Xác Định Biện Pháp Nghệ Thuật / Top 12 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 4/2023 # Top View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xác Định Biện Pháp Nghệ Thuật Trong Gần Mực Thì Đen, Gần Đèn Thì Sáng

Nêu nghĩa đen và nghĩa bóng của câu tục ngữ ” ăn quả nhớ kẻ trồng cây ” ? Câu tục ngữ này chủ yêu hiểu theo nghĩa gì ? Có thể vận dụng câu tục ngữ trên trong những hoàn cảnh nào

Các bạn giúp mik đi!

Lập dàn ý biểu cảm một tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ Văn lớp 7 học kì 1

Câu 1: hãy phân biệt từ láy toàn bộ, từ láy bộ phận, từ ghép đẳng lập, từ ghép chính phụ trong các từ sau: thăm thẳm, nhỏ nhắn, đông đủ, cá cảnh, đi đứng, ngan ngát, lênh khênh, câu cau, hát hò, nườm nượp, nóng lòng, róc rách, hoa hồng, nhỏ nhẹ, lắt nhắt.

Giúp mk vs

1. Đọc đoạn văn sau “Thể điệu ca Huế sôi nổi…ai oán” ( Ca Huế trên sông hương- Ngữ văn 7)

a) Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ nào??

b) Nêu tác dụng của các biện pháp tu từ vừa lm ở câu a

2. Ca Huế trong khung cảnh nào. Các nét sinh hoạt này có gì độc đáo ??

3. Viết đoạn văn 8-10 câu về vẻ đẹp của ca Huế có sử dụng ít nhất 1 câu mở rộng cụm C – V ( gạch chân câu đó)

Các bạn giúp mik nha. Bài kiểm tra văn học kì 2 của mik mong các bn giúp đỡ

Xác dụng kiểu câu rút gọn và câu đặc biệt trong các ví dụ sau:

a. Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu! Mau!

b. Vâng! Cháu cũng nghĩ như cụ. Nhưng để cháo nguội, cháu cho nhà cháu ăn lấy vài húp cái đã. Nhịn suông từ sáng hôm qua tới giờ còn gì.

c. Bùng boong! Ái ái! Lạy các cậu, các ông ăn thì ăn nhưng đừng đánh đổ tôi xuống đất.

d. Bà ơi! Cháu thường về đây, ra vườn, đứng dưới gốc na, gốc ổi.

bài 2 :viết một đoạn văn ngắn từ 5 đến 7 câu về tình yêu quê hương . trong đó có 1 cụm chủ – vị để mở rộng câu

Tìm cụm C-V làm thành phần câu hoặc thành phần cụm từ trong các câu sau đây. Cho biết trong mỗi câu, cụm C-Vlàm thành phần gì.

a,Đợi đến lúc vừa nhất,mà chỉ riêng những người chuyên môn mới định được,người ta gặt mang về

Tìm cụm C-V làm thành phần câu hoặc thành phần cụm từ trong các câu sau. Cho biết cụm C-V làm thành phần gì? a, Khi bắt đầu kháng chiến, nhân dân ta tinh thần rất hăng hái. b, Tay ôm cặp, tôi bước nhanh tới trường. c, Cái bút bạn tặng tôi rất đẹp. d, Trung đội trưởng Bình khuôn mặt đầy đặn. e, Lan học giỏi làm cha mẹ rất vui lòng. f, Bằng một giọng thân tình, thầy khuyên chúng em cố gắng học bài, làm bài đầy đủ.

Cho đoạn văn

Tất cả trẻ em trên thế giới đều trong trắng, dễ bị tổn thương và còn phụ thuộc. Đồng thời chúng hiểu biết, ham hoạt động và đầy ước vọng. Tuổi chúng phải được sống trong vui chơi, thanh bình, được chơi, được học và phát triển. Tương lai của chúng phải được hình thành trong sự hòa hợp và tương trợ. Chúng phải được trưởng thành khi được mở rộng tầm nhìn, thu nhận thêm những kinh nghiệm mới.

Vậy mà

Mỗi ngày, có hàng triệu trẻ em phải chịu đựng những thảm họa của đói nghèo và khủng hoảng kinh tế, của nạn đói, tình trạng vô gia cư, dịch bệnh, mù chữ, môi trường xuống cấp […]Mỗi ngày có tới 40.000 trẻ em chết do suy dinh dưỡng, bệnh tật, kể cả hội chứng suy giảm miễn dịch (HIV, AIDS) hoặc do thiếu nước sạch, thiêu vệ sinh và do tác động của vấn đề ma tuý.

a, Ví sao văn bản đó đc gọi là văn bản nhật dụng

b, Phương thức biểu đạt chính là gì?

c,Nêu nội dung

d, chỉ một thành phần biệt lập có trong những đoạn văn trên

Ai làm đc thì giúp với ạ câu đơn câu ghép e ko hiểu lắm .

1.Giải thích nghĩa của từ chín trong từng câu sau :

-Vườn cam Chín đỏ

-Trước khi quyết định phải suy nghĩ cho Chín

-Ngượng Chín cả mặt

-Cơm sắp Chín có thể dọn cơm được rồi

2.Các nhóm từ sau thuộc kiểu từ nào

– Tu hú,chuồn chuồn,châu chấu,cào cào,bim bim

-Dẻo dai,xa lạ ,mơ mộng,âu sầu,ủ rũ ,chùa chiền,vắng lặng,mong ngóng,phố phường che chắn.

-Cuống quýt,cập kênh,công kênh,cập kè,cặn kẽ,cò kè.

-ồn ã,ấm áp ,ép uổng,êm ái ,im ắng,ế ẩm,im ả,ít ỏi,oằn oại,oi ả,yên ả,ấm o,ao ước,ấm ức

Xác Định Thẩm Quyền Áp Dụng Biện Pháp Khắc Phục Hậu Quả

Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được quy định khá chi tiết trong Luật Xử lý vi phạm hành chính. Tại Điều 52 Luật XLVPHC có quy định nguyên tắc xác định và phân định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả như sau:

Thẩm quyền phạt tiền được xác định căn cứ vào mức tối đa của khung tiền phạt quy định đối với từng hành vi vi phạm cụ thể. Trong trường hợp vi phạm hành chính thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều người, thì việc xử phạt vi phạm hành chính do người thụ lý đầu tiên thực hiện.

Trường hợp xử phạt một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được xác định theo nguyên tắc sau đây:

+ Nếu hình thức, mức xử phạt, trị giá tang vật phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu, biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối với từng hành vi đều thuộc thẩm quyền của người xử phạt hành chính thì thẩm quyền xử phạt vẫn thuộc người đó.

( Hướng dẫn lập biên bản vi phạm hành chính chuẩn nhất)

+ Nếu hình thức, mức xử phạt, giá trị tang vật phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu, biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối với một trong các hành vi vượt quá thẩm quyền của người xử phạt vi phạm hành chính thì người đó phải chuyển vụ vi phạm đến cấp có thẩm quyền xử phạt.

Như vậy, theo thì thẩm quyền phạt tiền đã phân định rõ, đó là căn cứ vào mức tối đa của khung tiền phạt. Tuy nhiên, thẩm quyền áp dụng biện pháp buộc khắc phục hậu quả, Luật XLVPHC mới chỉ quy định ở trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi mà biện pháp khắc phục hậu quả áp dụng một trong các hành vi đó vượt thẩm quyền của người xử phạt thì người đó phải chuyển cho người có thẩm quyền. Trường hợp một người thực hiện 01 hành vi vi phạm hành chính nhưng hành vi đó có 02 hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả, trong đó có 1 biện pháp khắc phục hậu quả thuộc thẩm quyền xử lý của người lập hồ sơ, một biện pháp không thuộc thẩm quyền thì trường hợp này người thụ lý hồ sơ xử phạt hay phải chuyển cho người có thẩm quyền áp dụng cả 2 biện pháp khắc phục hậu quả.

Quan điểm áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả

Do Luật chưa có quy định cụ thể nên hiện nay có hai cách hiểu khác nhau.

Một số quan điểm cho rằng trường hợp có nhiều biện pháp khắc phục hậu quả mà trong đó có ít nhất một biện pháp khắc phục hậu quả không thuộc thẩm quyền của người thụ lý hồ sơ thì người đó phải chuyển toàn bộ hồ sơ đến người có thẩm quyền để xử lý.

( Thời hạn gửi quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là bao nhiêu ngày?)

Ví dụ: A có hành vi chiếm đất rừng phòng hộ, với diện tích 2000m2. Chủ tịch UBND xã lập biên bản vi phạm hành chính theo Khoản 2 Điều 10 Nghị định 102/2014/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trên lĩnh vực đất đai (từ ngày 05/01/2020 thì áp dụng theo về xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực đất đai). Tuy nhiên, do hành vi của A bị áp dụng 2 biện pháp khắc phục hậu quả là buộc khôi phục lại tình trạng của đất trước khi vi phạm và buộc trả lại đất đã chiếm. Đối chiếu với Khoản 1 Điều 31 Nghị định 102 thì Chủ tịch UBND cấp xã chỉ được áp dụng biện pháp buộc khôi phục lại tình trạng của đất trước khi vi phạm, do đó chủ tịch UBND xã phải chuyển hồ sơ để Chủ tịch UBND cấp huyện xử phạt.

Vận dụng để áp dụng pháp luật

Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng do Luật XLVPHC chưa quy định rõ nguyên tắc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp một người chỉ có một hành vi vi phạm nhưng lại có nhiều biện pháp áp dụng khắc phục hậu quả, do đó có thể vận dụng Điểm a Khoản 2 Điều 28 Luật XLVPHC để xác định thẩm quyền, đó là: Đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính, ngoài việc bị áp dụng hình thức xử phạt, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả.

( Tổng hợp các sai sót thường gặp và cách khắc phục trong xử phạt hành chính)

Căn cứ vào quy định trên thì trường hợp một người có hành vi phạm hành chính nhưng áp dụng nhiều biện pháp khắc phục hậu quả, trong đó có biện pháp khắc phục hậu quả thuộc thẩm quyền của người xử lý hồ sơ thì người đó vẫn có thẩm quyền xử phạt với việc lựa chọn áp dụng biện pháp buộc khắc phục hậu quả thuộc thẩm quyền của mình.

Từ ví dụ ở trên, nếu áp dụng theo nguyên tắc này thì Chủ tịch UBND xã có quyền ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính với A và buộc A phải khôi phục lại tình trạng của đất trước khi vi phạm.

Để áp dụng pháp luật được thống nhất, thiết nghĩ các cơ quan có thẩm quyền cần sớm hướng dẫn việc xác định thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả đối với một người thực hiện một hành vi vi phạm hành chính nhưng có nhiều biện pháp khắc phục hậu quả được áp dụng.

Clip giải đáp vướng mắc trong áp dụng biện pháp buộc khắc phục hậu quả

Phương Thảo

Biện Pháp Nghệ Thuật Trong Văn Bản Thuyết Minh

– Văn bản thuyết minh là kiểu văn bản thường gặp trong mọi lĩnh vực đời sống, có chức năng cung cấp tri thức về đặc điểm, tính chất, nguyên nhân,… của các hiện tượng, sự vật trong tự nhiên, xã hội bằng cách trình bày, giới thiệu, giải thích.

– Văn bản thuyết minh không giống với các văn bản thuộc loại tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận vì kiểu văn bản này không nhằm kể chuyện, tái hiện, biểu lộ tình cảm hay nghị luận mà nhằm cung cấp tri thức về các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và trong xã hội một cách khách quan, chân thực, có ích cho con người.

– Để đạt được hiệu quả giao tiếp gắn với mục đích đặc trưng, ngôn ngữ của văn bản thuyết minh phải đảm bảo tính khoa học, chính xác, rõ ràng, chặt chẽ và hấp dẫn.

Sự kì lạ của Hạ Long là vô tận. Chính là do tài thông minh của Tạo Hoá biết dùng đúng chất liệu hay nhất cho cuộc sáng tạo của mình: Nước. Chính Nước làm cho đá sống dậy, làm cho Đá vốn bất động và vô tri bỗng trở nên linh hoạt, có thể động đến vô tận, và có tri giác, có tâm hồn. Nước tạo nên sự di chuyển. Và di chuyển theo mọi cách. Có thể mặc cho con thuyền của ta mỏng như lá tre tự nó bập bềnh lên xuống theo cho triều; có thể thả trôi theo chiều gió, theo các dòng chảy quanh co phức tạp giữa các đảo; cũng có thể thong thả khua khẽ mái chèo mà lướt đi, trượt nhẹ và êm trên sóng; có thể nhanh tay hơn một chút để tạo một cảm giác xê dịch thanh thoát; có thể bơi nhanh hơn bẳng thuyền buồm, nhanh hơn nữa bằng thuyền máy, cũng như bay trên các ngọn sóng lượn vun vút giữa các đảo trên canô cao tốc; có thể thả sức phóng nhanh hàng giờ, hàng buổi, hàng ngày khắp các trận đồ bát quái đá trộn với nước này. Mà cũng có thể, một người bộ hành tuỳ hứng, lúc đi lúc dừng, lúc nhanh lúc chậm, lúc tiến lúc lùi, thẳng tắp hay quanh co, lao ra những quãng trống hay len lỏi qua các khe hẹp giữa các đảo đá…. Và cái thập loại chúng sinh chen chúc khắp vịnh Hạ Long kia, già đi, tre lại, trang nghiêm hơn hay bỗng nhiên nhí nhảnh tinh nghịch hơn, buồn hơn hay vui hơn,… hoá thân không ngừng. Tuỳ theo góc độ và tốc độ di chuyển của ta trên mặt nước quanh chúng, hoặc độ xa gần và hướng ta tiến đến chúng hay rời xa chúng. Còn tuỳ theo cả hướng ánh sáng rọi vào chúng, hoặc đột nhiên khiến cho mái đầu một nhân vật đá trẻ trung ta chừng đã quen lắm bỗng bạc xoá lên, rõ ràng trước mắt ta là một bậc tiên ông không còn có tuổi. Ánh sáng hắt lên từ mặt nước lung linh chảy khiến những con người bằng đá vây quanh ta trên mặt vịnh càng lung linh, xao động, như đang đi lại, đang tụ lại cùng nhau, hay đang toả ra. Hoặc cũng rất có thể, khi đêm đã xuống, dưới ánh sao chi chít trên bầu trời và chi chít xao động dưới cả mặt nước bí ẩn nữa, sẽ có cuộc họp của cả thế giới người bằng đã sống động đó, biết đâu…! […] Để rồi, khi chân trời đằng đông vừa ửng tím nhạt, rồi từ từ chuyển sang hồng… thì tất cả bọn người đá ấy lại hối hả trở về vị trí của họ. Mà vẫn còn nóng hổi hơi thở cuộc sống đêm chưa muốn dứt. Hạ Long vậy đó, cho ta một bài học, sơ đẳng mà cao sâu: Trên thế gian này, chẳng có gì là vô tri cả. Cho đến cả đá. Ở đây Tạo Hoá đã chọn đá làm một trong hai nguyên liệu chủ yếu và duy nhất của Người để bày nên bản phác thảo của Sự Sống. Chính là Người có ý tứ sâu xa đấy: Người chọn lấy cái vẫn được coi là trơ lì, vô tri nhất để thể hiện cái hồn ríu rít của sự sống. Thiên nhiên bao giờ cũng thông minh đến bất ngờ; nó tạo nên thế giới bằng những nghịch lí đến lạ lùng… (Nguyên Ngọc, Hạ Long – Đá và Nước, Ban quản lí vịnh Hạ Long, 2002) – Đối tượng thuyết minh của văn bản trên là gì? – Mục đích của văn bản thuyết minh là cung cấp tri thức khách quan về đối tượng, văn bản trên có thể hiện điều này không?

– Chủ đề của văn bản: sự kì lạ vô tận của vịnh Hạ Long.

– Văn bản cung cấp cho người đọc những hiểu biết về vẻ đẹp của một di sản văn hoá thế giới. Để khám phá ra vẻ kì lạ vô tận của Hạ Long, người ta phải có được sự tinh tế, lịch lãm trong cảm nhận, thưởng thức. Bằng sự tinh tế, lịch lãm ấy, Nguyên Ngọc đã đem đến cho chúng ta những tri thức về sự kì lạ của Hạ Long.

Gợi ý: Tuỳ từng đối tượng mà người ta lựa chọn cách thuyết minh cho phù hợp, nhằm đạt được hiệu quả giao tiếp cao nhất. Văn bản Hạ Long – đá và nước thuyết minh về sự kì lạ vô tận của vịnh Hạ Long. Để thuyết minh vẻ đẹp sinh động, kì thú, biến ảo của Hạ Long, người viết không thể chỉ sử dụng các biện pháp thuyết minh thông dụng. Cái “vô tận, có tri giác, có tâm hồn” của Hạ Long không dễ thấy được chỉ qua cách đo đếm, liệt kê, định nghĩa, giải thích, nêu số liệu,… mà phải kết hợp với trí tưởng tượng, liên tưởng.

Tìm các hình ảnh ẩn dụ, so sánh, nhân hoá, liên tưởng trong bài văn.

NGỌC HOÀNG XỬ TỘI RUỒI XANH Do loài người phát đơn kiện, Ngọc Hoàng Thượng đế mở phiên toà công khai xử tội loài ruồi. Ngọc Hoàng truyền cho vệ sĩ Nhện điệu ruồi xanh lên điện, đập bàn thị uy: – Ruồi kia, loài người kiện mi làm hại chúng sinh, mau mau khai ra tên họ, chủng loại và nơi ở! Ruồi sợ hãi quỳ thưa trước vành móng ngựa: – Con là ruồi xanh, thuộc họ côn trùng hai cánh mắt lưới. Họ hàng con rất đông, gồm ruồi trâu, ruồi mắt đỏ, ruồi nhà… Nơi ở là nhà xí, chuồng lợn, chuồng trâu, nhà ăn, quán vỉa hè…, bất kì chỗ nào có thức ăn mà không đậy điệm con đều lấy làm nơi sinh sống. Ngọc Hoàng yêu cầu Thiên Tào tra sổ xác nhận rồi cho đọc cáo trạng: Bị cáo ruồi bị cáo buộc hai tội. Một là sống nơi dơ bẩn, mang nhiều vi trùng gieo rắc bệnh tật. Các nhà khoa học cho biết bề ngoài con ruồi mang 6 triệu vi khuẩn, trong ruột chứa đến 28 triệu vi khuẩn. Chúng gieo rắc bệnh tả, kiết lị, thương hàn, viêm gan B. Tội thứ hai là sinh đẻ nhanh quá mức, vô kế hoạch. Mỗi đôi ruồi, trong một mùa từ tháng 4 đến tháng 8, nếu đều mẹ tròn con vuông sẽ đẻ ra 19 triệu tỉ con ruồi, ảnh hưởng xấu tới môi trường sinh thái. Một luật sư biện hộ nói: Ruồi tuy tội nhiều nhưng nó cũng có nét đặc biệt ví như mắt lưới, một mắt chứa hàng triệu mắt nhỏ; chân ruồi có thể tiết ra chất dính làm cho nó đậu được trên mặt kính mà không trượt chân. Nếu con người biết bắt chước mắt ruồi mà làm máy chụp ảnh, mô phỏng chân ruồi mà làm giày leo núi thì cũng hay. Đó đều là tình tiết giảm nhẹ tội cho ruồi. Ngọc Hoàng cân nhắc, tuyên phạt ruồi khổ sai chung thân. Truyền cho chim chóc, cóc, nhái, thằn lằn, kiến, nhện ra sức giết bớt ruồi, không cho đẻ nhiều. Ngọc Hoàng lại nói với Người: “Ruồi có tội mà con người cũng có lỗi. Con người phải thường xuyên làm vệ sinh, đậy điệm thức ăn, nhà xí, chuồng trại phải xây dựng theo lối mới thì mới ngăn chặn ruồi sinh sôi và hạn chế tác hại của ruồi được. Lời tuyên án của Ngọc Hoàng làm cho các loài vật phấn khởi, còn con người thì trầm ngâm nghĩ ngợi.

Gợi ý: Văn bản trên có phải là văn bản thuyết minh không? Nó cung cấp cho chúng ta những kiến thức gì?

Gợi ý: Văn bản thuyết minh trên đã sử dụng các biện pháp định nghĩa, phân loại, phân tích, liệt kê, nêu số liệu,… như thế nào?

– Mượn hình thức kể chuyện để thuyết minh; Sử dụng triệt để biện pháp nhân hoá;

– Việc mượn hình thức kể chuyện để thuyết minh có tác dụng gì? Người viết đã sử dụng biện pháp nhân hoá để làm gì? Hình thức kể chuyện và biện pháp nhân hoá tạo ra sức hấp dẫn cho văn bản thuyết minh như thế nào?

Gợi ý: Tìm các yếu tố miêu tả, so sánh,… trong văn bản này và cho biết chúng có tác dụng như thế nào trong việc khắc hoạ phong cách kết hợp hài hoà giữa truyền thống văn hoá dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại, giữa vĩ đại và giản dị ở Hồ Chí Minh?

Một Số Biện Pháp Nghệ Thuật Trong Văn Thuyết Minh

Một số biện pháp nghệ thuật trong văn thuyết minh – Làm văn lớp 9

CÁC DẠNG BÀI TẬP LÀM VĂN Chương một: VĂN BẢN THUYẾT MINH Những điều cần lưu ý

1. Ở lớp 8, học sinh đã được học về văn bản thuyết minh. Lẽn lớp 9, học sinh tiếp tục được học và rèn làm kiểu văn bản này nhưng với một số yêu cầu cao hơn như sử dụng một số biện pháp nghệ thuật và yếu tố miêu tả có tác dụng làm cho văn bản thuyết minh sinh động, hấp dẫn và bớt khô khan hơn. Tuy nhiên, vẫn cần lưu ý là không phải văn bản thuyết minh nào cũng có thể tuỳ tiện sử dụng các yếu tố nghệ thuật (ví dụ : các mục từ trong các từ điển, các bản giới thiệu các di tích lịch sử, các tờ thuyết minh đồ dùng,…)- Người ta chỉ vận dụng một số biện pháp nghệ thuật vào một số bài thuyết minh có tính chất phổ cập kiến thức, hoặc một số bài có tính chất văn học,…

2. Các biện pháp nghệ thuật ở đây là kể chuyện tự thuật, đối thoại (hỏi – đáp) theo lối ẩn dụ, nhân hoá, các hình thức vè, diễn ca,… Ví dụ : Thuyết minh một đồ vật hoặc một loài cây, hoặc một vật nuôi có thể nhân hoá để cho đồ vật, loài cây, vật nuôi ấy tự kể chuyện mình. Thông thường, để thực hiện mục đích này, người viết nên phát huy trí tưởng tượng, liên tưởng, vận dụng phép nhân hoá, ẩn dụ, so sánh để khơi gợi sự cảm thụ về đối tượng thuyết minh. Cũng có thể dùng lối vè, diễn ca để thuyết minh sự vật cho dễ nhớ (ví dụ : “O tròn như quả trứng gà – Ô thời thêm mũ – Ơ thời thêm râu”). Điều quan trọng cần hiểu là : các biện pháp nghệ thuật này chỉ có tác dụng phụ trợ, làm cho văn bản thuyết minh thêm hấp dẫn, dễ nhớ, nhưng không thay thế mục đích của thuyết minh là cung cấp tri thức một cách khách quan, chính xác về đối tượng.

3. Trong văn bản thuyết minh, khi trình bày các đối tượng cụ thể trong đời sống như các loài cây, các di tích, thắng cảnh, các thành phố, trường học, các nhân vật…, bên cạnh các nội dung đặc điểm, giá trị, quá trình hình thành,… mà ta phải trình bày khúc chiết, rõ ràng, ta còn cần vận dụng biện pháp miêu tả để làm cho đối tượng được hiện lên cụ thể, gần gũi, dễ cảm, dễ nhận.

Vai trò của miêu tả trong văn bản thuyết minh chủ yếu là gợi lên hình ảnh cụ thể để thuyết minh cho vấn đề tri thức một cách khách quan, khoa học. Miêu tả ở đây là cần thiết, nhưng chỉ đóng vai trò phụ trợ. Lạm dụng miêu tả sẽ làm lu mờ nội dung thuyết minh trong bài văn.

I. SỬ DỤNG MỘT SỐ BIỆN PHÁP NGHỆ THUẬT TRONG VĂN BẢN THUYẾT MINH 1. Ghi nhớ

– Muốn cho bài văn thuyết minh được sinh động, hấp dẫn, người ta vận dụng thêm một số biện pháp nghệ thuật như : kể chuyện, tự thuật, đối thoại theo lối ẩn dụ, nhân hoá, so sánh hoặc các hình thức về, diễn ca, v.v.

– Các biện pháp nghệ thuật được sử dụng cần thích hợp, góp phần làm nổi bật đặc điểm của đối tượng cụ thể, gây hứng thú cho người đọc, nhưng không làm lu mờ đối tượng thuyết minh.

2. Bài tập

Bài tập 1. Hãy đọc văn bản thuyết minh sau, dựa theo cuốn Bách khoa loài vật:

“Trong các loài vật xung quanh ta có lẽ chẳng ai lạ gì con kiến. Thôi thì kiến vàng, kiến đen, kiến lửa,… ai mà chẳng biết ? Ấy thế nhưng mà kiến là một loài rất lạ !

Cái lạ thứ nhất : Kiến không có bộ não, không có mắt, không có tai, không có bộ phận phát âm, chỉ nhờ có xúc giác, thế mà cái gì nó cũng biết, lại còn lôi kéo cả đàn làm theo. Thức ăn, bánh kẹo, mật ong,… không cất cẩn thận thế nào nó cũng bu đến ! Đặc biệt, nó biết rõ thời tiết. Hễ động trời sắp mưa là nó biết ngay, lo tích thức ăn, bịt kín miệng tổ kiến.

Cái lạ thứ hai : Kiến rất khoẻ. Mỗi con kiến có thể mang một trọng lượng nhiều gấp 40 lần trọng lượng cơ thể nó. Trên thế giới này hẳn không có loài vật nào có được sức mạnh như thế. Đã thế kiến là loài vật ném không chết. Người ta đã ném con kiến từ độ cao gấp hàng nghìn lần cơ thể nó, vậy mà khi nó rơi xuống nó vẫn bình yên-bò đi như không !

Cái lạ thứ ba : Kiến là một kiến trúc sư tài ba. Bạn đã có dịp thấy tổ kiến chưa ? Nếu cắt ra mà xem mới thấy đó là một thành phố. có nhiều nhà cao tầng, đường đi lối lại thông suốt, trong đó có cung vua, có hậu cung, có nhà trẻ, kho lương thực, có nhà chung cư. Ở châu Phi có tổ kiến hình, trụ hoặc hình kim tự tháp cao mười mấy mét ! Chất liệu làm tổ chỉ là đất với nước bọt của chúng mà cũng rất chắc, dùng rìu chặt cũng không đứt !

Cái lạ thứ tư : Kiến là loài vật dũng cảm và hung dữ vào loại hiếm có. Nếu gặp địch thủ, dù to lớn thế nào, kiến đều xông vào chiến đấu, không sợ hi sinh, cho đến khi hạ gục đối thủ, hoặc là ăn ngay tại trận, hoặc là mang về tổ. Ó châu Mĩ, nhiều người bị kiến tấn công, tiêm nọc độc rồi trong chớp mắt, đàn kiến đông bu lại ăn hết thịt !

Kiến là động vật có hại vì nó hay làm tổ ở chân đê, gây vỡ đê những khi có lũ. Nhưng cũng có nơi lấy kiến làm thức ăn, nghe nói giá trị dinh dưỡng nhiều gấp ba lần thịt bò !

Vấn đề đặt ra là cần nghiên cứu loài kiến để hạn chế tác hại, lợi dụng các khả năng của chúng, nhằm mưu lợi cho con người”.

a) Đây là một văn bản thuyết minh về loài kiến. Em có thể đặt đầu đề cho văn bản sao cho đúng và hay.

b) Văn bản trên hấp dẫn người nghe nhờ nghệ thuật diễn tả như thế nào ?

c) Thử vận dụng nghệ thuật nhân hoá, đóng vai một chú kiến, kể về loài của mình sao cho tự nhiên, sinh động, hấp dẫn.

“Con ếch, có khi còn được gọi là “gà đồng” vì thịt nó ngon, thơm như thịt gà. Ếch là giống vật vừa ở trên cạn, vừa ở dưới nước. Lưng ếch có màu xanh lục hay màu nâu, pha một ít chấm đen. Khi ếch nấp trong bùn hay khóm cỏ, nếu ta không chú ý thì khó lòng mà nhận ra. Khi ở trên cạn, hễ gặp nguy hiểm, chỉ vài bước nhảy là ếch đã lặn xuống mặt nước, biến mất. Khi ở dưới nước mà gặp nguy hiểm, ếch nhanh chóng nhảy ra khỏi mặt nước để chui vào bụi cỏ ven bờ. Ếch tuy ở dưới nước nhưng thở bằng phổi và bằng da, còn tim ếch lại có nhiều hơn động vật khác một tâm thất,…”.

Bài tập 3. Cho câu chuyện sau :

“Mùa xuân, các loài hoa nở rộ, có chú Ong Nhỏ mới sáng ra đã bay tới vườn hoa hút mật. Chú làm việc say sưa đến lúc có tiếng gọi :

– Mau nghỉ thôi, chú em. Đến giờ ăn trưa rồi đấy !

Ong Nhỏ nhận ra đấy là tiếng chị Hoa Hướng Dương. Chú ngạc nhiên :

– Ơ, sao chị biết bây giờ là buổi trưa ?

Chị Hướng Dương cười vang :

– Thì tôi nhìn đồng hồ chứ sao !

Ong Nhỏ càng ngơ ngác hơn, vì rõ ràng ở vườn hoa làm gì có đồng hồ.

Đúng lúc đó, chim Sơn Ca bay tới. Đã nghe được câu chuyện của Hoa Hướng Dương và Ong Nhỏ, nên Sơn Ca bảo :

Ong Nhỏ khoái quá, reo lên :

– Hay quá ! Thế là từ nay tớ đã biết nhìn hoa để xem giờ rồi !”

(Theo báo Hoạ mi số 52, 2002) ,

a) Đọc xong câu chuyện trên, em hiểu biết thêm về điều gì ?

Văn bản trên có phải là văn bản thuyết minh không ?

b) Nếu cho rằng đây là văn bản thuyết minh thì người viết đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nào để tăng sự hấp dẫn của văn bản ? Xét xem đối tượng đọc văn bản này là ai ?

Bài tập 4. Đọc văn bản sau :

“Tam Thể là tên của chú mèo có bộ lông ba màu : đen, vàng, trắng. Chú ta rất giỏi bắt chuột. Nhưng rồi không hiểu tại sao, Tam Thể bỗng dưng không chịu bắt chuột nữa, ít leo trèo hẳn đi, và chỉ thích… nằm ngủ. Bé Tại Sao chán lắm.

– Úa ! Con đốt râu mèo à ? – Ba hỏi.

Bé Tại Sao giật mình.

– Dạ, không ạ !

– Thế tại sao râu mèo lại cụt xoắn lại thế này ?

Má ngồi bên chợt nhớ :

– Mấy hôm trước trời lạnh, chắc mèo vào bếp sưởi nên bị cháy râu rồi cũng nên !

Ba liền nói :

– Râu của mèo là cái “ăng ten”. Khi cần chui rúc để đuổi chuột, hai đầu chót của hai bẽn ria mà không bị vướng, thì thân mèo mới lọt, không bị vấp đau. Giờ, ria bị cụt, mèo chạy đâu vấp đó, nên sở, phải nằm chờ cho đến khi ria mọc dài ra như cũ, mới bắt chuột được !

– À ! Thì ra thế đấy. Tí nữa thì bé Tại Sao “ghét” oan cho Tam Thể”.

(Theo Phong Thu, báo Hoạ mi, số 19, 2005)

a) Văn bản trên có tính chất thuyết minh không ? Tính chất ấy thể hiện ở những điểm nào ? Những phương pháp thuyết minh nào đã được sử dụng ?

b) Bài thuyết minh này có nét gì đặc biệt ? Tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nào ?

c) Các biện pháp nghệ thuật ở đây có tác dụng gì ? Chúng có gây hứng thú và làm nổi bật nội dung cần thuyết minh hay không ?

d) Em có suy nghĩ gì về tên của em bé trong văn bản trên ?

Bài tập 5. Đọc văn bản sau :

“Không một người Thuỵ Điển nào, kể cả những ngôi sao thể thao hay nhạc pop, có thể nổi tiếng khắp thế giới bằng An-phrét Nô-ben. Những giải thưởng mang tên Nô-ben trao hằng năm được công nhận là những giải thưởng uy tín nhất thế giới. Vậy An-phrét Nô-ben là ai ?

Nô-ben chính là một nhà phát minh không biết mệt mỏi, một nhà doanh nghiệp và là một ông trùm công nghiệp toàn cầu. Bên cạnh đó, ông còn là một nhà ngôn ngữ học, triết học và là người theo chủ nghĩa nhân văn. Nhà hoá học Thuỵ Điển này đã có một tài sản khổng lồ nhờ việc phát minh ra thuốc nổ.

Nô-ben sinh năm 1833, là con trai của một kĩ sư. Cha của ông đã thành lập những xưởng chế tạo vũ khí ở Xanh Pê-téc-bua (nước Nga). Nô-ben và các anh em của ông được học tiếng Nga và tiếng Thuỵ Điển ở Nga.

Năm 20 tuổi, Nô-ben đã say mê ngành cơ học và hoá học. Ông đã đăng kí hai bằng sáng chế. Năm 1863 (30 tuổi), ông đi sâu nghiên cứu thuốc nổ. Vài năm sau, ông đã sáng chế ra một thứ chất nổ an toàn hơn. Và năm 1875 (42 tuổi), ông đăng kí sở hữu bằng sáng chế một chất nổ mạnh hơn nữa. Tiếp theo, Nô-ben phát’minh ra những chất nổ mới, không cho ra khói.

Nhờ sự thành công, Nô-ben làm chủ một gia tài khổng lồ. Ông có năm phòng thí nghiệm ở năm nước : Đức, Pháp, Xcốt-len, Thuỵ Điển, I-ta-li-a ; 90 xưởng sản xuất đặt trên 20 nước đã sử dụng khoảng 350 bằng sáng chế của ông và chế tạo khoảng 65.000 tấn chất nổ một năm. Ông là một nhà khoa học giàu nhất thế giới.

Nhưng Nô-ben lại vô cùng bất hạnh. Báo chí, dư luận khắp nơi oán trách ông đã làm giàu nhờ chế tạo ra thuốc súng – những bộ máy giết người. Nô-ben luôn thuyết phục mọi người rằng ông không bao giờ nghĩ đến chiến tranh. Ông chỉ có dụng ý sử dụng chất nổ để khai thác hầm mỏ và phục vụ cho các công trình dân sự. Nhưng những tiếng kêu oán thán khiến ông luôn day dứt tâm trí. Không gia đình, không vợ con, người giàu nhất châu Âu này đã lang thang trong cô đơn và chết bên cạnh người đầy tớ vào năm 1896, thọ 63 tuổi.

Trước khi qua đời, ông đã di chúc để lại gia tài khổng lồ của mình để hằng năm phát cho năm người đã giúp ích cho nhân loại trong các lĩnh vực : vật lí, hoá học, y học, văn chương và hoà bình trong năm ấy. Năm 1968 có thêm một giải thưởng Nô-ben nữa về khoa học kinh tế.

Năm 1901, những giải thưởng Nô-ben đầu tiên đã được trao. Và đến nay, hằng năm, cứ vào ngày 10-12 (ngày mất của Nô-ben), lễ trao thưởng mang tên ông lại được long trọng tổ chức tại thủ đô Xtốc-khôm hoặc thành phố Ô-xlô (Na Uy)”.

(Theo báo Nhi đồng, số 41, 2005)

a) Đây là một văn bản thuyết minh. Hãy chọn một trong số đầu đề sáu để đặt tên cho văn bản. Giải thích vì sao em chọn như vậy.

A – Con người tài giỏi, giàu có, nhưng bất hạnh.

B – Người sáng chế ra thuốc súng.

C – Người làm ra giải thưởng Nô-ben thế giới.

D – Cha đẻ của thuốc súng và giải thưởng Nô-ben thế giới.

b) Có một cuộc tranh luận giữa Hùng và Nam.

Nam cho rằng : có thể sử dụng một số biện pháp nghệ thuật như nhân hoá, tự thuật, kể chuyện, hoặc tình huống trò chuyện để nâng cao chất lượng văn bản trên, nhằm gây sự hấp dẫn với bạn đọc.

Nhưng Hùng lại không đồng ý, Hùng cho rằng văn bản giới thiệu một nhân vật lịch sử là một loại văn bản thuyết minh không sử dụng được các biện pháp nghệ thuật như Nam đã nêu. Và bạn Hùng còn nhấn mạnh thêm : chỉ có một số văn bản thuyết minh có tính chất phổ cập kiến thức hoặc một số văn bản-thuyết minh có tính chất văn học mới dễ dàng sử dụng các biện pháp nghệ thuật nêu trên. Văn bản thuyết minh về nhân vật lịch sử nổi tiếng An-phrét Nô-ben, không nằm trong loại sử dụng các biện pháp nghệ thuật.

Ý kiến của riêng em ra sao ? Hãy lí giải,.

c) Hãy viết một đoạn văn ngắn, nêu cảm xúc và suy nghĩ của em sau khi đọc văn bản thuyết minh về Nô-ben.