Xét Nghiệm Đánh Giá Độ Lọc Cầu Thận

Xét nghiệm đánh giá độ lọc cầu thận (eGFR) được sử dụng không phải để trực tiếp chẩn đoán các bệnh về thận mà nhằm đánh giá hoạt động chức năng của thận có tốt hay không.

Chức năng của thận có thể bị ảnh hưởng bởi một số bệnh tật hay trạng thái cơ thể nhất định hoặc tác dụng của một số loại thuốc. Xét nghiệm đánh giá độ lọc cầu thận (eGFR) được sử dụng không phải để trực tiếp chẩn đoán các bệnh về thận mà nhằm đánh giá hoạt động chức năng của thận có tốt hay không.

Cầu thận. (Nguồn ảnh: chúng tôi

Xét nghiệm đánh giá độ lọc cầu thận là như thế nào?

Xét nghiệm đánh giá độ lọc cầu thận được sử dụng để đánh giá thận của bạn hoạt động có tốt hay không bằng cách đo lường lượng máu được lọc bởi thận trong một khoảng thời gian kiểm tra nhất định (đo một cách gián tiếp thông qua việc đánh giá độ thanh lọc của một số chất trong máu như creatinine, inuline, ure). Trong cấu trúc thận, các cầu thận là bộ phận chức năng làm nhiệm vụ lọc máu nên xét nghiệm có tên là Đánh giá độ lọc cầu thận. Trường hợp cầu thận không thực hiện được đầy đủ chức năng lọc máu sẽ dẫn đến sự suy giảm chức năng của thận.

Xét nghiệm đánh giá độ lọc cầu thận thường được thực hiện thông qua kỹ thuật đo lượng creatinine trong máu. Creatinine là sản phẩm được tạo ra trong quá trình vận động của cơ bắp. Thông thường, thận sẽ thực hiện việc lọc bỏ thành phần creatinine này ra khỏi máu. Tuy nhiên, nếu hai quả thận hoạt động không tốt sẽ dẫn đến lượng creatinine còn tồn dư trong máu cao. Do tình trạng hoạt động của thận còn bị tác động bởi nhiều yếu tố, trong đó có trạng thái của cơ thể, nên để đảm bảo độ chính xác, kết quả xét nghiệm đánh giá độ lọc cầu thận được tính toán theo công thức dựa trên kết quả đo lượng creatinine trong máu và xem xét cùng với các yếu tố về tuổi tác, giới tính của người được xét nghiệm.

Các giai đoạn chức năng của thận

Dựa vào kết quả xét nghiệm đánh giá độ lọc cầu thận và các đặc điểm cơ thể khác, hoạt động chức năng của thận được chia làm 5 giai đoạn:

Giai đoạn 1: Kết quả xét nghiệm đánh giá độ lọc cầu thận cho thấy thận hoạt động bình thường nhưng người được xét nghiệm đã nhận biết thấy có các triệu chứng, dấu hiệu bệnh tật hoặc tổn thương ở thận.

Ví dụ: có xuất hiện máu trong nước tiểu hoặc nồng độ protein cao trong nước tiểu, hiện tượng bất thường hay triệu chứng viêm thận…

Giai đoạn 2: Chức năng của thận suy giảm nhẹ và người được xét nghiệm đã nhận thấy các triệu chứng thận có dấu hiệu bệnh tật hoặc tổn thương.

Kết quả đánh giá độ lọc cầu thận từ 60 – 89 nhưng không đi kèm với việc xuất hiện các triệu chứng thận có dấu hiệu bệnh tật hoặc tổn thương thì chưa được kết luận là có triệu chứng bị bệnh thận mạn.

Giai đoạn 3: Giai đoạn độ suy giảm chức năng thận trung bình (Đi kèm hoặc không đi kèm với việc người được xét nghiệm đã xác định có bệnh về thận.

Ví dụ: người già bị suy giảm chức năng thận với tình trạng bệnh thận cụ thể chưa được xác định).

Giai đoạn 5: Suy giảm đặc biệt nghiêm trọng chức năng thận. Trường hợp này đôi khi còn được gọi là suy thận giai đoạn cuối.

Ghi chú: Kết quả xét nghiệm đánh giá độ lọc cầu thận sẽ không còn chính xác trong trường hợp người được xét nghiệm có số lượng cơ bắp hoạt động bất thường hoặc có tình trạng ảnh hưởng đến nồng độ creatinine trong máu như các trường hợp sau:

Người có cơ bắp không hoạt động.

Người bị thiếu một tay hoặc một chân.

Người bị suy dinh dưỡng.

Phụ nữ đang mang thai.

Người bị suy thận cấp.

Người bị phù hay tích nước.

Trẻ em.

http://www.patient.co.uk/healt…

Biên dịch – Hiệu đính: Ths. Vũ Thị Hồng Dương – BS. Nguyễn Phương ThảoY học cộng đồng

– 04-07-2023 –

Xét Nghiệm Đánh Giá Chức Năng Thận

Suy thận là tình trạng suy giảm chức năng thận, có thể xảy ra đột ngột gọi là suy thận cấp hoặc diễn tiến từ từ gọi là suy thận mạn. Khi suy thận cấp, chức năng thận có thể hồi phục được. Suy thận mạn là chức năng thận suy giảm dần và cuối cùng mất hoàn toàn chức năng, lúc này cần có các biên pháp điều trị hỗ trợ cho chức năng thận thì cơ thể mới sống được. * Biểu hiện lâm sàng của suy thận: – Lượng nước tiểu giảm (thiểu niệu, vô niệu) hoặc lượng nước tiểu tăng (đa niệu, đặc biệt đa niệu về đêm) – Các triệu chứng của thừa nước: phù, tăng huyết áp, suy tim, phù phổi, phù não – Các triệu chứng của tăng các chất độc trong máu: buồn nôn, nôn ói, chán ăn, đau cơ, đau xương khớp, co rút cơ hoặc liệt, loạn nhịp tim, khó ngủ, nổi mẫn da… – Các triệu chứng của thiếu máu: da xanh xao, chóng mặt… – Kèm theo các triệu chứng của bệnh lý gây suy thận: tiêu chảy, phỏng, chảy máu cấp, đau lưng, đau bụng, tiểu khó. * Các xét nghiệm đánh giá chức năng thận: Tình trạng thận chỉ có thể đánh giá chính xác bằng cách sinh thiết thận, đọc các cấu trúc của các đơn vị thận dưới kính hiển vi. Các xét nghiệm hiện nay chỉ đánh giá tương đối chức năng thận, vì thế cần kết hợp nhiều xét nghiệm.

1. Các xét nghiệm sinh hóa: Creatinin, BUN (Blood Urea Nitrogen) là các sản phẩm của quá trình chuyển hóa đạm của cơ thể, được thận thải ra qua nước tiểu. Trị số bình thường thay đổi tùy theo phòng xét nghiệm. Trung bình, BUN: 6-24 mg/dL (tương đương 2,5-8 mmol/L), creatinin: 0,5-1,2mg/dL (tương đương 45-110 mmol/L). Các chỉ số này tăng lên trong máu khi chức năng thận xấu đi. Để chính xác hơn, người ta thường làm song song xét nghiệm urea/ máu và urea/ nước tiểu, creatinine/máu và creatinine/ nước tiểu. Từ đó tính ra độ thanh thải creatinine. Bình thường, độ thanh thải creatinine 70-120mL/phút. Độ thanh thải creatinine giảm phản ánh sự suy giảm chức năng thận 2. Điện giải đồ:rối loạn chức năng thận gây ra mất cân bằng các chất điện giải trong cơ thể. Sodium (Natri):Natri máu bình thường 135-145 mmol/L. Người suy thận, natri máu giảm, có thể do nguyên nhân mất natri qua da, qua đường tiêu hóa, qua thận nhưng cũng có thể do thừa nước. Các triệu chứng lâm sàng của giảm natri máu chủ yếu ở hệ thần kinh đi từ nhẹ đến nặng: nhức đầu, buồn nôn, lừ đừ, hôn mê, co giật. Potasium (kali): Kali máu bình thường 3,5- 4,5 mmol/L. Tăng kali máu ở bệnh nhân suy thân do thận giảm thải kali. Các triệu chứng của tình trạng tăng kali từ nhẹ đến nặng: mệt mỏi, dị cảm, mất phản xạ, liệt cơ, rối loạn nhịp tim. Canxi máu: canxi máu bình thường 2.2-2.6 mmol/L. Suy thận có biểu hiện giảm canxi máu kèm theo tăng phosphat. Triệu chứng hạ canxi máu chủ yếu là dấu kích thích thần kinh cơ gồm tăng phản xạ gân xương, co cứng cơ, co giật, rối loạn nhịp tim. 3. Rối loạn cân bằng kiềm toan:Bình thường pH máu được duy trì ở mức 7,37 – 7,43 cho phép hoạt động tối ưu của các men tế bào, yếu tố đông máu và các protein co cơ. Suy thận làm giảm thải các acid hình thành trong quá trình chuyển hóa của cơ thể hoặc mất bicarbonat gây tình trạng toan chuyển hóa cho cơ thể. Toan hóa máu làm loạn nhịp tim, rối loạn hô hấp (thở nhanh kiểu Kussmaul), làm nặng thêm tình trạng tăng kali máu. Đánh giá tình trạng toan máu bằng cách đo pH máu hoặc gián tiếp bằng bicarbonat. 4. Acid uric máu: trung bình ở nam: 5,1 ± 1,0 mg/dL (420 μmol/lít) nữ 4,0 ± 1mg/dL (360 μmol/lít). Acid uric máu tăng có thể là nguyên nhân gây tổn thương thận, nhưng cũng có thể là hậu quả do bị suy thận không thải được. Acid uric máu tăng cũng có thể gợi ý bệnh nhân có kèm theo sỏi của hệ tiết niệu. 5. Tổng phân tích nước tiểu Tỷ trọng nước tiểu: Tỷ trọng NT bình thường: 1,01 – 1,020 (nước tiểu 24h của người lớn ăn uống bình thường có tỷ trọng từ 1,016 – 1,022). Giảm chức năng thận giai đoạn sớm sẽ làm giảm độ cô đặc của nước tiểu, dẫn đến giảm tỷ trọng nước tiểu. Trong trường hợp nghi ngờ, bệnh nhân sẽ được làm thêm: so sánh tỷ trọng nước tiểu ngày và đêm, nghiệm pháp pha loãng nước tiểu, nghiệm pháp cô đặc nước tiểu…. Protein: một mẫu tổng phân tích nước tiểu có protein không thể đánh giá chính xác tình trạng tổn hại của các cầu thận, nhưng có tính gợi ý để bệnh nhân được chỉ định làm tiếp xét nghiệm định lượng đạm niệu 24 giờ . 6. Định lượng protein nước tiểu 24 giờ Bình thường: Protein trong nước tiểu = 0 – 0,2 g/24h. 7. Albumin huyết thanh Bình thường, albumin huyết thanh có khoảng 35 – 50 g/L, chiếm 50 – 60% protein toàn phần. Albumin giảm mạnh trong bệnh lý cầu thận cấp. 8. Protein toàn phần huyết tương Bình thường: 60 – 80 g/L Protein toàn phần huyết tương phản ánh chức năng lọc của cầu thận. Giảm protein toàn phần nhiều hơn trong các bệnh thận khi màng lọc cầu thận bị tổn thương. 9. Tổng phân tích tế bào máu Tình trạng giảm số lượng hồng cầu ở một bệnh nhân suy thận chứng tỏ đây là suy thận mạn, đặc biệt là khi có giảm số lượng hồng cầu kèm theo không tăng hoặc giảm hồng cầu lưới. Đôi khi có thiếu máu thiếu sắt do kèm theo mất máu qua đường tiêu hóa. 10. Siêu âm bụng Phát hiện được tình trạng thận ứ nước do tắc nghẽn niệu quản. Nếu thận ứ nước hai bên có thể gây ra suy thận cấp hoặc suy thận mạn. Phát hiện được các trường hợp bệnh lý thận đa nang bẩm sinh, di truyền. Có thể gợi ý bệnh lý thận mạn tính qua hình ảnh siêu âm thấy thận có kích thước nhỏ, thay đổi cấu trúc, mất phân biệt vỏ tủy hoặc thận có nhiều nang. 11. Chụp CT Scan bụng Là phương pháp thăm dò hình ảnh cho phép nhìn thấy rõ hình ảnh toàn bộ hệ tiết niệu. Chỉ sử dụng trong các trường hợp nghi ngờ suy thận do tắc nghẽn đường tiết niệu. Phương pháp chụp có tiêm thuốc cản quang bằng máy chụp đa lát cắt cho phép dựng hình lại toàn bộ đường tiết niệu, có thể phát hiện được vị trí và nguyên nhân gây bế tắc niệu quản. 12. Xạ hình thận bằng đồng vị phóng xạ Là xét nghiệm duy nhất cho phép đánh giá chức năng thận từng bên. Phương pháp này nhìn rõchức năng lọc của từng thận, tỷ lệ phần trăm tưới máu và tham gia chức năng của từng thận. Nếu có làm thêm nghiệm pháp tiêm thuốc lợi tiểu, xét nghiệm này cũng cho phép đánh giá mức độ tắc nghẽn niệu quản 2 bên. Chỉ định các xét nghiệm chức năng thận Kiểm tra sức khỏe định kỳ mỗi năm, chỉ làm các xét nghiệm đơn giản có tính định hướng: xét nghiệm sinh hóa máu, tổng phân tích nước tiểu, công thức máu, siêu âm bụng. Tiền căn gia đình có các bệnh di truyền về thận hoặc có người thân bị suy thận: xét nghiệm sinh hóa máu, tổng phân tích nước tiểu, công thức máu, siêu âm bụng, các xét nghiệm chuyên biệt về di truyền. Khi lâm sàng có các biểu hiện suy thận:xét nghiệm sinh hóa máu, tổng phân tích nước tiểu, công thức máu, siêu âm bụng. Nếu tìm thấy các nguyên nhân gây tắc nghẽn hệ niệu, làm thêm các xét nghiệm hình ảnh. Nếu không tìm thấy tắc nghẽn, có thể sinh thiết thận. Có tiền căn can thiệp thủ thuật, phẫu thuật lên đường tiết niệu hoặc các cơ quan trong bụng: xét nghiệm sinh hóa máu, tổng phân tích nước tiểu, công thức máu, siêu âm bụng. Nếu có dấu hiệu tắc nghẽn: làm thêm các xét nghiệm hình ảnh.

Xét Nghiệm Đánh Giá Chức Năng Thận.

Thận là bộ phận có nhiều vai trò quan trọng trong cơ thể như lọc máu, đào thải các chất độc ra khỏi cơ thể, tạo nước tiểu, điều hòa huyết áp, điều hòa quá trình đông máu, kích thích quá trình tạo máu… Xét nghiệm đánh giá chức năng thận giúp theo dõi tình trạng sức khỏe, theo dõi các bệnh lý về thận. Xét nghiệm chức năng thận thường theo dõi 2 chỉ số urea và creatinine. Vậy ý nghĩa 2 chỉ số này là gì?

Creatinine là sản phẩm của phản ứng phân hủy Creatin. Creatinine trong cơ thể được tạo ra bởi thực phẩm từ các bữa ăn hàng ngày hoặc được tổng hợp từ gan.

Creatinin được lọc qua các cầu thận và không được ống thận tái hấp thu. Xét nghiệm nồng độ Creatinine trong máu được coi là tiêu chuẩn vàng để đánh giá chức năng thận.

Vì chỉ khi có những rối loạn ở thận hay các bệnh lý về thận thì giá trị creatinine mới thay đổi. Xét nghiệm này còn được dùng để chuẩn đoán và đánh giá mức độ suy thận.

Ý nghĩa của chỉ số Creatinin máu:

Chú ý: Xét nghiệm này không bị ảnh hưởng bởi chế độ ăn uống, nên bạn không cần nhịn ăn trước khi lấy máu xét nghiệm.

Giá trị bình thường:

+ Nữ giới trưởng thành: 44 – 97 µmol/l.

+ Nam giới trưởng thành: 53 – 106 µmol/l.

+ Trẻ sơ sinh: 26 – 106 µmol/l.

Lưu ý:

Kết quả xét nghiệm sẽ bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố sau:

– Máu bị vỡ hồng cầu.

– Sau bữa ăn có chứa lượng lớn protein có thể làm giá trị xét nghiệm tăng.

Nếu nồng độ Creatinin tăng cao so với giá trị bình thường, bạn có nguy cơ bị suy thận.

Người có chỉ số Creatinine máu tăng thường mắc bệnh lý về thận, như sau:

Suy thận nguồn gốc trước thận do suy tin mất bù, mất nước làm giảm khối lượng tuần hoàn, xuất huyết, hẹp động mạch thận.

Suy thận nguồn gốc tại thận do:

Tổn thương cầu thận gặp trong bệnh cao huyết áp, đái tháo đường, viêm cầu thận, bệnh lupus ban đỏ hệ thống..

Tổn thương ống thận: sỏi thận, viêm bể thận, đa u tủy xương, viêm nhú thận, tăng canxi máu, tăng acid uric.

Suy nguồn gốc sau thận: sỏi thận, u bàng quang, u tử cung, ung thư tuyến tiền liệt…

Các nguyên nhân gây giảm nồng độ Creatine trong máu :

Máu bị hòa loãng.

Suy dinh dưỡng nặng.

Phụ nữ có thai.

Hội chứng tiết Hormon ADH không thích hợp.

Một số bệnh gây teo mô cơ.

Ure là sản phẩm của quá trình chuyển hóa nito. Ure nitrogen (BUN) là phần nitrogen của ure. Vì vậy, xét nghiệm BUN còn được gọi tên khác là xét nghiệm ure.

Ure được tổng hợp ở gan. Quá trình này được gọi là chu trình Krebs – Henseleit được sơ đồ hóa như sau:

Protein → Acid amin → NH3 → Carbamyl phosphate → Citrulin → Arginin → Ure

Theo sơ đồ trên, nồng độ ure máu phụ thuộc cùng lúc vào khẩu phần ăn, chức năng thận, quá trình dị hóa protein nội sinh và tình trạng cân bằng điện giải trong cơ thể.

Ure được đào thải qua 2 con đường:

Đường tiêu hóa: Một phần ure được đào thải trong lòng ruột sẽ được chuyển hóa thành NH3 nhờ enzyme urease của ruột.

Tại thận: Ure được lọc qua cầu thận và tái hấp thu thụ động qua ống thận. Quá trình tái hấp thu này phụ thuốc vào lượng nước tiểu.

Ý nghĩa chỉ số Ure trong máu:

– Nồng độ Ure máu: Nam : 3,0 – 9,2 Nữ : 2,6 – 7,2 mmol/l.

Nếu chỉ số Ure tăng bất thường : báo hiệu bệnh sỏi thận, viêm cầu thận, sỏi niệu quản, viêm ống thận, tiêu chảy, mất nước do sốt cao, suy tim sung huyết, tiêu chảy…

Chỉ số Ure trong máu giảm: suy giảm chức năng gan, ăn ít protein, truyền nhiều dịch…

Xét nghiệm Ure mang lại những lợi ích gì?

Xét nghiệm này cho phép đánh giá mức độ nặng của suy thận, giúp bác sĩ đưa ra quyết định người bệnh có cần lọc máu hay không?

Đối với người bị suy thận, xác định nồng độ ure kết hợp với nồng độ creatine máu giúp chẩn đoán:

Trường hợp nồng độ ure máu tăng, tính toán tỉ lên ure niêu/ure máu giúp cung cấp các thông tin xác định nguồn gốc suy thận:

Đây còn là xét nghiệm không thể thiếu trước khi cho người bệnh dùng loại thuốc có nguy cơ gây độc cho thận.

Nguyên nhân gây thay đổi ure trong máu:

Nồng độ ure bình thường: 2,5 – 7.5 mmol/l.

Nồng độ ure máu tăng trong các trường hợp sau:

Ăn nhiều protein.

Bị sốt, bỏng, suy dinh dưỡng, nhịn đói, bệnh lý u tân sinh làm tăng dị hóa protein nội sinh.

Xuất huyết đường tiêu hóa.

Suy thận.

Nguồn gốc trước thận: mất nước, giảm thể tích máu, suy tim.

Nguồn gốc tại thận: tổn thương ống thận, cầu thận.

Nguồn gốc sau thận: sỏi, u hóa sau phúc mạc, u bàng quang hay u tử cung, u biểu mô tuyến hay ung thư tuyến tiền liệt.

Các nguyên nhân khác: ngộ độc thủy ngân, nhiễm trùng nặng.

Đang tuổi phát triển.

Phụ nữ có thai.

Hòa loãng máu: lọc máu, có thai các tháng cuối, hội chứng thận hư, tăng gánh thể tích.

Hội chứng tiết ADH không phù hợp.

Suy gan, viêm gan nặng cấp tính hay mạn tính, xâm nhiễm di căn lớn, xơ gan.

Bệnh Celiac.

Chế độ ăn không cung cấp đủ protein.

Hội chứng giảm hấp thu.

Xét nghiệm chức năng thận ở đâu:

Tìm Hiểu Xét Nghiệm Đánh Giá Độ Lọc Cầu Thận

Xét nghiệm độ lọc cầu thận GRF là một chỉ số dùng để đánh giá tình trạng hoạt động chức năng của thận qua việc đánh giá chỉ số thanh lọc của một số chất trong cơ thể như creatinin, ure… chứ không phải sử dụng để chẩn đoán trực tiếp các bệnh lý của thận. Trong cấu thành của thận, cầu thận được coi là các đơn vị chức năng quan trọng, có nhiệm vụ lọc máu, toàn bộ các chất được tái hấp thu hay đào thải qua đường bài tiết đều phải đi qua quả lọc cầu thận. Do đó, xét nghiệm này được gọi là xét nghiệm đánh giá độ lọc cầu thận.

Khi hai quả thận khỏe mạnh, trung bình mỗi ngày có thể lọc được khoảng 200 lít máu để tạo ra khoảng 2 lít nước tiểu. Ngược lại, khi thận bị tổn thương hay bị mắc các bệnh lý về thận, chức năng thận bị suy giảm dẫn tới giảm thiểu khả năng lọc và các chất thải sẽ được tích tụ tăng dần trong máu. Lúc này, việc chỉ định xét nghiệm là hoàn toàn cần thiết để đánh giá hoạt động của thận.

Xét nghiệm đánh giá độ lọc cầu thận được thực hiện bởi việc kiểm tra và đo lượng creatinin trong máu. Creatinin là một trong những sản phẩm được tạo ra trong quá trình vận động của cơ bắp rồi vào máu và được lọc ra khỏi máu tại cầu thận. Khi thận bị tổn thương hay gặp các vấn đề làm ảnh hưởng đến chức năng lọc của cầu thận sẽ dẫn tới hệ quả là creatinin không được lọc hết ra khỏi máu mà còn tồn đọng trong máu với hàm lượng cao. Do đó, việc xét nghiệm đánh giá định lượng creatinin trong máu là yếu tố quan trọng trong việc đánh giá chức năng hoạt động của thận.

Hoạt động thanh lọc các chất của thận có thể bị tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau nên nếu muốn đánh giá chính xác nhất về độ lọc cầu thận thì cần có công thức tính toán chính xác dựa trên các kết quả xét nghiệm kiểm tra được.

Thận có chứa rất nhiều các đơn vị chức năng khác nhau được gọi là nephron. Trong quá trình lọc và đào thải các chất, các nephron thường hoạt động độc lập với nhau. Do đó, để tính độ lọc cầu thận chuẩn, người ta ước tính độ lọc cầu thận của cả hai thận bằng độ lọc cầu thận của mỗi nephron nhân với tổng số nephron cấu thành nên thận. Số nephron của mỗi cơ thể là khác nhau, mức độ lọc của mỗi nephron trong một cá thể cũng là khác nhau, nên độ thanh lọc cầu thận của mỗi cơ thể hiển nhiên là khác nhau.

2. Công thức tính độ lọc cầu thận GRF

Công thức tính độ lọc cầu thận GRF: Hiện nay có rất nhiều các phương trình khác nhau được đưa ra để được áp dụng vào tính toán mức lọc cầu thận. Tuy nhiên, để thuận tiện cho việc tính toán, áp dụng công thức dễ hiểu, người ta đã nghiên cứu và chứng minh ra công thức tính độ lọc cầu thận như sau:

Độ lọc cầu thận = số lượng Nephron x Độ lọc cầu thận của 1 Nephron.

Độ lọc cầu thận = Số lượng Nephron x Hệ số siêu học x Diện tích lọc x (PCG – PBC) – (GC – BC)

Trong đó:

K là hệ số siêu lọc

S là diện tích lọc

PCG là áp lực thủy tính của các mao mạch cầu thận

PBC là áp lực thủy tĩnh của khoang Bowman

GC là áp lực keo của các mao mạch cầu thận

BC là áp lực keo của khoang Bowman

Dựa vào kết quả xét nghiệm độ thanh thải creatinin, đánh giá độ lọc cầu thận, người ta chia tính trạng hoạt động chức năng của thận thành các giai đoạn như sau:

Giai đoạn 1: Độ lọc cầu thận lớn hơn hoặc bằng 90 ml/phút/1.73m2.

Chức năng thận vẫn hoạt động bình thường

Lâm sàng có một vài biểu hiện triệu chứng bất thường cảnh báo nguy cơ tổn thương thận như xét nghiệm nước tiểu có máu dương tính, nồng độ protein cao…

Giai đoạn 2: Độ lọc cầu thận trong khoảng từ 60 – 90 ml/phút/1.73m2.

Chức năng hoạt động của thận bị suy giảm nhẹ.

Có thể có hoặc chưa có các biểu hiện trên lâm sàng. Lưu ý với những trường hợp lâm sàng bệnh nhân chưa có biểu hiện triệu chứng, không vội vàng kết luận chẩn đoán mà cho theo dõi bệnh nhân thêm một thời gian nữa, kiểm soát cả về chỉ số xét nghiệm cận lâm sàng và các dấu hiệu lâm sàng.

Giai đoạn 3: Giai đoạn này có 2 mức độ khác nhau: giai đoạn 3A, độ lọc cầu thận từ 45 – 59 ml/phút/1.73m2. Giai đoạn 3B, độ lọc cầu thận nằm trong khoảng từ 3- – 40 ml/phút/1.73m2.

Chức năng hoạt động của thận bị suy giảm ở mức trung bình.

Lâm sàng có hoặc không có các bệnh lý về thận.

Giai đoạn 4: Độ lọc cầu thận ở khoảng từ 15 – 29 ml/phút/1.73m2.

Giai đoạn 5: Ở giai đoạn này, độ lọc cầu thận xuống thấp, dưới 15 ml/phút/1.73m2.

3. Những lưu ý khi làm xét nghiệm độ thanh lọc cầu thận

Các trường hợp bệnh nhân có cơ bắp không hoạt động như bị liệt vận động, teo cơ…

Người bị dị tật bẩm sinh hay do tai nạn chấn thương dẫn đến bị thiếu một phần chi, có thể là thiếu một tay, một chân hay thiếu cả hai

Trường hợp bị suy dinh dưỡng hay bị suy thận cấp

Các bệnh nhân bị phù, tăng tích nước trong cơ thể

Phụ nữ có thai và trẻ em

Một số loại thuốc điều trị có thể làm thay đổi lượng creatinin trong máu như thuốc giảm đau chống viêm non-steroid, thuốc hạ cholesterol máu, thuốc chống nấm, thuốc kháng sinh, thuốc chống virus…

Trong cơ thể, thận là một bộ phận quan trọng, giữ vai trò chủ chốt trong việc lọc máu và tạo ra nước tiểu để bài tiết chất thải ra ngoài. Khi thận bị suy giảm hoạt động chức năng sẽ dẫn tới rất nhiều hệ quả khác mà có thể gây ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe người bệnh. Việc làm xét nghiệm kiểm tra và đánh giá mức lọc cầu thận là hoàn toàn cần thiết để có thể giúp hỗ trợ cho việc định hướng chẩn đoán cũng như tiên lượng bệnh và đưa ra phương hướng điều trị kịp thời, tránh những biến chứng về sau.

Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đăng ký trực tuyến TẠI ĐÂY.

Các Xét Nghiệm Đánh Giá Chức Năng Thận

Xin Bs cho biết các xét nghiệm đánh giá chức năng thận, xin cảm ơn bs;

Trả lời: Thận là cơ quan chủ yếu của hệ tiết niệu. Hệ tiết niệu chịu trách nhiệm sản xuất, trữ và thải nước tiểu ra khỏi cơ thể. Thông qua việc bài tiết nước tiểu, cơ thể thải ra ngoài các chất độc và giữ thăng bằng cho môi trường bên trong cơ thể. Ngoài ra, thận cũng còn là một tuyến nội tiết tham gia vào việc tạo máu và điều hòa huyết áp động mạch.

Giải phẫu và sinh lý hệ tiết niệu

Bình thường, mỗi người có 2 thận nằm hai bên cột sống, ở vùng thắt lưng, là nơi sản xuất ra nước tiểu. Mỗi thận có 1 ống gọi là niệu quản, dẫn nước tiểu do thận sản xuất đến tích trữ ở bàng quang. Bàng quang ở vị trí thấp của bụng, là nơi chứa nước tiểu và tống xuất ra ngoài từng đợt mỗi khi bàng quang đầy. Niệu đạo là ống nối từ bàng quang đưa nước tiểu ra khỏi cơ thể. Hệ tiết niệu của nam và nữ hoàn toàn giống nhau, chỉ trừ chiều dài niệu đạo của nam dài hơn nữ

Tùy theo lượng nước cung cấp, trọng lượng, điều kiện môi trường.. cơ thể mỗi người thải ra 1-2 lít nước tiểu mỗi ngày. Nếu lượng nước tiểu nhiều hơn 2,5 lít, gọi là đa niệu. Lượng nước tiểu ít hơn 400ml là thiểu niệu và ít hơn 100ml là vô niệu.

Việc hình thành và bài tiết nước tiểu giúp cho cơ thể:

– Thải bỏ lượng nước thừa, qua đó kiểm soát thể tích máu lưu hành và áp lực máu

Thải bỏ các chất độc hình thành do quá trình chuyển hóa các chất bên trong cơ thể (chủ yếu là urea và acid uric)

– Điều hòa các chất điện giải của môi trường trong cơ thể

– Giữ thăng bằng kiềm- toan trong cơ thể

Các xét nghiệm đánh giá chức năng thận:

Tình trạng thận chỉ có thể đánh giá chính xác bằng cách sinh thiết thận, đọc các cấu trúc của các đơn vị thận dưới kính hiển vi. Các xét nghiệm hiện nay chỉ đánh giá tương đối chức năng thận, vì thế cần kết hợp nhiều xét nghiệm.

1.Các xét nghiệm sinh hóa:

Creatinin, BUN (Blood Urea Nitrogen) là các sản phẩm của quá trình chuyển hóa đạm của cơ thể, được thận thải ra qua nước tiểu. Trị số bình thường thay đổi tùy theo phòng xét nghiệm. Trung bình, BUN: 6-24 mg/dL (tương đương 2,5-8 mmol/L), creatinin: 0,5-1,2mg/dL (tương đương 45-110 mmol/L). Các chỉ số này tăng lên trong máu khi chức năng thận xấu đi.

Để chính xác hơn, người ta thường làm song song xét nghiệm urea/ máu và urea/ nước tiểu, creatinine/máu và creatinine/ nước tiểu. Từ đó tính ra độ thanh thải creatinine. Bình thường, độ thanh thải creatinine 70-120mL/phút. Độ thanh thải creatinine giảm phản ánh sự suy giảm chức năng thận

2. Điện giải đồ: rối loạn chức năng thận gây ra mất cân bằng các chất điện giải trong cơ thể.

Sodium (Natri):Natri máu bình thường 135-145 mmol/L. Người suy thận, natri máu giảm, có thể do nguyên nhân mất natri qua da, qua đường tiêu hóa, qua thận nhưng cũng có thể do thừa nước. Các triệu chứng lâm sàng của giảm natri máu chủ yếu ở hệ thần kinh đi từ nhẹ đến nặng: nhức đầu, buồn nôn, lừ đừ, hôn mê, co giật.

Potasium (kali): Kali máu bình thường 3,5- 4,5 mmol/L. Tăng kali máu ở bệnh nhân suy thân do thận giảm thải kali. Các triệu chứng của tình trạng tăng kali từ nhẹ đến nặng: mệt mỏi, dị cảm, mất phản xạ, liệt cơ, rối loạn nhịp tim.

Canxi máu: canxi máu bình thường 2.2-2.6 mmol/L. Suy thận có biểu hiện giảm canxi máu kèm theo tăng phosphat. Triệu chứng hạ canxi máu chủ yếu là dấu kích thích thần kinh cơ gồm tăng phản xạ gân xương, co cứng cơ, co giật, rối loạn nhịp tim.

3. Rối loạn cân bằng kiềm toan:

Bình thường pH máu được duy trì ở mức 7,37 – 7,43 cho phép hoạt động tối ưu của các men tế bào, yếu tố đông máu và các protein co cơ. Suy thận làm giảm thải các acid hình thành trong quá trình chuyển hóa của cơ thể hoặc mất bicarbonat gây tình trạng toan chuyển hóa cho cơ thể. Toan hóa máu làm loạn nhịp tim, rối loạn hô hấp (thở nhanh kiểu Kussmaul), làm nặng thêm tình trạng tăng kali máu. Đánh giá tình trạng toan máu bằng cách đo pH máu hoặc gián tiếp bằng bicarbonat.

4. Acid uric máu: trung bình ở nam: 5,1 ± 1,0 mg/dL (420 μmol/lít) nữ 4,0 ± 1mg/dL (360 μmol/lít). Acid uric máu tăng có thể là nguyên nhân gây tổn thương thận, nhưng cũng có thể là hậu quả do bị suy thận không thải được.

Acid uric máu tăng cũng có thể gợi ý bệnh nhân có kèm theo sỏi của hệ tiết niệu.

5. Tổng phân tích nước tiểu

Tỷ trọng nước tiểu: Tỷ trọng NT bình thường: 1,01 – 1,020 (nước tiểu 24h của người lớn ăn uống bình thường có tỷ trọng từ 1,016 – 1,022). Giảm chức năng thận giai đoạn sớm sẽ làm giảm độ cô đặc của nước tiểu, dẫn đến giảm tỷ trọng nước tiểu. Trong trường hợp nghi ngờ, bệnh nhân sẽ được làm thêm: so sánh tỷ trọng nước tiểu ngày và đêm, nghiệm pháp pha loãng nước tiểu, nghiệm pháp cô đặc nước tiểu….

6. Định lượng protein nước tiểu 24 giờ

Protein: một mẫu tổng phân tích nước tiểu có protein không thể đánh giá chính xác tình trạng tổn hại của các cầu thận, nhưng có tính gợi ý để bệnh nhân được chỉ định làm tiếp xét nghiệm định lượng đạm niệu 24 giờ .

7. Albumin huyết thanh 8. Protein toàn phần huyết tương

Bình thường: Protein trong nước tiểu = 0 – 0,2 g/24h.

Bình thường, albumin huyết thanh có khoảng 35 – 50 g/L, chiếm 50 – 60% protein toàn phần. Albumin giảm mạnh trong bệnh lý cầu thận cấp.

Bình thường: 60 – 80 g/L

Protein toàn phần huyết tương phản ánh chức năng lọc của cầu thận. Giảm protein toàn phần nhiều hơn trong các bệnh thận khi màng lọc cầu thận bị tổn thương.

Tình trạng giảm số lượng hồng cầu ở một bệnh nhân suy thận chứng tỏ đây là suy thận mạn, đặc biệt là khi có giảm số lượng hồng cầu kèm theo không tăng hoặc giảm hồng cầu lưới.

Đôi khi có thiếu máu thiếu sắt do kèm theo mất máu qua đường tiêu hóa.

Phát hiện được tình trạng thận ứ nước do tắc nghẽn niệu quản. Nếu thận ứ nước hai bên có thể gây ra suy thận cấp hoặc suy thận mạn.

12. Xạ hình thận bằng đồng vị phóng xạ

Phát hiện được các trường hợp bệnh lý thận đa nang bẩm sinh, di truyền.

Có thể gợi ý bệnh lý thận mạn tính qua hình ảnh siêu âm thấy thận có kích thước nhỏ, thay đổi cấu trúc, mất phân biệt vỏ tủy hoặc thận có nhiều nang.

Chỉ định các xét nghiệm chức năng thận

Là phương pháp thăm dò hình ảnh cho phép nhìn thấy rõ hình ảnh toàn bộ hệ tiết niệu.

Chỉ sử dụng trong các trường hợp nghi ngờ suy thận do tắc nghẽn đường tiết niệu.

Phương pháp chụp có tiêm thuốc cản quang bằng máy chụp đa lát cắt cho phép dựng hình lại toàn bộ đường tiết niệu, có thể phát hiện được vị trí và nguyên nhân gây bế tắc niệu quản.

Là xét nghiệm duy nhất cho phép đánh giá chức năng thận từng bên.

Phương pháp này nhìn rõchức năng lọc của từng thận, tỷ lệ phần trăm tưới máu và tham gia chức năng của từng thận.

Nếu có làm thêm nghiệm pháp tiêm thuốc lợi tiểu, xét nghiệm này cũng cho phép đánh giá mức độ tắc nghẽn niệu quản 2 bên.

Kiểm tra sức khỏe định kỳ mỗi năm, chỉ làm các xét nghiệm đơn giản có tính định hướng: xét nghiệm sinh hóa máu, tổng phân tích nước tiểu, công thức máu, siêu âm bụng.

Tiền căn gia đình có các bệnh di truyền về thận hoặc có người thân bị suy thận: xét nghiệm sinh hóa máu, tổng phân tích nước tiểu, công thức máu, siêu âm bụng, các xét nghiệm chuyên biệt về di truyền.

Khi lâm sàng có các biểu hiện suy thận:xét nghiệm sinh hóa máu, tổng phân tích nước tiểu, công thức máu, siêu âm bụng. Nếu tìm thấy các nguyên nhân gây tắc nghẽn hệ niệu, làm thêm các xét nghiệm hình ảnh. Nếu không tìm thấy tắc nghẽn, có thể sinh thiết thận.

Lưu ý: Chữa bệnh theo chỉ định của Bác sĩ