Yêu Cầu Phi Chức Năng Quản Lý Bán Hàng / Top 11 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 10/2023 # Top Trend | Phauthuatthankinh.edu.vn

Yêu Cầu Chức Năng Hay Phi Chức Năng?

Đã có một câu trả lời tuyệt vời của Aaronaught, nhưng vì đã có những câu trả lời khác, hiện đã bị xóa, hoàn toàn sai về yêu cầu phi chức năng là gì, tôi nghĩ sẽ hữu ích khi thêm một vài lời giải thích để tránh những sai lầm về những gì yêu cầu phi chức năng là.

Yêu cầu phi chức năng là “chất lượng hoặc tài sản mà sản phẩm phải có” . James Taylor nói rằng một yêu cầu phi chức năng “[…] dù sao cũng là một yêu cầu và điều quan trọng đối với khách hàng, đôi khi còn quan trọng hơn cả yêu cầu chức năng” . Sau đó, ông đưa ra hai ví dụ: logo của sản phẩm, độ chính xác và độ tin cậy của thiết bị. Cả hai ví dụ cho thấy rất rõ rằng:

Các yêu cầu phi chức năng không phải là một jibber-jabber tiếp thị như: “Internet ngày nay rất quan trọng và chúng tôi muốn có một trang web”.

Các yêu cầu phi chức năng là hoàn toàn khách quan.

Điểm cuối cùng là cần thiết. Nếu yêu cầu là chủ quan, nó không có gì để làm trong danh sách các yêu cầu. Không thể xây dựng các bài kiểm tra xác nhận từ một cái gì đó chủ quan . Mục đích duy nhất của danh sách các yêu cầu là liệt kê những kỳ vọng không mơ hồ của khách hàng. “Tôi muốn hình vuông này có màu đỏ” là một yêu cầu. “Tôi muốn hình vuông này có màu sắc đẹp” là một điều ước cần có lời giải thích.

Hãy nhớ rằng danh sách các yêu cầu giống như một hợp đồng (và trong hầu hết các trường hợp là một phần của hợp đồng). Nó được ký bởi khách hàng và công ty phát triển, và trong trường hợp kiện tụng, nó sẽ được sử dụng hợp pháp để xác định xem bạn đã thực hiện đúng công việc của mình chưa. Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi đặt hàng cho bạn một sản phẩm phần mềm, xác định rằng “sản phẩm phải tuyệt vời” và từ chối thanh toán khi sản phẩm được hoàn thành, bởi vì đối với tôi, những gì bạn thực sự đã làm không phải là một sản phẩm tuyệt vời ?

Vì vậy, hãy xem một số ví dụ.

1. Sản phẩm phần mềm đáp ứng cho người dùng cuối.

Đây không phải là một yêu cầu. Không phải là một chức năng. Không phải là một chức năng. Nó không phải là một yêu cầu. Ở tất cả. Nó có giá trị bằng không. Bạn không thể kiểm tra xem hệ thống phần mềm có đáp ứng yêu cầu này trong quá trình kiểm tra xác nhận hay không. Không phải bạn – bộ phận QA, cũng không phải khách hàng.

2. Việc tải lại số liệu thống kê người dùng thực hiện 90% thời gian dưới 100 ms. khi được thử nghiệm trên máy với hiệu suất được chỉ định trong phụ lục G phần 2 và tải dưới 10% cho CPU, dưới 50% cho bộ nhớ và không có hoạt động đĩa R / W hoạt động.

Đó là một yêu cầu. Nếu phụ lục G phần 2 đủ chính xác, tôi có thể lấy máy có phần cứng tương tự và thực hiện kiểm tra xác nhận trong bộ phận QA và tôi sẽ luôn nhận được kết quả nhị phân: đã vượt qua hoặc thất bại.

Đây có phải là một yêu cầu chức năng? Không. Nó không chỉ định những gì hệ thống phải làm. Có thể có một yêu cầu chức năng trước đó, xác định rằng ứng dụng phần mềm phải có thể tải lại số liệu thống kê người dùng.

Đây có phải là một yêu cầu phi chức năng? Nó là. Nó chỉ định một thuộc tính mà sản phẩm phải có, tức là thời gian phản hồi tối đa / trung bình, được đưa ra ngưỡng phần trăm.

4. Cơ sở mã C # của sản phẩm tuân theo Quy tắc khuyến nghị tối thiểu của Microsoft và Quy tắc toàn cầu hóa của Microsoft.

Đây là một điều kỳ lạ. Cá nhân, tôi không muốn gọi nó là một yêu cầu, và đưa nó vào một tài liệu riêng quy định các tiêu chuẩn và thực tiễn tốt nhất.

5. Cửa sổ chính của ứng dụng có viền 10px màu xanh lam (# 00f) với các vòng tròn được tô màu hồng (#fcc), các vòng tròn đó được đặt ở cạnh trong của đường viền và có đường kính 3px, cách nhau 20px.

Đây là một yêu cầu, và không có chức năng. Nó chỉ định một cái gì đó chúng tôi có thể kiểm tra trong quá trình kiểm tra xác thực và nó chỉ định một thuộc tính của sản phẩm, chứ không phải những gì sản phẩm dự định làm.

6. Hệ thống theo dõi xe đo tốc độ với độ chính xác ± 0,016 dặm / giờ.

Cũng là một yêu cầu phi chức năng. Nó đưa ra một ngưỡng có thể đo lường được về độ chính xác của hệ thống. Nó không cho biết hệ thống phải làm gì, nhưng cho biết chính xác thì nó hoạt động như thế nào. Nhưng còn chờ gì nữa? Nó nói rằng hệ thống theo dõi xe đo tốc độ, phải không? Vì vậy, đó là một yêu cầu chức năng quá? Chà, không, vì chúng tôi nhấn mạnh vào độ chính xác của phép đo, chứ không phải trên thực tế là phép đo được thực hiện.

7. Hệ thống theo dõi xe đo tốc độ của xe.

Bây giờ nó là một yêu cầu chức năng. Nó không cho biết hệ thống hoạt động như thế nào, nhưng nó đang làm gì. Thông qua các yêu cầu chức năng, chúng ta có thể biết rằng hệ thống theo dõi xe đo tốc độ, năng lượng pin, áp suất của tôi không biết đèn nào sáng và có bật hay không.

8. Các trang của trang web mất 850 ms. để tải.

Đây không phải là một yêu cầu. Là cố gắng là một, nhưng hoàn toàn không hợp lệ. Làm thế nào bạn có tài sản này? Những trang nào? Tất cả các? Đã thử nghiệm qua mạng 1Gbps cục bộ trên máy khách lõi tứ và máy chủ tám lõi với SSD được sử dụng ở mức 2% hoặc qua modem của máy tính xách tay cũ và xảo quyệt trong khi trang web được lưu trữ bởi một máy chủ nhỏ được sử dụng ở mức 99% ? “Tải” nghĩa là gì? Có nghĩa là tải xuống trang? Tải về và hiển thị nó? Gửi yêu cầu POST với một số dữ liệu lớn, sau đó tải phản hồi và hiển thị nó?

Để kết luận, một yêu cầu phi chức năng luôn là một yêu cầu, có nghĩa là nó mô tả một cái gì đó là hoàn toàn khách quan và có thể được kiểm tra thông qua một bài kiểm tra xác nhận tự động hoặc bằng tay, nhưng thay vì nói những gì hệ thống đang làm, nó giải thích cách hệ thống đang làm một cái gì đó hoặc làm thế nào hệ thống là chính nó .

Quản lý các dự án công nghệ thông tin: Áp dụng các chiến lược quản lý dự án cho các sáng kiến ​​tích hợp phần cứng, phần cứng và tích hợp, James Taylor, ISBN: 0814408117.

Yêu Cầu Chức Năng Và Phi Chức Năng

Trong lĩnh vực phần mềm khái niệm “yêu cầu” là một trong những điều thường xuyên được nhắc đến. Trong đó, yêu cầu chức năng (functional) và yêu cầu phi chức năng (non-functional) là một trong những điều quan trọng nhất.

Khái niệm yêu cầu chức năng và yêu cầu phi chức năng đã có từ rất lâu. Tuy nhiên, nếu không hiểu rõ sẽ rất dễ dàng nhầm lẫn.

Nếu có một điều mà bất kì một phần mềm hoặc dự án nào cũng phải có nếu không muốn thất bại. Đó không thể là gì khác ngoài yêu cầu chức năng và yêu cầu phi chức năng.

Để đạt được sự thành công của phần mềm, hay dự án, đòi hỏi cả người dùng lẫn người lập trình đều phải hiểu được nó. Đây chính là lúc cần đến các yêu cầu để đảm bảo sự cần bằng từ hai bên.

1. Định nghĩa yêu cầu chức năng và yêu cầu phi chức năng

Tuy nhiên, điều gì thực sự khác nhau giữa yêu cầu chức năng và yêu cầu phi chức năng? Điều đó không có gì phức tạp, khi mà bạn hiểu được sự khác nhau thì mọi thứ sẽ trở nên rõ ràng.

1.1 Yêu cầu chức năng ( functional ) là gì?

Yêu cầu chức năng được định nghĩa là sự mô tả của chức năng hoặc dịch vụ của phần mềm hay hệ thống.

Thông thường, yêu cầu chức năng sẽ chỉ ra một hành vi hoặc một chức năng. Ví dụ phần mềm hay hệ thống phải có chức năng:

Hiển thị tên, kích thước, khoảng trống có sẵn và định dạng của một ổ đĩa flash được kết nối với cổng USB. Chức năng thêm khách hàng hay in hóa đơn.

Ví dụ: Yêu cầu chức năng của hộp sữa carton là có thể tích 400ml

Một vài yêu cầu chức năng phổ biến như là:

Nguyên tắc kinh doanh

Các giao dịch đúng, những sự điều chỉnh và hủy bỏ

Chức năng hành chính

Xác thực

Phần quyền

Theo dõi kiểm toán

Giao diện bên ngoài

Yêu cầu chứng chỉ

Yêu cầu báo cáo

Lịch sử dữ liệu

Yêu cầu pháp lí và quy định

1.2 Yêu cầu phi chức năng (Non-Functional) là gì?

Vậy còn Yêu cầu phi chức năng? Chúng là gì? Và chúng khác gì? Có thể nói một cách đơn giản rằng yêu cầu phi chức năng chỉ ra những quy định về tính chất và ràng buộc cho phần mềm hay hệ thống.

Yêu cầu phi chức năng bao gồm tất cả những yêu cầu mà yêu cầu chức năng không có. Chúng chỉ ra những tiêu chí để đánh giá hoạt động của hệ thống thay vì hành vi. Ví dụ:

Thay đổi dữ liệu trong cơ sở dữ liệu nên được cập nhật cho tất cả người dùng sử dụng hệ thống trong 2 giây.

Ví dụ: Yêu cầu phi chức năng của nón bảo hộ là chịu được sức ép 10,000PSI

Một vài yêu cầu phi chức năng phổ biến như:

Hiệu suất ví dụ như thời gian phản hồi, thông lượng, dùng trong việc gì, thể tích tĩnh

Khả năng mở rộng

Sức chứa

Độ khả dụng

Độ tin cậy

Khả năng phục hồi

Khả năng bảo trì

Dịch vụ có sẵn

An ninh

Quy định

Khả năng quản lí

Môi trường

Toàn vẹn dữ liệu

Khả năng sử dụng

Khả năng tương tác

Như đã nói ở trên, yêu cầu phi chức năng chỉ ra những đặc tính chất lượng hay các thuộc tính chất lượng.

Tầm quan trọng của yêu cầu phi chức năng là không thể xem thường. Có một cách chắc chắn để đảm bảo các yêu cầu phi chức năng không bị bỏ sót đó là sử dụng các nhóm yêu cầu phi chức năng.

2. Sự khác nhau giữa yêu cầu chức năng và yêu cầu phi chức năng

Như vậy, có thể thấy sự khác nhau rất rõ ràng giữa yêu cầu chức năng và yêu cầu phi chức năng. Trong đó:

Yêu cầu chức năng: mô tả chức năng hoặc dịch vụ của phần mềm hay hệ thống

Yêu cầu phi chức năng: mô tả những ràng buộc và tính chất của phần mềm hay hệ thống

Vì vậy, trong thực tế yêu cầu phi chức năng sẽ được đánh giá là có phần quan trọng hơn. Nếu không thỏa mãn được các yêu cầu này thì phần mềm hoặc hệ thống sẽ không thể đưa vào sử dụng.

Hiện nay, các khái niệm về yêu cầu đôi lúc gặp phải những khó khăn nhất định về rào cản ngôn ngữ. Tuy nhiên, để có thể đáp ứng chính xác nhu cầu phần mềm hay hệ thống đòi hỏi những yêu cầu phải thực sự rõ ràng.

Bài viết có sử dụng những phần dịch tiếng Việt để giúp bạn đọc có được cái nhìn trực quan nhất. Mong rằng những kiến thức trên sẽ hữu ích với các bạn, nếu có bất kì câu hỏi nào hãy để lại bên dưới bài viết này.

CÁC KHOÁ HỌC BUSINESS ANALYST chúng tôi DÀNH CHO BẠN

Khoá học Online:

Khoá học Offline:

Tại Tp.HCM:

Tại Hà Nội:

Tham khảo lịch khai giảng TẤT CẢ các khóa học mới nhất.

– Biên tập nội dung BAC –

Chức Năng Của Phần Mềm Quản Lý Bán Hàng

Hiện nay, công nghệ thông tin ngày cành cho ra các sản phẩm mới, kéo theo đó là sự tich hợp công nghệ thông tin vào các ngành nghề khác. Như trong kinh doanh, bán hàng, các doanh nghiệp, cửa tiệm muốn bán hàng thì phải trang bị một phần mềm quả lý bán hàng. Phần Mềm Quản Lý Bán Hàng cung cấp đẩy đủ các tiện ích nhằm hỗ trợ người dùng quản lý tốt nhất công việc kinh doanh của mình. Những tiện ích nổi bật mà duy nhất chúng tôi cung cấp như là: mở rộng thị trường ra mạng internet, xây dựng website đính kèm, cung cấp các công cụ tìm kiếm khách hàng và xây dựng thương hiệu. Ngoài ra bạn có thể sử dụng sản phẩm của chúng tôi, mọi lúc mọi nơi thông qua mạng internet và các thiết bị di động… Một phần mềm online quản lý bán hàng sẽ giúp người quản lý rất nhiều trong việc kinh doanh buôn bán của mình.

1 tối ưu thời gian, nhân công và chi phí.

Dễ tháy nhất là tiết kiệm thời gian. Việc sử dụng một phần mềm quản lý bán hàng giúp giảm thời gian cho một giải pháp kinh doanh nhất định. Phần mềm này giúp các nhân xử lý các thông tin một cách nhanh chóng nhằm nhằm tiêt skieemj thời gian cho việc quản lý mặt hàng. Khi rút ngắn được khoản thời gian thì người quản lý có thể có nhiều thời gian để phục vụ, chăm sóc kkhacshhangf cũng như làm các việc khác đem lại lợi nhuận cho quán.

Bên cạnh đó phần mềm sẽ giúp người chủ tiết kiệm được một khoảng chi phí. Với cách quản lý thông thường thì người chủ phải thuê thêm nhiều nhân công để kimeer tả – quản lý mặt hàng. Chính vì thuê nhiều nhân công nên chi phí cho quán tăng lên. Nhưng bằng việc sử dụng phần mềm online quản lý bán hàng bạn có thể kiểm tra một cách nhanh chóng bằng các thao tác đơn giản với chiếc máy tính, hạn chế được việc thuê nhiều nhân công sẽ giúp bạn tiết kiệm rât nhiều chi phí.

2 phù họp vơi mọi người.

Niếu bạn là một người đang hay có ý định kinh doanh một mạt hàng gì đó, thì việc sử dụng một phần mềm quản lý bán hàng là rất phù hợp với xá hội hiện tại. Hiện nay thì các phần mềm bán hàng đang được tối ưu hóa nhằm tạo một môi trường, giao diện dễ dàng cho người quản lý dễ tiếp cận nhất có thể. Một lợi thế quan trọng của một phần mềm quản lý hoạt động bán hàng là nó có thể thay đổi để đáp ứng nhu cầu của một doanh nghiệp cụ thể. Việc sử dụng phần mềm này tương đối đơn giản và bạn có thể dễ dàng lên chương trình cho nó để đáp ứng nhu cầu cụ thể của doanh nghiệp.

3 Xử lý dữ liệu nhanh chóng, chính xác.

Là một phần mềm áp dụng sự phát triển của công nghệ thông tin cho nên việc xử lý một loạt số liệu với dữ liệu lớn là điều vô cùng dễ dàng. Việc thống kê số liệu giờ đay không còn là nỗi ám ảnh của người quản lý, bỡi với vài bước cơ bản là bạn có thể quản lý được số liệu mặt hàng của mình .Không những thế, khi bạn sử dụng một phần mềm quản lý bán hàng tốt thì việc mà bạn phải thường xuyên thông kế các loại sản phẩm bán ra hay các mặt hàng tồn đọng trong kho,… giờ đay máy tính sẽ thay thế bạn làm các việc đó một cách nhanh nhất, chính xác nhất.

Qua đó, có thể thấy được sự quan trọng mà một chương trình quản lý bán hàng mang lại, nó tạo nhiều hiệu quả tích cực cho công việc của bạn. Bạn có thể truy cập chúng tôi để được tư vấn về sản phẩm tốt nhất

Quản Lý Tổ Chức Tín Dụng Phi Ngân Hàng

Hệ thống tổ chức tín dụng phi ngân hàng (TCTD PNH) là một cấu phần quan trọng không thể thiếu trong hệ thống tổ chức tài chính nói chung, hệ thống các tổ chức tín dụng nói riêng. Các TCTD PNH đã góp phần đa dạng hóa các loại hình và dịch vụ tài chính cho khách hàng, cung cấp dịch vụ cho những đối tượng không thể, hoặc khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng, đồng thời cũng giảm thiểu gánh nặng cung ứng vốn cho nền kinh tế của các ngân hàng thương mại. Đặc biệt, vai trò của các TCTD PNH ngày càng được khẳng định kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu các năm 2008-2009, khi hệ thống ngân hàng trở nên thận trọng hơn rất nhiều trong việc cấp tín dụng.

 Để tạo điều kiện cho các tổ chức này phát triển lành mạnh, các quốc gia trên thế giới có nhiều chính sách quản lý đa dạng đối với các TCTD PNH. Bài viết này khái quát khung lý thuyết về quản lý các TCTD PNH của Ủy ban Ổn định Tài chính (FSB) và kinh nghiệm quản lý từ một số quốc gia trên thế giới, qua đó rút ra một số bài học làm gợi ý chính sách cho Việt Nam, trong việc quản lý các TCTD PNH để các tổ chức này có thể hoạt động hiệu quả hơn, phát triển bền vững và đóng góp cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước. 

 

1. Rủi ro của TCTD PNH đối với an toàn hệ thống và tính cấp thiết phải có một khung khổ quản lý hợp lý đối với tổ chức này  

Rủi ro phát sinh từ các TCTD PNH có thể gây ảnh hưởng đến an toàn hệ thống tài chính qua các kênh sau:  

– TCTD PNH được phép nhận tiền gửi và cung cấp tín dụng nhưng không phải tuân thủ các quy định an toàn của ngân hàng, dẫn đến các rủi ro đối với hệ thống. Thứ nhất, các tổ chức này rất dễ bị tổn thương khi khách hàng yêu cầu được thanh toán trước khi đến hạn rút tiền hoặc rút tiền trong một khoảng thời gian ngắn. Điều này không chỉ dẫn tới rủi ro thanh khoản cho TCTD PNH mà còn đe dọa đến an toàn hệ thống trong trường hợp người gửi tiền mất niềm tin và rút tiền ồ ạt trong cả hệ thống tài chính. Thứ hai, do các TCTD PNH không phải tuân thủ các quy định an toàn chặt chẽ như của ngân hàng, các tổ chức này có thể phối hợp với các NHTM để “lách luật”, phá vỡ các quy định. Ví dụ, ngân hàng có thể cho vay các công ty tài chính và công ty tài chính lại cho vay khách hàng mà ngân hàng không được phép cho vay trực tiếp theo các quy định về an toàn của ngành. Trên thực tế, lịch sử đã ghi nhận trường hợp các công ty tài chính nhận tiền gửi ở New Zealand đã tăng trưởng nhanh chóng và sau đó sụp đổ, tạo ra rủi ro hệ thống nghiêm trọng, vào các năm 2007-2011.  

– Các TCTD PNH cung cấp tín dụng chủ yếu dựa trên nguồn vốn là các khoản vay ngắn hạn từ các NHTM. Các TCTD PNH với cơ cấu nguồn vốn như vậy rất dễ bị tổn thương, đặc biệt là khi các TCTD PNH phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn này. Rủi ro sẽ càng gia tăng khi TCTD PNH tham gia vào các giao dịch tài chính phức tạp. Khi đó, rủi ro hệ thống thể hiện trên cả 2 phương diện: một là sự đổ vỡ của TCTD PNH, hai là mất vốn của NHTM.    

 

2. Các nguyên tắc giám sát tổ chức tín dụng phi ngân hàng của FSB  

FSB đã khuyến nghị các nguyên tắc chung đối với hoạt động giám sát các TCTD PNH như sau:  

– Nguyên tắc 1: Cơ quan quản lý xác định, cập nhật phạm vi giám sát, quản lý.  

Dựa trên mức độ rủi ro ảnh hưởng lên hệ thống tài chính mà cơ quan quản lý TCTD PNH vào khung khổ giám sát và quản lý của mình. Không phải TCTD PNH nào cũng cần được giám sát chặt chẽ như nhau. Việc quyết định mức độ giám sát đối với một TCTD PNH thường dựa trên một số tiêu chí nhất định, như: TCTD PNH có nhận tiền gửi hay không, quy mô tài sản như thế nào…  

– Nguyên tắc 2: Cơ quan quản lý thu thập thông tin cần thiết để đánh giá mức độ rủi ro của TCTD PNH

Khi một tổ chức được xác định là có khả năng gây ra rủi ro cho hệ thống tài chính, cơ quan quản lý phải thu thập thông tin để đánh giá mức độ chuyển đổi thanh khoản, kỳ đáo hạn và mức độ sử dụng đòn bẩy của các tổ chức, qua đó cơ quan quản lý quyết định các biện pháp khắc phục thích hợp. Các cơ quan quản lý phải đưa ra quy trình và nguồn lực để thu thập và phân tích các thông tin trên. Cơ quan quản lý của các quốc gia nên trao đổi những thông tin phù hợp và cần thiết với nhau một cách thường xuyên để có thể đánh giá toàn diện rủi ro của các TCTD PNH.  

– Nguyên tắc 3: Cơ quan quản lý đẩy mạnh việc công bố thông tin của các TCTD PNH khi cần thiết, để giúp những người tham gia thị trường hiểu được mức độ rủi ro của những tổ chức này.  

Tăng cường công bố và minh bạch thông tin (ví dụ như mức độ rủi ro tổng thể của tổ chức, sự liên kết của các tổ chức với nhau, mức độ tập trung vốn, hồ sơ tổng hợp về kỳ đáo hạn của các khoản mục tài sản và các khoản nợ), sẽ giúp các thành viên tham gia thị trường giám sát các tổ chức này, nắm bắt thông tin kịp thời và ra quyết định dựa trên thông tin sẵn có, do đó tránh được việc thị trường đánh mất niềm tin một cách đột ngột, dẫn đến các nhà đầu tư rút vốn khỏi thị trường.  

– Nguyên tắc 4: Cơ quan quản lý cần đánh giá thường xuyên TCTD PNH để thực thi các biện pháp quản lý cần thiết, bao gồm: đánh giá thường xuyên về mức độ tham gia của các TCTD PNH vào hoạt động trung gian tín dụng, việc thực hiện các quy định pháp luật và các hành vi trái pháp luật; áp dụng các công cụ từ bộ công cụ chính sách của FSB (nếu cần thiết) để giảm thiểu rủi ro bất ổn định tài chính; chia sẻ thông tin với các cơ quan quản lý khác, cũng như chia sẻ thông tin trên phương diện quốc tế để có sự nhất quán về công tác quản lý. 

 

3. Bộ công cụ chính sách cụ thể đối với tổ chức tín dụng phi ngân hàng  

Từ các nguyên tắc giám sát chung đối với các TCTD PNH, FSB đã cụ thể hóa các bộ công cụ chính sách để quản lý nhóm tổ chức này:  

Công cụ 1: Thực hiện cơ chế quản lý an toàn như của ngân hàng đối với các tổ chức cho vay phi ngân hàng được phép nhận tiền gửi.  

Công cụ 2: Các yêu cầu về vốn  

Cơ quan quản lý nên yêu cầu các tổ chức nắm giữ lượng vốn tối thiểu đủ bảo đảm bù đắp cho những khoản thiệt hại tiềm tàng tương ứng với mức rủi ro của tổ chức đó. Nguồn vốn này nên được duy trì dài hạn.  Yêu cầu về vốn nên được quy định và hiệu chuẩn để có tính nghịch chu kỳ. Cuối cùng, dù các quy định về vốn như thế nào, điều quan trọng nhất là mức vốn đó phải có đủ khả năng hấp thụ những khoản lỗ tiềm năng.  

Công cụ 3: Đệm thanh khoản  

Kích cỡ của đệm thanh khoản và loại hình của các tài sản thanh khoản phải được xác định và hiệu chuẩn sao cho phù hợp với đặc điểm của TCTD PNH, có thể khác với yêu cầu dành cho các ngân hàng, đặc biệt là đối với các tổ chức không nhận tiền gửi.  

Công cụ 4: Giới hạn về đòn bẩy  

Cơ quan quản lý nên đặt ra giới hạn phù hợp cho tỷ lệ đòn bẩy. Điều này sẽ giúp giảm bớt tính thuận chu kỳ trong các tổ chức tài chính (giảm bớt quy mô tổn thất khi các cú sốc tài chính xảy ra).  

Công cụ 5: Các giới hạn về những rủi ro lớn  

Các rủi ro phát sinh từ sự chuyển đổi thanh khoản, kỳ đáo hạn, cũng như tỷ lệ đòn bẩy có thể bị khuếch đại khi một tổ chức có tài sản tập trung đáng kể tại các đối tác cụ thể. Trong trường hợp đó, cơ quan quản lý có thể áp đặt giới hạn đối với sự tập trung tài sản. Những giới hạn này cũng cần hiệu chỉnh cho phù hợp với mô hình kinh doanh đặc trưng của tổ chức, hay đặc thù hoạt động của tổ chức, để tránh ảnh hưởng đến các tổ chức cho vay nhỏ và hoạt động chuyên biệt trong các thị trường tập trung.  

– Công cụ 6: Hạn chế về nguồn vốn  

Các giới hạn đối với hoạt động vay nợ, huy động vốn của TCTD PNH, ví dụ như mức giới hạn trực tiếp đối với các loại nợ có thể gây ra rủi ro rút vốn, hay các loại nợ đặc biệt chẳng hạn như giấy tờ thương mại được đảm bảo bằng tài sản (ABCP) trong trường hợp các tổ chức tài chính không có quy trình quản trị rủi ro phù hợp.

 

4. Kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc quản lý tổ chức tín dụng phi ngân hàng  

Qua nghiên cứu kinh nghiệm quản lý TCTD PNH của các nước Trung Quốc, Ấn Độ, Anh, Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Singapore, cho thấy một số xu hướng trong việc quản lý các tổ chức này như sau:  

– Cơ quan quản lý và khuôn khổ pháp luật:  

Nhìn chung TCTD PNH ở các nước đều được quản lý, giám sát bởi một cơ quan chuyên trách. Xem xét mô hình quản lý đối với các TCTD PNH tại một số quốc gia hiện nay cho thấy có một số mô hình khác nhau trong việc phân tách giữa quản lý NHTM và quản lý TCTD PNH như sau:  

+ Mô hình TCTD PNH và NHTM đều chịu sự quản lý giám sát của một cơ quan duy nhất, dưới một luật chung. Theo đó, cách thức quản lý giám sát đối với các TCTD PNH về cơ bản được áp dụng tương tự như với các NHTM, bao gồm cả các quy định cấp phép, các yêu cầu về tỷ lệ an toàn, quy trình thanh tra giám sát. Các giới hạn cụ thể được áp cho TCTD PNH có thể giảm hơn so với các NHTM (ví dụ yêu cầu vốn tối thiểu thấp hơn, các tỷ lệ an toàn áp dụng nới lỏng hơn) nhưng về cơ bản phương thức quản lý và giám sát các TCTD PNH và các NHTM là như nhau.  

TCTD phi ngân hàng góp phần đa dạng hóa các loại hình và dịch vụ tài chính cho khách hàng, 

đồng thời cũng giảm thiểu gánh nặng cung ứng vốn cho nền kinh tế của các NHTM

 

Ví dụ như tại Trung Quốc, Luật quản lý và giám sát ngân hàng ban hành năm 2003 và sửa đổi bổ sung năm 2006, được áp dụng cho quản lý giám sát các NHTM cũng đồng thời áp dụng cho các công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính. Theo đó, phương thức quản lý giám sát của Cơ quan quản lý giám sát ngân hàng Trung Quốc (CBRC) đối với các công ty tài chính, cho thuê tài chính, cũng được áp dụng tương tự như với các NHTM. Tuy vậy, CBRC cũng ban hành các văn bản dưới luật nhằm điều chỉnh từng loại hình công ty tài chính riêng được phép hoạt động, bao gồm: quy định về công ty tài chính thuộc các tập đoàn, công ty cho thuê tài chính, công ty tài chính tiêu dùng, công ty tài chính ô tô.

 

+ Mô hình TCTD PNH được quản lý bởi một cơ quan khác với cơ quan quản lý các NHTM. Ví dụ như tại Anh, các công ty tài chính hoạt động trong một số lĩnh vực như tín dụng tiêu dùng được quản lý giám sát bởi Cơ quan quản lý dịch vụ tài chính (Financial conduct authority) và chịu sự điều tiết của Luật tín dụng tiêu dùng, trong khi đó, các ngân hàng thương mại được quản lý giám sát bởi Cơ quan quản lý an toàn vĩ mô (Prudential regulation authority) trực thuộc NHTW Anh, dưới Luật Ngân hàng.

 

– Phạm vi hoạt động:  

Nhìn chung phạm vi hoạt động của TCTD PNH theo quy định pháp luật tại các nước đều rất giới hạn, phù hợp với một trong những đặc điểm đặc trưng của các TCTD PNH là tập trung vào cung cấp tín dụng chuyên ngành, chứ không hoạt động theo mô hình đa năng như các NHTM.   

 

+ Về giá trị, quy mô của giao dịch: Không chỉ bị giới hạn về loại hình dịch vụ được cung cấp, phạm vi cung cấp dịch vụ của các công ty tài chính còn bị giới hạn bởi giá trị, quy mô của giao dịch. Ví dụ, tại Singapore, các công ty tài chính không được phép cung cấp các khoản cho vay không có tài sản đảm bảo có giá trị trên 5000 đô la. Tại Thổ Nhĩ Kỳ các công ty tài chính không được cung cấp tín dụng bằng tiền mặt, trừ các khoản vay tiền mặt được cấp trong khuôn khổ một thỏa thuận ký kết với khách hàng với mục đích bổ sung tài chính cho khách hàng, như một phần giao dịch được thực hiện, không vượt quá 1% vốn tự có. 

 

– Huy động vốn từ bên ngoài:   

+ Các tổ chức này hoạt động chủ yếu dựa trên nguồn vốn tự có.  

+ Các TCTD PNH được phép nhận tiền gửi hay không phụ thuộc vào quy định tại từng nước mà không có một thông lệ chung. Tuy nhiên, nhìn chung, nhiều nước quy định các tổ chức này không được phép nhận tiền gửi. Ngay cả trong trường hợp được nhận tiền gửi từ công chúng, quy định tại các nước đều yêu cầu TCTD PNH không được nhận tiền gửi thanh toán, tiền gửi cho mục đích phát hành séc.   

+ Vay vốn từ các tổ chức tài chính khác: quy định tại các nước đều cho phép các TCTD PNH vay vốn từ các tổ chức tài chính khác để hoạt động, tham gia thị trường liên ngân hàng trong cả vai trò cho vay và đi vay.   

+ Phát hành trái phiếu được coi là một phương thức phù hợp để các TCTD PNH có thể huy động được vốn. Quy định tại các nước đều cho phép TCTD PNH được phát hành trái phiếu, trong đó, Trung Quốc yêu cầu việc phát hành trái phiếu chỉ được tiến hành khi đã được chấp thuận từ cơ quan quản lý, ngược lại các nước khác hầu như không đưa ra điều kiện đối với việc phát hành trái phiếu của TCTD PNH.   

– Hoạt động đầu tư:   

+ Các TCTD PNH nhìn chung đều được phép tham gia các hoạt động đầu tư tài chính, như: mua bán chứng khoán đầu tư, mua bán trái phiếu chính phủ.   

+ Một số nước ban hành các giới hạn về hoạt động đầu tư. Ví dụ, Singapore yêu cầu các công ty tài chính không được nắm giữ cổ phần đầu tư vượt quá 25% vốn tự có, hoặc một tỷ lệ cao hơn khi được phép của cơ quan quản lý nhưng cũng không vượt quá 50% vốn tự có.  

+ Việc đầu tư vào các hoạt động thương mại và dịch vụ phi tài chính hầu như bị hạn chế.   

– Hoạt động ngoại hối:  

+ Trong nhóm các nước nghiên cứu, chỉ có Singapore quy định có giới hạn về hoạt động ngoại hối của TCTD PNH, trong đó, TCTD PNH không được phép tham gia kinh doanh ngoại tệ, vàng, hoặc bất kỳ kim loại quý khác, không được mua cổ phiếu, cổ phần hoặc chứng khoán nợ, trái phiếu chính phủ bằng ngoại tệ.   

 

– Quy định về các giới hạn an toàn hoạt động:  

+ Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu cho TCTD PNH theo quy định của các nước hầu hết xoay quanh mức 8%. Tuy nhiên, cũng có những nước đòi hỏi tỷ lệ này ở mức khá cao như Singapore 12%. Một số nước áp dụng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu chung cho mọi TCTD PNH, trong khi một số nước, như: Trung Quốc, Hàn Quốc áp dụng các tỷ lệ khác nhau cho các loại hình công ty tài chính khác nhau. Trung Quốc yêu cầu tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu cho các công ty tài chính ô tô là 8%, công ty tài chính trực thuộc tập đoàn là 10%. Hàn Quốc yêu cầu tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu đối với công ty thẻ tín dụng là 8% và các công ty tài chính chuyên dụng khác là 7%.  

+ Đòn bẩy tài chính: Có những quốc gia như Ấn Độ không áp dụng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, mà áp dụng giới hạn đòn bẩy tài chính tại TCTD PNH là 7 lần.  

+ Giới hạn cấp tín dụng: TCTD PNH hầu hết được áp dụng các giới hạn về cấp tín dụng bao gồm giới hạn cho vay đối với một khách hàng, giới hạn cho vay đối với một nhóm khách hàng. Giới hạn cụ thể áp dụng cho TCTD PNH thường là cao hơn (nới lỏng hơn) so với các NHTM.  

+ Tỷ lệ nợ quá hạn: Trong số các nước nghiên cứu, chỉ có duy nhất Hàn Quốc áp dụng tỷ lệ nợ quá hạn (Từ nhóm 2 đến nhóm 5) và chỉ áp dụng tỷ lệ này đối với công ty thẻ (không quá 10%).   

– Phân loại tài sản có và trích lập dự phòng rủi ro:   

Các nước đều áp dụng yêu cầu về phân loại tài sản có theo 5 nhóm (tương tự các NHTM) đối với các TCTD PNH. Một số nước có thể áp dụng các tiêu chuẩn phân loại tài sản có khác nhau, tuy nhiên, sự khác nhau này không dựa trên tiêu chí đó là NHTM hay TCTD PNH, mà dựa trên bản chất tín dụng được cung cấp cho khách hàng. Ví dụ, tại Hàn Quốc, các công ty tài chính có hoạt động cho vay nhưng không phải là tín dụng tiêu dùng thì thực hiện phân loại nợ tương tự như các ngân hàng tiết kiệm tương hỗ, nhưng các công ty tài chính tiêu dùng và các công ty thẻ thì thực hiện phân loại nợ chặt chẽ hơn (khoản nợ quá hạn 1 tháng đã được chuyển xuống nhóm 2, quá 3 tháng được chuyển xuống nhóm 3…).   

– Khả năng thanh khoản:   

Đây cũng là một trong những công cụ được khuyến nghị sử dụng bởi FSB. Hầu hết các nước đều theo dõi và giám sát thường xuyên tình trạng thanh khoản của TCTD phi ngân hàng.   

 

– Quy định về quản trị doanh nghiệp:   

Quy định các nước đều đưa ra các yêu cầu về cơ cấu tổ chức, yêu cầu đối với thành viên góp vốn, hội đồng quản trị, ban điều hành và các ban khác thuộc cơ cấu tổ chức của TCTD PNH. 

 

5. Gợi ý chính sách quản lý TCTD PNH cho Việt Nam  

Trên thực tế, quy mô hoạt động của các TCTD PNH Việt Nam còn khá hạn chế. Các thị trường cho thuê tài chính, bao thanh toán và tín dụng tiêu dùng vẫn còn nhiều dư địa để phát triển. Nhu cầu của cá nhân và doanh nghiệp đối với các dịch vụ của TCTD PNH còn rất lớn, nhờ thu nhập của hộ gia đình Việt Nam đang tăng lên, dẫn đến gia tăng nhu cầu chi tiêu, nhiều doanh nghiệp cũng như cá nhân vẫn đang gặp khó khăn trong việc tiếp cận tín dụng. Do đó, việc phát triển TCTD PNH tại Việt Nam là cần thiết. Để hỗ trợ cho sự phát triển của nhóm các tổ chức này đồng thời giảm thiểu khả năng ảnh hưởng rủi ro hệ thống của TCTD PNH, việc quản lý các tổ chức này sao cho hợp lý là một vấn đề cần được quan tâm giải quyết. Từ kinh nghiệm quốc tế của FSB và nhóm các quốc gia đã nghiên cứu, có thể rút ra có một số gợi ý chính sách quản lý TCTD PNH cho Việt Nam:  

– Về quan điểm quản lý:   

+ Cần tách biệt giữa hai nhóm đối tượng quản lý là TCTD PNH và NHTM. Kinh nghiệm quốc tế của nhiều quốc gia cho thấy do tính chất của đa số TCTD PNH là không nhận tiền gửi dân cư và mức độ ảnh hưởng đến an toàn hệ thống của các tổ chức này và nhóm các NHTM là khác nhau, nên không nên đồng nhất hai đối tượng quản lý này. Theo đó, các TCTD PNH nên được quản lý bằng các biện pháp phù hợp với mức độ rủi ro hệ thống của các tổ chức này.  

+ Việc quản lý các tổ chức này cần được cân bằng giữa mục tiêu giám sát an toàn và mục tiêu phát triển. Đặc biệt, mục tiêu giám sát an toàn nên tập trung vào các rủi ro có thể ảnh hưởng đến an toàn hệ thống, ví dụ như rủi ro thanh khoản, rủi ro TCTD PNH kết hợp với NHTM để “lách luật”, nhằm giúp NHTM không phải tuân thủ các quy định an toàn chặt chẽ, được quy định riêng cho các ngân hàng.   

– Các quy định quản lý cần được áp dụng riêng cho TCTD PNH.  

+ Các quy định, giới hạn an toàn: tách riêng chính sách giám sát an toàn đối với các TCTD PNH phù hợp với đặc trưng của các tổ chức này. Có thể áp dụng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, hoặc giới hạn đòn bẩy tài chính dành riêng cho các TCTD PNH. Các loại hình TCTD PNH khác nhau có thể được áp dụng các tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu khác nhau, sau khi xét đến yếu tố ảnh hưởng rủi ro hệ thống của các nhóm tổ chức này. Đối với giới hạn cấp tín dụng, ví dụ như giới hạn cho vay đối với một khách hàng và một nhóm khách hàng có thể được nới lỏng hơn so với NHTM. Nghiên cứu xem xét việc nới lỏng, hoặc chỉ áp dụng tỉ lệ này với một số nhóm TCTD PNH có ảnh hưởng quan trọng đến an toàn của hệ thống. Về khả năng thanh khoản, cần theo dõi và giám sát thường xuyên trạng thái thanh khoản của TCTD PNH để đảm bảo các chỉ số này luôn trong ngưỡng an toàn.   

+ Yêu cầu về quản trị: Việc cung cấp sản phẩm tín dụng chuyên biệt, mô hình chấm điểm tín dụng, các khâu lấy thông tin đầu vào, xét duyệt cho vay, kiểm soát sau cho vay, quy trình phân loại nợ và thu nợ tại TCTD PNH có nhiều khác biệt so với NHTM. Do đó, yêu cầu về quản trị đối với các tổ chức này cũng nên có các tiêu chuẩn riêng. Cần thiết phải tiến hành rà soát các khuôn khổ pháp lý hiện tại về các quy định hiện được áp dụng chung giữa các NHTM và các TCTD PNH, để tách riêng các yêu cầu về kiểm soát quản trị rủi ro của các tổ chức này. Nghiên cứu xây dựng thông tư về kiểm soát nội bộ tại TCTD PNH, xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ phù hợp với đặc điểm của TCTD PNH, để các tổ chức này có cơ sở triển khai các mô hình cấp tín dụng chuyên biệt một cách hiệu quả, giảm rủi ro tín dụng cho các tổ chức này.  

– Chính sách hỗ trợ, phát triển TCTD PNH:  

Trong thời gian tới, việc cần thiết là phải xây dựng các cơ chế, chính sách mới để có định hướng rõ ràng cho sự phát triển của tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Các cơ chế, chính sách phải đảm bảo cho các tổ chức tín dụng phi ngân hàng có thể nhìn thấy định hướng, mục tiêu phát triển hệ thống mà Cơ quan quản lý Nhà nước muốn hướng tới, để từ đó xây dựng kế hoạch và lộ trình phát triển cho tổ chức của mình. Một số đề xuất cụ thể về định hướng phát triển của tổ chức tín dụng phi ngân hàng:  

+ Thực tế cho thấy các công ty tài chính thành lập trong khoảng thời gian trước đây theo mô hình công ty tài chính tổng hợp có hiệu quả hoạt động không cao. Mặt khác, kinh nghiệm quốc tế cho thấy các nước nghiên cứu đều tập trung phát triển các tổ chức tín dụng phi ngân hàng theo hướng chuyên ngành. Do đó, Việt Nam cần xem xét cấu trúc lại mô hình của tổ chức tín dụng phi ngân hàng theo hướng, chỉ duy trì và cho phép thành lập mới đối với công ty tài chính chuyên ngành. Cụ thể: (i) Định hướng rõ ràng hoạt động của các công ty tài chính chuyên ngành theo thông lệ quốc tế là tập trung vào các hoạt động mang tính chuyên sâu, đòi hỏi mức độ chuyên nghiệp cao như: cho thuê tài chính, bao thanh toán; tín dụng tiêu dùng cho cá nhân; dịch vụ thẻ tín dụng; (ii) Tạo điều kiện cho các công ty tài chính tổng hợp chuyển đổi sang công ty tài chính chuyên ngành, hoặc sáp nhập, hợp nhất vào ngân hàng thương mại.   

+ Khuyến khích sự gia nhập của các tổ chức tín dụng phi ngân hàng mới. Lĩnh vực hoạt động của các tổ chức này vẫn còn nhiều dư địa để phát triển. Cần có những chính sách cấp phép phù hợp để loại bỏ những rào cản gia nhập thị trường chưa hợp lý, giúp TCTD PNH phát triển về số lượng để góp phần tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, giảm gánh nặng cung ứng vốn cho nền kinh tế của NHTM, đa dạng hóa các loại hình dịch vụ tài chính cho khách hàng.  

+ Tạo lập “sân chơi” riêng cho tổ chức tín dụng phi ngân hàng, thông qua việc quy định cụ thể những hoạt động chỉ được thực hiện thông qua tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Điều này không chỉ có lợi cho sự phát triển của tổ chức tín dụng phi ngân hàng, mà còn giúp các ngân hàng thương mại tập trung hơn vào các nghiệp vụ kinh doanh truyền thống.  

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Luật Ngân hàng của Hàn Quốc, bản cập nhật ngày 27 tháng 4 năm 2002.

2. Các công ty tài chính phi ngân hàng Ấn Độ: sự thay đổi khung khổ giám sát, PwC, 2023.

3. Củng cố việc quản lý và giám sát hệ thống ngân hàng ngầm, Ủy ban Ổn định tài chính, 2012.

4. Luật Các công ty tài chính Singapore năm 2011.

6. Luật quản lý và giám sát hệ thống ngân hàng của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc năm 2023.

7. Phát triển hoạt động cho thuê tài chính trong các nền kinh tế mới nổi, IFC, 2009. Nguyễn Thùy Linh Nguyễn Hà Phương Nguồn: TCNH số 23/2023

Chức Năng Chính Của Phần Mềm Quản Lý Bán Hàng

Lưu giữ các thông tin về khách hàng, phân nhóm khách hàng theo các chỉ tiêu khác nhau như: Loại hình doanh nghiệp, tỉnh thành, quận huyện, vùng/miền, địa bàn…

QUẢN LÝ HẠN MỨC TÍN DỤNG, BẢO LÃNH NGÂN HÀNG

Quản lý hạn mức tín dụng và hiệu lực của hạn mức.

Quản lý bảo lãnh ngân hàng và hiệu lực của bảo lãnh ngân hàng.

QUẢN LÝ KẾ HOẠCH BÁN HÀNG

Kế hoạch bán hàng theo nhân viên bán hàng, bộ phận, phòng ban, địa bàn, khách hàng, nhóm khách hàng, hàng hóa, nhóm hàng hóa.

Quản lý, phân tích về tình hình thực hiện bán hàng theo kế hoạch bán hàng.

Quản lý chiết khấu linh hoạt, cho phép khai báo và thực hiện nhiều phương thức chiết khấu. Phân hệ phần mềm quản lý bán hàng, có thể tính tiền chiết khấu theo khách hàng, nhóm khách hàng, hàng hóa, nhóm hàng hóa, kho hàng, thậm chí có thể tổ hợp các chỉ tiêu trên để có nhiều phương thức tính và quản lý chiết khấu linh hoạt hơn.

Cho phép áp dụng nhiều phương thức chiết khấu trong cùng một giao dịch “Trong trường hợp một khách hàng có thể được hưởng nhiều phương thức chiết khấu trong cùng một giao dịch”

Cho phép khai báo nhiều phương án giá bán theo sản phẩm, loại sản phẩm hoặc khách hàng

Cho phép khai báo nhiều mức giá bán hoặc chiết khấu tuỳ theo số lượng đặt hàng

Quản lý khuyến mãi và quà tặng

Quản lý giá bán theo nhiều đồng tiền ngoại tệ khác nhau

Theo dõi thời hạn hiệu lực của giá bán

Tự động tra giá và chiết khấu, theo dõi giao hàng từng phần, kiểm tra số lượng hàng tồn kho.

Treo lệnh xuất hàng của những khách hàng vượt hạn mức tín dụng hoặc có nợ quá hạn.

Quản lý công nợ theo sổ sách kế toán, công nợ theo phiếu xuất hàng, công nợ theo lệnh xuất hàng

QUẢN LÝ XUẤT KHO THEO LỆNH XUẤT HÀNG

Quản lý thông tin xuất hàng theo lệnh.

Quản lý công nợ theo lệnh xuất hàng.

QUẢN LÝ HÓA ĐƠN BÁN HÀNG THEO LỆNH – THEO PHIẾU XUẤT

Quản lý doanh thu bán hàng, kê thuế bán hàng.

Cho phép lựa chọn phương án xuất hóa đơn GTGT theo lệnh xuất hàng hoặc theo phiếu xuất hàng.

Quản lý công nợ theo sổ sách kế toán; Tạo các bút toán ghi Nợ/Có của nghiệp vụ bán hàng.