Vị Trí Và Chức Năng Của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam / Top 6 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Quân Đội Nhân Dân Việt Nam Với Chức Năng Của Đội Quân Công Tác

(chiasekienthucnet)-Ngày 22 tháng 12 năm 1944, theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (tiền thân của Quân đội nhân dân ngày nay) được thành lập. Kể từ đó, ngày này đã trở thành ngày truyền thống của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Từ khi được thành lập đến nay dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội đã luôn sát cánh cùng toàn Đảng, toàn dân, lập nên những chiến công hiển hách, đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược của nước ngoài, thống nhất Tổ quốc. Trong thời bình, Quân đội nhân dân Việt Nam đã làm tốt vai trò chức năng đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất đặc biệt đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam.

Thực hiện chức năng đội quân công tác, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn giữ vững mối quan hệ máu thịt với nhân dân. Là một trong các lực lượng nòng cốt tham gia công tác tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; vận động quần chúng, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở các cấp, các đơn vị Quân đội đã tích cực thực hiện công tác dân vận trên địa bàn đóng quân, luôn xung kích đi đầu trong xây dựng, phát triển kinh tế – xã hội ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và vùng kinh tế khó khăn của cả nước. Tích cực hướng dẫn chính quyền địa phương, bà con nhân dân trên địa bàn đóng quân xóa đói, giảm nghèo, góp phần nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân. Đặc biệt Quân đội tích cực tham gia phòng chống lụt, bão, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, giảm nhẹ thiên tai và bảo vệ tài nguyên, môi trường…

Bác Hồ gắn huy hiệu chiến sĩ Điện Biên cho bộ đội xuất sắc

Tuy nhiên, với mục đích phi chính trị hóa Quân đội, chia rẽ Quân đội với Đảng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội. Các thế lực thù địch ra sức chống phá bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Bằng các hoạt động tuyên truyền xuyên tạc, bóp méo những truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân, bôi nhọ hình ảnh, phẩm chất cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ. Mặt khác, chúng tán phát tài liệu, tung tin đồn nhảm, gán ghép, ngụy tạo hình ảnh để vu cáo, nói xấu cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân trên các diễn đàn, mạng xã hội… để hòng đạt mục đích của chúng. Đặc biệt thông qua các việc làm của Quân đội với chính quyền, nhân dân địa phương trên cả nước để chúng vu cáo, nói sấu làm mất đi hình ảnh tốt đẹp của Quân đội trong thực hiện chức năng đội quân công tác của mình.

Do đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần phải cảnh giác, trước những âm mưu của các thế lực thù địch tẩy chay những thông tin độc hại, không tiếp tay cho kẻ xấu lan truyền những thông tin ảo. Làm tốt công tác tư tưởng, giữ vững mặt trận văn hóa tư tưởng không cho kẻ xấu lợi dụng chống phá. Làm tốt công tác giáo dục làm cho mỗi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhận thức rõ mục đích, yêu cầu, quan điểm, nhiệm vụ đối với mặt công tác quan trọng này. Từ đó, đề cao trách nhiệm của cán bộ, chiễn sĩ trong tổ chức thực hiện; vận dụng cụ thể vào từng công việc, trên từng lĩnh vực, địa bàn, xây dựng mô hình dân vận phù hợp, hiệu quả. Được tiến hành thường xuyên, bằng nhiều hình thức, phương tiện; gắn công tác tuyên truyền, giáo dục với đẩy mạnh hoạt động thực tiễn; khắc phục kịp thời tư tưởng lệch lạc, vi phạm kỷ luật dân vận, làm ảnh hưởng đến mối quan hệ đoàn kết quân – dân. Thường xuyên bám sát tình hình địa bàn, nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị, chủ động tham mưu, đề xuất, với chính quyền cơ sở những biện pháp lãnh đạo sát đúng; tích cực nghiên cứu, giải quyết những vấn đề mới nảy sinh, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng tôn giáo, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo.

Thực hiện tốt chức năng đội quân công tác là truyền thống của Quân đội ta từ khi thành lập đến nay, làm đẹp phẩm chất cao quý Bộ đội Cụ Hồ – Bộ đội của dân. Đây là nhân tố quan trọng để Quân đội thực hiện tốt vai trò chức năng, nhiệm vụ của mình.

ĐNG (chiasekienthucnet)

Các Quân Khu Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

Quân đội nhân dân Việt Nam được chia thành các quân khu 1, 2, 3, 4, 5, 7, 9 và Bộ Tư lệnh Thủ đô (Theo Cổng thông tin điện tử Bộ Quốc phòng)

Quân khu 1 trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, nằm ở vị trí địa – chính trị chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh và đối ngoại trong thế bố trí chung của cả nước, có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và chỉ huy lực lượng vũ trang 3 thứ quân; thường xuyên nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chú trọng nâng cao chất lượng huấn luyện, khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang ba thứ quân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc; tích cực tham gia công tác cứu hộ, cứu nạn, giúp nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Tư lệnh kiêm Chính uỷ đầu tiên của Quân khu 1 là đồng chí Đàm Quang Trung.

Hiện nay, Quân khu 1 có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh, Chính uỷ và Phó Chính uỷ; các cơ quan chức năng đảm nhiệm các mặt công tác tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, các sư đoàn và trung đoàn chủ lực và các đơn vị trực thuộc khác. Quân khu 1 chỉ huy các đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh, huyện và dân quân tự vệ trong địa bàn của quân khu.

Ngày truyền thống: 16/10/1945

Truyền thống vẻ vang:

“TRUNG HIẾU, TIÊN PHONG, ĐOÀN KẾT, CHIẾN THẮNG”

Phần thưởng cao quý:

Với những thành tích đặc biệt xuất sắc qua các thời kỳ, Lực lượng vũ trang Quân khu 1 đã được Đảng, Nhà nước tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Sao vàng, 02 Huân chương Hồ Chí Minh, 03 Huân chương Độc lập, 10 Huân chương Quân công, hàng nghìn lượt tập thể đơn vị, hàng vạn cá nhân được thưởng Huân chương Chiến công các hạng; 346 đơn vị và 206 cá nhân được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong kháng chiến, 06 đơn vị được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang thời kỳ đổi mới (lực lượng vũ trang huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên; lực lượng vũ trang và nhân dân xã Thị Hoa, huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng; Trung đoàn Xe tăng 409; Lữ đoàn Công binh 575; Lữ đoàn Pháo binh 382; Tiểu đoàn Hoá học 23/ Bộ Tham mưu); 916 Mẹ Việt Nam Anh hùng và nhiều phần thưởng cao quý khác của bạn bè quốc tế.

Quân khu 2 trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và chỉ huy các cơ quan, đơn vị trực thuộc; các đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh, huyện và dân quân tự vệ trong địa bàn quân khu. Tư lệnh và Chính uỷ đầu tiên của Quân khu 2 là các đồng chí Bằng Giang, Bùi Quang Tạo.

Hiện nay, Quân khu 2 có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh, Chính uỷ và Phó Chính uỷ; các cơ quan chức năng đảm nhiệm các mặt công tác tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, các sư đoàn và trung đoàn chủ lực và các đơn vị trực thuộc khác. Quân khu 2 chỉ huy các đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh, huyện và dân quân tự vệ trong địa bàn của quân khu.

Ngày truyền thống: 19/10/1946

Truyền thống vẻ vang:

“TRUNG THÀNH, TỰ LỰC, ĐOÀN KẾT, ANH DŨNG, CHIẾN ĐẤU”

Phần thưởng cao quý:

– Huân chương Sao vàng;

– Huân chương Hồ Chí Minh…

Quân khu 3 trực thuộc Bộ Quốc phòng, có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và chỉ huy các cơ quan, đơn vị trực thuộc; các đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh, huyện và dân quân tự vệ trong địa bàn quân khu. Tư lệnh, Chính uỷ đầu tiên của Quân khu 3 là các đồng chí Hoàng Sâm, Trần Độ.

Hiện nay, Quân khu 3 có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh, Chính uỷ và Phó Chính uỷ; các cơ quan chức năng đảm nhiệm các mặt công tác tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, các sư đoàn và trung đoàn chủ lực và các đơn vị trực thuộc khác. Quân khu 3 chỉ huy các đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh, huyện và dân quân tự vệ trong địa bàn của quân khu.

Ngày truyền thống: 31/10/1945.

Truyền thống vẻ vang:

“ĐOÀN KẾT, CHỦ ĐỘNG, SÁNG TẠO, HY SINH, CHIẾN THẮNG”

Phần thưởng cao quý:

– 02 Huân chương Sao Vàng;

– 02 Huân chương Hồ Chí Minh…

Quân khu 4 trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, nằm trên một địa bàn chiến lược trong thế trận chiến tranh nhân dân Việt Nam, có nhiệm vụ chỉ huy, quản lý và tổ chức lực lượng vũ trang quân khu chiến đấu bảo vệ vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam.

Thực hiện chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 15/10/1945 Chiến khu 4 được thành lập gồm 6 tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế và ngày này trở thành Ngày truyền thống của lực lượng vũ trang Quân khu 4. Ngày 03/6/1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 17/SL về việc thành lập Quân khu 4 trên cơ sở Liên khu 4.

Tư lệnh, Chính uỷ đầu tiên của Quân khu 4 là các đồng chí Nguyễn Đôn, Chu Huy Mân.

Hiện nay, Quân khu 4 có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh, Chính uỷ và Phó Chính uỷ; các cơ quan chức năng đảm nhiệm các mặt công tác tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, các sư đoàn và trung đoàn chủ lực và các đơn vị trực thuộc khác. Quân khu 4 chỉ huy các đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh, huyện và dân quân tự vệ trong địa bàn của quân khu.

Ngày truyền thống: 15/10/1945

Phần thưởng cao quý:

– 01 Huân chương Sao vàng;

– 03 Huân chương Hồ Chí Minh…

Quân khu 5 trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, hiện nay có chức năng nhiệm vụ cơ bản là tổ chức, xây dựng, quản lí và chỉ huy lực lượng vũ trang thuộc Quân khu chiến đấu bảo vệ vùng Nam Trung Bộ, xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân ở địa phương trên địa bàn. Địa bàn Quân khu 5 bắt đầu từ đèo Hải Vân đến cực nam tỉnh Ninh Thuận, gồm 11 tỉnh thành phố: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc và Đắc Nông. Tổ chức hiện nay có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh; Chính uỷ và Phó Chính uỷ; các cơ quan chức năng đảm nhiệm các mặt công tác tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, các sư đoàn, trung đoàn chủ lực và các đơn vị trực thuộc.

Ngày truyền thống: 16/10/1945

Truyền thống vẻ vang:

“TỰ LỰC TỰ CƯỜNG, KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN, CHỊU ĐỰNG GIAN KHỔ, MƯU TRÍ SÁNG TẠO, CHIẾN ĐẤU KIÊN CƯỜNG, CHIẾN THẮNG VẺ VANG”.

Trải qua hai cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm và 35 năm xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, lực lượng vũ trang Quân khu 5 đã có 162.768 liệt sỹ hy sinh vì sự nghiệp độc lập, tự do của dân tộc, hơn 100 nghìn thương, bệnh binh, 13.772 Mẹ Việt Nam Anh hùng. Với những đóng góp to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, lực lượng vũ trang Quân khu 5 đã được Đảng và Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý:

– Huân chương Sao vàng (1985);

– 898 tập thể và 392 cá nhân và được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó có: Trung đoàn Ba Gia – đơn vị được 3 lần tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân: Trung đoàn Ba Gia và các đơn vị được 2 lần tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân: Sư đoàn 2; Trung đoàn 95; Trung đoàn 812; Tiểu đoàn 840/Trung đoàn 812; Đại đội Công binh Hải Vân/Quảng Đà; Đại đội 2/Trung đoàn 66; Đại đội 5/26/Đoàn 5504; Lực lượng vũ trang và nhân dân các địa phương huyện Duy Xuyên và (Quảng Nam); Lực lượng vũ trang và nhân dân các địa phương huyện Đại Lộc (Quảng Nam); xã Tịnh Khê (Sơn Tịnh, Quảng Ngãi); xã Hoà Hải (Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng)..

Trong thời kỳ đổi mới, lực lượng vũ trang Quân khu 5 có 5 tập thể vinh dự được Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (lực lượng vũ trang và nhân dân huyện Đại Lộc/Quảng Nam, Lữ đoàn công binh 270, Viện Quân y 13, Trung đoàn Pháo binh 368 và Binh đoàn 15), 1 cá nhân được Nhà nước tuyên dương Anh hùng Lao động; 25 tập thể được tặng Cờ Thủ tướng Chính phủ; 85 tập thể và 35 cá nhân được tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; 68 tập thể được tặng Cờ Thi đua Bộ Quốc phòng; 542 tập thể và cá nhân được Bộ Quốc phòng tặng Bằng khen và các hình thức khen thưởng khác.

Quân khu 7 là tổ chức quân sự theo vùng lãnh thổ, được thành lập ngày 10/12/1945, bao gồm thành phố Sài Gòn và các tỉnh Gia Đinh, Chợ Lớn, Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một và Tây Ninh. Nay gồm Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh: Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Bình Thuận, Đồng Nai, Lâm Đồng, Long An và Tây Ninh.

Trong 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng vũ trang Quân khu 7 vừa xây dựng vừa chiến đấu, từ trong muôn vàn thiếu thốn, gian khổ hy sinh, đã sáng tạo ra những cách đánh hết sức độc đáo, có hiệu quả, lập nên nhiều chiến công xuất sắc ở cả ba vùng đô thị, đồng bằng và rừng núi, góp phần làm chuyển đổi cục diện chiến trường, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của địch, cùng quân và dân cả nước làm nên trận Điện Biên Phủ và cuộc Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975.

Trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến tranh giải phóng dân tộc, lực lượng vũ trang Quân khu 7 thực hành quân quản, sắp xếp lại lực lượng, khắc phục hậu quả chiến tranh, tham gia xây dựng chế độ xã hội mới: Vừa đánh bại kiểu chiến tranh phá hoại của địch, xây dựng tiềm lực quân sự – quốc phòng, vừa kiên cường chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, làm nhiệm vụ Quốc tế xây dựng và bảo vệ đất nước Campuchia, góp phần đập tan chế độ diệt chủng Pôn Pốt. Trong bối cảnh lịch sử mới, lực lượng vũ tranh Quân khu 7 tập trung xây dựng đơn vị cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, ra sức huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trải qua hơn 60 năm, xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, lực lượng vũ trang Quân khu 7 được tặng thưởng: 02 Huân chương Sao vàng, 02 Huân chương Hồ Chí Minh, 01 Huân chương Quân công hạng nhất và 340 cá nhân Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Thành phố Hồ Chí Minh và hầu hết các tỉnh của Quân khu 7 đều được tặng Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Lực lượng vũ trang Quân khu 7 luôn chú trọng việc quán triệt các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng ủy quân sự Trung ương, Bộ quốc phòng, vận dụng linh hoạt sáng tạo đường lối quân sự, đường lối ngoại giao, thống nhất ý chí và hành động, khắc phục khó khăn, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Kế thừa và phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng mà ông, cha đã dày công vun đắp, phấp đấu xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu 7 ngày càng lớn mạnh, tô thắm thêm truyền thống vẻ vang: “Trung thành vô hạn, chủ động sáng tạo, tự lực tự cường, đoàn kết quyết thắng” lực lượng vũ trang Quân khu 7 mãi mãi xứng đáng với sự tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Quân khu 9 trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt nam có nhiệm vụ quản lý, tổ chức, xây dựng và chỉ huy quân đội chiến đấu bảo vệ vùng Đồng bằng Sông Cửu long Việt Nam. Tư lệnh và Chính uỷ đầu tiên của Quân khu 9 là các đồng chí Nguyễn Thành Thơ, Nguyễn Văn Bé.

Hiện nay, Quân khu 9 có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh, Chính uỷ và Phó Chính uỷ; các cơ quan chức năng đảm nhiệm các mặt công tác tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, các sư đoàn và trung đoàn chủ lực và các đơn vị trực thuộc khác. Quân khu 9 chỉ huy các đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh, huyện và dân quân tự vệ trong địa bàn của quân khu.

Ngày truyền thống: 10/12/1945

Phần thưởng cao quý:

– 03 Huân chương Sao vàng;

– Huân chương Hồ Chí Minh;

– Huân chương Ăng Ko…

Ra đời từ phong trào cách mạng của quần chúng, lực lượng vũ trang (LLVT) Thủ đô Hà Nội là một bộ phận quan trọng của LLVT nhân dân Việt Nam đã kế thừa, phát huy truyền thống anh hùng bất khuất chống ngoại xâm của Thủ đô Hà Nội, truyền thống “Ngàn năm văn hiến Thăng Long – Hà Nội” cùng các tầng lớp nhân dân Thủ đô viết nên trang sử hào hùng, góp phần làm rạng danh non sông đất nước.

Ngày 19/8/1945, nhân dân Hà Nội được sự hậu thuẫn của lực lượng vũ trang đã đứng lên giành chính quyền trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 (Ảnh: Tư liệu)

Trước và trong cách mạng tháng Tám, các đội tiền thân của LLVT Thủ đô xung kích đi đầu, làm nòng cốt cho các tầng lớp nhân dân Hà Nội đẩy mạnh đấu tranh vũ trang, tích cực chuẩn bị mọi điều kiện khi thời cơ đến vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội, góp phần quyết định thắng lợi cách mạng tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị hơn 80 năm của chủ nghĩa thực dân, lật đổ chế độ phong kiến mấy nghìn năm, giành độc lập tự do cho dân tộc, mang lại quyền làm chủ cho nhân dân Việt Nam. LLVT Thủ đô Hà Nội đã cùng các tầng lớp nhân dân kiên quyết đấu tranh đập tan hoạt động chống phá của kẻ thù, bảo vệ vững chắc thành quả của cách mạng, đưa cách mạng Việt Nam thoát ra khỏi tình thế ngàn cân treo sợi tóc.

Sau khi được thành lập, ngày 19/12/1946 hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và chấp hành quyết định của Thường vụ Trung ương Đảng, quân và dân Chiến khu XI với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” đã nổ súng mở đầu cho toàn quốc kháng chiến. Lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung, quân và dân Thủ đô nói riêng mãi mãi lưu truyền cuộc chiến đấu 60 ngày đêm, làm thất bại âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp, vượt chỉ tiêu Trung ương giao, bảo vệ tuyệt đối an toàn cơ quan đầu não của Đảng, Nhà nước, tạo điều kiện cho cả nước có thời gian thực hiện công việc kháng chiến lâu dài. Suốt chặng đường kháng chiến chống thực dân Pháp, LLVT Thủ đô Hà Nội đã kiên trì trụ vững bám dân, bám đất, xây dựng cơ sở, dựa vào dân chiến đấu và lập được nhiều chiến công vẻ vang. Nhiều trận đánh tiêu biểu, hiệu quả để lại kinh nghiệm quý cho chiến tranh nhân dân, góp phần tạo ra bước ngoặt quan trọng trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Các địa phương thuộc tỉnh Hà Đông và Sơn Tây là địa bàn hoạt động của các đơn vị LLVT Mặt trận Hà Nội, nhiều địa phương được xây dựng thành căn cứ kháng chiến và căn cứ của Bộ chỉ huy Mặt trận Hà Nội, hai tỉnh cung cấp nhiều nhất cho Hà Nội lương thực, thực phẩm…

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, lực lượng vũ trang Thủ đô vừa sản xuất, vừa tăng cường chi viện cho chiến trường, dũng cảm, kiên cường, mưu trí, sáng tạo, phối hợp chặt chẽ với lực lượng phòng không, không quân quốc gia đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc, đỉnh cao là cuộc chiến đấu 12 ngày đêm cuối tháng Chạp năm 1972, lập nên kỳ tích của thế kỷ XX Hà Nội “Điện Biên Phủ trên không” để trở thành “Thủ đô lương tri và phẩm giá con người”.

Thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, LLVT Thủ đô luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, vượt mọi khó khăn, vừa tăng cường chi viện cho các mặt trận bảo vệ biên giới, làm nhiệm vụ quốc tế, vừa là lực lượng nòng cốt góp phần cùng các tấng lớp nhân dân Thủ đô làm thất bại âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc thành quả của cách mạng, bảo vệ, kiến thiết Thủ đô ngày càng văn minh, hiện đại.

Trng quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ LLVT Thủ đô Hà Nội lập nên những chiến công oanh liệt, viết nên những trang sử hào hùng, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Sự hy sinh, cống hiến cùng những chiến công của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ đã hun đúc nên giá trị tiêu biểu, đặc sắc như lời Bác Hồ khen “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự thương yêu đùm bọc giúp đỡ của nhân dân, lớp lớp các thế hệ cán bộ, chiến sĩ LLVT Thủ đô đã không ngại gian khổ hy sinh ra sức phấn đấu xây dựng và vun đắp nên truyền thống Anh hùng, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ cấp trên giao. Kế thừa, phát huy truyền thống vẻ vang của LLVT Thủ đô là vinh dự và trách nhiệm của mỗi cán bộ, chiến sĩ LLVT Thủ đô hôm nay.

Ngày truyền thống

Để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài, toàn dân, toàn diện, ngày 19/10/1946, Chiến khu XI – Tổ chức hành chính quân sự thống nhất của các LLVT Thủ đô Hà Nội được thành lập. Chiến khu XI đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương. Ngày 25/7/1947 trước yêu cầu của cuộc kháng chiến, Trung ương ra quyết định địa bàn hoạt động của Chiến khu XI được mở rộng bao gồm: Hà Nội, Hà Đông và Sơn Tây. Qua Hội thảo khoa học và thực tiễn hoạt động quân sự, quốc phòng của Chiến khu XI đã mang đầy đủ tính chất chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội ngày nay. Vì vậy, ngày 19/10/1946 là ngày truyền thống của LLVT Thủ đô Hà Nội theo Quyết định số 1850/QĐ-QP ngày 31/5/2010 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

Phần thưởng cao quý

– 03 lần tuyên dương Đơn vị Anh hùng LLVT nhân dân (1978, 2002, 2005);

– 01 Huân chương Sao vàng (2011);

– 03 Huân chương Hồ Chí Minh (1984, 1985, 2002);

– 04 Huân chương Quân công (hạng Nhất: 1984; hạng Nhì: 2006; 02 hạng Ba: 2004);

– 04 Huân chương Chiến công (02 hạng Nhất: 1983 và 2000; 02 hạng Ba: 2004 và 2006);

– 01 Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất (2005);

– 06 lần được tặng Cờ thưởng luân lưu Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược;

– 02 Huân chương Itxala do Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào tặng (01 hạng Nhì cho tập thể; 01 hạng Ba cho cá nhân năm 2010)…

Tổng Hợp

Phần Thứ Năm: Tổ Chức Đoàn Trong Quân Đội Nhân Dân Việt Nam Và Công An Nhân Dân Việt Nam

Trang chủHướng dẫn thực hiện Điều lệ Đoàn

Phần thứ năm: Tổ chức Đoàn trong Quân đội Nhân dân Việt Nam và Công an Nhân dân Việt Nam 

PHẦN THỨ NĂM TỔ CHỨC ĐOÀN TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM VÀ CÔNG AN NHÂN DÂN VIỆT NAM

A- TỔ CHỨC ĐOÀN TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

I – NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC VÀ LÃNH ĐẠO ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

1- Tổ chức Đoàn trong Quân đội nhân dân Việt Nam là một bộ phận của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Tổ chức và hoạt động của Đoàn trong Quân đội thực hiện theo Điều lệ Đoàn, nghị quyết của Đại hội Đoàn toàn quốc, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đoàn, nghị quyết của Đảng uỷ Quân sự Trung ương, quy định của Bộ Quốc phòng, chỉ thị của Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam và sự hướng dẫn của Ban công tác Thanh niên Quân đội. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong Quân đội chỉ tổ chức ở đơn vị cơ sở: cấp trung đoàn, lữ đoàn và tương đương trở xuống đến các đại đội và tương đương.

2- Nhiệm vụ của tổ chức Đoàn trong Quân đội:

– Tập hợp, đoàn kết, giáo dục, rèn luyện đoàn viên thanh niên có đủ phẩm chất và năng lực hoàn thành chức trách quân nhân. Thường xuyên bổ sung lực lượng nòng cốt cho phong trào cách mạng của địa phương.

– Tổ chức các hoạt động của thanh niên phát huy vai trò xung kích, sáng tạo của tuổi trẻ góp phần thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ chính trị của đơn vị, của quân đội, tích cực tham gia xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh toàn diện xứng đáng là đội dự bị tin cậy của Đảng.

3- Công tác thanh niên trong Quân đội do Đảng uỷ Quân sự Trung ương lãnh đạo, ở mỗi cấp do cấp uỷ trực tiếp lãnh đạo.

– Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp quản lý, chỉ đạo mọi mặt đối với công tác thanh niên và tổ chức Đoàn trong toàn quân.

– Cơ quan chính trị các cấp trực tiếp quản lý, chỉ đạo mọi mặt với công tác thanh niên và tổ chức Đoàn trong các đơn vị thuộc quyền.

– Cấp uỷ Đảng, chính uỷ, chính trị viên, cơ quan chính trị ở đơn vị cơ sở trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý mọi mặt đối với tổ chức Đoàn cơ sở theo sự chỉ đạo của cơ quan chính trị và hướng dẫn của Ban công tác thanh niên cấp trên.

– Cán bộ chỉ huy và cơ quan các cấp có trách nhiệm phát huy vai trò của tổ chức Đoàn.

4- Để giúp cấp uỷ Đảng, chính uỷ, chính trị viên cơ quan chính trị lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ công tác thanh niên, từ cấp trên trực tiếp cơ sở đến toàn quân có trợ lý thanh niên và Ban Công tác thanh niên do Chủ nhiệm chính trị cùng cấp trực tiếp chỉ đạo.

Ban công tác thanh niên có hai chức năng chủ yếu: Nghiên cứu, đề xuất chủ trương, biện pháp tiến hành công tác vận động thanh niên và chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động của tổ chức Đoàn ở cơ sở.

5- Tổ chức Đoàn thuộc Bộ đội Biên phòng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, cơ quan quân sự địa phương, bộ đội địa phương được tổ chức và hoạt động theo cơ chế tổ chức Đoàn trong Quân đội; chịu sự quản lý về đoàn số, đoàn phí và hướng dẫn công tác của tổ chức Đoàn địa phương, có quyền bầu cử, ứng cử vào các cấp bộ Đoàn địa phương. Cán bộ phụ trách công tác thanh niên của phòng chính trị được giới thiệu tham gia vào Ban Chấp hành tỉnh, thành Đoàn.

6 – Đại hội Đoàn cấp trên cơ sở do cơ quan chính trị triệu tập và tổ chức theo quy định của Điều lệ và hướng dẫn của Ban Thường vụ Trung ương Đoàn và Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.

II- TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐOÀN TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

1- Về tổ chức:

a, Tổ chức cơ sở Đoàn do Đảng uỷ cơ sở hoặc cơ quan chính trị cấp trên quyết định thành lập theo điều lệ Đoàn và phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ của đơn vị và quân đội.

– Tổ chức Đoàn cơ sở trong bộ đội chủ lực được thành lập ở các đơn vị:

+ Trung đoàn, lữ đoàn; hải đoàn, hải đội, tiểu đoàn và tương đương trực thuộc sư đoàn, vùng hải quân.

+ Ở các hệ, tiểu đoàn quản lý học viên và đơn vị tương đương; các phòng, khoa thuộc các học viện, trường sĩ quan, trường quân sự quân khu, quân đoàn, bệnh việc trực thuộc Bộ; trường hạ sĩ quan, trường trung cấp và dạy nghề; bệnh viện thuộc quân khu, quân chủng, tổng cục; cấp cục, phòng thuộc Bộ Tổng tham mưu – cơ quan Bộ Quốc phòng, các tổng cục, quân khu, quân chủng, bộ đội biên phòng, quân đoàn, binh chủng, binh đoàn; cấp phòng thuộc sư đoàn, vùng hải quan và tương đương.

– Tổ chức Đoàn cơ sở cơ quan quân sự, đơn vị bộ đội địa phương; cơ quan, đơn vị bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được thành lập ở các đơn vị:

+ Cấp phòng thuộc bộ chỉ huy quân sự, bộ chỉ huy biên phòng tỉnh, thành phố.

+ Ban chỉ huy quân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

+ Tiểu khu, đồn biên phòng cửa khẩu, cảng; tiểu đoàn, đại đội và đơn vị tương đương thuộc bộ chỉ huy biên phòng tỉnh, thành phố.

– Tổ chức Đoàn cơ sở ở các doanh nghiệp được thành lập ở công ty, nhà máy, xí nghiệp và tương đương.

b, Hình thức tổ chức:

Tổ chức cơ sở Đoàn trong quân đội nhân dân Việt Nam có Đoàn cơ sở 3 cấp, Đoàn cơ sở 2 cấp, Đoàn cơ sở 1 cấp ( Chi đoàn cơ sở ).

– Đoàn cơ sở 3 cấp ở trung đoàn, lữ đoàn và tương đương có liên chi đoàn ở tiểu đoàn, chi đoàn ở đại đội và tương đương.

– Đoàn cơ sở cấp 2 ở tiểu đoàn và tương đương có các chi Đoàn ở đại đội và tương đương. Đoàn cơ sở cấp 1 (chi đoàn đại đội độc lập hoặc chi đoàn trực thuộc cơ quan cấp phòng, cục và tương đương).

– Phân đoàn được tổ chức ở phân đội hoặc tiểu đội, khẩu hiệu và tương đương do Ban Chấp hành Đoàn cơ sở quyết định.

c, Về Ban Chấp hành Đoàn các cấp:

– Việc bầu Ban Chấp hành Đoàn các cấp tiến hành theo Điều lệ Đoàn và hướng dẫn của Ban Thường vụ Trung ương Đoàn.

– Trong điều kiện không tổ chức đại hội được thì cấp uỷ Đảng cơ sở nơi không có đảng uỷ cơ sở, do cơ quan chính trị cấp trên trực tiếp chỉ định Ban Chấp hành Đoàn cơ sở, Ban Chấp hành Đoàn cấp trên chỉ định Ban Chấp hành Đoàn cấp dưới. Trường hợp cần bổ sung thì tiến hành bầu bổ sung hoặc chỉ định Ban Chấp hành như quy định trên.

– Bầu Bí thư trực tiếp tại đại hội chỉ thực hiện ở cấp chi đoàn.

– Ban Chấp hành Đoàn ở trung Đoàn, lữ đoàn và tương đương có 9 đến 15 uỷ viên. Ban Thường vụ có 3 đến 5 uỷ viên, nhiệm kỳ 5 năm 1 lần.

– Ban Chấp hành Đoàn ở tiểu đoàn và tương đương, liên chi đoàn có 5 đến 9 uỷ viên, nhiệm kỳ 5 năm 2 lần.

– Ban Chấp hành chi đoàn có 3 đến 7 uỷ viên, nhiệm kỳ là 1 năm.

2- Nhiệm vụ và quyền hạn của tổ chức Đoàn cơ sở.

a, Nhiệm vụ:

– Giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý tưởng XHCN, lòng yêu nước và truyền thống cách mạng, truyền thống quân đội, ý thức công dân, trách nhiệm quân dân, giáo dục đạo đức, lối sống lành mạnh cho đoàn viên thanh niên.

– Tổ chức hoạt động của Đoàn và phong trào thanh niên nhằm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của đơn vị.

– Chủ động, tích cực tham gia có hiệu qủ vào các hoạt động chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá ở đơn vị, góp phần chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và giải quyết những nguyện vọng, quyền lợi chính đáng hợp pháp của thanh niên.

– Quan hệ với tổ chức Đoàn địa phương nơi đóng quan, tổ chức các hoạt động phối hợp giữa thanh niên trong và ngoài quân đội góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của đơn vị và địa phương, tham gia xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh ở địa phương nơi đóng quan và chăm sóc, giáo dục bảo vệ thiếu niên và nhi đồng.

– Đoàn kết, tập hợp thanh niên, xây dựng Đoàn vững mạnh về chính trị, tư tưởng tổ chức và tích cực tham gia xây dựng Đảng.

b, Quyền hạn:

– Đại diện và bảo vệ quyền lợi chính đáng hợp pháp của cán bộ, đoàn viên thanh niên trước pháp luật, điều lệnh quân đội công luận.

– Tổ chức các hoạt động thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị, các hoạt động văn hoá, xã hội tạo nguồn kinh phí cho Đoàn hoạt động theo quy định của Tổng cục Chính trị

c, Quyền hạn giải quyết công việc nội bộ Đoàn:

– Ban Chấp hành Đoàn cơ sở ở trung đoàn và tương đương có quyền:

+ Chuẩn y kết nạp Đoàn viên.

+ Công nhận Ban Chấp hành liên chi đoàn trực thuộc.

+ Quyết định biểu dương, cấp giấy khen của Đoàn, đề nghị cấp trên khen thưởng cán bộ, đoàn viên và tổ chức Đoàn.

+ Yêu cầu chi Đoàn xét và quyết định xoá tên trong danh sách đoàn viên đối với những đoàn viên không tham gia sinh hoạt Đoàn hoặc không đóng đoàn phí 3 tháng trong 1 năm mà không có lý do chính đáng.

+ Quyết định thi hành kỷ luật đến hình thức khai trừ đối với đoàn viên và cách chức uỷ viên Ban Chấp hành liên chi đoàn; khiển trách cảnh cáo đối với uỷ viên Ban Chấp hành Đoàn cơ sở. Các hình thức kỷ luật cao hơn do Ban Chấp hành Đoàn cơ sở xét và đề nghị, cấp uỷ Đảng cơ sở chuẩn y.

– Ban Chấp hành liên chi đoàn ở tiểu đoàn và đơn vị tương đương có quyền:

+ Hướng dẫn, kiểm tra các chi đoàn làm công tác phát triển Đoàn; xét duyệt và đề nghị lên đoàn cấp trên chuẩn y đề nghị của chi đoàn và kết nạp đoàn viên, giới thiệu đoàn viên ưu tú với chi bộ.

+ Công nhận Ban Chấp hành chi đoàn, chỉ định bổ sung uỷ viên Ban Chấp hành chi đoàn.

+ Biểu dương và đề nghị cấp trên khen thưởng cán bộ, đoàn viên, tổ chức Đoàn.

+ Quyết định thi hành kỷ luật với hình thức khiển trách, cảnh cáo đoàn viên và khiển trách đối với uỷ viên Ban Chấp hành chi đoàn.

– Ban Chấp hành chi đoàn có quyền:

+ Xét và đề nghị kết nạp đoàn viên.

+ Đề nghị chi đoàn xem xét quyết định xoá tên trong danh sách đoàn viên đối với đoàn viên không tham gia sinh hoạt Đoàn hoặc không đóng đoàn phí 3 tháng trong 1 năm mà không có lý do chính đáng.

+ Quyết định thi hành kỷ luật khiển trách đối với đoàn viên.

+ Xét và đề nghị cấp trên thi hành kỷ luật đối với cán bộ, đoàn viên từ cảnh cáo trở lên.

+ Nhận xét đoàn viên có đủ tiêu chuẩn vào Đảng, giới thiệu với chi bộ và đề nghị Ban Chấp hành Đoàn cấp trên ra nghị quyết giới thiệu đoàn viên ưu tú vào Đảng, nếu là chi đoàn cơ sở thì được quyền giới thiệu đoàn viên vào Đảng thay cho một đảng viên chính thức.

– Ban Chấp hành Đoàn cơ sở ở tiểu đoàn và tương đương được quyền như Ban Chấp hành Đoàn cơ sở ở trung đoàn, nhưng không có quyền cấp giấy khen cho cán bộ, đoàn viên.

– Ban Chấp hành Đoàn cơ sở cấp 1 có quyền hạn như chi đoàn thuộc đoàn cơ sở cấp 2, 3. Các quyền hạn cao hơn do cấp uỷ Đảng cơ sở quyết định.

III- MỐI LIÊN HỆ VÀ PHỐI HỢP HOẠT ĐỘNG GIỮA TỔ CHỨC ĐOÀN TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM VỚI TỔ CHỨC ĐOÀN ĐỊA PHƯƠNG NƠI ĐÓNG QUÂN

1- Tổ chức Đoàn trong quân đội liên hệ chặt chẽ và phối hợp hoạt động với tổ chức Đoàn địa phương nơi đóng quân theo các nội dung:

– Giáo dục và chuẩn bị tốt về mọi mặt cho thanh niên làm nghĩa vụ quân sự, nâng cao ý thức trách nhiệm của thanh niên đối với sự nghiệp bảo vệ tổ quốc, thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an ninh, tham gia chính sách hậu phương quân đội; giáo dục truyền thống cách mạng và tuyên truyền vận động đoàn viên thanh niên địa phương thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; phát hiện và ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật. Phát huy trách nhiệm của các đoàn thể, gia đình, nhà trường góp phần giáo dục, động viên thanh niên làm tốt nghĩa vụ quân sự trong thời gian tại ngũ.

– Giúp đỡ nhân dân và thanh niên địa phương đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, xây dựng địa phương vững mạnh về mọi mặt.

– Phối hợp và tham gia các phong trào của Đoàn ở địa phương, động viên, cổ vũ, giúp đỡ và học tập lẫn nhau để xây dựng, củng cố tổ chức Đoàn; góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn, xã hội, bài trừ các tệ nạn xã hội, những hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, đấu tranh với các phần tử xấu, phản động.

– Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục thiếu niên nhi đồng.

2- Tổ chức Đoàn trong quân đội được giới thiệu người tham gia Ban Chấp hành Đoàn ở địa phương.

– Các đơn vị bộ đội địa phương; Bộ đội Biên phòng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Ban chỉ huy quân sự quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thể cử cán bộ làm công tác thanh niên tham gia cấp bộ Đoàn ở địa phương.

– Căn cứ điều kiện, hoàn cảnh, tính chất, nhiệm vụ cụ thể của đơn vị, cán bộ làm công tác thanh niên cấp quân khu, quân đoàn, quân chủng, sư đoàn có thể tham gia vào Ban Chấp hành tỉnh, thành Đoàn nơi đóng quân. Ban Thường vụ tỉnh, thành đoàn có trách nhiệm phối hợp với cơ quan chính trị các đơn vị để làm công tác nhân sự.

– Cán bộ làm công tác thanh niên từ cấp trung đoàn trở xuống đến đoàn cơ sở có thể tham gia vào Ban Chấp hành Đoàn cấp huyện nơi đóng quân. Ban Thường vụ Đoàn cấp huyện có trách nhiệm phối hợp với cơ quan chính trị các đơn vị để làm công tác nhân sự.

Việc giới thiệu người tham gia Ban Chấp hành Đoàn địa phương phải được Đảng uỷ, cơ quan chính trị đơn vị đồng ý.

B- TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TRONG CÔNG AN NHÂN DÂN VIỆT NAM

I- NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TRONG CÔNG AN NHÂN DÂN

1- Tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong Công an nhân dân là một bộ phận của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Hoạt động dưới sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Trung ương Đoàn và Đảng uỷ Công an Trung ương.

2- Công tác thanh niên trong Công an nhân dân ở mỗi cấp do cấp uỷ Đảng cấp đó trực tiếp lãnh đạo.

– Tổng cục Xây dựng lực lượng Công an nhân dân giúp Đảng uỷ Công an Trung ương quản lý chỉ đạo công tác thanh niên ở các Tổng cục, Bộ tư lệnh cảnh vệ, V26 và các đơn vị trực thuộc Bộ Công an. Chỉ đạo công tác thanh niên ở Công an các tỉnh, thành phố cho phù hợp với tính chất, đặc điểm và nhiệm vụ của công tác Công an.

– Thủ trưởng cơ quan Xây dựng lực lượng ( Chánh Văn phòng, Cục trưởng cục Chính trị) các Tổng cục; thủ trưởng phụ trách công tác xây dựng lực lượng Bộ Tư lệnh Cảnh vệ, V26, giúp cấp uỷ cùng cấp quản lý, chỉ đạo công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong các đơn vị thuộc quyền.

– Thủ trưởng phụ trách công tác xây dựng lực lượng (đồng chí trong Ban Giám đốc) Công an các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, giúp Đảng uỷ cùng cấp quản lý, chỉ đạo công tác thanh niên các đơn vị thuộc Công an tỉnh, thành phố; đồng thời chỉ đạo, hướng dẫn công tác thanh niên ở Công an các quận, huyện và tương đương.

– Ở đơn vị cơ sở, cấp uỷ Đảng trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo công tác thanh niên.

3- Để giúp cấp uỷ Đảng và thủ trưởng cơ quan Xây dựng lực lượng các cấp trong Công an nhân dân lãnh đạo, chỉ đạo công tác thanh niên từ cấp trên cơ sở lập Ban công tác thanh niên. Ban công tác thanh niên là cơ quan thường trực của một cấp bộ Đoàn và là cơ quan trực tiếp quản lý về công tác thanh niên ở cấp đó.

4- Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Công an các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được tổ chức và hoạt động theo mô hình tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong Công an nhân dân; chịu sự lãnh đạo quản lý trực tiếp của tỉnh, thành Đoàn và chịu sự hướng dẫn, chỉ đạo của ban thanh niên Công an.

5- Sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác thanh niên trong Công an nhân dân.

– Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Bộ Công an chịu sự lãnh đạo của Đảng uỷ Công an Trung ương, của Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và trực tiếp là Tổng cục Xây dựng lực lượng Công an nhân dân.

– Đoàn các Tổng cục, Bộ Tư lệnh cảnh vệ, V26 chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng uỷ Tổng cục, Bộ Tư lệnh cảnh vệ, V26, sự chỉ đạo của Thủ trưởng cơ quan xây dựng lực lượng các tổng cục, Thủ trưởng phụ trách công tác xây dựng lực lượng Bộ Tư lệnh cảnh vệ, V26; sự chỉ đạo của Ban thanh niên Công an.

– Đoàn Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu sự lãnh đạo của Đảng uỷ Công an tỉnh, thành phố và Ban Chấp hành tỉnh, thành Đoàn; sự quản lý, chỉ đạo của Thủ trưởng phụ trách cơ quan xây dựng lực lượng công an tỉnh, thành phố và sự hướng dẫn, chỉ đạo của Ban thanh niên Công an.

– Đoàn Công an quận huyện và tương đương chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng uỷ Công an quận, huyện và tương đương và Ban Chấp hành quận, huyện Đoàn; sự hướng dẫn, chỉ đạo của Ban thanh niên Công an tỉnh, thành phố.

– Chi đoàn Công an phường chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Chấp hành Đoàn phường và của cấp uỷ Công an phường; sự hướng dẫn, chỉ đạo của Ban Chấp hành Đoàn thanh niên Công an quận và tương đương. Chi đoàn Công an thuộc các đồn, trạm chịu sự quản lý, chỉ đạo của Đảng ủy cùng cấp và tổ chức Đoàn cấp trên trực tiếp.

II- TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐOÀN TRONG CÔNG AN NHÂN DÂN

1- Tổ chức cơ sở Đoàn trong Công an nhân dân được thành lập ở các vụ, cục, viện, trường, trại, bệnh viện, công ty, xí nghiệp, các đơn vị trực thuộc các tổng cục, Bộ Tư lệnh cảnh vệ, V26, các phòng, ban thuộc Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; công an quận, huyện và tương đương.

Tổ chức cơ sở đoàn trong Công an nhân dân bao gồm Đoàn cơ sở và chi Đoàn cơ sở (Đoàn thanh niên Cục C22, Tổng cục II là tổ chức Đoàn cấp trên cơ sở).

– Đoàn cơ sở gồm:

+ Đoàn cơ sở 3 cấp: Đoàn cơ sở – liên chi đoàn – chi đoàn.

+ Đoàn cơ sở 2 cấp: Đoàn cơ sở – chi đoàn.

– Chi đoàn cơ sở: là các chi đoàn do Ban thanh niên các cấp trong Công an nhân dân (và Đoàn C22, Tổng cục II )trực tiếp quản lý, chỉ đạo.

– Ban cán sự Đoàn trong Công an nhân dân là một cấp bộ Đoàn không hoàn chỉnh do Ban thanh niên các cấp trong Công an nhân dân trực tiếp quản lý, chỉ đạo.

2- Việc thành lập, giải thể tổ chức cơ sở Đoàn:

a- Điều kiện thành lập tổ chức cơ sở:

– Đơn vị có ít nhất 3 đoàn viên trở lên được thành lập chi đoàn. Nếu chưa đủ 3 đoàn viên thì được giới thiệu sinh hoạt ở một tổ chức cơ sở thích hợp.

– Đoàn cơ sở là cấp trên trực tiếp của chi đoàn. Đơn vị có từ 2 cơ sở trực thuộc trở lên (đủ điều kiện thành lập chi đoàn) và có ít nhất 30 đoàn viên có thể thành lập Đoàn cơ sở.

– Chi Đoàn do Ban thanh niên các cấp trong Công an nhân dân (và Đoàn C22, Tổng cục II ) trực tiếp quản lý chỉ đạo đều là chi đoàn cơ sở, có chức năng nhiệm vụ, quyền hạn tương đương Đoàn cơ sở.

– Ban cán sự Đoàn trong Công an nhân dân thực hiện theo quy định tại mục III, phần thứ tư, Hướng dẫn thực hiện Điều lệ Đoàn và những quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do cấp có thẩm quyền ra quyết định thành lập, giải thể quy định.

– Những đơn vị cơ sở có đông đoàn viên, trong đó các bộ phận trực thuộc có tổ chức Đảng và chuyên môn tương ứng như: Tiểu đoàn (thuộc trung đoàn), khoa, hệ đào tạo, khoá học (trong các học viện, trường công an nhân dân) phòng nghiệp vụ chuyên môn (thuộc các vụ, cục, bộ tư lệnh) và các đội, bộ phận công tác (thuộc các phòng, ban ở Công an các tỉnh, thành phố)… có thể thành lập liên chi đoàn.

– Trường hợp các đơn vị cơ sở có quá ít đoàn viên, có thể thành lập chi Đoàn ghép bao gồm đoàn viên của một số đơn vị có tính chất công việc và điều kiện sinh hoạt giống nhau.

b- Thẩm quyền thành lập, giải thể tổ chức cơ sở Đoàn:

– Việc thành lập, giải thể tổ chức cơ sở Đoàn do cấp uỷ Đảng trực tiếp quyết định. Đối với cơ sở Đoàn Công an huyện (tương đương) do Ban thường vụ huyện Đoàn (tương đương) ra quyết định sau khi có ý kiến thống nhất của cấp uỷ Đảng củng cấp. Đối với liên chi đoàn, chi đoàn do Ban Chấp hành Đoàn cơ sở cấp trên trực tiếp quyết định thành lập.

– Việc thành lập chi đoàn ghép gồm đoàn viên của nhiều đơn vị cơ sở do trưởng ban thanh niên đề nghị cấp uỷ Đảng cùng cấp ra quyết định thành lập và giao cho một cấp uỷ cơ sở trực tiếp lãnh đạo. Việc giải thể do trưởng ban thanh niên đề nghị cấp uỷ Đảng cùng cấp ra quyết định.

III- BAN CÔNG TÁC THANH NIÊN

1- Hệ thống Ban công tác thanh niên các cấp trong Công an nhân dân:

– Ở Bộ Công an có Ban công tác thanh niên Công an (gọi tắt là Ban thanh niên Công an).

– Ở các Tổng cục, Bộ Tư lệnh cảnh vệ, V26, Công an các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có Ban công tác thanh niên gọi tắt là Ban thanh niên Tổng cục, Bộ Tư lệnh cảnh vệ, V26, Công an tỉnh, thành phố…).

2- Thành lập, giải thể Ban thanh niên và bố trí cán bộ Ban thanh niên:

– Việc thành lập, giải thể Ban thanh niên Công an và bổ nhiệm cán bộ thanh niên ở Bộ do Tổng cục trưởng Tổng cục Xây dựng lực lượng Công an nhân dân quyết định trên cơ sở ý kiến thống nhất của Ban thường vụ Đảng uỷ Công an Trung ương và Ban Bí thư Trung ương Đoàn (Thủ tục bổ nhiệm Trưởng Ban và Phó trưởng Ban Thanh niên Công an thực hiện theo quy định của Bộ Công an).

– Việc thành lập, giải thể Ban thanh niên và bổ nhiệm cán bộ Ban thanh niên các Tổng cục, Bộ Tư lệnh cảnh vệ, V26 do do Đảng uỷ Tổng cục, Bộ tư lệnh cảnh vệ, V26 quyết định sau khi thống nhất với thủ trưởng chuyên môn và Ban thanh niên Công an.

– Việc thành lập, giải thể Ban thanh niên và bổ nhiệm cán bộ Ban thanh niên Công an các tỉnh, thành phố quyết định sau khi thống nhất với thủ trưởng chuyên môn và Ban Thường vụ tỉnh, thành Đoàn.

– Trưởng Ban thanh niên chịu trách nhiệm trước cấp uỷ Đảng và thủ trưởng cơ quan Xây dựng lực lượng cấp mình về thực hiện chức năng nhiệm vụ của Ban thanh niên về kết quả công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong các đơn vị thuộc quyền. Việc phân công nhiệm vụ từng cán Bộ trong Ban thanh niên ở mỗi cấp do trưởng Ban thanh niên cấp đó quyết định.

3- Chức năng:

– Nghiên cứu đề xuất với cấp uỷ Đảng và cơ quan chính trị (Xây dựng lực lượng) các chủ trương, nội dung, biện pháp, cơ chế, điều kiện tiến hành công tác thanh niên.

– Hướng dẫn, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các nội dung về công tác thanh niên.

IV- ĐẠI HỘI ĐOÀN CẤP TRÊN CƠ SỞ

– Đại hội đại biểu Đoàn thanh niên Bộ Công an, đại hội Đoàn thanh niên các Tổng cục, Bộ Tư lệnh cảnh vệ, V26, Đoàn C22- Tổng cục II và Công an các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tiến hành 5 năm 1 lần. Đại hội có nhiệm vụ: Kiểm điểm đánh giá kết quả công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong nhiệm kỳ; quyết định mục tiêu, phương hướng và chương trình hành động trong nhiệm kỳ tiếp theo; thoả thuận góp ý kiến báo cáo đại hội của Đoàn cấp trên và bầu đại biểu đi dự đại hội Đoàn cấp trên.

– Đại hội Đoàn thanh niên ở cấp trên cơ sở do Ban thanh niên cấp đó tổ chức trên cơ sở phê duyệt của Đảng uỷ, Thủ trưởng cơ quan Xây dựng lực lượng cùng cấp và tổ chức Đoàn cấp trên về số lượng đại biểu, nội dung chương trình, thời gian và địa điểm đại hội.

– Thành phần đại biểu gồm: Uỷ viên Ban thanh niên cấp triệu tập đại hội, đại biểu do đại hội đoàn các đơn vị trực thuộc bầu và đại biểu chỉ định không quá 5% so với tổng số đại biểu được triệu tập.

V- MỐI LIÊN HỆ VÀ PHỐI HỢP HOẠT ĐỘNG GIỮA ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TRONG CÔNG AN NHÂN DÂN VỚI TỔ CHỨC ĐOÀN ĐỊA PHƯƠNG NƠI ĐÓNG QUÂN

1- Tổ chức Đoàn trong Công an nhân dân liên hệ và phối hợp chặt chẽ với tổ chức Đoàn địa phương nhằm góp phần giáo dục thanh, thiếu nhi nâng cao ý thức trách nhiệm đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng khối đoàn kết quân dân, góp phần giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, xây dựng địa phương, đơn vị, xây dựng tổ chức đoàn, Đội vững mạnh.

2- Tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong Công an nhân dân giới thiệu người tham gia Ban Chấp hành Đoàn các cấp.

– Tổng cục xây dựng lực lượng Công an nhân dân giới thiệu người tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đoàn.

– Đảng uỷ Công an các tỉnh,thành phố trực thuộc Trung ương giới thiệu người tham gia Ban Chấp hành tỉnh, thành Đoàn.

– Ban Chấp hành Đoàn Công an quận, huyện và tương đương giới thiệu người tham gia Ban Chấp hành quận, huyện Đoàn và tương đương; Ban Chấp hành chi Đoàn Công an phường giới thiệu người tham gia Ban Chấp hành Đoàn phường. Việc giới thiệu người tham gia Ban Chấp hành Đoàn quận, huyện, phường phải được sự đồng ý của cấp uỷ Đảng Công an cùng cấp.

[Trở về]

Các tin đã đăng

Phần thứ sáu: Công tác kiểm tra, giám sát của Đoàn và Ủy ban Kiểm tra các cấp

Phần thứ bảy: Đoàn với các tổ chức hội của thanh niên

Phần thứ tám: Đoàn phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh

Phần thứ chín: Khen thưởng của Đoàn

Phần thứ mười: Kỷ luật của Đoàn

Phần thứ mười một: Nguyên tắc thu nộp đoàn phí của Đoàn

Vị Trí, Chức Năng, Nguyên Tắc Tổ Chức Hoạt Động Và Nhiệm Vụ Của Dân Quân Tự Vệ Việt Nam Hiện Nay

DÂN QUÂN TỰ VỆ I. KHÁI QUÁT CHUNG. Lực lượng vũ trang Việt Nam là quân đội gồm 3 bộ phận hợp thành với liên hệ chặt chẽ đó là: Bộ đội chủ lực, Bộ đội địa phương, và dân quân tự vệ. Bài thu hoạch này sẽ tập trung nghiên cứu về lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng đông đảo và rộng khắp nhất trong lực lượng vũ trang Việt Nam. I.1. Khái niệm về dân quân tự vệ: Theo điều 1 của Pháp lệnh dân quân tự vệ thì: Dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang quần chúng không thoát li sản xuất, công tác, là một bộ phận của lực lượng vũ trang nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lí và điều hành của Chính phủ, ủy ban nhân dân các cấp, sự chỉ đạo chỉ huy thống nhất của bộ trưởng Bộ quốc phòng và sự chỉ huy trực tiếp của cơ quan quân sự địa phương. Lực lượng này được tổ chức ở xã phường, thị trấn thì gọi là Dân quân. Được tổ chức ở các cơ quan Nhà Nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức Chính trị- xã hội thì gọi là Tự vệ. Lực lượng dân quân tự vệ bao gồm dân quân tự vệ nòng cốt và dân quân tự vệ rộng rãi. I.2. Lịch sử hình thành và phát triển: Trong những năm 1930 – 1931, trong phong trào Xô viết Nghệ – Tĩnh đã xuất hiện các đội Tự vệ đỏ, đó là mầm mống của các lực lượng vũ trang cách mạng sau này của nhân dân ta. Ngày 28 tháng 3 năm 1935, Đại hội lần thứ nhất của Đảng được tổ chức tại Ma Cao (Trung Quốc) đã thông qua “Nghị quyết về Đội tự vệ”. Nghị quyết xác định bản chất giai cấp, bản chất cách mạng của đội tự vệ, một tổ chức có tính chất nửa quân sự của quần chúng nhân dân lao động, chủ yếu là của công nông, do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Thành phần là những người lao động nhiệt tình, cương quyết, không phân biệt gái, trai, hoặc dân tộc, từ 18 tuổi trở lên. Ngày 28 tháng 3 năm 1935 đã được công nhận là ngày truyền thống lực lượng dân quân tự vệ Việt Nam. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, các đội du kích Bắc Sơn, du kích Ba Tơ cùng hàng ngàn đội tự vệ, tự vệ chiến đấu ở khắp các địa phương trên cả nước đã được thành lập và phát triển lên trong cao trào đấu tranh cách mạng chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền. Trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, lực lượng tự vệ và tự vệ chiến đấu khắp Trung – Nam – Bắc đã đóng vai trò xung kích đắc lực cùng với Việt Nam giải phóng quân kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị của hàng triệu quần chúng vùng lên dùng bạo lực cách mạng giành chính quyền về tay nhân dân trong phạm vi cả nước. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, dân quân tự vệ và du kích là lực lượng đông đảo nhất, không phân biệt nam, nữ, tôn giáo, đảng phái, xuất thân, được tổ chức ở các thôn, xã, làng, bản, không thoát ly sản xuất, luôn luôn bám đất, bám dân để đánh giặc giữ làng, chống địch càn quét khủng bố, làm thất bại âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của chúng. Dân quân tự vệ và du kích với những vũ khí thô sơ như giáo, mác, gậy gộc, cung nỏ, súng đạn tự chế, địa lôi, hầm chông với những cách đánh tài tình, linh hoạt đã khiến cho địch ăn không ngon, ngủ không yên, bị lọt vào một thứ “lưới thép” không tài nào thoát ra được. Những đóng góp của lực lượng dân quân tự vệ và du kích đã góp phần đắc lực vào thắng lợi chung của dân tộc năm 1954, đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược. Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, trên miền Bắc, lực lượng dân quân tự vệ được tổ chức rộng khắp, bao gồm cả nông dân, công nhân, trí thức, học sinh, sinh viên; được trang bị từ thô sơ đến tương đối hiện đại đã chung sức, chung lòng tích cực tham gia kiến thiết miền Bắc xã hội chủ nghĩa, anh dũng chiến đấu bắn máy bay Mỹ, phục vụ chiến đấu, thực hiện công tác phòng không nhân dân, bảo đảm giao thông vận tải thời chiến, xung kích trong lao động sản xuất, bảo vệ trật tự trị an ở cơ sở, thực hiện nghĩa vụ của hậu phương đối với tiền tuyến lớn miền Nam. Ở miền Nam, các đội tự vệ và du kích ở cả nông thôn, đồng bằng, rừng núi, đô thị đã hỗ trợ đắc lực cho phong trào đồng khởi góp phần làm thất bại âm mưu của đế quốc Mỹ nhằm thống trị miền Nam bằng các thủ đoạn của chủ nghĩa thực dân mới. Bằng mọi thứ vũ khí kể cả thô sơ và hiện đại, anh dũng chiến đấu cùng với quân giải phóng và nhân dân lần lượt đánh thắng chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đánh giá vai trò, vị trí chiến lược của lực lượng dân quân tự vệ và du kích đối với công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta, tháng 5 năm 1947 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Dân quân tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận kẻ địch hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó, thì địch nào cũng phải tan rã”. Từ sau khi đất nước được thống nhất đến nay, lực lượng Dân quân tự vệ đã cùng với các lực lượng khác vẫn luôn giữ vững và phát huy vị trí chiến lược của mình trong sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, quản lý, điều hành của chính quyền xung kích trong lao động sản xuất, tham gia giữ gìn anh ninh chính trị, trật tự an toàn ở địa phương, cơ sở, phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tại, tìm kiếm cứu nạn; được cấp ủy, chính quyền và nhân dân tin cậy. Để ghi nhận những công lao và thành tích Dân quân tự vệ qua các thời kỳ, đã có hàng trăm tập thể và cá nhân Dân quân tự vệ được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, huân chương, huy chương các loại; Cục Dân quân tự vệ được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ chống Mỹ và Huân chương Hồ Chí Minh năm 2009. II. VỊ TRÍ, CHỨC NĂNG, NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA DÂN QUÂN TỰ VỆ VIỆT NAM HIỆN NAY. Với vị trí chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước những năm qua; trong giai đoạn cách mạng mới, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, đồng thời bảo đảm tính pháp lý đối với chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của Dân quân tự vệ; Pháp lệnh Dân quân tự vệ đã được nâng lên thành Luật Dân quân tự vệ và ngày 23/11/2009 đã được Quốc hội khoá XII tại kỳ họp thứ 6 thông qua và có hiệu lực thi hành từ 01/7/2010; trong đó quy định: II.1. Vị trí, chức năng: Dân quân tự vệ Việt Nam là lực lượng vũ trang quần chúng không thoát ly sản xuất, công tác là thành phần của lực lượng vũ trang nhân dân Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; là lực lượng bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản của Nhà nước, làm nòng cốt cùng toàn dân đánh giặc ở địa phương cơ sở khi có chiến tranh. Lực lượng này được tổ chức ở xã, phường, thị trấn gọi là Dân quân; được tổ chức ở cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế gọi là Tự vệ. II.2. Nguyên tắc tổ chức hoạt động: 1. Dân quân tự vệ Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự quản lý điều hành của Chính phủ mà trực tiếp là sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phương các cấp; sự chỉ huy thống nhất của Bộ trưởng Bộ quốc phòng và sự chỉ huy trực tiếp của chỉ huy trưởng cơ quan quân sự địa phương. 2. Tổ chức và hoạt động của DQTV phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; dựa vào dân và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị để thực hiện nhiệm vụ. 3. Tổ chức biên chế của DQTV phải căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh gắn với địa bàn và nhiệm vụ của đơn vị sản xuất, công tác; bảo đảm cho thuận tiện cho chỉ đạo, quản lý, chỉ huy và phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của từng địa phương. II.3. Nhiệm vụ của Dân quân tự vệ gồm: 1. Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu và phục vụ chiến đấu để bảo vệ địa phương, cơ sở, phối hợp với các đơn vị Bộ đội Biên phòng, Hải quân, Cảnh sát biển và các lực lượng khác bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia và chủ quyền, quyền chủ quyền trên các vùng biển Việt Nam. 2. Phối hợp với các đơn vị Quân đội nhân dân Công an nhân dân và các lực lượng khác trên địa bàn tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng khu vực phòng thủ, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Đảng, chính quyền, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản của Nhà nước. 3. Thực hiện nhiệm vụ phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, tìm kiếm, cứu nạn, bảo vệ và phòng, chống cháy rừng, bảo vệ môi trường và một số nhiệm vụ phòng thủ dân sự khác theo quy định của pháp luật. 4. Tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh, tham gia xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện; xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương, cơ sở. 5. Học tập chính trị, pháp luật, huấn luyện quân sự và diễn tập. 6. Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật. III. KẾT LUẬN. Hiện nay chúng ta đang được sống trong hòa bình nhưng các thế lực thù địch vẫn không từ bỏ ý định phá hoại thành quả cách mạng. Tình hình thế giới diễn ra nhiều nơi vẫn diễn ra căng thẳng tiềm ẩn nguy cơ chiến tranh. Do đó việc xây dựng một lực lương dân quân, tự vệ vững mạnh rộng khắp là một chủ trương đúng đắn và sáng suốt của đảng và chính phủ ta. Thực hiện chủ trương của đảng và chính phủ lực lượng dân quân tự vệ được chúng ta đã xây dựng được một lực lượng dân quân tự vệ từ thành thị đến nông thôn từ các nhà máy xí nghiệp đến các cơ quan và các trường cao đẳng đại học trong cả nước. Hàng năm các lực lượng này vẫn thường xuyên được tập trung để rèn luyện kỹ năng chiến đấu nhằm đáp ứng được nhiệm vụ mỗi khi tổ quốc lâm nguy. Với chủtrương bám sát địa bàn dân cư chúng ta đã xây dựng được một lực lượng lớn dân quân, tự vệ. Theo đó mỗi xã, phường, nhà máy, xí nghiệp, trường cao đẳng, đại học đều có một đơn vị dân quân tự vệ tùy vào từng địa phương cơ quan mà quy định quy mô của từng đơn vị. Với chủ trương và biện pháp hợp lý chúng ta đã xây dựng được một lực lượng dân quân, tự vệ vững mạnh rộng khắp đáp ứng được chủ trương và chính sách của đảng trong thời kỳ mới .