Xét Nghiệm Chức Năng Gan Gồm Những Gì

Xét nghiệm chức năng gan gồm những gì?

Gan là cơ quan đảm nhận nhiều chức năng quan trọng của cơ thể, đảm bảo cho mọi hoạt động được diễn ra bình thường. Tuy nhiên gan cũng là cơ quan dễ bị tổn thương do nhiều nguyên nhân như virus, rượu bia, chế độ ăn uống không hợp lý… Biểu hiện ra bên ngoài là các triệu chứng mệt mỏi, chán ăn, nổi mụn, vàng da… Tuy nhiên các dấu hiệu này lại khá mờ nhạt, khiến người bệnh lơ là, đến khi thăm khám thì bệnh đã ở giai đoạn nặng, điều trị khó khăn. Chính vì vậy mà bệnh nhân cần phải thăm khám thường xuyên, thực hiện xét nghiệm để kịp thời phát hiện bệnh.

Một trong những xét nghiệm quan trọng được sử dụng thường xuyên trong việc đánh giá tình trạng hoạt động của gan đó là xét nghiệm chức năng gan. Tùy từng bệnh mà người ta sẽ lựa chọn thực hiện xét nghiệm thích hợp. Người ta có thể xếp một số xét nghiệm chức năng vào một số nhóm như:

➢ Xét nghiệm Alanine Trasaminase (ALT) và Aspartate Aminotransferase (AST)

ALT là một enzyme được cơ thể sử dụng để chuyển hóa protein. Trong khi AST lại được tìm thấy nhiều ở một số bộ phận khác trên cơ thể như tim, gan, cơ… Một khi gan bị tổn thương hoặc hoạt động không bình thường, ALT sẽ được giải phóng vào máu, khiến nồng độ ALT trong máu tăng cao. Kết quả ALT trong máu cao có thể là dấu hiệu cảnh báo tổn thương gan. ALT là minh chứng cảnh báo tổn thương gan rõ ràng hơn AST vì đa phần nó chỉ tồn tại trong gan. Bên cạnh đó, AST cũng được giải phóng vào máu khi gan bị tổn thương. Kết quả kiểm tra cho AST trong máu tăng cao cảnh báo cả những vấn đề ở gan hoặc cả ở cơ.

ALP là một loại enzyme tồn tại nhiều trong gan, túi mật hoặc xương. Xét nghiệm ALP thường được kết hợp với một số xét nghiệm khác để đưa ra kết luận chính xác nhất. Khi ALP tăng cao có thể là dấu hiệu cảnh báo những tổn thương tại gan, ứ đọng ở túi mật hay thậm chí là các bệnh về xương.

Tuy nhiên ở những đối tượng như trẻ em và thanh thiết niên sẽ có chỉ số ALP tăng cao do đang trong giai đoạn phát triển. Phụ nữ mang thai cũng có thể gặp phải tình trạng này.

Chỉ số albumin bình thường duy trì ở mức từ 35-55g/l, nếu kết quả albumin thấp có thể chỉ ra rằng gan đang hoạt động kém, có tổn thương xảy ra.

Bilirubin được sản xuất từ huyết sắc tố (hemoglobin). Huyết sắc tố này là một hóa chất trong tế bào hồng cầu được giải phóng khi các tế bào hồng cầu bị vỡ. Bilirubin sẽ phải đi qua gan trước khi được bài tiết qua phân. Khi kết quả kiểm tra cho thấy bilirubin tăng cao sẽ cảnh báo các tổn thương gan hoặc các bệnh lý về gan.

GGT là một enzyme trong máu, một khi nồng độ cao hơn bình thường sẽ cảnh báo cho tình trạng gan bị tổn thương hoặc ống dẫn mật bị hư hại.

Xét nghiệm chức năng gan là một xét nghiệm quan trọng trong việc nhận biết các bệnh lý về gan. Dựa vào kết quả xét nghiệm, các bác sĩ chuyên khoa sẽ có những kết luận cụ thể nhất về tình trạng bệnh sau đó đưa ra phương án điều trị thích hợp nhất.

Được đầu tư hệ thống trang thiết bị hiện đại trong đó có các máy móc tiên tiến phục vụ cho công tác xét nghiệm cùng với hệ thống phòng xét nghiệm đạt tiêu chuẩn cao cấp, chính vì vậy, thực hiện xét nghiệm chức năng gan tại phòng khám Đa khoa Hồng Phong sẽ là sự lựa chọn hoàn hảo để đem lại kết quả chính xác nhất dành cho bạn.

Đến đây, bạn sẽ được thăm khám trực tiếp bởi các bác sĩ chuyên khoa gan hàng đầu, nhiều năm kinh nghiệm trong thăm khám và điều trị các bệnh lý gan mật với thái độ ân cần và chu đáo nhất.

Thời gian hoạt động: 8:00 – 20:00 mỗi ngày kể cả các ngày lễ tết.

PHÒNG KHÁM ĐA KHOA HỒNG PHONG

Địa chỉ phòng khám: 160-162 Lê Hồng Phong, phường 3, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

Xét Nghiệm Chức Năng Gan Gồm Những Gì?

Nhiều người băn khoăn không biết xét nghiệm chức năng gan gồm những gì? Vốn dĩ gan là một bộ phận quan trọng trong cơ thể đảm nhiệm chức năng lọc các chất dinh dưỡng và đào thải các độc tố ra bên ngoài. Thông thường, việc thực hiện xét nghiệm chức năng gan thường được sử dụng khi phát hiện thấy những dấu hiệu bất thường về các bệnh lý ở gan. Không chỉ có vậy, xét nghiệm chức năng gan còn giúp bác sĩ theo dõi và đánh giá tình trạng gan trong quá trình điều trị và sử dụng thuốc. Bài viết sau đây sẽ chỉ ra các xét nghiệm cần thiết giúp đánh giá chức năng gan như sau.

Các trường hợp bạn nên thực hiện xét nghiệm chức năng gan

Xét nghiệm chức năng gan được chỉ định trong các trường hợp bác sĩ nghi ngờ gan có những dấu hiệu bị tổn thương, hoặc trong một quá trình điều trị bệnh lý cần sử dụng thuốc kéo dài nghi ngờ có thể ảnh hưởng tới chức năng gan. Hay trường hợp, người bệnh đang trong quá trình điều trị các bệnh lý về gan, thì bác sĩ cũng có thể chỉ định bạn nên thực hiện xét nghiệm chức năng gan để đánh giá tình trạng hiện tại của gan và từ đó có các biện pháp xử lý hay hỗ trợ tốt nhất.

Có các biểu hiện nghi ngờ tổn thương gan như: vàng da, vàng mắt, buồn nôn, …

Kiểm tra tình trạng tổn thương do virus viêm gan như virus viêm gan B, virus viêm gan C.

Người uống nhiều rượu hoặc nghiện rượu

Bệnh lý về túi mật

Bệnh tiểu đường, cao huyết áp hoặc thiếu máu

Người có tiền sử mắc các bệnh lý về gan, hoặc theo dõi trong và sau quá trình điều trị gan.

Theo dõi tác dụng phụ của một số thuốc ảnh hưởng đến gan,…

Xét nghiệm chức năng gan gồm những gì?

Việc thực hiện chức năng gan được phân theo các nhóm cụ thể, giúp đánh giá tình trạng tổn thương gan ở từng mức độ như sau:

Nhóm xét nghiệm đánh giá tình trạng hoại tử gan

Bao gồm các xét nghiệm sau: ALT, AST, Ferritin

– Alanin aminotransferase (ALT)

Khi gan bị tổn thương, nồng độ ALT khi xét nghiệm sẽ tăng hơn mức bình thường. Bình thường ALT <40 UI/L.

– Aspartate aminotransferase (AST)

Giúp đánh giá tình trạng men gan và khả năng hoại tử tế bào gan. Ở người trưởng thành, nồng độ AST và ALT của nam cao hơn của nữ và mức bình thường là AST <40 UI/L.

– Ferritin

Bình thường, ferritin ở nam là 30 – 400 ng/mL, và ở nữ là 15 -150 ng/mL.

Nhóm xét nghiệm đánh giá chức năng bài tiết và khử độc

– Bilirubin

Bilirubin là sản phẩm chuyển hóa của hemoglobin và các enzyme. Bilirubin gồm 2 thành phần chính là bilirubin trực tiếp (TT) và gián tiếp (GT). Bình thường, bilirubin toàn phần TP là 0,8-1,2mg/dL; GT là 0,6-0,8mg/dL; TT là 0,2-0,4mg/dL.

– Urobilinogen

Là chuyển hóa của bilirubin tại ruột, được tái hấp thụ vào máu theo chu trình ruột – gan và sau đó được bài tiết qua nước tiểu. Bình thường Urobilinogen 0,2-1,2 đơn vị.

– Phosphatase kiềm (ALP)

Khi ALP tăng có thể là dấu hiệu của các bệnh gan như áp-xe, u hạt, thoái hóa dạng bột.

– GGT

GGT có nhiều tại ống mật. Xét nghiệm GGT giúp đánh giá chức năng bài tiết của gan, tuy nhưng nhiên không đặc hiệu vì còn phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố. GGT bình thường dao động ở mức: GGT <30U/L ở nữ và <50U/L ở nam.

Nhóm xét nghiệm khảo sát chức năng tổng hợp

– Protein máu

Protein máu phần lớn được tổng hợp từ gan và bao gồm: Albumin huyết thanh (bình thường là 35-55g/L); Globulin huyết thanh (bình thường là 20 – 35g/L).

– Điện di protein huyết thanh

Khi bệnh nhân bị viêm gan mạn tính hoặc xơ gan, đặc biệt là xơ gan do rượu thì biểu đồ điện di có sự thay đổi. Các bác sĩ sẽ căn cứ vào biểu đồ và đưa ra kết luận chính xác.

Ngoài các xét nghiệm đánh giá chức năng gan như trên, người ta còn sử dụng thêm một số các xét nghiệm để khảo sát trước khi phẫu thuật cắt gan, ghép gan hoặc được sử dụng trong nghiên cứu như:

– Đo độ thanh lọc BSP (bromosulfonephtalein).

– Đo độ thanh lọc indocyanine green.

– Đo độ thanh lọc antipyrine.

– Test hơi thở aminopyrine.

– Đo độ thanh lọc caffeine.

– Đo khả năng thải trừ glactose.

Địa chỉ xét nghiệm chức năng gan và điều trị các bệnh lý về gan hiệu quả nhất

Hệ thống y tế Thu Cúc với đơn vị xét nghiệm đạt tiêu chuẩn quốc tế ISO 15189:2012. Quy tụ đội ngũ Giáo sư, Bác sĩ chuyên khoa Gan – mật uy tín hiện nay. Giúp chẩn đoán chính xác các bệnh lý gan mật và điều trị thành công nhiều ca bệnh về gan như viêm gan, viêm gan virus B, xơ gan,…

Cùng đội ngũ bác sĩ chuyên môn giỏi; hệ thống trang thiết bị máy móc hiện đại; chất lượng phục vụ chu đáo, chuyên nghiệp – Chuyên khoa Gan – mật Thu Cúc là địa chỉ UY TÍN được rất nhiều người bệnh và người bệnh tin tưởng, lựa chọn.

Xét Nghiệm Các Chức Năng Gan Bao Gồm Những Gì

Gan được coi như quả tim thứ 2 của cơ thể bởi nó làm rất nhiều chức năng duy trì sự sống cho cơ thể, tuy nhiên gan cũng rất dễ bị tổn thương. Để kiểm tra sự bất thường ở gan, người bệnh sẽ được bác sĩ chỉ định thực hiện xét nghiệm chức năng gan khi cần thiết. Sau xét nghiệm, dựa vào kết quả có được, bác sĩ có thể đánh giá các chức năng khác nhau của gan hoặc có căn cứ để nói về những tổn thương mà gan đang mắc phải.

Khi nào cần kiểm tra chức năng gan

Thường những người đang có các triệu chứng hay các bệnh lý về gan nên tiến hành xét kiệm để kiểm tra gan.

Khi cơ thể có các dấu hiệu mệt mỏi, sốt, đau đầu, chán ăn, buồn nôn, nôn, đau nhức vùng hạ sườn phải thì nên tiến hành kiểm tra bởi đây là dấu hiệu các bệnh về gan như gan bị virus viem gan B,C,D tấn công , hay những người uống rượu lâu năm,dùng thuốc, người bị béo phì thường dễ khiến gan bị tổn thương nhất.

Các dấu hiệu của bệnh dù không rõ ràng nên người bệnh không bận tâm, đến khi đi kiểm tra thì bệnh thường đã ở giai đoạn nặng. Các bác sĩ khuyến khích mỗi người nên khám sức khỏe thường xuyên để phát hiện sớm bệnh.

Xét nghiệm chức năng gan là một trong những xét nghiệm sinh hóa, được dùng để chỉ định trong việc đánh giá được các chức năng khác nhau của tế bào gan. Qua đó có thể khẳng định được sự phỏng đoán trước đó về việc gan của bạn đã bị tổn thương, và mức độ tổn thương hiện tại như thế nào.

Xét nghiệm chức năng gan gồm những gì

Xét nghiệm chức năng gan bao gồm việc bác sĩ sẽ định lượng một số enzym và kiểm tra nồng độ protein trong máu của người bệnh. Từ kết quả xét nghiệm cho thấy nồng độ enzym và protein trong máu tĩnh mạch cao hơn hay thấp hơn mức bình thường, có thể dẫn đến sự bất thường ở gan một cách chính xác nhất.

► Kiểm tra Men gan có tên là men transaminase, gồm có : AST (SGOT), ALT (SGPT) , ALP và gamma GT (GGT).

Men AST (Aspartat transaminase) hay còn gọi là SGOT: là một enzym hiện diện ở các mô có hoạt động chuyển hóa mạnh, với nồng độ thấp dần trong tim, gan, cơ, thận, não, tụy, lách và phổi.

Men ALT (Alanin aminotransferase) hay còn gọi là SGPT có nhiều ở gan và có ít ở thận, tim và cơ.

Men GGT: Gamma Glutamyl Transferase( gamma GT) : Là một enzyme của màng tế bào, tham gia vào quá trình trao đổi các axit amin qua màng tế bào. Gamma GT là men đầu tiên bị thay đổi chỉ số khi xảy ra các bệnh lý gan và đường mật.

Men ALP: có trong xương, gan, ruột.

Bảng chỉ số men gan ở người bình thường

Khi các tế bào chết đi sẽ giải phóng một lượng men gan vào máu với nồng độ ở mức cho phép và chỉ số này gần như cố định, nếu các chỉ số này tăng cao chứng tỏ lượng men gan trong máu cũng tăng cao. Thông thường chỉ số men gan sẽ tỉ lệ thuận với tình trạng hư tổn của gan.

► Xét nghiêm Albumin và tổng số protein: Albumin là một trong những protein được tạo ra trong gan. Cơ thể cần những protein này để chống nhiễm trùng và để thực hiện các chức năng khác. Nồng độ albumin và tổng số protein thấp là dấu hiệu cảnh báo có tổn thương ở gan hoăc bệnh về gan. Ở người lớn chỉ số Albumin bình thường ở mức 3.5-.4,8 g/Dl , trẻ từ 0-4 tháng tuổi chỉ số này rơi vào khoảng 2,0 – 4,5 g/dL, trẻ từ 4 tháng-16 tuổi là 3,2 – 5,2 g/dL.

► Kiểm tra Bilirubin: Bilirubin được sản xuất từ huyết sắc tố (hemoglobin). Huyết sắc tố là một hóa chất trong tế bào hồng cầu được phóng thích khi các tế bào hồng cầu bị phá vỡ. Bilirubin đi qua gan và được bài tiết trong phân. Khi gan bị tổn thương sẽ không thể hấp thu cũng như giải phóng được Bilirubin làm lượng Bilirubin trong máu tăng cao. Kiểm tra nồng độ bilirubin cao có thể chỉ ra tổn thương gan hoặc bệnh lý gan. Bilirubin toàn phần trong huyết thanh gồm Bilirubin gián tiếp (70%) và Bilirubin trực tiếp (30%). Bình thường ở người lớn, chỉ số Bilirubin toàn phần là 1.2 mg/DL . Nếu nồng độ Bilirubin tăng cao hơn bình thường chứng tỏ gan đang có vấn đề cần điều trị.

Xét nghiệm máu đông: Gan sản xuất protein cần thiết cho quá trình đông máu. Khi gan bị rối loạn chức năng không thể sản xuất đầy đủ các loại protein và do đó làm cho quá trình đông máu chậm lại. Do đó kiểm tra đông máu có thể được sử dụng như một dấu hiệu đánh giá mức độ nghiêm trọng của các rối loạn chức năn gan nhất định.

Trước khi tiến hành cá c xét nghiệm chức năng gan , nên để bụng đói và ngưng một số loại thuốc để tránh ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm.

Việc xét nghiệm chức năng gan là bước kiểm tra cần thiết giúp phát hiện và điều trị bệnh chính xác. Bệnh nhân nên tiến hành kiểm tra ở các phòng khám chuyên về gan để có kết quả tốt nhất. khi có bất cứ thắc mắc nào cần giải đáp hãy gọi ngay đến số 028.3924.2222 hoặc tới địa chỉ 160-162 Lê Hồng Phong,P3, Q5, HCM phòng khám đa khoa Hồng Phong là một trong những nơi đi đầu về điều trị các bệnh về gan. Với đội ngũ y bác sĩ tận tình với bệnh nhân, giỏi chuyên môn có nhiều năm kinh nghiệm cùng trang thiết bị khám chữa bệnh tiên tiến nhất, phòng khám luôn cập nhật các phương pháp điều trị mới để phụ vụ đắc lực giúp người bệnh nhanh chóng lấy lại được sức khỏe của mình.

Các Xét Nghiệm Chức Năng Gan Bao Gồm Những Gì?

Ở bài viết sau đây THS BS Trần Quốc Khánh tại phòng khám đa khoa Pasteur sẽ gửi đến bạn đọc đầy đủ các kiến thức cũng như các xét nghiệm chức năng gan hiện nay để mọi người hiểu rõ hơn về vấn đề này cụ thể nhất.

1/ Tại sao gan quan trọng?

Gan là cơ quan lớn thứ hai trong cơ thể, nằm bên dưới lồng ngực ở bên phải. Gan nặng khoảng 1,4kg và có hình dáng như một quả bóng phẳng ở một bên. Gan thực hiện nhiều chức năng quan trọng đối với cơ thể. Nó chuyển hóa những gì bạn ăn thành năng lượng và chất dinh dưỡng mà cơ thể có thể sử dụng. Gan cũng loại bỏ các chất độc khỏi máu.

2/ Xét nghiệm chức năng gan là gì?

Các xét nghiệm chức năng gan giúp bác sĩ kiểm tra chức năng của gan và phát hiện các tổn thương gan. Những xét nghiệm máu này đo nồng độ protein và enzyme trong máu của bạn. Protein là những phân tử lớn cần thiết cho sức khoẻ tổng thể. Enzyme là các protein tế bào giúp các phản ứng hóa học quan trọng xảy ra trong cơ thể.

3/ Tại sao các xét nghiệm chức năng gan cần được thực hiện?

Xét nghiệm chức năng gan có thể được thực hiện vì nhiều lý do. Một số bác sĩ thực hiện các xét nghiệm này như là một phần của một lần khám sức khỏe định kì. Một số bác sĩ khác có thể sử dụng xét nghiệm.

4/ Xét nghiệm chức năng gan được sử dụng?

Người ta có thể xếp một số xét nghiệm chức năng gan thành các nhóm như sau:

Nhóm xét nghiệm đánh giá tình trạng hoại tử gan.

Nhóm xét nghiệm khảo sát chức năng bài tiết và khử độc.

Nhóm xét nghiệm khảo sát chức năng tổng hợp.

Các xét nghiệm khác.

a) Nhóm xét nghiệm đánh giá tình trạng hoại tử tế bào gan. Transaminase hay aminotransferase là những enzym nội bào, chuyển nhóm g-amin (-NH2) của aspartat và alanin đến nhóm g-keto của ketoglutarat để tạo thành acid oxaloacetic và pyruvic. Sự tăng của các enzym này phản ánh tình trạng tổn thương tế bào gan.

– AST (Aspartate aminotransferase) hay SGOT (Serum Glutamic Oxaloacetic Transaminase). Hiện diện trong bào tương và ty thể của tế bào. AST hiện diện ở cơ tim và cơ vân nhiều hơn ở gan. Ngoài ra, AST còn có ở thận, não, tụy, phổi, bạch cầu và hồng cầu. Bình thường AST < 40 UI/L.

– ALT (Alanine aminotransferase) hay SGPT (Serum Glutamic Pyruvic Transaminase). Hiện diện chủ yếu ở bào tương của tế bào gan cho nên sự tăng ALT nhạy và đặc hiệu hơn AST trong các bệnh gan. Bình thường ALT < 40 UI/L.

Ở người lớn, nồng độ của AST và ALT ở nam cao hơn nữ và cũng thay đổi theo tuổi và cân nặng. Các men này được phóng thích vào máu khi có tổn thương màng tế bào làm tăng tính thấm. Tuy nhiên, sự tăng men gan không tương quan hoàn toàn với tình trạng hoại tử tế bào gan.

Nguồn gốc và cơ chế đào thải AST và ALT vào trong máu vẫn chưa được biết rõ. Các transaminase tăng trong hầu hết các bệnh về gan nhưng không hoàn toàn đặc hiệu cho gan vì còn tăng trong các bệnh khác như nhồi máu cơ tim, tổn thương cơ vân (viêm cơ, loạn dưỡng cơ), cường giáp hoặc nhược giáp, bệnh celiac… Ngược lại, các enzyme này có thể bị giảm giả tạo khi có tăng urê máu. Sự tăng đơn thuần AST có thể gặp trong trường hợp macro-AST (AST được bám vào một globulin miễn dịch).

· Tăng vừa (< 300 UI/L) gặp trong viêm gan do rượu. Transaminase tăng chủ yếu là AST nhưng trị số không quá 2-10 lần giới hạn trên mức bình thường. Trong khi đó, ALT có thể bình thường hoặc thấp là do thiếu pyridoxal 5-phosphate (vitamin B6), là cofactor để tổng hợp ALT ở gan.

· Tăng nhẹ (< 100 UI/L) có thể gặp trong viêm gan virút cấp, nhẹ và bệnh gan mạn tính khu trú hay lan tỏa (xơ gan, viêm gan mạn, di căn gan) hoặc tình trạng tắc mật. Gần đây, người ta nhận thấy các trường hợp tăng nhẹ men gan thường gặp trong gan nhiễm mỡ. Đối với vàng da tắc mật, đặc biệt là trường hợp sỏi di chuyển vào ống mật chủ, ALT thường tăng < 500 UI/L (trong viêm túi mật cấp), hiếm khi ALT tăng đến 3.000 UI/L nhưng sau đó giảm nhanh trở về bình thường.

– Lactat dehydrogenase (LDH). Là xét nghiệm không chuyên biệt cho gan vì men này có ở khắp các mô trong cơ thể (tim, cơ, xương, thận, hồng cầu, tiểu cầu, hạch bạch huyết). Ngay cả men LDH5 tương đối đặc hiệu cho gan nhưng cũng ít có giá trị trong việc xác định các bệnh gan-mật. LDH tăng cao và thoáng qua gặp trong hoại tử tế bào gan, sốc gan. Tăng LDH kéo dài kèm tăng ALP gợi ý đến các tổn thương thâm nhiễm ác tính ở gan.

– Ferritin. Là một loại protein dự trữ sắt ở trong tế bào, được cấu tạo gồm apoferritin gắn với sắt. Ferritin giữ nhiệm vụ điều chỉnh sự hấp thu sắt ở đường tiêu hóa tùy theo nhu cầu của cơ thể. Một số trường hợp viêm hoại tử tế bào gan cấp hoặc mạn tính, đặc biệt trong viêm gan virút C, ferritin tăng cao.

Bình thường, ferritin ở nam 100-300 mg/L, ở nữ 50-200 mg/L. Giảm ferritin gặp trong ăn thiếu chất sắt, thiếu máu thiếu sắt, ăn chay trường, xuất huyết rỉ rả, thiếu máu tán huyết mạn, người cho máu thường xuyên, chạy thận nhân tạo. Tăng ferritin còn gặp trong bệnh ứ sắt mô, bệnh ung thư (gan, phổi, tụy, vú, thận), bệnh huyết học (bệnh Hodgkin, bạch cầu cấp), hội chứng viêm và nhiễm trùng, bệnh thể keo (collagenosis), ngộ độc rượu, thiếu máu tán huyết, thalassemia…

b) Nhóm xét nghiệm khảo sát chức năng bài tiết và khử độc – Bilirubin

Bilirubin là sản phẩm chuyển hóa của hemoglobin và các enzym có chứa hem. Chín mươi lăm phần trăm bilirubin được tạo ra từ sự thoái biến của hồng cầu. Bilirubin gồm hai thành phần là bilirubin gián tiếp (GT) và bilirubin trực tiếp (TT). Bilirubin GT còn được gọi là bilirubin tự do, tan trong mỡ, gắn kết với albumin huyết tương nên không được lọc qua cầu thận.

· Tăng bilirubin GT (thuờng < 15 mg/dL): hiếm khi do bệnh gan, có thể do tăng sản xuất bilirubin (tán huyết, tạo hồng cầu không hiệu quả, tái hấp thu từ khối máu tụ) hoặc do giảm sự bắt giữ bilirubin tại tế bào gan (hội chứng Gilbert) hoặc giảm sự liên hợp bilirubin do thiếu men glucuronyl transferase (hội chứng Crigler-Najjar).

Nguyên nhân ứ mật có thể do các bệnh di truyền hiếm gặp (hội chứng Dubin-Johnson, hội chứng Rotor) hoặc do nguyên nhân mắc phải (thuốc, sỏi mật). Khi bilirubin TT tăng cao, có một phần bilirubin sẽ gắn với albumin huyết tương nên không bài tiết được qua nước tiểu.

Do vậy, tình trạng vàng da thường giảm chậm hơn sau khi nguyên nhân gây tắc mật đã được giải quyết. Phần bilirubin còn lại không gắn với albumin sẽ được bài tiết qua nước tiểu nên hạn chế được sự tăng bilirubin quá mức.

+ Bilirubin niệu

Chỉ hiện diện ở dạng bilirubin TT. Khi có bilirubin niệu, chắc chắn có vấn đề về gan mật. Bilirubin niệu được phát hiện nhanh chóng nhờ que nhúng. Kết quả có thể dương tính trước khi có vàng da rõ trên lâm sàng nhưng đến khi bệnh nhân hết vàng da, bilirubin niệu trở về âm tính trước khi giảm bilirubin huyết. Phenothiazine có thể làm cho kết quả bị dương tính giả khi sử dụng viên thử Ictotest.

– Urobilinogen

Là chất chuyển hóa của bilirubin tại ruột, được tái hấp thu vào máu theo chu trình ruột – gan và sau đó cũng được bài tiết qua nước tiểu. Trong trường hợp tắc mật hoàn toàn, sẽ không có urobilinogen trong nước tiểu. Urobilinogen tăng trong nước tiểu gặp trong trường hợp tán huyết (tăng sản xuất), xuất huyết tiêu hóa hoặc bệnh lý gan. Bình thường urobilinogen 0,2 – 1,2 đơn vị (phương pháp Watson).

– Phosphatase kiềm (alkalin phosphatase, ALP)

ALP là enzym thủy phân các ester phosphat trong môi trường kiềm (pH = 9). Nguồn gốc chủ yếu của ALP là ở gan và xương. Ở ruột, thận và nhau thai thì ít hơn. Bình thường ALP 25 – 85 U/L hoặc 1,4 – 4,5 đơn vị Bodansky hoặc 1,5 – 4,5 đơn vị King Armstrong.

Men ALP là xét nghiệm rất nhạy để phát hiện có tắc đường mật. Sự tăng ALP trong bệnh cảnh tắc mật là do đáp ứng của tế bào gan và tế bào biểu mô ống mật tăng tổng hợp enzym này chứ không hẳn là do sự trào ngược men vào trong máu hoặc do giảm thải trừ ALP đang lưu hành.

Sự tăng ALP do nguyên nhân ở gan thường đi kèm với sự tăng của men GGT và 5′-nucleotidase. Khi ALP tăng đơn thuần có thể là một dấu hiệu chỉ dẫn cho các bệnh gan do thâm nhiễm như ung thư, áp xe, u hạt, thoái hóa dạng bột.

ALP tăng nhẹ và vừa (hai lần bình thường) có thể gặp trong viêm gan, xơ gan, di căn hoặc thâm nhiễm ở gan (bệnh bạch cầu, lymphoma, sarcoidosis). ALP tăng cao (3-10 lần bình thường) thường do tắc mật trong hoặc ngoài gan. ALP có thể tăng sớm ngay cả khi tắc mật không hoàn toàn, lúc đó bilirubin máu có thể vẫn còn bình thường hoặc tăng nhẹ. Một khi ALP bình thường, ít nghĩ đến nguyên nhân do tắc mật.

ALP cũng không đặc hiệu cho gan vì còn tăng trong các bệnh ngoài gan như bệnh Paget của xương, hủy xương, nhuyễn xương, di căn xương, tăng PTH và một số bệnh ác tính khác. Khác với ALP có nguồn gốc từ xương, các isoenzym ở gan bền với nhiệt độ (56o C/15′) đồng thời có thể điện di để tách các isoenzym này. ALP còn tăng trong trường hợp tắc ruột non hoặc trong các điều kiện sinh lý như có thai, giai đoạn tăng trưởng xương ở trẻ em. ALP thấp có thể gặp trong suy giáp, thiếu máu ác tính, giảm chất kẽm, giảm ALP bẩm sinh và sự bùng phát của bệnh Wilson.

– 5′ Nucleotidase (5NT)

Đây là một ALP tương đối chuyên biệt cho gan, giúp xác định tình trạng tăng ALP là do gan hay do xương hoặc do các trạng thái sinh lý như trẻ em đang tuổi tăng trưởng hoặc phụ nữ có thai. Sự tăng 5NT có tương quan với mức tăng ALP. Bình thường 5NT 0,3 – 2,6 đơn vị Bodansky/dL

– g-glutamyl transferase , g-glutamyl transpeptidase (GGT, g-GT)

GGT xúc tác sự chuyển nhóm g-glutamyl từ những peptid như glutathion đến những acid amin khác và giữ vai trò vận chuyển acid amin. Mặc dù hiện diện ở nhiều cơ quan khác nhưng GGT được tìm thấy ở nồng độ cao trong tế bào biểu mô trụ của ống mật. Đây là một xét nghiệm rất nhạy để đánh giá rối loạn chức năng bài tiết của gan nhưng cũng không đặc hiệu do bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố.

Bình thường GGT # 30 U/L ở nữ và # 50 U/L ở nam. Nguyên nhân thường gặp nhất của tăng GGT đơn thuần là tình trạng nghiện rượu mạn tính, tắc mật, sau uống một số thuốc gây cảm ứng enzym ở gan (acetaminophen, phenytoin) và một số trường hợp gan nhiễm mỡ không do rượu. Thời gian bán hủy là 7-10 ngày nhưng ở người uống rượu, thời gian bán hủy này có thể kéo dài đến 28 ngày. Vì vậy, GGT là một chỉ dẫn để nhận biết bệnh nhân có còn tiếp tục uống rượu hay không. GGT còn được dùng để phân biệt với trường hợp tăng ALP do nguyên nhân ở xương.

– Amoniac máu (NH3)

NH3 được sản xuất từ chuyển hóa bình thường của protein trong cơ thể và do vi khuẩn sống ở đại tràng. Gan giữ nhiệm vụ khử độc NH3 bằng cách chuyển thành urê để thải qua thận. Cơ vân cũng giữ vai trò khử độc NH3 bằng cách gắn với acid glutamic để tạo thành glutamin. Những bệnh nhân bệnh gan nặng thường bị teo cơ do phá hủy cũng góp phần làm cho NH3 tăng cao. NH3 có thể tăng ở bệnh nhân bị tăng áp lực tĩnh mạch cửa nặng hoặc có shunt mạch máu cửa ở gan.

Bình thường NH3 máu 5-69 mg/dL. NH3 tăng trong các bệnh gan cấp và mạn tính. NH3 máu không phải là xét nghiệm đáng tin cậy để chẩn đoán bệnh não do gan. NH3 có thể trở về bình thường khoảng 48 – 72 giờ trước khi có cải thiện tình trạng thần kinh.

Nồng độ NH3 trong máu động mạch chính xác hơn trong máu tĩnh mạch vì không bị ảnh hưởng của NH3 từ ruột.

Gan là nơi duy nhất tổng hợp albumin cho cơ thể. Albumin duy trì áp lực keo trong lòng mạch và là chất vận chuyển các chất trong máu đặc biệt là thuốc. Bình thường albumin 35 -55 g/L. Do khả năng dự trữ của gan rất lớn và thời gian bán hủy của albumin kéo dài (khoảng 3 tuần) nên lượng albumin máu chỉ giảm trong các bệnh gan mạn tính (xơ gan) hoặc khi tổn thương gan rất nặng. Ở bệnh nhân xơ gan cổ trướng, lượng albumin giảm còn do bị thoát vào trong dịch báng.

Giảm albumin huyết thanh còn gặp trong suy dinh dưỡng hoặc bị mất albumin bất thường qua đường tiểu (hội chứng thận hư) hoặc qua đường tiêu hóa (viêm đại tràng mạn). Ở bệnh nhân bị vàng da sậm, albumin có thể bị giảm giả tạo là do bilirubin tăng cao gây cản trở việc định lượng albumin.

Được sản xuất từ nhiều nơi khác nhau trong cơ thể, bao gồm nhiều loại protein vận chuyển các chất trong máu và các kháng thể tham gia hệ thống miễn dịch thể dịch. Bình thường globulin 20 – 35 g/L.

Globulin bao gồm a1 globulin (a1-antitrypsin, TBG tức thyroxin-binding globulin, transcortin…), a2 globulin (haptoglobulin, ceruloplasmin. a2-macroglobulin…), b globulin (b1-transferrin, b-lipoprotein, các bổ thể…), g globulin (các kháng thể miễn dịch).

Trong xơ gan, các kháng nguyên từ vi khuẩn đường ruột không được tiêu diệt ở gan mà lại đi tắc theo các thông nối cửa-chủ nên tạo ra đáp ứng tăng kích thích tổng hợp ở hệ võng nội mô, làm cho g globulin tăng cao. Ngoài ra, kiểu tăng của các loại globulin cũng có thể gợi ý đến một số bệnh gan đặc biệt, ví dụ IgG tăng trong viêm gan tự miễn, IgM tăng trong xơ gan ứ mật nguyên phát.

– Điện di protein huyết thanh

Albumin: 35-55 g/L, chiếm 50-60%

a1 globulin: 2-4 g/L, chiếm 4,2-7,2%

a2 globulin: 5-9 g/L, chiếm 6,8-12%

g globulin: 6-11 g/L, chiếm 9,3-15%

g globulin: 7-17 g/L, chiếm 13-23%

Tỷ số albumin/globulin (A/G) đảo ngược (<1) gặp trong các bệnh viêm gan mạn tính; đặc biệt trong xơ gan là do giảm tổng hợp albumin và tăng tổng hợp g-globulin. Trong xơ gan do rượu, biểu đồ điện di protein máu có hình ảnh “b-g bloc” hay “cầu b-g” do sự tăng IgA làm cho hai đỉnh b và g nhập lại một vì khi điện di, IgA nằm giữa b và g globulin.

– Thời gian Prothrombin (PT) hay thời gian Quick (TQ)

Là thời gian chuyển prothrombin thành thrombin khi có sự hiện diện của thromboplastin và Ca++ cùng các yếu tố đông máu. TQ là một xét nghiệm khảo sát con đường đông máu ngoại sinh.

Bình thường TQ 12″ ± 1 (tương ứng với 80-100% hàm lượng prothrombin). Để chuẩn hóa kết quả PT, người ta thường chuyển đổi thành INR (International Normalized Ratio). Bình thường INR = 0,8-1,2.

Gan tổng hợp hầu hết các yếu tố đông máu như I (fibrinogen), II (prothrombin), V, VII, IX, X. Các yếu tố đông máu này có thời gian bán hủy ngắn (ngắn nhất là yếu tố VII, sau đó là X, IX). Sự tổng hợp các yếu tố đông máu ở gan cần có sự tham gia của vitamin K, ngoại trừ yếu tố V. Vì vậy, người ta dùng yếu tố V để phân biệt suy chức năng gan thật sự với tình trạng thiếu vitamin K.

Việc đo liên tục yếu tố V có thể giúp đánh giá tiên lượng trong suy gan bùng phát (tiên lượng xấu khi giá trị < 20% mức bình thường). Đo yếu tố II (des-gamma-carboxyprothrombin) cũng có thể đánh giá được chức năng gan. Yếu tố II tăng gặp trong xơ gan, ung thư gan, sử dụng thuốc kháng đông (coumarine). Khi tiêm vitamin K, yếu tố II sẽ trở về bình thường nếu là do sử dụng kháng đông, còn nếu do các bệnh gan thì yếu tố này vẫn còn bất thường.

Khi PT kéo dài thường là dấu hiệu tiên lượng nặng. Thiếu vitamin K do tắc mật kéo dài hay rối loạn hấp thu mỡ (tiêu chảy mỡ, viêm tụy mạn) cũng làm PT kéo dài nhưng khi tiêm 10 mg vitamin K, PT sẽ trở về ít nhất 30% mức bình thường trong vòng 24 giờ (nghiệm pháp Kohler). Trước khi phẫu thuật hoặc làm sinh thiết gan, phải kiểm tra chức năng đông máu.

d) Các xét nghiệm định lượng chức năng gan

Ngoài các xét nghiệm thường quy đánh giá chức năng gan, người ta còn thực hiện một số các xét nghiệm có thể giúp đánh giá định lượng chức năng hiện tại của gan. Các xét nghiệm này thường chỉ được sử dụng để khảo sát trước khi phẫu thuật cắt gan, ghép gan hoặc dùng trong nghiên cứu.

Đo độ thanh lọc BSP (bromosulfonephtalein)

Đo độ thanh lọc indocyanine green

Đo độ thanh lọc antipyrine

Test hơi thở aminopyrine

Đo độ thanh lọc caffeine

Đo khả năng thải trừ galactose

5/ Chuẩn bị làm xét nghiệm chức năng gan như thế nào? 6/ Khoảng bình thường của các xét nghiệm chức năng gan là gì?

Các khoảng bình thường cho các xét nghiệm chức năng gan có thể khác nhau theo tuổi tác, giới tính và các yếu tố khác. Các kết quả xét nghiệm thường được đính kèm các khoảng bình thường của xét nghiệm chức năng gan đó.

…..

Nếu bạn đọc còn thắc hay cần tư vấn trao đổi rõ hơn về các xét nghiệm chức năng gan hiện nay có thể liên hệ trực tiếp đến hotline 023 63811868 của phòng khám pasteur để được các bác sĩ chuyên sâu thăm khám và đưa ra những lời khuyên tốt nhất

Xét Nghiệm Đánh Giá Chức Năng Gan Gồm Những Gì?

1. Xét nghiệm đánh giá chức năng gan là gì?

Xét nghiệm đánh giá chức năng gan là một trong những xét nghiệm sinh hóa cơ bản được chỉ định để đánh giá các chức năng khác nhau của gan. Khi người bệnh có dấu hiệu sút cân không rõ nguyên nhân, nghiện rượu, có các bệnh lý về gan: mệt mỏi, chán ăn, vàng da, da sạm, hay trong suốt quá trình theo dõi điều trị khi sử dụng thuốc cũng được chỉ định làm xét nghiệm này.

Ngoài ra, bệnh nhân có biểu hiện lâm sàng như vàng da, buồn nôn, nôn liên tục là những dấu hiệu bất thường có thể bị bệnh gan, bác sĩ sẽ chỉ định thực hiện xét nghiệm để đưa ra kết quả chính xác.

Các xét nghiệm đánh giá chức năng gan được tiến hành bằng cách lấy máu tĩnh mạch. Nếu bệnh nhân đang trong quá trình sử dụng thuốc nào khác thì cần nêu rõ vì có thể sẽ làm thay đổi kết quả của xét nghiệm.

Thực hiện các xét nghiệm để đánh giá tình trạng của gan

2. Các trường hợp nên sử dụng xét nghiệm đánh giá chức năng gan

Có một số trường hợp khác cần sử dụng xét nghiệm đánh giá chức năng gan như:

– Kiểm tra tổn thương do virus gây viêm gan như virus viêm gan B, viêm gan C.

– Theo dõi tác dụng phụ của một số loại thuốc có ảnh hưởng đến gan.

– Bệnh túi mật.

– Những người uống nhiều rượu hay thậm chí có khả năng nghiện rượu.

– Người gặp các triệu chứng rối loạn chức năng gan.

– Tiền sử bệnh gan, theo dõi hiệu quả sau quá trình điều trị.

– Người bệnh bị tiểu đường, cao huyết áp hoặc thiếu máu.

Người nghiện rượu cần thực hiện các xét nghiệm đánh giá chức năng gan để biết mình có bệnh lý về gan hay không

3. Xét nghiệm đánh giá chức năng gan gồm những gì?

Việc thực hiện xét nghiệm đánh giá chức năng gan có thể chia thành các nhóm như sau:

– Nhóm xét nghiệm đánh giá tình trạng hoại tử gan.

– Nhóm xét nghiệm khảo sát chức năng bài tiết và khử độc.

– Nhóm xét nghiệm khảo sát chức năng tổng hợp.

3.1 Nhóm xét nghiệm đánh giá tình trạng hoại tử gan

Transaminase hay aminotransferase là những enzym nội bào, chuyển nhóm g-amin (-NH2) của aspartat và alanin đến nhóm g-keto của ketoglutarat để tạo thành acid oxaloacetic và pyruvic. Sự tăng của các enzym này phản ánh tình trạng tổn thương tế bào gan.

– Alanin aminotransferase (ALT)

ALT hiện diện chủ yếu ở bào tương của tế bào gan. Khi gan bị tổn thương, thực hiện xét nghiệm sẽ thấy nồng độ ALT tăng hơn mức bình thường. Bình thường ALT <40 UI/L.

– Aspartate aminotransferase (AST)

AST hiện diện trong tế bào tương và ty thể của tế bào. Ở cơ tim và cơ vân, AST hiện diện nhiều hơn so với ở gan. Ngoài ra, AST còn có ở thận, não, tụy, phổi, hồng cầu và bạch cầu. Bình thường AST <40 UI/L.

Ở người trưởng thành, nồng độ AST và ALT của nam cao hơn của nữ. Các men này được phóng thích vào máu khi có tổn thương màng tế bào làm tăng tính thấm. Tuy nhiên, sự tăng men gan không tương quan hoàn toàn với trình trạng hoại tử tế bào gan.

Các transaminase có thể tăng do các bệnh lý về gan. Ngoài ra còn tăng trong các bệnh nhồi máu cơ tim, tổn thương cơ vân, cường giáp, nhược giáp,… Ngược lại, enzym này bị giảm giả tạo có thể do tăng urê máu.

– Lactat dehydrogenase (LDH)

Đây là xét nghiệm không chuyên biệt cho gan bới nó có thể xuất hiện ở tim, cơ, thận, hồng cầu, bạch cầu,… Vì vậy nó có ít giá trị trong việc xác định các bệnh gan – mật. Nếu LDH tăng kéo dài, kèm theo tăng ALT có thể do tổn thương thâm nhiễm ác tính ở gan. Bình thường, LDH5 5-30 UI/L.

– Ferritin

Đây là một loại protein dự trữ sắt trong tế bào, được cấu tạo gồm apoferritin gắn với sắt.

Bình thường, ferritin ở nam là 30 – 400 ng/mL, và ở nữ là 15 -150 ng/mL.

Xét nghiệm đánh giá chức năng gan

3.2 Nhóm xét nghiệm đánh giá chức năng bài tiết và khử độc

– Bilirubin

+ Bilirubin huyết thanh

Bilirubin là sản phẩm chuyển hóa của hemoglobin và các enzym. 95% bilirubin được tạo ra từ sự thoái biến của hồng cầu. Chúng tan trong mỡ, gắn kết với albumin huyết tương nên không được lọc qua cầu thận.

Bilirubin gồm 2 thành phần chính là bilirubin trực tiếp (TT) và gián tiếp (GT). Bình thường, bilirubin toàn phần TP là 0,8-1,2mg/dL; GT là 0,6-0,8mg/dL; TT là 0,2-0,4mg/dL.

+ Bilirubin niệu

Chỉ hiện diện ở dạng TT. Nếu có bilirubin niệu, có thể gan mật đang bị tổn thương.

– Urobilinogen

Là chuyển hóa của bilirubin tại ruột, được tái hấp thụ vào máu theo chu trình ruột – gan và sau đó được bài tiết qua nước tiểu.

Bình thường Urobilinogen 0,2-1,2 đơn vị (phương pháp Watson).

– Phosphatase kiềm (ALP)

Men ALP rất nhạy để phát hiện tắc đường mật. Vì được tổng hợp để đáp ứng với tình trạng tắc mật, nên ALP có thể bình thường trong giai đoạn đầu của nhiễm khuẩn đường mật cấp tính.

Khi ALP tăng có thể là dấu hiệu của các bệnh gan như áp-xe, u hạt, thoái hóa dạng bột.

– 5′ Nucleotidase (5NT)

Đây là ALP chuyên biệt cho gan, giúp xác định tình trạng tăng do gan hay do xương hoặc các trạng thái sinh lý của trẻ em đang tuổi trưởng thành hoặc phụ nữ có thai. Bình thường 5NT 0,3-2,6 Bondasky/dL.

– G-glutamyl transferase, g-glutamyl transpeptidase (GGT, g-GT)

Mặc dù GGT hiện diện ở nhiều cơ quan khác nhau nhưng có nồng độ cao trong tế bào biểu mô trụ của ống mật. Đây là xét nghiệm rất nhạy để đánh giá chức năng bài tiết của gan nhưng không đặc hiệu do ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố. Bình thường GGT <30U/L ở nữ và <50U/L ở nam.

– Amoniac máu (NH3)

NH3 được sản xuất từ chuyển hóa bình thường của protein trong cơ thể và do vi khuẩn sống ở đường ruột. Gan giữ nhiệm vụ giải độc NH3 bằng cách chuyển thành urê để thải qua thận. Cơ vân cũng giữ vai trò khử độc NH3 bằng cách gắn acid glutamic để tạo thành glutamin. Vì vậy những bệnh nhân bị bệnh gan và teo cơ do phá hủy cũng làm NH3 tăng cao.

Bình thường NH3 máu 5-69 md/dL.

3.3 Nhóm xét nghiệm chức năng tổng hợp

– Protein máu

Phần lớn các protein được tổng hợp từ gan.

+ Albumin huyết thanh

Gan là nơi duy nhất tổng hợp albumin cho cơ thể. Do khả năng dự trữ của gan rất lớn và thời gian bán hủy của albumin kéo dài khoảng 3 tuần nên lượng albumin máu chỉ giảm khi mắc các bệnh gan mạn tính hoặc tổn thương gan rất nặng.

Bình thường albumin 35-55g/L.

+ Globulin huyết thanh

Được sản xuất từ nhiều nơi khác nhau trong cơ thể, bao gồm nhiều loại protein vận chuyển các chất trong máu và các kháng thể tham gia hệ thống miễn dịch thể dịch.

Bình thường globulin 20 – 35g/L.

– Điện di protein huyết thanh

Khi bệnh nhân khi viêm gan mạn tính hoặc xơ gan, đặc biệt là xơ gan do rượu thì biểu đồ điện di có sự thay đổi, bằng các kiến thức chuyên môn, bác sĩ sẽ đưa ra kết luận chính xác.

– Thời gian Prothrombin (PT) hay thời gian Quick (TQ)

Là thời gian chuyển prothrombin thành thrombin khi có sự hiện diện của các yếu tố đông máu. TQ là xét nghiệm khảo sát con đường đông máu ngoại sinh.

Gan tổng hợp hầu hết các yếu tố đông máu như I, II, V, VII, IX, X và các yếu tố này có thời gian bán hủy ngắn. Sự tổng hợp các yếu tố đông máu cần có sự tham gia của vitamin K, ngoại trừ yếu tố V. Vì vậy người ta dùng yếu tố V để phân biệt chức năng gan suy yếu với tình trạng thiếu vitamin K.

3.4 Các xét nghiệm định lượng chức năng gan

Ngoài các xét nghiệm đánh giá chức năng gan như trên, người ta còn sử dụng thêm một số các xét nghiệm để khảo sát trước khi phẫu thuật cắt gan, ghép gan hoặc dùng trong nghiên cứu.

– Đo độ thanh lọc BSP (bromosulfonephtalein).

– Đo độ thanh lọc indocyanine green.

– Đo độ thanh lọc antipyrine.

– Test hơi thở aminopyrine.

– Đo độ thanh lọc caffeine.

– Đo khả năng thải trừ glactose.

4. Bệnh viện Đa khoa MEDLATEC có thực hiện xét nghiệm đánh giá chức năng gan không?

MEDLATEC đã và đang có các gói xét nghiệm đánh giá chức năng gan. Khi khách hàng đến với MEDLATEC, dựa theo nhu cầu hoặc biểu hiện tình trạng bệnh mà các bác sĩ chuyên khoa sẽ chỉ định thực hiện một số xét nghiệm cần thiết.

Bệnh viện Đa khoa MEDLATEC thực hiện hàng ngày các xét nghiệm đánh giá chức năng gan

Với đội ngũ y bác sĩ giỏi sẽ đưa ra cho quý khách hàng những thông tin chính xác về kết quả bệnh cũng như cách chăm sóc để cải thiện sức khỏe.

Cùng với trang thiết bị y tế hiện đại và hệ thống trang thiết bị đạt chuẩn quốc tế ISO 15189:2012 sẽ cho ra kết quả nhanh, chính xác nên mọi người không cần phải chờ đợi trong thời gian dài.