Xu Hướng 4/2023 # Vai Trò, Trách Nhiệm Của Đảng Và Nhà Nước Trong Cơ Chế Thể Chế Hóa Ở Việt Nam Hiện Nay # Top 4 View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 4/2023 # Vai Trò, Trách Nhiệm Của Đảng Và Nhà Nước Trong Cơ Chế Thể Chế Hóa Ở Việt Nam Hiện Nay # Top 4 View

Bạn đang xem bài viết Vai Trò, Trách Nhiệm Của Đảng Và Nhà Nước Trong Cơ Chế Thể Chế Hóa Ở Việt Nam Hiện Nay được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Đại học Luật Hà Nội

Cơ chế thể chế hoá thể hiện tổng hợp các nguyên tắc, quy định về tổ chức, quy trình hoạt động, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể tiến hành thể chế hoá. Ở Việt Nam hiện nay, theo nguyên tắc Hiến pháp, hoạt động thể chế hoá do hai chủ thể thực hiện, là Đảng và Nhà nước. Với vai trò lãnh đạo,Đảng tạo lập các cơ sở chính trị, định hướng nội dung, mục tiêu cho toàn bộ hoạt động thể chế hoá. Trách nhiệm của Nhà nước là tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế trên cơ sở phù hợp với các định hướng chính trị do Đảng đưa ra. Tuy vậy, đến nay vấn đề vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong hoạt động thể chế hoá cụ thể như thế nào xét trong mối quan hệ giữa Nhà nước với Đảng và trong nội bộ Nhà nước cũng chưa được làm rõ và hoàn toàn thống nhất về mặt học thuật. Bài viết sẽ đề cập cụ thể đến các nội dung này.

1. Khái quát về cơ chế thể chế hoá

Theo Hiến pháp nước ta, hoạt động thể chế hoá do hai chủ thể thực hiện, đó là Đảng và Nhà nước. Như vậy, sự phân công chức năng được ghi nhận với những nội dung cơ bản sau: Đảng giữ vai trò lãnh đạo đối với các hoạt động của Nhà nước, trong đó có hoạt động thể chế hoá. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, chính sách, tổ chức cán bộ và chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các đường lối, chính sách đó [1] . Đảng giới thiệu và cử những đảng viên ưu tú của Đảng tham gia vào các chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước. Đảng không có mục đích riêng nhưng với tư cách là đảng cầm quyền, Đảng nhận thức được các quy luật vận động và xu hướng phát triển của Nhà nước theo các điều kiện chính trị, kinh tế – xã hội trong nước và quốc tế, trên cơ sở các mục tiêu và con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, đã đề ra những chủ trương, đường lối, chính sách xây dựng và phát triển bộ máy nhà nước theo những định hướng lớn. Quan điểm, chủ trương, quyết sách xây dựng và phát triển bộ máy nhà nước, tăng cường hiệu lực và hiệu quả của chính quyền luôn luôn là một trong những nội dung lớn và quan trọng nhất trong các văn kiện của Đảng, điều này chứng tỏ vấn đề về tổ chức và hoạt động của Nhà nước là vấn đề số một, có tính căn bản trong đường lối, chính sách của Đảng.

2. Vai trò, trách nhiệm của Đảng

Với vai trò lãnh đạo, trước hết Đảng tạo lập các cơ sở chính trị, định hướng nội dung, mục tiêu cho toàn bộ hoạt động thể chế hoá. Điều đó có nghĩa những vấn đề về thể chế hoá trước hết được nhận thức và xác định thành các nguyên tắc chung, qua đó tạo thành cơ sở chính trị cho toàn bộ hoạt động thể chế hoá. Đảng lãnh đạo Nhà nước và các đoàn thể chính trị – xã hội bằng cương lĩnh chính trị, chiến lược, chính sách, chủ trương; bằng công tác tư tưởng, tổ chức, cán bộ và kiểm tra giám sát việc thực hiện. Chẳng hạn Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam vạch ra xác định các mục tiêu, nhiệm vụ, lực lượng và phương pháp thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của nước ta trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước . Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đưa ra quan niệm tổng quát nhất về xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và những phương hướng cơ bản để xây dựng xã hội đó; khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng; khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể tạo thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân; khẳng định xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những phương hướng chiến lược lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam .

Trong số các văn kiện của Đảng, ngoài cương lĩnh chính trị thì các nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, các nghị quyết hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng có vai trò và ý nghĩa quan trọng hàng đầu cho hoạt động thể chế hoá. Đó là Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, các nghị quyết các hội nghị Ban chấp hành trung ương khoá X về những vấn đề phát triển kinh tế – xã hội như Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành trung ương Đảng (khoá X) về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa… Những chủ trương, định hướng lớn của Đảng đã và đang được triển khai thực hiện có thể nêu như Nghị quyết số 48-TW/NQ về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam; Nghị quyết số 49-TW/NQ về chiến lược cải cách hệ thống tư pháp 2006 – 2010, định hướng đến năm 2020 v.v..

Nhìn tổng thể, vai trò trách nhiệm của Đảng đối với quá trình xây dựng và thực thi hệ thống thể chế được xác định theo hai nội dung căn bản sau:

Thứ nhất, Đảng tạo lập cơ sở và đảm bảo định hướng chính trị cho hoạt động thể chế hoá. Điều này được quy định thành nguyên tắc Hiến pháp (Điều 4 Hiến pháp năm 1992). Hoạt động của Đảng trước hết là việc xác định đường lối phát triển của cách mạng Việt Nam, trong đó có đường lối xây dựng, củng cố và phát triển Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà hoạt động thể chế hoá là một trong những nội dung quan trọng hàng đầu. Vai trò, trách nhiệm của Đảng là lãnh đạo việc thể chế hoá trước hết thông qua các quan điểm đường lối do Đảng vạch ra và được thể hiện tập trung trong các văn kiện của Đảng. Đảng phải xác định một cách đúng đắn, phù hợp, kịp thời toàn bộ con đường và bước đi của cách mạng Việt Nam trong từng thời kỳ, hướng tới các mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài theo lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng chỉ rõ để tiến tới mục tiêu đó, Việt Nam phải xây dựng nhà nước pháp quyền, của dân, do dân, vì dân trên nền tảng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế.

Thứ hai, Đảng không chỉ dừng lại ở việc xác định chủ trương, đường lối làm cơ sở chính trị cho toàn bộ quá trình và nội dung thể chế hoá mà Đảng còn lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện quy trình thể chế hoá của Nhà nước nhằm tạo lập hệ thống các nguyên tắc, cơ chế, chính sách, luật pháp phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước. Trách nhiệm của Đảng là theo dõi để kịp thời uốn nắn các hoạt động thể chế hoá đảm bảo tính định hướng chính trị của hoạt động này. Các cấp uỷ Đảng lãnh đạo, chỉ đạo sát sao hoạt động thể chế hoá, từ khâu hình thành chính sách, phân tích chính sách đến xác định nhu cầu lập pháp, lập quy, cho ý kiến đối với các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, lắng nghe nguyện vọng và ý kiến đóng góp, tham gia, phản biện của các tầng lớp nhân dân. Đảng đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân và những người lao động, đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc Việt Nam để đánh giá và cho ý kiến về các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội do Nhà nước lập ra. Đảng không trực tiếp thực hiện các hoạt động nghiệp vụ thể chế hoá của Nhà nước nhưng những ý kiến chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của Đảng thông qua các tổ chức đảng và đảng viên có ý nghĩa quyết định đảm bảo cho hoạt động thể chế hoá đi đúng hướng. Tuy nhiên, để thực hiện tốt vai trò, trách nhiệm của mình, đảng viên, các cấp uỷ Đảng ngoài năng lực tư duy và lãnh đạo chính trị, ngoài khả năng động viên, tập hợp lực lượng quần chúng nhân dân còn phải có tri thức và trình độ chuyên môn nhất định. Kỹ năng và trình độ chuyên môn, những hiểu biết sâu sắc về các lĩnh vực đời sống kinh tế – xã hội giúp cho đảng viên và các cấp uỷ Đảng có thể đưa ra được các ý kiến xác đáng, phù hợp với tính chất và yêu cầu cụ thể của mỗi lĩnh vực kinh tế – xã hội nói riêng và các quy luật khách quan của cuộc sống nói chung. Trong quy trình làm luật, pháp lệnh hiện nay trên thực tế, Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng đóng vai trò rất lớn trong khâu cho ý kiến đối với chương trình xây dựng luật, pháp lệnh cũng như nội dung các dự án luật, pháp lệnh. Tuy nhiên, vấn đề này cũng chưa được quy định cụ thể trong Hiến pháp và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Trên thực tế, đối với hoạt động thể chế hoá, vai trò của các tổ chức Đảng rất quan trọng và rất lớn, đồng thời cũng không đơn thuần chỉ là việc Đảng đề ra các chủ trương, đường lối (trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng) rồi căn cứ vào đó Nhà nước thực hiện việc thể chế hoá như là sự tách biệt rành rẽ trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, mà toàn bộ quá trình, định hướng và các nội dung lớn trong hoạt động thể chế hoá đều được sự lãnh đạo, chỉ đạo của các tổ chức Đảng (Ban chấp hành trung ương, Bộ chính trị, Ban bí thư…). Theo quy định tại khoản 2 Điều 9 Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam hiện hành, Ban chấp hành trung ương Đảng là cơ quan lãnh đạo của Đảng giữa hai kỳ đại hội. Với vị trí quan trọng như vậy, Ban chấp hành trung ương Đảng giữ vai trò quyết định những vấn đề chiến lược và chủ trương, chính sách lớn về đối nội, đối ngoại nhằm cụ thể hoá và thực hiện cương lĩnh chính trị, điều lệ Đảng và các nghị quyết của Đại hội Đảng; Xác định phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch kinh tế – xã hội hàng năm, chủ trương đầu tư một số dự án đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng lớn về kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… và cho ý kiến về một số đề án cụ thể, quan trọng khác thuộc các lĩnh vực ngoài các vấn đề đã ghi trong chương trình toàn khoá do Bộ Chính trị đề nghị; Xác định chủ trương và nội dung cơ bản sửa đổi, bổ sung Hiến pháp; Quyết định chủ trương về việc Việt Nam tham gia công ước, hiệp ước hoặc ký kết hiệp định song phương, đa phương đặc biệt quan trọng do Bộ Chính trị đề nghị; Quyết định về chủ trương thành lập, sáp nhập, chia tách các bộ, cơ quan ngang bộ, việc thành lập, sáp nhập, chia tách, điều chỉnh địa giới hành chính các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Quyết định giới thiệu nhân sự ứng cử, đề cử hoặc rút khỏi các chức danh Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ.

Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng do Ban Chấp hành trung ương bầu ra, có quyền quyết định những chủ trương, chính sách, biện pháp lớn nhằm thực hiện và kiểm tra việc thực hiện cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết của Đại hội, nghị quyết của Ban chấp hành trung ương gồm:

– Những vấn đề quan trọng thuộc các lĩnh vực kinh tế – xã hội, Bộ chính trị có quyền:

+ Xác định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu, chủ trương của kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và ngân sách nhà nước hằng năm để trình Ban Chấp hành trung ương;

+ Cụ thể hoá về chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất và cơ chế quản lý;

+ Chiến lược và quy hoạch phát triển một số ngành, lĩnh vực, địa bàn quan trọng;

+ Một số chủ trương, chính sách kinh tế – xã hội cụ thể, một số dự án đầu tư quan trọng có tác động sâu rộng đến quyền lợi, tư tưởng của nhiều đối tượng xã hội, đến quốc phòng an ninh, đối ngoại, những vấn đề đòi hỏi sự phối hợp sức mạnh tổng hợp của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân;

+ Chiến lược tổng thể về vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ nước ngoài; việc sử dụng các nguồn lực quốc gia.

– Những vấn đề có tính chiến lược thuộc các lĩnh vực tư tưởng, văn hoá, khoa học, giáo dục, lãnh đạo và kết luận tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh;

– Định hướng hoạt động của các cơ quan tư pháp.

– Những chủ trương lớn về hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước, gồm:

+ Đánh giá, nhận định tình hình quốc tế, khu vực và quan hệ đối ngoại; xác định phương hướng, chính sách đối ngoại;

+ Chủ trương thiết lập quan hệ ngoại giao với một số nước; gia nhập và rút khỏi các tổ chức quốc tế quan trọng và phương hướng hoạt động trong các tổ chức đó;

+ Những vấn đề quan trọng thuộc nội dung đàm phán, ký kết, tuyên bố của Việt Nam với nước ngoài;

+ Chủ trương đàm phán về biên giới, lãnh thổ, chủ quyền quốc gia;

+ Chủ trương đăng cai và nội dung chủ yếu của việc Việt Nam tham gia các hội nghị quốc tế cấp nguyên thủ và Chính phủ;

+ Chương trình và nội dung quan trọng trong hoạt động đối ngoại của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ.

3. Vai trò, trách nhiệm của Nhà nước

Ở Việt Nam, trong mối quan hệ với Đảng, vai trò của Nhà nước được nhận thức một cách khái quát là Nhà nước quản lý, Đảng lãnh đạo . Nhà nước quản lý, các tổ chức chính trị – xã hội và đoàn thể quần chúng tham gia quản lý… nói cách khác, đó cũng là cơ chế thực hiện dân chủ ở Việt Nam. Tuy vậy, đến nay vấn đề vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong hoạt động thể chế hoá cụ thể như thế nào xét trong mối quan hệ giữa Nhà nước với Đảng và trong nội bộ Nhà nước cũng chưa được làm rõ và hoàn toàn thống nhất về mặt học thuật. Hơn nữa, dường như chúng ta cũng mới chỉ định hình được nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm pháp lý của các tổ chức đảng và đảng viên… Rõ ràng, đây là những điểm còn thiếu hụt trong cơ chế hiện hành về hoạt động thể chế hoá cần phải nghiên cứu tìm giải pháp khắc phục trong thời gian tới.

Cơ chế thể chế hoá một mặt thể hiện mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước, trách nhiệm của Đảng trong quy trình thể chế hoá, mặt khác thể hiện vai trò tích cực, chủ động của các cơ quan, tổ chức của Nhà nước đối với hệ thống thể chế của Nhà nước đáp ứng các nhu cầu phát triển của đời sống kinh tế – xã hội. Về cơ chế, sự phân công vai trò trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức của Nhà nước trong quá trình thực hiện thể chế hoá phần lớn đã được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành. Trong quy trình thể chế hoá, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trước hết phải nghiên cứu sâu sắc các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, tiếp đó phải chuyển hoá những ý tưởng chính trị đó thành nội dung các quy định, thể lệ, mục tiêu, nhiệm vụ hoạt động cụ thể của Nhà nước được đảm bảo thực thi bằng sức mạnh, tiềm lực của Nhà nước. Như vậy, xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, trên con đường trở lại với thực tiễn, đường lối, chính sách của Đảng được “hoá thân” vào hệ thống cơ chế, chính sách, luật pháp của Nhà nước và toàn bộ hệ thống thể chế nhà nước mang được “linh hồn” của chính trị (đường lối, chính sách của Đảng). Đó là phương thức cơ bản vừa để chính thức hoá vai trò của Đảng với tư cách là đảng cầm quyền vừa để đảm bảo tính chính trị (bản chất) trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, để nâng cao vai trò, trách nhiệm của Đảng và Nhà nước trong hoạt động thể chế hoá đòi hỏi cùng đồng thời phải nâng cao năng lực của cả Đảng và Nhà nước, sao cho Đảng không bị “Nhà nước hoá” còn Nhà nước thì không bị thụ động, mất khả năng tích cực, sáng tạo, nhạy bén để có thể đáp ứng kịp thời những đòi hỏi của đời sống kinh tế – xã hội . Đây có thể nói là một trong những thách thức lớn nhất của quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay.

Trong cơ chế thể chế hoá, một mặt Nhà nước nhận thức được vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình thông qua việc nắm bắt nhu cầu về thể chế trong quá trình thực hiện vai trò quản lý xã hội, mặt khác, thông qua việc nghiên cứu thấu suốt các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, thông qua hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng. Nhà nước không nên chỉ thiên về một mặt nào trong đó, cái chính phải là Nhà nước chủ động, tích cực thu nhận các nhu cầu về thể chế từ thực tế khách quan trong quá trình quản lý xã hội của mình, kết hợp với việc quán triệt đường lối, chính sách của Đảng. Cơ chế như vậy cho phép khắc phục tính thụ động của các cơ quan nhà nước, khắc phục được tính chủ quan, duy ý chí trong các chính sách của Nhà nước. Một thực trạng trong quy trình thể chế hoá hiện nay cần phải đổi mới, đó là Nhà nước thì đợi ý kiến của Đảng, cơ quan nhà nước cấp dưới thì đợi cơ quan nhà nước cấp trên, ngược lại thậm chí luật chờ chỉ thị, thông tư mới có thể đưa vào áp dụng… trong khi các quan hệ xã hội đang hàng ngày đòi hỏi được điều chỉnh, trật tự hoá. Muốn nâng cao năng lực thể chế hoá và quản lý nói chung của Nhà nước, cần tạo cơ chế độc lập cho Nhà nước trong hoạt động thể chế hoá nói riêng và cả hoạt động quản lý nhà nước nói chung. Mặt khác, cũng cần nâng cao năng lực và hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, đảm bảo tính trách nhiệm cụ thể và tính thực chất trong hoạt động của các tổ chức đảng và cán bộ Đảng. Thiết nghĩ ý tưởng nhất thể hoá các chức vụ lãnh đạo Đảng với lãnh đạo Nhà nước hiện nay là ý tưởng cần được quan tâm xem xét một cách nghiêm túc. Về mặt tổ chức kỹ thuật, hiện có một số khái niệm, nội dung quy trình và sản phẩm thể chế hoá ở Việt Nam khác với các nước có nền lập pháp tiên tiến trên thế giới. Nhất thể hoá vai trò, trách nhiệm của Đảng và Nhà nước trong hoạt động hoạch định đường lối, cơ chế, chính sách của Đảng – Nhà nước, từ đó tiếp tục thể chế hoá thành luật pháp là phương thức cần được nghiên cứu sâu sắc hơn để có thể áp dụng ở Việt Nam. Khi đó, khái niệm thể chế hoá sẽ là thể chế hoá chính sách của Nhà nước (cũng là của Đảng với tư cách là đảng cầm quyền) thành luật pháp của Nhà nước./.

(Nguồn tin: Bài đăng trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 3+4 (164+165), tháng 2/2010)

Thực Hiện Cơ Chế Đảng Lãnh Đạo, Nhà Nước Quản Lý, Nhân Dân Làm Chủ Ở Việt Nam Trong Tình Hình Mới

Nguyễn Viết Thảo*

 

Tóm tắt: Nội dung bài viết làm rõ quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về cơ chế, thực trạng vận hành cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ ” ở Việt Nam và rút ra một số kinh nghiệm, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp thực hiện tốt cơ chế này trong tình hình mới.

Từ khóa: Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh, Cơ chế, Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ

Abstract: The paper clarifies the awareness process of the Communist Party of Vietnam on the principles and current situation of the mechanism “Party’s leadership, State’s management and people’s right to mastery” in Vietnam and proposes solutions to better implement this mechanism in the new context.

Keywords: Communist Party of Vietnam, Platform, Mechanism, Party’s Leadership, State’s Management, People’s Right to Mastery

 

1. Đặt vấn đề

Trong quá trình tìm tòi đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), cùng với những đổi mới về tư duy kinh tế, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những đổi mới về tư duy chính trị, xây dựng và hoàn thiện thể chế chính trị Việt Nam. Trong đó, cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” được đề ra từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V (1982) và Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng xác định là phương thức vận hành tổng thể của hệ thống chính trị Việt Nam. Cơ chế này là kết quả từ sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Marx – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của Đảng, Nhà nước và quần chúng nhân dân trong lịch sử, đồng thời xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới.

2. Quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”

Dù đã sớm được khẳng định, tuy nhiên việc nhận thức và thực hiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” ở Việt Nam là một quá trình. Cả trên phương diện lý luận và thực tiễn, không phải ngay từ đầu, ở đâu và lúc nào, việc nhận thức và thực hiện cơ chế tổng thể nêu trên cũng rõ ràng, đầy đủ và đúng đắn. Bước vào thời kỳ Đổi mới, Việt Nam chuyển từ thời kỳ thực hiện cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung với hai thành phần kinh tế chủ yếu là nhà nước và tập thể sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nên việc nhận thức và thực hiện cơ chế đó thời kỳ đầu có nhiều khó khăn, hạn chế. Từ chỗ chưa tách bạch rõ vai trò lãnh đạo của Đảng với vai trò quản lý của Nhà nước, tư duy tổ chức đảng bao biện, làm thay khá phổ biến trong vận hành hệ thống chính trị, qua những năm đầu thực hiện đường lối đổi mới, vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước và vai trò làm chủ của nhân dân đã dần được làm sáng tỏ hơn.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (năm 1991) đã chỉ rõ: “Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991: 21). Cùng với việc nhấn mạnh vai trò và phương thức lãnh đạo của Đảng, Cương lĩnh cũng đã chỉ rõ vai trò và trách nhiệm quản lý của Nhà nước theo tư duy mới, đó là “Xóa bỏ triệt để cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác… Đổi mới và nâng cao hiệu lực hướng dẫn, kiểm soát và điều tiết của Nhà nước” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991: 12). Đảng khẳng định, Nhà nước là tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, do đó Nhà nước phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật. Cần sửa đổi hệ thống tổ chức nhà nước, cải cách bộ máy hành chính, kiện toàn các cơ quan luật pháp để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý của Nhà nước (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991: 19).

Sau 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, cơ chế vận hành tổng thể của hệ thống chính trị vẫn tiếp tục đặt ra những yêu cầu cần làm sáng tỏ hơn nữa. Trong đó, vấn đề mấu chốt vẫn là phân định vai trò, trách nhiệm, cơ chế thực thi quyền và trách nhiệm của từng chủ thể trong hệ thống chính trị. Đại hội XI (năm 2011) của Đảng xác định cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” là một trong các mối quan hệ lớn cần được làm sáng tỏ trong quá trình đổi mới đi lên CNXH. Bởi đây là cơ chế có mối quan hệ đặc biệt, cốt yếu nhất giữa ba chủ thể có vai trò quan trọng nhất của thể chế chính trị Việt Nam.

Yêu cầu phân định rõ vai trò, trách nhiệm, chức năng lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý của Nhà nước cũng như mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ vẫn tiếp tục được đặt ra một cách cấp thiết. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định các nội dung phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, đồng thời bổ sung phương thức Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Về bản chất của Nhà nước, Cương lĩnh khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011: 85).

Thực tế cho thấy, khó có thể nhấn mạnh, khẳng định một cách tuyệt đối vai trò, tầm quan trọng của chủ thể nào trong mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Giữa ba chủ thể trên có quan hệ hết sức chặt chẽ, thống nhất biện chứng với nhau, là tiền đề của nhau, đều có vai trò quan trọng, không thể thiếu và không thể tùy tiện, tuyệt đối hóa vị trí, vai trò của bất cứ chủ thể nào. Tuy nhiên, xét theo trình tự, quy trình ban hành và tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách ở một nước do Đảng Cộng sản duy nhất cầm quyền lãnh đạo, đồng thời, xét trên phương diện trách nhiệm và quyền lợi, mục đích lãnh đạo và cầm quyền của Đảng, mục tiêu quản lý của Nhà nước, tất cả cũng đều vì lợi ích của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân thì việc sắp xếp vị trí, xác định vai trò, quyền và trách nhiệm của các chủ thể trong cơ chế vận hành tổng thể của hệ thống chính trị Việt Nam “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” là phù hợp.

3. Thực trạng vận hành cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” ở Việt Nam và một số bài học kinh nghiệm

Có thể nói, với việc thực hiện vai trò, thẩm quyền, trách nhiệm của các chủ thể trong cơ chế tổng thể “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, thể chế chính trị Việt Nam đã vận hành một cách thông suốt, có sự ổn định, tiếp tục được củng cố và phát triển.

(1) Với vai trò cầm quyền và lãnh đạo, bằng chủ trương, đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam giành những thắng lợi và thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đến nay, Đảng đã khẳng định và xác lập các phương pháp, cách thức lãnh đạo Nhà nước và xã hội một cách chắc chắn, rõ ràng. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục; bằng công tác tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị. Hệ thống tổ chức đảng được thiết lập tương ứng với hệ thống tổ chức nhà nước. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thành bại của cách mạng. Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền là vì lợi ích của nhân dân. Đảng lãnh đạo là yếu tố tiên quyết đảm bảo cho sự vận hành có hiệu quả cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.

Trong những năm đổi mới, tổ chức bộ máy các cơ quan đảng được sắp xếp, kiện toàn theo yêu cầu, nhiệm vụ mới. Chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định, điều chỉnh phù hợp hơn. Nhiều chủ trương, nguyên tắc, quan điểm, giải pháp lớn về công tác cán bộ được thể chế, cụ thể hóa bằng quy chế, quy định, quy trình bảo đảm dân chủ, chặt chẽ. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị tiếp tục được đổi mới. Đảng đã ban hành nhiều quy chế, quy định, quy trình công tác để thực hiện, bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là vai trò của Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc. Việc đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở có bước tiến bộ. Đảng có những đổi mới trong việc ra nghị quyết, coi trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Với những kết quả đó, Đảng đã giữ vững được bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới, xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Tuy nhiên, bên cạnh những thắng lợi và thành tựu, thực tiễn lãnh đạo của Đảng trong cơ chế vận hành tổng thể của hệ thống chính trị đã diễn ra các khuynh hướng: cấp ủy đảng lấn sân, bao biện, làm thay công việc của chính quyền; cấp ủy đảng buông lỏng vai trò, trách nhiệm lãnh đạo; hoặc cấp ủy, tổ chức đảng không thể hiện đúng, đầy đủ vai trò, trách nhiệm là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị và lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội. Tổ chức bộ máy của Đảng còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; chức năng, nhiệm vụ ở một số tổ chức còn chồng chéo. Mô hình tổ chức đảng ở một số lĩnh vực chưa thật hợp lý. Việc kiện toàn tổ chức, bộ máy các cơ quan, tổ chức gắn với tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức kết quả còn thấp. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội còn chậm, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có những nội dung còn lúng túng; chưa xác định rõ nội dung và phương thức cầm quyền; chưa thật sự phát huy vai trò của các tổ chức đảng, đảng viên, cấp ủy viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội; ở một số nghị quyết có những nội dung còn thiếu tính khả thi, chưa tính kĩ nguồn lực và điều kiện thực hiện, chậm đi vào cuộc sống. Nhiều cấp ủy đảng chưa thật tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết.

(2) Qua hơn 30 năm đổi mới, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng, đánh dấu giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp xây dựng nhà nước kiểu mới – Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước đã có một bước điều chỉnh theo yêu cầu của quá trình chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của bộ máy nhà nước từng bước được cơ cấu lại, tăng cường vai trò, trách nhiệm của cộng đồng; mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân dần chuyển từ tư duy lãnh đạo, quyền uy – phục tùng sang tư duy Nhà nước phục vụ; phân định rõ nhiệm vụ quản lý, định hướng của Nhà nước với vai trò sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp.

Quan điểm và thể chế về Nhà nước pháp quyền XHCN được bổ sung, hoàn thiện một bước quan trọng. Nhận thức của các cấp, các ngành, của cán bộ, đảng viên và nhân dân về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân có bước phát triển. Nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước được quy định đầy đủ hơn trong Hiến pháp năm 2013. Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của tổ chức bộ máy nhà nước được xác định rõ hơn và có những bước tiến trong hoạt động. Vai trò của pháp luật trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, trong quản lý xã hội ngày càng được đề cao. Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước được xác định rõ hơn và trong tổ chức thực hiện đã có những bước tiến nhất định.

Tuy nhiên, việc vận hành chức năng, nhiệm vụ quản lý của Nhà nước trong hệ thống chính trị vẫn thể hiện những bất cập, chưa chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp. Chưa khắc phục được sự chồng chéo, vướng mắc về chức năng, nhiệm vụ giữa các thiết chế, làm ảnh hưởng tới sự thống nhất quyền lực và hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, nhiều nội dung chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, còn chồng chéo; tính công khai, minh bạch, khả thi, ổn định còn hạn chế. Kỷ cương, kỷ luật trong quản lý nhà nước, thực thi công vụ còn nhiều yếu kém. Cải cách hành chính còn chậm, thiếu đồng bộ, thủ tục hành chính còn phức tạp, phiền hà, những điều này đang là rào cản lớn đối với việc tạo lập môi trường xã hội, môi trường kinh doanh lành mạnh, minh bạch, hiệu quả cho sự phát triển.

(3) Trong những năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân được nâng lên. Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn có tiến bộ. Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Nhiều cấp ủy đảng, chính quyền đã lắng nghe, tăng cường tiếp xúc, đối thoại với nhân dân, tôn trọng các quan điểm khác nhau. Hệ thống chính trị đã coi trọng việc chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người, bảo vệ và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết.

Tuy nhiên, nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế. Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi và nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm. Có lúc, có nơi, việc thực hiện dân chủ còn hạn chế hoặc mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

Từ việc xây dựng và thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ ở Việt Nam những năm qua, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:

Một là, kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc đảm bảo sự tồn tại và vận hành của cơ chế. Bản thân cơ chế vận hành tổng thể của hệ thống chính trị nước ta cũng là một nguyên tắc lớn. Để cơ chế đó vận hành có hiệu quả, việc trước tiên và cũng là việc xuyên suốt cần quán triệt là phải kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc gồm: khẳng định rõ vai trò lãnh đạo, vai trò cầm quyền của Đảng, kiên định và xác lập nội dung, phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật; nhân dân là chủ và nhân dân làm chủ thông qua các cơ chế, quy chế, quy định của pháp luật.

Hai là, phân định rõ vai trò, quyền, trách nhiệm của các chủ thể trong hệ thống chính trị. Các chủ thể trong cơ chế tổng thể có vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm khác nhau. Để khắc phục tình trạng lấn sân, bao biện, làm thay, đồng thời khắc phục tình trạng buông lỏng lãnh đạo, quản lý, hoặc lộng quyền, lạm quyền, dân chủ quá trớn khi thể hiện vai trò, trách nhiệm và các quyền làm chủ của mình, điều kiện tiên quyết là phải phân định rõ vai trò, quyền và trách nhiệm của mỗi chủ thể trong hệ thống chính trị và đối với cả người dân.

Ba là, hoàn thiện các quy chế, quy định của Đảng, hệ thống pháp luật và các thiết chế phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm các quy chế, quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước, các quy chế, điều lệ của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội không chồng chéo, mâu thuẫn nhau. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền và Đảng cầm quyền bằng pháp luật, nhân dân làm chủ trên cơ sở pháp luật thì việc xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật và quy chế, quy định điều chỉnh hoạt động của Đảng có vai trò quyết định hiệu lực, hiệu quả vận hành cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ.

Bốn là, kiện toàn tổ chức bộ máy theo hướng đồng bộ, thống nhất. Cơ chế không chỉ là những quy chế, quy định tạo hành lang cho hoạt động của tổ chức mà còn bằng chính bản thân tổ chức, bằng kết cấu, thiết kế tổ chức. Thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ không có nghĩa là thực hiện sự hoạt động độc lập tuyệt đối, mỗi chủ thể có một hệ thống tổ chức bộ máy hoạt động riêng biệt, mà các chủ thể có thể thống nhất với nhau về mặt tổ chức, bộ máy, nhân lực lãnh đạo ở một cấp, một bộ phận nhất định. Vì vậy, khi xây dựng và vận hành cơ chế, cần chú ý kiện toàn tổ chức bộ máy, không hành chính hóa các cơ quan đảng, đoàn thể, đồng thời cũng không “đảng hóa” cơ quan nhà nước và không để người dân phải đóng thuế nuôi tổ chức bộ máy đảng, nhà nước quá cồng kềnh.

Năm là, lấy dân làm gốc, dựa vào dân để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Lấy lợi ích của nhân dân làm cơ sở, động lực hoạt động, vận hành của cơ chế. Cơ sở nền tảng của cơ chế vận hành tổng thể của hệ thống chính trị chính là bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Đó cũng chính là thước đo mức độ đúng đắn, sát hợp của mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Xa rời mục tiêu và cơ sở nền tảng đó, bản chất của Đảng, Nhà nước và tính khoa học, cách mạng trong cơ chế vận hành của hệ thống chính trị sẽ phai nhạt, mất giá trị đích thực.

4. Giải pháp thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”

Để thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” ở Việt Nam trong tình hình mới, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó có những giải pháp chủ yếu sau đây:

(1) Nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ ”

Để góp phần làm rõ cơ sở khoa học của cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, trả lời cho câu hỏi đây là một khẩu hiệu chính trị hay là một cơ chế vận hành tổng thể thực sự của hệ thống chính trị Việt Nam, chúng ta cần xem xét tính biện chứng, tính chặt chẽ, thống nhất giữa các chủ thể của mối quan hệ này.

Với vai trò, trách nhiệm của Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng lãnh đạo để định hướng, dẫn dắt sự nghiệp cách mạng, xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng XHCN, hướng tới xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đảng lãnh đạo để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, Nhà nước quản lý xã hội có hiệu lực, hiệu quả bằng pháp luật. Đảng lãnh đạo để phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, khai thác và phát huy có hiệu quả các nguồn lực, tiềm năng, thế mạnh của đất nước, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Đảng lãnh đạo để đảm bảo đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân, đảm bảo tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân được phát huy quyền làm chủ thực sự của mình.

Nhà nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nước thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng thành các chính sách, pháp luật, các chương trình, kế hoạch hoạt động và quản lý xã hội theo Hiến pháp và pháp luật. Thực hiện quản lý nhà nước nhằm khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Sự quản lý của Nhà nước không trái với các chủ trương, đường lối, nghị quyết, quy định của Đảng; đồng thời cũng không hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Sự quản lý của Nhà nước một mặt nhằm tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối, quan điểm chính trị của Đảng; mặt khác đảm bảo dân chủ, công bằng, công khai, minh bạch mọi hoạt động trong đời sống xã hội.

Ở Việt Nam, Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý cũng đều nhằm mục tiêu thực thi quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân làm chủ vừa là một thành tố không thể tách rời trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, vừa là mục tiêu cao nhất khi triển khai cơ chế đó trong thực tiễn.

Sợi dây xuyên suốt, chất keo “kết dính”, yếu tố bảo đảm duy trì một cách tự nhiên sự vận hành và mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân trong cơ chế vận hành tổng thể của hệ thống chính trị Việt Nam chính là: ở sự thống nhất trong mục tiêu, lý tưởng của Đảng, mục tiêu lãnh đạo, quản lý của Nhà nước; ở bản chất của Đảng và Nhà nước; ở đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong bộ máy của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội; ở mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.

(2) Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, hoàn thiện các quy chế, quy định về tổ chức, hoạt động của Đảng

Một là, nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp; không dao động trong bất cứ tình huống nào. Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng. Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả. Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với quy luật khách quan và đặc điểm của Việt Nam, tạo bước đột phá để phát triển.

Hai là, tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng. Gắn đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm cao trong công việc, có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ, vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng.

Ba là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Tiếp tục ban hành và thực hiện các quy định, quy chế, cơ chế mới trong công tác cán bộ bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và chặt chẽ giữa các khâu, liên thông giữa các cấp. Đổi mới bầu cử trong Đảng, phương thức tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ để lựa chọn những người có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm giữ các vị trí lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ.

Bốn là, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân. Giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc, kiến nghị chính đáng của nhân dân và khiếu nại, tố cáo của công dân. Kịp thời thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật phù hợp với thực tiễn và đáp ứng lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân.

Năm là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, đặc biệt là với Nhà nước. Tiếp tục cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) ở tất cả các cấp bằng những quy chế, quy định, quy trình cụ thể. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng việc xây dựng, ban hành nghị quyết của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết, dứt điểm việc cụ thể hóa, thể chế hóa, tổ chức thực hiện nghị quyết; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, đổi mới cách thức quán triệt, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng, bảo đảm tính hiệu quả. Đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng.

(3) Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước

Trong những năm tới phải đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền XHCN. Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước. Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội. Cần xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất; xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền.

Hoàn thiện tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Bộ máy nhà nước cần phải được tổ chức gọn nhẹ, rõ ràng về chức năng, cụ thể về quyền hạn và trách nhiệm; tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương phải tạo điều kiện để người dân dễ tiếp cận, dễ đối thoại, dễ kiểm tra, giám sát; huy động được tối đa trí tuệ, sáng kiến và sự đóng góp của người dân vào công tác quản lý nhà nước và xã hội.

(4) Hoàn thiện cơ chế dân chủ, nâng cao năng lực làm chủ của nhân dân

Tài liệu tham khảo

Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

 

* PGS.TS., Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Email: viethaodcs@gmail.com

 

Nguồn: Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội số 5/2020

 

Luận Văn Vai Trò Và Nhiệm Vụ Của Kiểm Toán Nhà Nước Tại Việt Nam

Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và từng bước tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường thường nảy sinh những tiêu cực, lạm dụng chức vụ để mưu cầu và thu lợi cá nhân, tệ tham nhũng đã trở thành ” quốc nạn “. gây những tổn thất to lớn về tài sản, nguồn vốn, nguồn lực tài chính quốc gia, giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Để khắc phục tồn tại trên, Nhà nước cần sử dụng tổng hợp các công cụ kiểm tra, kiểm soát, trong đó kiểm tra tài chính được xem như là một công cụ mạnh và hữu hiệu để hạn chế những mặt tiêu cực, tham nhũng, chi tiêu lãng phí ngân sách Nhà nước và công quỹ quốc gia. Do đó, kiểm toán nhà nước ra đời để giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện chức năng kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của các tài và số liệu kế toán của cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế nhà nước và các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội sử dụng kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp. Sau mười năm thành lập, kiểm toán nhà nước đã đạt được những thành tựu bước đầu rất đáng kể khẳng định được vai trò quan trọng của mình. Tuy vậy trong quá trình hoạt động kiểm toán nhà nước Việt Nam vẫn còn không ít những khó khăn và bất cập cần sớm có phương hướng giải quyết. Xuất phát từ tính cấp thiết vấn đề trên nên em đã chọn đề tài: “Vai trò và nhiệm vụ của kiểm toán nhà nước ở Việt Nam”.

TÀI LIỆU LUẬN VĂN CÙNG DANH MỤC

TIN KHUYẾN MÃI

Thư viện tài liệu Phong Phú

Hỗ trợ download nhiều Website

Nạp thẻ & Download nhanh

Hỗ trợ nạp thẻ qua Momo & Zalo Pay

Nhận nhiều khuyến mãi

Khi đăng ký & nạp thẻ ngay Hôm Nay

NẠP THẺ NGAY

DANH MỤC TÀI LIỆU LUẬN VĂN

Vai Trò Của Dư Luận Xã Hội Trong Phòng, Chống Tham Nhũng Ở Việt Nam Hiện Nay

Ngày đăng: 24/01/2016 02:33

Ngay từ Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994), Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ, tham nhũng là một trong bốn nguy cơ đối với vai trò lãnh đạo của Đảng, sự tồn vong của chế độ, sự ổn định chính trị – xã hội và sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta.Đại hội XI của Đảng (1-2011) chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp”(1). Bởi vậy cần phải tích cực “phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí”(2).

Thể hiện quyết tâm đấu tranh phòng, chống tham nhũng, trong từng kỳ đại hội, Đảng ta đã đề ra những chủ trương và giải pháp cơ bản, cấp bách, có tính chiến lược về phòng, chống tham nhũng và đã được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật của Nhà nước. Trong đó, vấn đề tăng cường vai trò giám sát của xã hội đối với hoạt động của bộ máy nhà nước và những người có chức quyền trong bộ máy đó, kịp thời phát hiện và chỉ ra những lỗ hổng trong cơ chế, chính sách, pháp luật đang là một đòi hỏi cấp thiết.

Một trong những yếu tố góp phần quan trọng vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng chính là dư luận xã hội (DLXH). Nghiên cứu, nắm bắt DLXH là một trong những giải pháp hữu hiệu phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Nhận thức rõ điều đó, ngay từ những năm đầu đổi mới, Đảng ta đã có những chỉ đạo nhằm tăng cường công tác điều tra xã hội học, nắm bắt DLXH. Hội nghị Trung ương 3 khóa VII đã nêu rõ nhiệm vụ đối với công tác tư tưởng là Nâng cao chất lượng thông tin nội bộ và công tác tuyên truyền, coi trọng biện pháp điều tra DLXH. Hội nghị Trung ương 8 khóa VII tiếp tục yêu cầu: Tổ chức điều tra DLXH về những vấn đề cần thiết cho công tác lãnh đạo, quản lý nhà nước. Xây dựng Luật về trưng cầu dân ý. Gần đây nhất, Nghị quyết Trung ương 5 khoá X về “Công tác tư tưởng, lý luận và báo chí” tiếp tục nhấn mạnh một trong những nhiệm vụ và giải pháp của công tác tư tưởng là: “Chú trọng công tác nghiên cứu, điều tra xã hội học, nắm bắt DLXH phục vụ công tác tư tưởng”(3).

Như vậy, có thể thấy, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định việc nghiên cứu, nắm bắt DLXH là một trong những biện pháp hữu hiệu phục vụ cho nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước nói chung và công tác phòng, chống tham nhũng nói riêng. Vai trò của DLXH với việc phòng, chống tham nhũng thể hiện trên các mặt sau:

Động viên tinh thần đấu tranh ngăn ngừa, phòng, chống tham nhũng

Trên thực tế, từ sự bức xúc của DLXH, có thể hình thành các quan niệm và phong trào xã hội kiên quyết chống tham nhũng, tiêu cực, tạo động lực, áp lực để các cơ quan có thẩm quyền vào cuộc nhanh hơn, quyết liệt hơn trong xem xét, xác minh, xử lýhành vi tham nhũng. Mặt khác, DLXH còn có khả năng răn đe, cảnh báo, gây áp lực với chính các đối tượng có hành vi tham nhũng.

Trực tiếp cung cấp thông tin giúp phát hiện, đấu tranh phòng, chống tham nhũng

Theo kết quả điều tra nghiên cứu về tham nhũng ở Việt Nam của Ban Nội chính Trung ương, DLXH là nguồn chủ yếu để người dân, cán bộ công chức, cán bộ doanh nghiệp biết thông tin về tham nhũng (59,8% người dân; 72,05% cán bộ doanh nghiệp và 74,3% cán bộ công chức nhận biết qua kênh này)(4). Báo cáo của Thanh tra Chính phủ trước Quốc hội ngày 22-10-2013 về công tác phòng, chống tham nhũng cũng nêu rõ, việc tự kiểm tra, phát hiện tham nhũng của một số cơ quan, tổ chức, đơn vị còn yếu;việc phát hiện tham nhũng chủ yếu chỉ qua DLXH,báo chí phản ánh hoặc khi cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra, thanh tra, kiểm toán mới phát hiện sai phạm.

Giám sát, đánh giá hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng

DLXH không chỉ là một trong những kênh thông tin quan trọng mà còn là công cụ hữu hiệu góp phầnđánh giá, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động phòng, chống tham nhũng.

Thực tế thời gian qua cho thấy, chính DLXHvà báo chílà lực lượng giám sát khách quan, hiệu quả, bảo đảm việc thực thi các biện pháp phòng, chống tham nhũng của cơ quan, tổ chức, cá nhân được vận hành công khai, minh bạch, có kết quả rõ ràng.

Phản biện, góp phần xây dựng, hoàn thiện thể chế về phòng, chống tham nhũng

Thông qua việc cung cấp thông tin trên các phương tiện truyền thông, DLXH cũng đã góp phần thúc đẩy hoàn thiện cơ chế quản lý và các chế tài xử phạt, chấn chỉnh sai phạm, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về phòng, chống tham nhũng.

Đồng thời, thông qua các phương tiện truyền thông,nhân dân có thể tham gia nhận xét, thẩm định, đánh giá, góp ý cho các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần hoàn thiện thể chế về phòng, chống tham nhũng.

Bên cạnh mặt tích cực do DLXH tạo ra trong phòng, chống tham nhũng, còn tồn tại nhiều vấn đề cần có biện pháp khắc phục.

Một bộ phận cán bộ, công chức nhà nước còn xem nhẹ vai trò của DLXH, nên việc giải quyết, xử lý thông tin còn chậm, bị động, nhiều khi còn mang tính thủ tục, đối phó. Mặt khác, tình trạng nhiều thông tin bị thổi phồng, đồn đoán, xuyên tạc, nhằm mục đích vụ lợi, gây mất đoàn kết nội bộ chưa được ngăn chặn, xử lý triệt để, gây ảnh hưởng không nhỏ tới việc phát huy vai trò của DLXH trong phòng, chống tham nhũng.

Để phát huy vai trò tích cực của DLXH trong đấu tranh ngăn ngừa, chống tham nhũng thì công tác nghiên cứu, nắm bắt DLXH phải được thực hiện có hiệu quả. Hiện nay, công tác này chủ yếu do hệ thống ban tuyên giáo, các cơ quan trong khối tư tưởng, khoa giáo, văn hóa, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên… thực hiện. Đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu, nắm bắt DLXH còn hạn chế về nghiệp vụ; kinh phí; hoạt động còn eo hẹp; trình độ dân trí không đồng đều,… Vì vậy, việc nghiên cứu, sàng lọc, tìm kiếm thông tin tích cực từ DLXH còn gặp nhiều khó khăn, hiệu quả chưa cao.

Để nâng cao vai trò của DLXH trong phòng, chống tham nhũng cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:

Một là, dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội. Mở rộng quyền của người dân tham gia vào công việc của Nhà nước; mọi đại biểu của dân phải được nhân dân bầu ra một cách thực sự dân chủ. Tăng cường vai trò của nhân dân trong việc giám sát, kiểm tra các hoạt động của cơ quan nhà nước, chính quyền các cấp, tham gia xây dựng Đảng và các đoàn thể; nâng cao ý thức chính trị của nhân dân.

Đổi mới các yếu tố cấu thành hệ thống chính trị và mối quan hệ giữa các yếu tố đó để phát huy hơn nữa quyền dân chủ của nhân dân; hoàn chỉnh hình thức dân chủ đại diện, mở rộng hình thức dân chủ trực tiếp.

Hai là, nâng cao vai trò của báo chí và thông tin đại chúng. Quy định rõ và cụ thể hóa Luật Phòng, chống tham nhũng về vai trò và trách nhiệm của báo chí trong công tác phòng, chống tham nhũng. Cần xác định rõ trách nhiệm của cơ quan báo chí trong việc thông tin kịp thời, chính xác về các vụ tham nhũng được thanh tra, điều tra và xét xử; thông tin về kết quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng của các cơ quan chức năng, các ngành, địa phương, cá nhân; cung cấp thông tin ban đầu cho các cơ quan chức năng; điều tra các vụ việc tham nhũng, tiêu cực, để báo chí thực sự “là diễn đàn của nhân dân”.

Ba là, xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật. Cần nghiên cứu DLXH một cách bài bản, khoa học; từ đó xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, tạo cơ sở pháp lý và điều kiện cần thiết để nhân dân tham gia vào hoạt động phòng, chống tham nhũng. Xóa bỏ mọi rào cản, khơi dậy tiềm năng, trí tuệ của nhân dân trong phòng, chống tham nhũng. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế tiếp nhận, xử lý tố cáo về tham nhũng, tránh bỏ lọt thông tin, đồng thời có biện pháp, chế tài xử lý nghiêm minh các hành vi lợi dụng quyền tố cáo để gây ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Tạo điều kiện để cơ quan báo chí thực hiện tốt chức trách nghề nghiệp của mình, bảo đảm quyền được thông tin của người dân trong phòng, chống tham nhũng.

ThS Đinh Thị Hương Giang – Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

(1), (2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.173, 252.

(3) ĐCSVN: Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá X về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới.

Theo lyluanchinhtri.vn

Cập nhật thông tin chi tiết về Vai Trò, Trách Nhiệm Của Đảng Và Nhà Nước Trong Cơ Chế Thể Chế Hóa Ở Việt Nam Hiện Nay trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!