Vị trí, tính chất, chức năng của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh, huyện, xã và các cấp tương đương được quy định tại Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.
I. Hội đồng nhân dân (HĐND) 1.1. Vị trí pháp lí
Theo khoản 1 Điều 6 Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Hội đồng nhân dân gồm các đại biểu Hội đồng nhân dân do cử tri ở địa phương bầu ra, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Vị trí pháp lí của HĐND thể hiện ở 2 phương diện:
Một là, cơ quan đại diện cho nhân dân ở địa phương
HĐND là cơ quan duy nhất ở địa phương do cử tri địa phương bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng và bỏ phiếu kín (dân cử). Do đó, đại biểu HĐND là những người đại diện cho tất cả các tầng lớp nhân dân ở địa phương.
Trong hoạt động của mình, HĐND chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương. Mục đích của HĐND là phục vụ cho lợi ích của nhân dân địa phương
– Hai là, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương: HĐND thay mặt cho nhân dân địa phương quyết định các vấn đề quan trọng ở địa phương.
1.2. Chức năng của HĐND:
1.2.1. Chức năng quyết định:
HĐND quyết định những vấn đề trong phạm vi được phân quyền, phân cấp; quyết định và tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động các nguồn lực của xã hội để xây dựng và phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh trên địa bàn.
Những nội dung thuộc quy định của HĐND gồm:
– Quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, văn hóa xã hội;
– Khoa học công nghệ, tài nguyên môi trường;
– Quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội;
– Chính sách dân tộc, tôn giáo, thi hành pháp luật tại địa phương;
– Xây dựng chính quyền địa phương.
1.2.2. Chức năng giám sát:
Giám sát của HĐND là hoạt động của HĐND, thường trực HĐND, các ban & đại biểu HĐND trong việc xem xét, theo dõi đánh giá hoạt động của các cơ quan, tổ chức cá nhân, là đối tượng chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, pháp luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, cũng như nghị quyết của HĐND về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình để xử lí theo thẩm quyền hoặc yêu cầu kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lí
* Vị, trí, vai trò của Hội đồng nhân dân xã
Hội đồng nhân dân (HĐND) xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở cơ sở, đồng thời là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở địa phương.
Hội đồng nhân dân xã quyết định mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, an ninh, quốc phòng, an toàn xã hội tại cơ sở; quyết định trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, xã hội và đời sống; quyết định đối với việc thực hiện chính sách dân tộc và tôn giáo, quyết định trong lĩnh vực thi hành pháp luật, quyết định trong lĩnh vực xây dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính; bầu và phê chuẩn các chức danh hành chính theo luật định. Đó những công việc mà xã, phường, thị trấn được phân cấp và những việc đáp ứng yêu cầu tự quản của cộng đồng dân cư ở cơ sở.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, vai trò của Hội đồng nhân dân được tăng cường đổi mới nhằm đáp ứng điều kiện thực tiễn, thể hiện cụ thể trong các hoạt động sau:
– Giám sát hoạt động của cơ quan hành chính và những công việc do cấp trên thực hiện trên địa bàn, nhất là việc sử dụng đất đai, quỹ công, tài sản công, kể cả các quỹ do dân đóng góp, bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.
– Các đại biểu Hội đồng nhân dân, ngoài việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong các kỳ họp Hội đồng, còn được phân công tham gia các hoạt động thường xuyên, gắn bó với dân như tổ chức giám sát của Hội đồng nhân dân, của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, Ban thanh tra nhân dân, tổ hoà giải, các tổ chức tự quản của dân…
* Liên hệ thực tế
HĐND đã có nhiều đổi mới về tổ chức và hoạt động, nguyên tắc tập trung dân chủ được tôn trọng, dân chủ trong sinh hoạt được phát huy, tính hình thức trong hoạt động của HĐND giảm dần; chất lượng các kỳ họp HĐND từng bước được nâng lên.
Nhận thức được kỳ họp là hoạt động quan trọng và chủ yếu nhất của HĐND, HĐND xã đã đảm bảo được số lượng các kỳ họp đúng theo quy định của pháp luật; công tác tổ chức, điều hành kỳ họp từng bước được cải tiến nhằm phát huy dân chủ một cách tối đa; một số xã tổ chức truyền thanh trực tiếp về kỳ họp được đông đảo các tầng lớp nhân dân quan tâm, theo dõi. Việc xây dựng và ban hành nghị quyết của HĐND có chất lượng, các nghị quyết đề ra đảm bảo đúng luật và phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Chất lượng và hiệu quả của hoạt động giám sát từng bước được nâng lên. Việc gần dân và lắng nghe ý kiến của nhân dân được tăng cường, các đại biểu đã thường xuyên tiếp xúc cử tri để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và vận động nhân dân thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của HĐND.
Tuy nhiên, thực tế hoạt động của HĐND xã, từng lúc chưa phát huy đầy đủ vị trí, vai trò của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương và còn tồn tại, hạn chế một số mặt như: công tác tham gia xây dựng và tuyên truyền, phổ biến pháp luật, chủ trương của Đảng, Nhà nước, nghị quyết của HĐND còn thiếu chủ động; việc xem xét, quyết định những vấn đề quan trọng, nhất là về kinh tế – xã hội, ngân sách nhà nước, xây dựng cơ bản có lúc còn mang tính hình thức; hoạt động giám sát hiệu quả chưa cao, nhiều kiến nghị thông qua hoạt động giám sát chưa được các cơ quan có trách nhiệm giải quyết kịp thời; việc giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, công tác hòa giải ở cơ sở còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân; một số đại biểu HĐND chưa làm tròn trách nhiệm của người đại biểu dân cử, chưa dành thời gian cần thiết cho hoạt động của HĐND, chưa thường xuyên tiếp công dân theo quy định.
Nguyên nhân tồn tại, hạn chế là do cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động còn một số bất cập; Thường trực HĐND xã, nhất là Phó Chủ tịch HĐND hoạt động chuyên trách ở một số địa phương còn hạn chế về trình độ và năng lực, lại thiếu ổn định; đại biểu làm việc chuyên trách quá ít; một số đại biểu còn hạn chế về trình độ, năng lực, thiếu tâm huyết với HĐND; điều kiện đảm bảo cho các hoạt động của HĐND, đại biểu HĐND còn hạn chế; một số ban, ngành, cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của HĐND; ý thức chấp hành nghị quyết của HĐND ở một số cơ quan Nhà nước chưa cao; một số cấp ủy chưa thật sự quan tâm đến hoạt động HĐND.
Từ thực tế hoạt động thời gian qua, để HĐND xã hoạt động có chất lượng, hiệu quả hơn, xin đề xuất một số ý kiến sau:
Thứ nhất, thực tế cho thấy, nơi nào cấp ủy Đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, chặt chẽ và chăm lo đến tổ chức, bộ máy, định hướng nội dung hoạt động, bố trí đúng cán bộ cho HĐND thì nơi đó hoạt động của HĐND có hiệu quả, thực hiện tốt vai trò là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. Do đó, đòi hỏi cấp ủy ở cơ sở cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của HĐND, đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của cấp ủy Đảng ở địa phương đối với hoạt động của HĐND, quan tâm công tác quy hoạch, đào tạo, phân công cán bộ có tâm, có tầm làm công tác HĐND để xây dựng HĐND thật sự là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương.
Thứ hai, nâng cao chất lượng đại biểu HĐND và công tác tổ chức của HĐND xã, thị trấn. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND, trước hết phải đổi mới công tác hiệp thương, giới thiệu người ra ứng cử làm đại biểu, không nên nặng về cơ cấu mà nên coi trọng phẩm chất, đạo đức, trình độ, năng lực công tác, tâm huyết với hoạt động của HĐND, có khả năng đại diện cho cộng đồng dân cư và năng lực tham vấn, quyết định. Do đó, cần đặc biệt chú ý tiêu chuẩn của đại biểu “Có năng lực đóng góp vào hoạt động của Hội đồng nhân dân, có điều kiện thực hiện nhiệm vụ đại biểu”. Định kỳ mỗi năm, HĐND và đại biểu HĐND xã, thị trấn phải báo cáo công khai với dân về các công việc đã làm, đề nghị nhân dân nhận xét, đánh giá; qua đó, phát huy quyền giám sát của nhân dân đối với chính quyền cơ sở và đại biểu dân cử.
Thứ tư, thực hiện tốt chức năng giám sát của HĐND xã, thị trấn. Cần thực hiện tốt các hình thức giám sát như xem xét các báo cáo tại kỳ họp HĐND; kiểm tra, giám sát của Thường trực HĐND; chất vấn của đại biểu; giám sát văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương và giám sát thực tế tại cơ sở nhằm tác động đến phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở địa phương. Để nâng cao chất lượng hoạt động, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân, nhất là thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, HĐND cần tăng cường hoạt động giám sát chuyên đề.
Thứ năm, đổi mới và nâng cao chất lượng tiếp xúc cử tri, tiếp dân của đại biểu HĐND. Cần tăng cường tiếp xúc cử tri trước và sau kỳ họp; đồng thời đa dạng hóa hình thức tiếp xúc cử tri như: tiếp xúc nơi cư trú, nơi làm việc, theo chuyên đề. Khi có yêu cầu của cử tri, đại biểu HĐND nên dành thời gian để tiếp dân; trong hoạt động này, đại biểu phải thật sự gần dân, lắng nghe ý kiến người dân một cách cầu thị, đối thoại cùng người dân và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của nhân dân với HĐND.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã, thị trấn là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Đó cũng là yêu cầu thực tế bức thiết của cuộc sống, nhằm ngày càng hoàn thiện thiết chế dân chủ, bảo đảm cho nhân dân thực hiện được quyền lực của mình. Nâng cao năng lực hoạt động của HĐND xã, thị trấn cũng chính là điều kiện quan trọng để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội cũng như bảo đảm thực hiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
II. Ủy ban nhân dân (UBND): 2.1. Vị trí pháp lí:
Khoản 1, Điều 8 Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 quy định: “UBND do HĐND cùng cấp bầu, là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương, HĐND cùng cấp và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên”
Thể hiện ở 2 nội dung sau:
Một là, cơ quan chấp hành của HĐND
UBND do HĐND cùng bầu tại kì họp đầu tiên ở mỗi khóa họp đầu tiên; là cơ quan chịu trách nhiệm chấp hành nghị quyết HĐND trên các lĩnh vực;
Trong hoạt động của mình, UBND chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND cùng cấp
Hai là, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương:
UBND thực hiện chức năng quản lí nhà nước đối với các lĩnh vực hoạt động của địa phương theo Hiến pháp, các văn bản của các cơ quan hành chính cấp trên.
Chức năng quản lí của UBND có đặc trưng:
– Chức năng cơ bản, quan trọng nhất của UBND;
– Diễn ra theo phạm vi địa giới hành chính được phân cấp;
* Vị trí, vai trò của Ủy ban nhân dân xã
Ủy ban nhân dân xã là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân cùng cấp, là cơ quan hành chính ở địa phương, có nhiệm vụ thực hiện quản lý nhà nước một cách toàn diện trên địa bàn xã, tổ chức thực hiện nghị quyết và quyết định của Hội đồng nhân dân cùng cấp.
Vai trò của Ủy ban nhân dân xã trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thể hiện trong các nội dung:
– Hướng dẫn việc thực hiện, chương trình, kế hoạch, đề án khuyến khích phát triển nông, lâm, ngư nghiệp theo quy định của cấp trên. Tổ chức thực hiện các biện pháp ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ để phát triển sản xuất, hướng dẫn nông dân chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi trong sản xuất theo quy hoạch, kế hoạch chung. Mỗi xã có một công chức chuyên trách về nông nghiệp và phát triển nông thôn. Hình thành các Ban nông nghiệp ở cấp xã có từ 4 – 6 nhân viên trên các lĩnh vực: khuyến nông, bảo vệ thực vật, thú y, kiểm lâm.
– Đào tạo nâng cao trình độ đội ngũ công chức xã và thực hiện chế độ bổ nhiệm có thời hạn. Tiếp tục đổi mới cải cách hành chính, giảm bớt phiền hà cho người dân, đẩy mạnh phân cấp và tạo điều kiện cho chính quyền cấp xã hoạt động có hiệu quả.
Bước sang giai đoạn mới nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta có nhiều thời cơ mới, những cũng phải đối phó với những thách thức cả trong nước và quốc tế. Ở trong nước, công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang được đẩy mạnh nền kinh tế phát triển năng động tạo điều kiện thuận lợi về vốn, thị trường, dịch vụ cho nông nghiệp, nông thôn nhưng lại tranh chấp đất đai và nguồn lực khác, tạo ra nguy cơ làm cho nông thôn tụt hậu. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển khoa học công nghệ, khủng hoảng lương thực và năng lượng toàn cầu tuy đem lại cơ hội để nông nghiệp nước ta tiếp cận với thị trường, nguồn vốn, công nghệ mới nhưng cũng làm gia tăng áp lực cạnh tranh, biến động thị trường.
Thời cơ và thách thức trên đặt ra vấn đề phải giải quyết đồng bộ có hiệu quả các vấn đề về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, củng cố phát triển hệ thống chính trị ở nông thôn tạo cơ sở để thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, thực hiện thành công mục tiêu đưa nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp vào năm 2020.
Do đó vị trí, tính chất của Ủy ban nhân dân được thể hiện ở hai điểm sau:
– Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.
– Với tư cách là cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, ủy ban nhân dân là cơ quan thực hiện chức năng quản lí hành chính nhà nước, chấp hành nghị quyết của hội đồng nhân dân cùng cấp cũng như các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên.
Ủy ban nhân dân chỉ có một chức năng duy nhất là quản lí nhà nước, vì quản lí nhà nước là hoạt động chủ yếu, bao trùm lên toàn bộ hoạt động của ủy ban nhân dân. Trên cơ sở đảm bảo tính thống nhất của pháp luật, Ủy ban nhân dân có quyền ban hành các cơ chế, chính sách phù hợp với thực tế của địa phương mình, tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển và thu hút đầu tư nước ngoài.
Cơ cấu tổ chức của Ủy ban nhân dân gồm : Chủ tịch, phó chủ tịch và các ủy viên.