an xã thì hơn số Trưởng Công an xã và Phó Công an xã sẽ được tiếp tục bố trí, sử dụng như thế nào? Lực lượng Công an viên được tiếp tục sử dụng ra sao? Lộ trình đưa Công an chính quy về hoạt động ở cấp xã thay cho lực lượng bán chuyên trách được triển khai đồng loạt hay theo kế hoạch nào? Việc xây dựng và bố trí vào các vị trí theo tiêu chuẩn chức danh ra sao?…

Để góp phần sớm chính quy hóa lực lượng Công an xã trong toàn quốc, chúng tôi mạnh dạn đề xuất:

Ủy viên thư ký Tiểu ban lý luận trật tự, an toàn xã hội

Xây Dựng Chính Quyền Cơ Sở Trong Sạch, Vững Mạnh

Bài 1: “Cầu nối” giữa Nhà nước với nhân dân

Lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo hiệu quả hoạt động của chính quyền cơ sở, tỉnh quan tâm xây dựng, củng cố chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh toàn diện, nhất là chính quyền cơ sở; chỉ đạo chính quyền cơ sở đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động theo phương châm hành động mới của Chính phủ và của UBND tỉnh năm 2019 là “Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, đột phá, hiệu quả” để xây dựng nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại.

Theo ông Lê Hữu Khang, Giám đốc Sở Nội vụ, điểm nổi bật nhất trong củng cố, xây dựng chính quyền cơ sở trong sạch vững mạnh trên địa bàn tỉnh đạt được thời gian qua đó chính là việc thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo chuyển biến tích cực về thái độ, trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ của cán bộ, công chức cấp xã, nhất là người đứng đầu. Ðổi mới công tác bố trí, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo quản lý lựa chọn người có năng lực, tư duy đổi mới, phẩm chất đạo đức tốt, gắn với cơ chế trách nhiệm; kịp thời thay thế cán bộ, công chức trì trệ, không hoàn thành nhiệm vụ, giảm sút uy tín. Xử lý nghiêm và kịp thời theo quy định của pháp luật các tổ chức và cá nhân có vi phạm thực thi công vụ. Tỉnh chỉ đạo tiếp tục đổi mới phương thức, lề lối làm việc của cơ quan hành chính nhà nước cấp xã, giảm hội họp, giấy tờ hành chính và chế độ báo cáo; xử lý nghiêm các hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực, vi phạm pháp luật, sách nhiễu người dân và doanh nghiệp.

Ðể đánh giá hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền các cấp, Sở Nội vụ đã tham mưu cho UBND tỉnh ban hành bộ tiêu chí đánh giá, xếp loại chính quyền cơ sở. Ðó là “cái gậy” để hàng năm, chính quyền địa phương đánh giá tổng kết công tác này; đồng thời chỉ đạo củng cố kiện toàn, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền cấp xã, nhất là xã yếu kém, kiên quyết thay thế Chủ tịch UBND cấp xã nhiều năm xếp loại trung bình… Với các giải pháp quyết liệt, hiệu lực, hiệu quả chính quyền cơ sở được nâng lên, hoạt động tuân thủ đúng quy định của pháp luật và quy chế làm việc, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, đảm bảo sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, chấp hành tốt sự chỉ đạo của Chính phủ, cơ quan nhà nước cấp trên; phát huy tính chủ động, sáng tạo trong chỉ đạo điều hành và có nhiều chuyển biến tích cực, chủ động xử lý, tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong công tác chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Chất lượng hoạt động của chính quyền cấp xã tiếp tục được nâng lên. Ðến nay có 64/130 xã, phường, thị trấn đạt trong sạch vững mạnh; 100% số xã, phường, thị trấn trong tỉnh đã tổ chức hội nghị trao đổi, đối thoại giữa UBND cấp xã với nhân dân theo quy định.

Thanh Nưa dù không phải xã được huyện Ðiện Biên lựa chọn xã điểm xây dựng nông thôn mới của huyện, song với sự quyết tâm và tinh thần đoàn kết thống nhất của Ðảng bộ, chính quyền và sự hưởng ứng tích cực tham gia của nhân dân nên đến cuối năm 2017 xã đã “cán đích” nông thôn mới. Bà Lò Thị Vân, Chủ tịch UBND xã Thanh Nưa cho biết: Với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, mọi hoạt động từ việc xây nhà văn hóa bản, làm đường bê tông liên bản… đều được công khai, lấy ý kiến nhân dân rồi đưa vào Nghị quyết và Chương trình hành động của Ðảng bộ xã. Mức đóng góp cụ thể của người dân ra sao, ưu tiên thực hiện hạng mục, phần việc nào trước đều được triển khai thuận lợi và không hề có thắc mắc của người dân, bởi nhân dân là người được quyền quyết định làm cái gì, làm như thế nào và cũng chính là người giám sát.

Còn tại xã Chiềng Ðông (huyện Tuần Giáo), năng lực của cán bộ, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền được khẳng định, với uy tín của mình với người dân tại cơ sở nên nhiều vấn đề phát sinh trong thời gian qua, như: Tranh chấp đất đai, mâu thuẫn giữa các dòng họ… đã được giải quyết, hóa giải ngay từ cấp xã; đồng thời khơi gợi được sức mạnh tập thể trong phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo. Chính quyền xã Chiềng Ðông đã khẳng định được vai trò quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện công tác giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới tại địa phương. Ông Quàng Văn Sung, Chủ tịch UBND xã cho biết: Cùng với việc đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân công cán bộ xã tiếp dân, giải đáp các chế độ, chính sách cho nhân dân; xã đã chủ động tổ chức thực hiện tốt việc xây dựng, quản lý khai thác sử dụng và duy tu bảo dưỡng các công trình đường giao thông liên thôn, bản, công trình phúc lợi, xã hội. Hàng năm huy động từ 85 – 100% hộ gia đình trong xã tự nguyện đóng góp ngày công, vật chất để xây dựng, tu sửa các tuyến đường nội xã. Bảo vệ từ 95 – 100% vốn rừng hiện có, không để xảy ra trường hợp vi phạm pháp luật bảo vệ và phát triển rừng, nhờ đó tỷ lệ hộ nghèo qua từng năm đều giảm, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện, nâng cao.

Ông Vũ Văn Ðức, Chủ tịch UBND huyện Tuần Giáo cho biết: Xây dựng chính quyền cấp xã đoàn kết, thống nhất, hoạt động hiệu lực, hiệu quả phục vụ nhân dân; các xã trên địa bàn đã tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động; phát huy dân chủ ở cơ sở, cải tiến lề lối, tác phong làm việc của cán bộ công chức cấp xã; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng. Công tác đối thoại, trao đổi với nhân dân được UBND cấp xã quan tâm thực hiện; cán bộ xã tăng cường sâu sát cơ sở nắm bắt tâm tư nguyện vọng chính đáng của nhân dân từ đó đã góp phần giải quyết hiệu quả các vấn đề nổi cộm, bức xúc của nhân dân tại cơ sở. Góp phần củng cố niềm tin của nhân dân với cấp ủy, chính quyền địa phương.

Bài 2: Cán bộ là then chốt

Cập nhật thông tin chi tiết về Xây Dựng Chính Quyền Cấp Xã trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!