Vị Trí Chức Năng Quân Đội Nhân Dân Việt Nam / Top 9 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân đội nhân dân Việt Nam kể từ khi ra đời đến nay, đã lập nên những chiến công oanh liệt, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Đặc biệt, Quân đội ta đã thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN, xứng đáng là “đội quân công tác” của Đảng.

Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dân vận kém thì việc gì cũng kém, dân vận khéo thì việc gì cũng thành công” 1, 70 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn dựa vào dân, sát cánh cùng nhân dân thực hiện tốt chức năng “đội quân công tác”, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quân – dân, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trong các giai đoạn cách mạng của Đảng. Bởi vậy, trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, Quân đội luôn nhận được sự giúp đỡ của nhân dân để tạo nên nguồn sức mạnh to lớn đánh thắng kẻ thù xâm lược; thực sự là đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, xứng danh với tên gọi trìu mến, thân thương “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân.

Để thực hiện tốt chức năng “đội quân công tác”, các đơn vị Quân đội đã thường xuyên bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặc điểm, tình hình và các quy định của địa phương, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội làm cơ sở để xác định nội dung, hình thức công tác Dân vận (CTDV), nhất là trên những địa bàn chiến lược, trọng điểm, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo, vùng dân tộc, tôn giáo. Thông qua thực tiễn bám nắm cơ sở, cán bộ, chiến sĩ (CB,CS) Quân đội đã “cùng ăn, cùng ở, cùng làm với dân”, thực hiện đúng phương châm “Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”, tạo được niềm tin trong nhân dân, phát huy sức dân để hoàn thành nhiệm vụ. Với tinh thần tích cực, chủ động, 70 năm qua, CTDV trong Quân đội đã có bước đổi mới toàn diện cả về nội dung, hình thức, cách làm, nên đã đạt được những kết quả quan trọng 2. Hoạt động của hệ thống “Chiến sĩ dân vận”, “Tổ CTDV”; kết nghĩa; huấn luyện dã ngoại kết hợp làm CTDV; các chương trình phối hợp; cử cán bộ tăng cường cơ sở các xã biên giới của Bộ đội Biên phòng và CTDV của các binh đoàn, đoàn kinh tế – quốc phòng; Chương trình quân – dân y kết hợp… đã từng bước đi vào nền nếp, có hiệu quả tốt. Trước yêu cầu phát triển của các vùng chiến lược, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã kịp thời quyết định thành lập và chỉ đạo tổ chức hoạt động của các đội công tác tăng cường cơ sở trên các địa bàn trọng điểm: Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây Quân khu 4 (Đội công tác 123); thể hiện vai trò nòng cốt góp phần xây dựng cơ sở vững mạnh, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn.

Kết quả nổi bật trong thời gian qua là: CTDV của Quân đội đã góp phần tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các cuộc vận động cách mạng, các phong trào và nhiệm vụ chính trị của địa phương; tham gia xây dựng hệ thống chính trị, tăng cường quốc phòng – an ninh, phát triển kinh tế – xã hội; tích cực giúp dân xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới; phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn. Đồng thời đã chủ động tuyên truyền, nâng cao ý thức cảnh giác của các tầng lớp nhân dân, đấu tranh có hiệu quả với mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới, biển, đảo của Tổ quốc, tình đoàn kết các dân tộc, tình hữu nghị với các nước. Mặt khác, đã thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở; công tác dân tộc, tôn giáo trên các địa bàn và chính sách dân tộc, tôn giáo trong Quân đội, v.v. Qua đó, góp phần giữ vững ổn định chính trị – xã hội, tăng cường tiềm lực chính trị – tinh thần, xây dựng “thế trận lòng dân”, hậu phương chiến lược vững chắc trong thế phòng thủ chung của cả nước. Thông qua thực tiễn hoạt động, CTDV đã trở thành một trong những phương thức chủ yếu để tăng cường mối quan hệ gắn kết chiến lược giữa Đảng, nhân dân và Quân đội; là điều kiện để giáo dục, rèn luyện tư tưởng, bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống cho CB,CS Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tuy nhiên, cũng phải nhận thấy rằng, ở một số đơn vị việc thực hiện chức năng “đội quân công tác” chưa thực sự rõ nét; việc tham mưu, đề xuất phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương tiến hành CTDV, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo, biên giới có lúc chưa kịp thời; sự phối hợp giữa các tổ chức, ban, ngành, các lực lượng trong giải quyết các vụ việc phức tạp hiệu quả chưa cao, chưa tạo sức mạnh tổng hợp trong tiến hành CTDV; phương thức hoạt động của đội công tác chưa mang tính đột phá, có thời điểm còn thiếu tính chủ động, chưa phù hợp với đối tượng và loại hình đơn vị, v.v.

Ngày nay, sự nghiệp xây dựng Quân đội, tăng cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc đang đặt ra những yêu cầu mới với không ít khó khăn, phức tạp. Trong khi đó, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội, chia rẽ sự đoàn kết gắn bó keo sơn giữa nhân dân với Đảng, nhân dân với Quân đội; tình trạng tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã hội chưa được đẩy lùi, v.v. Tình hình đó, đang hằng ngày, hằng giờ tác động đến tâm tư, tình cảm của các tầng lớp nhân dân và cán bộ, chiến sĩ; đồng thời, là những cản trở không nhỏ chi phối đến việc thực hiện chức năng “đội quân công tác” của Đảng trong Quân đội.

Từ kinh nghiệm thực hiện chức năng “đội quân công tác” 70 năm qua vận dụng vào tình hình hiện nay cho thấy, để nâng cao hiệu quả hoạt động, toàn quân cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho CB,CS về vị trí, vai trò “đội quân công tác” trong tình hình mới. Trước hết, cần nhận thức sâu sắc rằng, thực hiện tốt CTDV chính là biện pháp quan trọng để Quân đội ta hoàn thành chức năng “đội quân công tác” của Đảng và là cơ sở để tăng cường đoàn kết quân – dân, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ, Quân đội. Bởi vậy, các đơn vị cần làm tốt công tác giáo dục, quán triệt nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của CTDV trong tình hình mới; làm rõ mục đích, yêu cầu, quan điểm, nhiệm vụ đối với mặt công tác quan trọng này. Từ đó, đề cao trách nhiệm của mọi CB,CS trong tổ chức thực hiện; vận dụng cụ thể vào từng công việc, trên từng lĩnh vực, địa bàn, xây dựng mô hình dân vận phù hợp, hiệu quả. Việc làm này phải được tiến hành thường xuyên, bằng nhiều hình thức, phương tiện, nhất là hệ thống thông tin đại chúng; gắn công tác tuyên truyền, giáo dục với đẩy mạnh hoạt động thực tiễn; nâng cao hiệu quả CTDV với khắc phục kịp thời tư tưởng lệch lạc, vi phạm kỷ luật dân vận, làm ảnh hưởng đến mối quan hệ đoàn kết quân – dân. Đồng thời, xây dựng lề lối, tác phong khoa học, bám sát cơ sở, địa bàn; đẩy mạnh phong trào Thi đua Quyết thắng của đơn vị, gắn với phong trào thi đua yêu nước của địa phương, phong trào thi đua “Dân vận khéo” và các phong trào, các cuộc vận động do Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội phát động. Các đơn vị cần tiếp tục chỉ đạo thực hiện tốt Cuộc vận động “Xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú trong Quân đội”, gắn với Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”, với tinh thần “ở đâu có bộ đội, ở đó có CTDV”; giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” – “Bộ đội của dân” trong giai đoạn mới.

Trước tác động của tình hình kinh tế – xã hội đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của nhân dân, làm phân tâm đến các tầng lớp xã hội, thay đổi nếp sống ở các vùng, miền, nên CTDV cần tiếp tục đổi mới nội dung, đa dạng hóa hình thức cho phù hợp với từng địa bàn và từng loại hình đơn vị. Từ thực tiễn tiến hành CTDV, cần tổng kết, rút kinh nghiệm, xác định mô hình sáng tạo, hiệu quả để phát huy; đồng thời, bám sát sự phát triển của tình hình trên các địa bàn để xác định mô hình, nội dung, biện pháp phù hợp. Trên cơ sở đó và căn cứ vào yêu cầu của CTDV hiện nay, các đơn vị cần đổi mới, đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân; tiếp tục duy trì, mở rộng hoạt động kết nghĩa, huấn luyện dã ngoại kết hợp làm CTDV; củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của “Tổ CTDV’; phát huy vai trò của dân quân tự vệ làm CTDV, các tổ, đội công tác liên ngành ở các địa bàn và cán bộ tăng cường cơ sở, nhất là các đồng chí tham gia cấp ủy, chính quyền và Hội đồng nhân dân các cấp. Các đơn vị phải thường xuyên bám sát tình hình địa bàn, nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị, chủ động tham mưu, đề xuất, hướng hoạt động CTDV về cơ sở; tích cực nghiên cứu, giải quyết những vấn đề mới nảy sinh, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng tôn giáo, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo. Đồng thời, phối hợp với các địa phương tổ chức tốt các hoạt động bổ ích cho nhân dân trên địa bàn; giải quyết dứt điểm các vụ việc và các hủ tục, tệ nạn, không để tồn đọng kéo dài. Thông qua hoạt động thực tiễn, cần phát hiện, nhân rộng các điển hình tiên tiến, gương “người tốt, việc tốt” trong tiến hành CTDV để nhân rộng cho các đơn vị và mọi CB,CS học tập, noi theo.

Một trong những nhân tố quyết định để việc thực hiện chức năng “đội quân công tác” mang lại hiệu quả thiết thực là phải tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, trách nhiệm của chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị, cán bộ chính trị các cấp. Theo đó, các cơ quan, đơn vị phải coi CTDV là nhiệm vụ chính trị thường xuyên, gắn kết quả CTDV với hoạt động của cấp ủy đảng, trách nhiệm của chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy và các tổ chức, lực lượng; khắc phục những nhận thức lệch lạc, coi CTDV là việc của cơ quan chính trị và cán bộ dân vận chuyên trách. Để làm được điều đó, các cấp ủy, tổ chức đảng phải tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) “Về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với CTDV trong tình hình mới”; coi đây là cơ sở để xác định nội dung, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo để đổi mới CTDV cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng; phát huy vai trò của cơ quan chính trị, cán bộ chính trị trong việc tham mưu, chỉ đạo, phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị – xã hội và các lực lượng trên địa bàn trong thực hiện CTDV. Ngoài ra, các đơn vị cần tiếp tục củng cố, kiện toàn hệ thống cơ quan dân vận theo Quy chế CTDV trong Quân đội; tập trung xây dựng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan dân vận và đội ngũ cán bộ dân vận các cấp, bảo đảm thực hiện tốt vai trò tham mưu, chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức hoạt động CTDV và thực hiện Quy chế Dân chủ cơ sở.

Để cho dân tin, dân yêu, dân làm theo và giúp đỡ bộ đội, các đơn vị cần giáo dục cho CB,CS làm CTDV phải thực sự là những người có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, lối sống trong sạch, giản dị, phong cách quần chúng, gần cơ sở. Bên cạnh sự giáo dục, rèn luyện của tổ chức, mỗi người phải tự giác ghép mình vào các quy định, kỷ luật của đơn vị; tích cực khắc phục khuyết điểm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng và Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, nhất là học tập Bác ở phong cách quần chúng. Trong quá trình làm CTDV, mọi CB,CS phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của địa phương, kỷ luật Quân đội và kỷ luật trong quan hệ với nhân dân; nói đi đôi với làm, luôn có tinh thần tương thân tương ái, giúp đỡ nhân dân, chia ngọt sẻ bùi trước những khó khăn, vất vả của nhân dân. Trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, CB,CS Quân đội phải luôn giữ vững phẩm chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, từ lời nói đến hành động phải thể hiện sự khiêm tốn, lễ phép trước nhân dân; khắc phục mọi biểu hiện vô cảm, thiếu trách nhiệm với nhân dân.

Thực hiện tốt chức năng “đội quân công tác” là bản chất, truyền thống của Quân đội ta, làm thắt chặt tình đoàn kết quân – dân, tô thắm thêm phẩm chất cao quý “Bộ đội Cụ Hồ” – “Bộ đội của dân”. Đó là nhân tố quan trọng để Quân đội thực hiện tốt vai trò nòng cốt trong sự nghiệp tăng cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

1 – Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 6, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 234.

2 – Tổng kết 10 năm hoạt động công tác dân vận (2003 – 2013), toàn quân đã tham gia xây dựng cơ sở chính trị địa phương được 44.230 lượt xã, phường; tham gia cấp ủy, chính quyền địa phương 1.261 lượt cán bộ; đào tạo được hơn 1.000 y tá, y sĩ thôn bản; củng cố được 1.553 trạm y tế xã; khám, chữa bệnh cho hơn 4,3 triệu lượt người; mở 234 lớp xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học cho 2.370 học sinh; xây dựng 3.730 Nhà Đại đoàn kết, Nhà Đồng đội trị giá hơn 200 tỷ đồng; tham gia giúp dân phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai, hỏa hoạn với 2.700.000 ngày công, di dời 275.600 người dân và 39.350 phương tiện.

Các Quân Khu Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

Quân đội nhân dân Việt Nam được chia thành các quân khu 1, 2, 3, 4, 5, 7, 9 và Bộ Tư lệnh Thủ đô (Theo Cổng thông tin điện tử Bộ Quốc phòng)

Quân khu 1 trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, nằm ở vị trí địa – chính trị chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh và đối ngoại trong thế bố trí chung của cả nước, có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và chỉ huy lực lượng vũ trang 3 thứ quân; thường xuyên nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chú trọng nâng cao chất lượng huấn luyện, khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang ba thứ quân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc; tích cực tham gia công tác cứu hộ, cứu nạn, giúp nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Tư lệnh kiêm Chính uỷ đầu tiên của Quân khu 1 là đồng chí Đàm Quang Trung.

Hiện nay, Quân khu 1 có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh, Chính uỷ và Phó Chính uỷ; các cơ quan chức năng đảm nhiệm các mặt công tác tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, các sư đoàn và trung đoàn chủ lực và các đơn vị trực thuộc khác. Quân khu 1 chỉ huy các đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh, huyện và dân quân tự vệ trong địa bàn của quân khu.

Ngày truyền thống: 16/10/1945

Truyền thống vẻ vang:

“TRUNG HIẾU, TIÊN PHONG, ĐOÀN KẾT, CHIẾN THẮNG”

Phần thưởng cao quý:

Với những thành tích đặc biệt xuất sắc qua các thời kỳ, Lực lượng vũ trang Quân khu 1 đã được Đảng, Nhà nước tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Sao vàng, 02 Huân chương Hồ Chí Minh, 03 Huân chương Độc lập, 10 Huân chương Quân công, hàng nghìn lượt tập thể đơn vị, hàng vạn cá nhân được thưởng Huân chương Chiến công các hạng; 346 đơn vị và 206 cá nhân được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong kháng chiến, 06 đơn vị được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang thời kỳ đổi mới (lực lượng vũ trang huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên; lực lượng vũ trang và nhân dân xã Thị Hoa, huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng; Trung đoàn Xe tăng 409; Lữ đoàn Công binh 575; Lữ đoàn Pháo binh 382; Tiểu đoàn Hoá học 23/ Bộ Tham mưu); 916 Mẹ Việt Nam Anh hùng và nhiều phần thưởng cao quý khác của bạn bè quốc tế.

Quân khu 2 trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và chỉ huy các cơ quan, đơn vị trực thuộc; các đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh, huyện và dân quân tự vệ trong địa bàn quân khu. Tư lệnh và Chính uỷ đầu tiên của Quân khu 2 là các đồng chí Bằng Giang, Bùi Quang Tạo.

Hiện nay, Quân khu 2 có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh, Chính uỷ và Phó Chính uỷ; các cơ quan chức năng đảm nhiệm các mặt công tác tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, các sư đoàn và trung đoàn chủ lực và các đơn vị trực thuộc khác. Quân khu 2 chỉ huy các đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh, huyện và dân quân tự vệ trong địa bàn của quân khu.

Ngày truyền thống: 19/10/1946

Truyền thống vẻ vang:

“TRUNG THÀNH, TỰ LỰC, ĐOÀN KẾT, ANH DŨNG, CHIẾN ĐẤU”

Phần thưởng cao quý:

– Huân chương Sao vàng;

– Huân chương Hồ Chí Minh…

Quân khu 3 trực thuộc Bộ Quốc phòng, có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và chỉ huy các cơ quan, đơn vị trực thuộc; các đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh, huyện và dân quân tự vệ trong địa bàn quân khu. Tư lệnh, Chính uỷ đầu tiên của Quân khu 3 là các đồng chí Hoàng Sâm, Trần Độ.

Hiện nay, Quân khu 3 có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh, Chính uỷ và Phó Chính uỷ; các cơ quan chức năng đảm nhiệm các mặt công tác tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, các sư đoàn và trung đoàn chủ lực và các đơn vị trực thuộc khác. Quân khu 3 chỉ huy các đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh, huyện và dân quân tự vệ trong địa bàn của quân khu.

Ngày truyền thống: 31/10/1945.

Truyền thống vẻ vang:

“ĐOÀN KẾT, CHỦ ĐỘNG, SÁNG TẠO, HY SINH, CHIẾN THẮNG”

Phần thưởng cao quý:

– 02 Huân chương Sao Vàng;

– 02 Huân chương Hồ Chí Minh…

Quân khu 4 trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, nằm trên một địa bàn chiến lược trong thế trận chiến tranh nhân dân Việt Nam, có nhiệm vụ chỉ huy, quản lý và tổ chức lực lượng vũ trang quân khu chiến đấu bảo vệ vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam.

Thực hiện chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 15/10/1945 Chiến khu 4 được thành lập gồm 6 tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế và ngày này trở thành Ngày truyền thống của lực lượng vũ trang Quân khu 4. Ngày 03/6/1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 17/SL về việc thành lập Quân khu 4 trên cơ sở Liên khu 4.

Tư lệnh, Chính uỷ đầu tiên của Quân khu 4 là các đồng chí Nguyễn Đôn, Chu Huy Mân.

Hiện nay, Quân khu 4 có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh, Chính uỷ và Phó Chính uỷ; các cơ quan chức năng đảm nhiệm các mặt công tác tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, các sư đoàn và trung đoàn chủ lực và các đơn vị trực thuộc khác. Quân khu 4 chỉ huy các đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh, huyện và dân quân tự vệ trong địa bàn của quân khu.

Ngày truyền thống: 15/10/1945

Phần thưởng cao quý:

– 01 Huân chương Sao vàng;

– 03 Huân chương Hồ Chí Minh…

Quân khu 5 trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, hiện nay có chức năng nhiệm vụ cơ bản là tổ chức, xây dựng, quản lí và chỉ huy lực lượng vũ trang thuộc Quân khu chiến đấu bảo vệ vùng Nam Trung Bộ, xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân ở địa phương trên địa bàn. Địa bàn Quân khu 5 bắt đầu từ đèo Hải Vân đến cực nam tỉnh Ninh Thuận, gồm 11 tỉnh thành phố: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc và Đắc Nông. Tổ chức hiện nay có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh; Chính uỷ và Phó Chính uỷ; các cơ quan chức năng đảm nhiệm các mặt công tác tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, các sư đoàn, trung đoàn chủ lực và các đơn vị trực thuộc.

Ngày truyền thống: 16/10/1945

Truyền thống vẻ vang:

“TỰ LỰC TỰ CƯỜNG, KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN, CHỊU ĐỰNG GIAN KHỔ, MƯU TRÍ SÁNG TẠO, CHIẾN ĐẤU KIÊN CƯỜNG, CHIẾN THẮNG VẺ VANG”.

Trải qua hai cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm và 35 năm xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, lực lượng vũ trang Quân khu 5 đã có 162.768 liệt sỹ hy sinh vì sự nghiệp độc lập, tự do của dân tộc, hơn 100 nghìn thương, bệnh binh, 13.772 Mẹ Việt Nam Anh hùng. Với những đóng góp to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, lực lượng vũ trang Quân khu 5 đã được Đảng và Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý:

– Huân chương Sao vàng (1985);

– 898 tập thể và 392 cá nhân và được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó có: Trung đoàn Ba Gia – đơn vị được 3 lần tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân: Trung đoàn Ba Gia và các đơn vị được 2 lần tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân: Sư đoàn 2; Trung đoàn 95; Trung đoàn 812; Tiểu đoàn 840/Trung đoàn 812; Đại đội Công binh Hải Vân/Quảng Đà; Đại đội 2/Trung đoàn 66; Đại đội 5/26/Đoàn 5504; Lực lượng vũ trang và nhân dân các địa phương huyện Duy Xuyên và (Quảng Nam); Lực lượng vũ trang và nhân dân các địa phương huyện Đại Lộc (Quảng Nam); xã Tịnh Khê (Sơn Tịnh, Quảng Ngãi); xã Hoà Hải (Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng)..

Trong thời kỳ đổi mới, lực lượng vũ trang Quân khu 5 có 5 tập thể vinh dự được Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (lực lượng vũ trang và nhân dân huyện Đại Lộc/Quảng Nam, Lữ đoàn công binh 270, Viện Quân y 13, Trung đoàn Pháo binh 368 và Binh đoàn 15), 1 cá nhân được Nhà nước tuyên dương Anh hùng Lao động; 25 tập thể được tặng Cờ Thủ tướng Chính phủ; 85 tập thể và 35 cá nhân được tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; 68 tập thể được tặng Cờ Thi đua Bộ Quốc phòng; 542 tập thể và cá nhân được Bộ Quốc phòng tặng Bằng khen và các hình thức khen thưởng khác.

Quân khu 7 là tổ chức quân sự theo vùng lãnh thổ, được thành lập ngày 10/12/1945, bao gồm thành phố Sài Gòn và các tỉnh Gia Đinh, Chợ Lớn, Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một và Tây Ninh. Nay gồm Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh: Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Bình Thuận, Đồng Nai, Lâm Đồng, Long An và Tây Ninh.

Trong 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng vũ trang Quân khu 7 vừa xây dựng vừa chiến đấu, từ trong muôn vàn thiếu thốn, gian khổ hy sinh, đã sáng tạo ra những cách đánh hết sức độc đáo, có hiệu quả, lập nên nhiều chiến công xuất sắc ở cả ba vùng đô thị, đồng bằng và rừng núi, góp phần làm chuyển đổi cục diện chiến trường, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của địch, cùng quân và dân cả nước làm nên trận Điện Biên Phủ và cuộc Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975.

Trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến tranh giải phóng dân tộc, lực lượng vũ trang Quân khu 7 thực hành quân quản, sắp xếp lại lực lượng, khắc phục hậu quả chiến tranh, tham gia xây dựng chế độ xã hội mới: Vừa đánh bại kiểu chiến tranh phá hoại của địch, xây dựng tiềm lực quân sự – quốc phòng, vừa kiên cường chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, làm nhiệm vụ Quốc tế xây dựng và bảo vệ đất nước Campuchia, góp phần đập tan chế độ diệt chủng Pôn Pốt. Trong bối cảnh lịch sử mới, lực lượng vũ tranh Quân khu 7 tập trung xây dựng đơn vị cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, ra sức huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trải qua hơn 60 năm, xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, lực lượng vũ trang Quân khu 7 được tặng thưởng: 02 Huân chương Sao vàng, 02 Huân chương Hồ Chí Minh, 01 Huân chương Quân công hạng nhất và 340 cá nhân Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Thành phố Hồ Chí Minh và hầu hết các tỉnh của Quân khu 7 đều được tặng Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Lực lượng vũ trang Quân khu 7 luôn chú trọng việc quán triệt các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng ủy quân sự Trung ương, Bộ quốc phòng, vận dụng linh hoạt sáng tạo đường lối quân sự, đường lối ngoại giao, thống nhất ý chí và hành động, khắc phục khó khăn, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Kế thừa và phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng mà ông, cha đã dày công vun đắp, phấp đấu xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu 7 ngày càng lớn mạnh, tô thắm thêm truyền thống vẻ vang: “Trung thành vô hạn, chủ động sáng tạo, tự lực tự cường, đoàn kết quyết thắng” lực lượng vũ trang Quân khu 7 mãi mãi xứng đáng với sự tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Quân khu 9 trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt nam có nhiệm vụ quản lý, tổ chức, xây dựng và chỉ huy quân đội chiến đấu bảo vệ vùng Đồng bằng Sông Cửu long Việt Nam. Tư lệnh và Chính uỷ đầu tiên của Quân khu 9 là các đồng chí Nguyễn Thành Thơ, Nguyễn Văn Bé.

Hiện nay, Quân khu 9 có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh, Chính uỷ và Phó Chính uỷ; các cơ quan chức năng đảm nhiệm các mặt công tác tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, các sư đoàn và trung đoàn chủ lực và các đơn vị trực thuộc khác. Quân khu 9 chỉ huy các đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh, huyện và dân quân tự vệ trong địa bàn của quân khu.

Ngày truyền thống: 10/12/1945

Phần thưởng cao quý:

– 03 Huân chương Sao vàng;

– Huân chương Hồ Chí Minh;

– Huân chương Ăng Ko…

Ra đời từ phong trào cách mạng của quần chúng, lực lượng vũ trang (LLVT) Thủ đô Hà Nội là một bộ phận quan trọng của LLVT nhân dân Việt Nam đã kế thừa, phát huy truyền thống anh hùng bất khuất chống ngoại xâm của Thủ đô Hà Nội, truyền thống “Ngàn năm văn hiến Thăng Long – Hà Nội” cùng các tầng lớp nhân dân Thủ đô viết nên trang sử hào hùng, góp phần làm rạng danh non sông đất nước.

Ngày 19/8/1945, nhân dân Hà Nội được sự hậu thuẫn của lực lượng vũ trang đã đứng lên giành chính quyền trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 (Ảnh: Tư liệu)

Trước và trong cách mạng tháng Tám, các đội tiền thân của LLVT Thủ đô xung kích đi đầu, làm nòng cốt cho các tầng lớp nhân dân Hà Nội đẩy mạnh đấu tranh vũ trang, tích cực chuẩn bị mọi điều kiện khi thời cơ đến vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội, góp phần quyết định thắng lợi cách mạng tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị hơn 80 năm của chủ nghĩa thực dân, lật đổ chế độ phong kiến mấy nghìn năm, giành độc lập tự do cho dân tộc, mang lại quyền làm chủ cho nhân dân Việt Nam. LLVT Thủ đô Hà Nội đã cùng các tầng lớp nhân dân kiên quyết đấu tranh đập tan hoạt động chống phá của kẻ thù, bảo vệ vững chắc thành quả của cách mạng, đưa cách mạng Việt Nam thoát ra khỏi tình thế ngàn cân treo sợi tóc.

Sau khi được thành lập, ngày 19/12/1946 hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và chấp hành quyết định của Thường vụ Trung ương Đảng, quân và dân Chiến khu XI với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” đã nổ súng mở đầu cho toàn quốc kháng chiến. Lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung, quân và dân Thủ đô nói riêng mãi mãi lưu truyền cuộc chiến đấu 60 ngày đêm, làm thất bại âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp, vượt chỉ tiêu Trung ương giao, bảo vệ tuyệt đối an toàn cơ quan đầu não của Đảng, Nhà nước, tạo điều kiện cho cả nước có thời gian thực hiện công việc kháng chiến lâu dài. Suốt chặng đường kháng chiến chống thực dân Pháp, LLVT Thủ đô Hà Nội đã kiên trì trụ vững bám dân, bám đất, xây dựng cơ sở, dựa vào dân chiến đấu và lập được nhiều chiến công vẻ vang. Nhiều trận đánh tiêu biểu, hiệu quả để lại kinh nghiệm quý cho chiến tranh nhân dân, góp phần tạo ra bước ngoặt quan trọng trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Các địa phương thuộc tỉnh Hà Đông và Sơn Tây là địa bàn hoạt động của các đơn vị LLVT Mặt trận Hà Nội, nhiều địa phương được xây dựng thành căn cứ kháng chiến và căn cứ của Bộ chỉ huy Mặt trận Hà Nội, hai tỉnh cung cấp nhiều nhất cho Hà Nội lương thực, thực phẩm…

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, lực lượng vũ trang Thủ đô vừa sản xuất, vừa tăng cường chi viện cho chiến trường, dũng cảm, kiên cường, mưu trí, sáng tạo, phối hợp chặt chẽ với lực lượng phòng không, không quân quốc gia đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc, đỉnh cao là cuộc chiến đấu 12 ngày đêm cuối tháng Chạp năm 1972, lập nên kỳ tích của thế kỷ XX Hà Nội “Điện Biên Phủ trên không” để trở thành “Thủ đô lương tri và phẩm giá con người”.

Thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, LLVT Thủ đô luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, vượt mọi khó khăn, vừa tăng cường chi viện cho các mặt trận bảo vệ biên giới, làm nhiệm vụ quốc tế, vừa là lực lượng nòng cốt góp phần cùng các tấng lớp nhân dân Thủ đô làm thất bại âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc thành quả của cách mạng, bảo vệ, kiến thiết Thủ đô ngày càng văn minh, hiện đại.

Trng quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ LLVT Thủ đô Hà Nội lập nên những chiến công oanh liệt, viết nên những trang sử hào hùng, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Sự hy sinh, cống hiến cùng những chiến công của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ đã hun đúc nên giá trị tiêu biểu, đặc sắc như lời Bác Hồ khen “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự thương yêu đùm bọc giúp đỡ của nhân dân, lớp lớp các thế hệ cán bộ, chiến sĩ LLVT Thủ đô đã không ngại gian khổ hy sinh ra sức phấn đấu xây dựng và vun đắp nên truyền thống Anh hùng, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ cấp trên giao. Kế thừa, phát huy truyền thống vẻ vang của LLVT Thủ đô là vinh dự và trách nhiệm của mỗi cán bộ, chiến sĩ LLVT Thủ đô hôm nay.

Ngày truyền thống

Để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài, toàn dân, toàn diện, ngày 19/10/1946, Chiến khu XI – Tổ chức hành chính quân sự thống nhất của các LLVT Thủ đô Hà Nội được thành lập. Chiến khu XI đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương. Ngày 25/7/1947 trước yêu cầu của cuộc kháng chiến, Trung ương ra quyết định địa bàn hoạt động của Chiến khu XI được mở rộng bao gồm: Hà Nội, Hà Đông và Sơn Tây. Qua Hội thảo khoa học và thực tiễn hoạt động quân sự, quốc phòng của Chiến khu XI đã mang đầy đủ tính chất chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội ngày nay. Vì vậy, ngày 19/10/1946 là ngày truyền thống của LLVT Thủ đô Hà Nội theo Quyết định số 1850/QĐ-QP ngày 31/5/2010 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

Phần thưởng cao quý

– 03 lần tuyên dương Đơn vị Anh hùng LLVT nhân dân (1978, 2002, 2005);

– 01 Huân chương Sao vàng (2011);

– 03 Huân chương Hồ Chí Minh (1984, 1985, 2002);

– 04 Huân chương Quân công (hạng Nhất: 1984; hạng Nhì: 2006; 02 hạng Ba: 2004);

– 04 Huân chương Chiến công (02 hạng Nhất: 1983 và 2000; 02 hạng Ba: 2004 và 2006);

– 01 Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất (2005);

– 06 lần được tặng Cờ thưởng luân lưu Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược;

– 02 Huân chương Itxala do Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào tặng (01 hạng Nhì cho tập thể; 01 hạng Ba cho cá nhân năm 2010)…

Tổng Hợp

Bài 3. Tổ Chức Quân Đội Và Công An Nhân Dân Việt Nam

TỔ CHỨC QUÂN ĐỘI VÀ CÔNG AN NHÂN DÂNVIỆT NAM

Sở GDĐT Quảng Ngãi Trường THPT Sơn Hà Tổ: TD-GDQPGiáo Viên: Nguyễn Võ Trường LinhBÀI GiẢNG MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU:Hiểu được chức năng, nhiệm vụ chính của một số tổ chức cơ bản trong Quân đội, Công an.Nhận biết được cấp bậc quân hàm, quân hiệu, cấp hiệu, phù hiệu của Quân đội, Công an.Xây dựng ý thức trách nhiệm và tích cực góp phần xây dựng Quân đội, Công an vững mạnh I. QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN ViỆT NAM:1/Tổ chức và hệ thống tổ chức của Q. Đ. N. D. Việt Nam:Tổ chức của Quân đội: Gồm:– Bộ đội chủ lực.– Bộ đội địa phương.– Bộ đội biên phòng.*Lực lượng thường trực và lực lượng dự bị.b. Hệ thống tổ chức: Gồm:– Bộ Quốc phòng.– Các cơ quan Bộ Quốc phòng.– Các đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng.– Các bộ, ban chỉ huy quân sự.I. QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN ViỆT NAM:1/Tổ chức và hệ thống tổ chức của Q. Đ. N. D. Việt Nam:Tổ chức của Quân đội: Gồm:– Bộ đội chủ lực.– Bộ đội địa phương.– Bộ đội biên phòng.*Lực lượng thường trực và lực lượng dự bị.b. Hệ thống tổ chức: Gồm:– Bộ Quốc phòng.– Các cơ quan Bộ Quốc phòng.– Các đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng.– Các bộ, ban chỉ huy quân sự.2. Chức năng, nhiệm vụ chính của một số cơ quan, đơn vị trong Quân đội nhân dân Việt Nama. Bộ Quốc phòng: – Là đơn vị thuộc Chính phủ do Bộ trưởng Bộ quốc phòng đứng đầu.– Chức năng: quản lý, chỉ đạo, chỉ huy.b. Bộ Tổng Tham mưu và cơ quan tham mưu:Bộ Tổng Tham mưu: Tổng Tham mưu trưởng: Thượng tướng Nguyễn Khắc Nghiên (từ tháng 8 năm 2006)Là cơ quan chỉ huy lực lượng vũ trang quốc gia.– Chức năng: + Bảo đảm trình độ sẵn sàng chiến đấu. + Điều hành các hoạt động quân sự.– Nhiệm vụ: + Tổ chức nắm chắc tình hình. + Nghiên cứu, đề xuất những chủ trương chung. + Tổ chức lực lượng, chỉ huy quân đội và dân quân tự vệ. + Điều hành các hoạt động quân sự.c. Tổng cục Chính trị và cơ quan chính trị các cấp trong Quân đội nhân dân Việt Nam: * Tổng cục Chính trị: Chủ nhiệm Tổng cục: Đại tướng Lê Văn Dũng Chức năng: Đảm nhiệm công tác Đảng, công tác chính trị trong toàn quân.– Nhiệm vụ: + Đề nghị ĐUQSTƯ quyết định chủ trương, biện pháp lớn về công tác Đảng, công tác chính trị trong quân đội. + Đề ra những nội dung, biện pháp, kế hoạch chỉ đạo, kiểm tra cấp dưới thực hiện.* Cơ quan chính trị các cấp:– Nhiệm vụ: + Nghiên cứu, đề xuất những chủ trương, biện pháp công tác Đảng, công tác chính trị. + Hướng dẫn và tổ chức cho các cơ quan, đơn vị thực hiện. d. Tổng cục Hậu cần và cơ quan hậu cần các cấp:Chủ nhiệm Tổng cục: Thiếu tướng Ngô Huy Hồng – Chức năng: + Đảm bảo vật chất, quân y, vận tải. – Nhiệm vụ: + Nghiên cứu, đề xuất. + Chỉ đạo công tác đảm bảo hậu cần.e. Tổng cục Kỹ thuật và cơ quan kỹ thuật các cấp:Chủ nhiệm Tổng cục:Thiếu tướng Nguyễn Châu Thanh – Chức năng: + Bảo đảm vũ khí, trang bị, kỹ thuật, phương tiện. – Nhiệm vụ: + Nghiên cứu đề xuất. + Bảo đảm kỹ thuật.

g. Tổng cục Công nghiệp quốc phòng, cơ quan, đơn vị sản xuất quốc phòng: Chủ nhiệm Tổng cục: Trung tướng Trương Quang Khá – Chức năng: + Quản lý các cơ sở sản xuất quốc phòng.– Nhiệm vụ: + Nghiên cứu, đề xuất. + Chỉ đạo các đơn vị sản xuất.– Quân khu: Tổ chức quân sự theo lãnh thổ.– Chức năng, nhiệm vụ: + Chỉ đạo công tác quốc phòng; + Xây dựng tiềm lực quân sự;+ Chỉ đạo lực lượng vũ trang.

h. Quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng:

h. Quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng:

– Quân đoàn: Đơn vị tác chiến chiến dịch hoặc chiến dịch – chiến thuật. Là lực lượng thường trực của quân đội.

h. Quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng:

– Quân chủng: Bộ phận quân đội hoạt động ở môi trường địa lý nhất định như: (trên không, trên bộ, trên biển) h. Quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng:

– Binh chủng: là một bộ phận của quân chủng, làm chức năng trực tiếp chiến đấu, hoặc bảo đảm chiến đấu có vũ khí, trang bị kĩ thuật, phương pháp tác chiến và hoạt động đặc thù. Mỗi quân chủng có một số binh chủng đặc thù. Theo truyền thống, một số bộ đội chuyên môn cũng được gọi là binh chủng (BC công binh, BC thông tin liên lạc, v v.).

Bộ đội Biên phòng: – Là bộ phận của Quân đội. – Chức năng: làm nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh, trật tự biên giới quốc gia.Chỉ huy hiện tại bộ đội biên phòngTư lệnh: Thiếu tướng Trần Hoa. Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng: Thiếu tướng Trần Đình Dũng. Phó Tư lệnh: Thiếu tướng Phạm Sóng HồngPhó Tư lệnh: Thiếu tướng Nguyễn Cảnh HiềnPhó Tư lệnh: Thiếu tướng Nguyễn Phước Lợi

3. Quân hiệu, cấp hiệu và phù hiệu của Quân đội.

II. CÔNG AN NHÂN DÂN:1. Tổ chức và hệ thống tổ chức của Công an nhân dân Việt Nam:a. Tổ chức của công an: Gồm: – Lực lượng an ninh.– Lực lượng cảnh sát.b. Hệ thống tổ chức: – Bộ Công an.– Các cơ quan Bộ Công an.– Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. – Công an huyện, quận, thị xã, thành phố, trực thuộc tỉnh.– Công an xã, phường, thị trấn. – Các học viện, nhà trường đào tạo cán bộ sĩ quan công an và hạ sĩ quan chuyên nghiệp công an.2. Chức năng, nhiệm vụ chính của một số cơ quan, đơn vị trong Công an:Bộ Công an: Bộ trưởng Đại tướng Lê Hồng AnhLà cơ quan lãnh đạo, chỉ huy cao nhất.– Nhiệm vụ: + Quản lý Nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội,+ Xây dựng nền an ninh nhân dân và các lực lượng công an.b. Tổng cục An ninh: Tổng cục trưởng: Thiếu tướng Phạm Dũng– Là lực lượng nòng cốt của Công an.– Nhiệm vụ:+ Nắm chắc tình hình.+ Đấu tranh phòng, chống tội phạm.+ Làm thất bại mọi âm mưu, hành động xâm phạm an ninh quốc gia.+ Bảo vệ an ninh quốc gia.c. Tổng cục Cảnh sát: Tổng cục trưởng Thiếu tướng Phạm Quý Ngọ– Là lực lượng nòng cốt.– Nhiệm vụ:+ Chủ động đấu tranh phòng, chống tội phạm.+ Làm thất bại mọi âm mưu hành động gây mất trật tự, an toàn xã hội.+ Bảo vệ trật tự an toàn xã hội.d. Tổng cục Xây dựng lực lượng: Tổng cục trưởng Trung tướng Lê Quý Vương– Là cơ quan chuyên trách đảm nhiệm công tác xây dựng hệ thống tổ chức, cán bộ, các lực lượng nghiệp vụ trong Bộ Công an.e. Tổng cục Hậu cần:Tổng cục trưởng: Trung tướng Lê Quốc Sự – Là cơ quan tham mưu, bảo đảm về mặt hậu cần, cơ sở vật chất và khai thác sử dụng vật tư, trang bị cho các lực lượng của Bộ Công an. g. Tổng cục Tình báo:Tổng cục trưởng: Trung tướng Bùi Văn Nam– Là lực lượng đặc biệt, nhằm ngăn chặn và đập tan những âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững an ninh quốc gia.h. Tổng cục Kỹ thuật: Quyền Tổng cục trưởng: Trung tướng Cao Ngọc Oánh – Là cơ quan đảm bảo trang bị phương tiện kỹ thuật cho các hoạt động, ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ vào nghiệp vụ công an. i. Bộ Tư lệnh cảnh vệ: Tư lệnh: Thiếu tướng Vũ Xuân Sinh – Là lực lượng bảo vệ cán bộ cao cấp, cơ quan đầu não của Đảng, Nhà nước và các đoàn khách quốc tế, các cơ quan ngoại giao và tổ chức quốc tế, chuyên gia nước ngoài đến công tác tại Việt Nam. Ngoài ra, còn có các đơn vị như:– Văn phòng.– Thanh tra.– Cục Quản lý trại giam.– Vụ Tài chính.– Vụ pháp chế.– Vụ hợp tác Quốc tế.– Công an xã.3. Cấp hiệu, phù hiệu, quân hiệu của Công an nhân dân Việt Nam: a. Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ:– Hạ sĩ quan có ba bậc.– Sĩ quan cấp uý có bốn bậc.– Sĩ quan cấp tá có bốn bậc.– Sĩ quan cấp tướng có bốn bậc.b. Sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật– Hạ sĩ quan có ba bậc.– Sĩ quan cấp uý có bốn bậc.– Sĩ quan cấp tá có ba bậc.c. Hạ sĩ quan, chiến sĩ phục vụ có thời hạn– Chiến sĩ có hai bậc.– Hạ sĩ quan có ba bậc.

Tư Tưởng Hồ Chí Minh Trong Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

Đăng ký tham quan

Các bạn có thể đăng ký tham quan trực tuyến bằng cách điền vào các thông tin sau và gửi cho chúng tôi:

Tính năng này Bảo tàng đang triển khai và hoàn thiện trong thời gian sắp tới. Để mua vé tham quan Bảo tàng, Quý khách vui lòng liên hệ đến số điện thoại: 024.38463757/

Trân trọng cảm ơn

Tư tưởng Hồ Chí Minh trong quân đội nhân dân Việt Nam

Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một nội dung quan trọng trong công tác Đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam, góp phần xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”. Tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong quân đội là một trong những nội dung cốt lõi để cán bộ, chiến sĩ phấn đấu xứng danh Bộ đội Cụ Hồ, thể hiện rõ tính đặc thù của hoạt động quân sự trong tình hình mới, góp phần định hướng tư tưởng chính trị trong quân đội.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự không chỉ xuất phát từ các thành tựu trong kỹ thuật và chiến thuật quân sự, mà còn thể hiện tính cách mạng và chiến lược trong khoa học quân sự. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng tài tình học thuyết quân sự Mác – Lênin vào điều kiện và hoàn cảnh cách mạng Việt Nam, một học thuyết mang tính tổng hợp, coi sức mạnh quân sự gắn liền với chính trị, kinh tế, ngoại giao, văn hóa, xã hội, khoa học và kỹ thuật, v.v..

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Dựng nước phải đi đôi với giữ nước. Tư tưởng đó đã trở thành quy luật sống còn của dân tộc ta. Bảo vệ đất nước phải luôn gắn liền với xây dựng đất nước, động viên toàn dân kháng chiến luôn đi đôi với bồi bổ sức dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta chủ trương thực hiện kháng chiến toàn diện bằng sự kết hợp giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao, trong đó lấy đấu tranh quân sự là chủ chốt.

Những tư tưởng chủ đạo đó đã được thể hiện ở ba quyết định có ý nghĩa lịch sử:

Một là, quyết định chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang và kêu gọi cả nước đứng lên Tổng khởi nghĩa, đưa Cách mạng Tháng Tám đi đến thành công, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Hai là, quyết định phát động toàn dân đứng lên kháng chiến chống Pháp, đưa cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp đến thắng lợi, giải phóng một nửa đất nước, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Ba là, quyết định phát động cả nước đứng lên chống Mỹ, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã động viên được lực lượng toàn dân tham gia cuộc kháng chiến ác liệt và lâu dài chưa từng có trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Người nhấn mạnh: “không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó, không thể nào thắng được”1. Kháng chiến toàn diện là phát huy đến mức cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân đánh giặc trên tất cả các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa, tư tưởng.

Trong khi nêu khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, Đảng ta đồng thời đề ra nhiệm vụ xây dựng hậu phương vững mạnh về mọi mặt. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào Thi đua ái quốc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công nghiên cứu kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa quân sự của dân tộc ta, đó là: “thực túc binh cường”, “quốc thịnh binh cường”, chính sách “ngụ binh ư nông”, đồng thời Người còn vận dụng học thuyết quân sự của chủ nghĩa Mác – Lênin, kinh nghiệm quân sự của các nước trên thế giới để xây dựng hậu phương vững mạnh, đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta khẳng định chiến lược đánh lâu dài nhằm làm thất bại chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của địch. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta chủ trương trường kỳ kháng chiến, vừa chiến đấu vừa phát triển lực lượng, tích lũy kinh nghiệm để đủ sức đánh bại quân địch. Trong trường kỳ kháng chiến, Người rất coi trọng giành cho được những thắng lợi liên tiếp, dù nhỏ, vừa “góp gió thành bão” đưa kháng chiến tiến lên, vừa để nuôi dưỡng chí khí cách mạng, tinh thần kiên trì chiến đấu của đồng bào và chiến sĩ.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta một lần nữa lại đề ra chiến lược đánh lâu dài với Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do”2.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương “trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi”. Người nhắc lại kinh nghiệm này của ông cha ta và giải thích: “Kháng chiến phải trường kỳ, vì đất ta hẹp, dân ta ít, nước ta nghèo, ta phải chuẩn bị lâu dài và phải có sự chuẩn bị về toàn diện, của toàn dân”3. Người nhấn mạnh: “Địch muốn tốc chiến, tốc thắng. Ta lấy trường kỳ kháng chiến trị nó, thì địch nhất định thua, ta nhất định thắng”4. Kháng chiến trường kỳ, nhưng không có nghĩa là phải kéo dài vô hạn, mà phải nỗ lực vượt bậc, vừa tiêu diệt địch, vừa bồi dưỡng phát triển lực lượng của ta, càng đánh ta càng mạnh, địch càng yếu, đánh bại từng âm mưu, chiến lược của địch, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Trong tình hình đó phải biết tạo thời cơ và nắm vững thời cơ để giành thắng lợi càng sớm càng tốt.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định quyết tâm chiến đấu đến cùng vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Chống Mỹ, cứu nước là cuộc chiến trường kỳ và gian khổ. Vì so sánh lực lượng có sự chênh lệch rất lớn, nên ta cần có thời gian để tập trung, tổ chức, xây dựng, chuyển hóa lực lượng ngày càng lớn mạnh, có lợi cho ta, hạn chế những lợi thế và khoét sâu yếu điểm của địch. Thực tế trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, tư tưởng Hồ Chí Minh về trường kỳ kháng chiến là một sách lược đặc biệt quan trọng trong đường lối quân sự của Việt Nam.

Khi chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, Người đưa ra quyết tâm: Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập. “Hễ còn một tên lính thực dân trên đất nước Việt Nam thì cứ đánh, đánh cho đến thắng lợi hoàn toàn”5. Đến cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, Người ra lời kêu gọi: “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”6. Đó là tinh thần kiên quyết tiến công của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng, của toàn quân và toàn dân ta trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại

3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc được hình thành trên những cơ sở lý luận và thực tiễn hết sức phong phú. Tư tưởng đó bắt nguồn từ truyền thống yêu nước với ý thức cộng đồng, ý thức đoàn kết dân tộc được hình thành và củng cố qua hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, tạo nên những giá trị truyền thống bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt Nam. Tinh thần, ý thức đó đã tạo nên sức mạnh vô địch của cả dân tộc để chiến thắng mọi thiên tai, địch họa, làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững. Về mặt thực tiễn, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm của phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng ở các nước trên thế giới, nhất là phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. “Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc còn được Hồ Chí Minh vận dụng sáng suốt những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: đó là cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc, liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng, đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế, vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”7.

4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân

Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược năm 1946, Hồ Chí Minh viết: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”8.

Xây dựng lực lượng quân sự bao gồm ba thứ quân, xây dựng lực lượng chính trị rộng khắp và kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, sử dụng linh hoạt các phương pháp tiến công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến việc giáo dục tư tưởng, chính trị và nhiệm vụ chính trị cho các lực lượng. Tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam là Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Ở tư tưởng Hồ Chí Minh, giữa chính trị và quân sự có mối quan hệ mật thiết với nhau, dùng chính trị để phục vụ cho quân sự, dùng quân sự để xây dựng chính trị và kết hợp chính trị với quân sự để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc bằng tinh thần và sức mạnh của toàn dân.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người chủ trương “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, khẩn trương xây dựng, củng cố chính quyền và Mặt trận dân tộc thống nhất, kêu gọi toàn dân thi đua ái quốc “chống giặc đói, chống giặc dốt, chống giặc ngoại xâm”, “hậu phương thi đua với tiền phương”, “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, thi đua thực hành cần, kiệm, liêm, chính, thi hành đúng chính sách của Đảng và Chính phủ, thực hiện các chính sách bồi dưỡng sức dân để kháng chiến lâu dài.

Tiếp nối tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân, hiện nay, Đảng ta rất coi trọng việc giáo dục ý thức quốc phòng cho các tầng lớp nhân dân, kêu gọi Nhân dân đề cao cảnh giác, chống các âm mưu và thủ đoạn của địch trong chiến lược “diễn biến hòa bình”. Cùng với chiến lược phát triển kinh tế, Đảng ta đề ra chiến lược về quốc phòng và an ninh quốc gia; kết hợp kinh tế với quốc phòng; kết hợp giữa xây dựng lực lượng vũ trang chính quy với các lực lượng tự vệ ở địa phương, tạo nên thế trận quốc phòng toàn dân nhằm xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang và Quân đội nhân dân Việt Nam

Ngày 22/12/1964, nhân dịp kỷ niệm Quân đội ta tròn 20 tuổi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”9.

Trên nền tảng lý luận về chiến tranh nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập và rèn luyện Quân đội ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang hình thành trên cơ sở nghiên cứu, nắm vững lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, học thuyết Mác – Lênin về chiến tranh và quân đội, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước ta. Người cho rằng, xây dựng lực lượng vũ trang quân sự phải bắt nguồn từ lực lượng đấu tranh chính trị, biểu hiện của nó là từ đấu tranh chính trị chuyển thành đấu tranh quân sự, đặc biệt phải luôn kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự. Năm 1944, Hồ Chí Minh đã ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay. Người khẳng định những tiêu chí cơ bản nhất để xác định bản chất Quân đội ta: “Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Người yêu cầu: “Quân đội ta nhất định phải tiến từng bước lên chính quy và hiện đại”10. Người xác định nhiệm vụ của Quân đội là vừa chiến đấu, vừa công tác, vừa sản xuất, trong đó chiến đấu là nhiệm vụ chủ yếu. Cùng với công tác chính trị, quân sự, Hồ Chí Minh còn luôn quan tâm tới các biện pháp nhằm xây dựng tinh thần đoàn kết cho bộ đội, đoàn kết quân dân, đoàn kết quốc tế.

Người quan tâm đến việc tổ chức lãnh đạo, chỉ huy Quân đội, trong đó có các cơ quan lãnh đạo chỉ huy cao nhất của Quân đội như Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; đồng thời, quan tâm tới công tác bảo đảm hậu cần, trang bị vật chất, kỹ thuật cho bộ đội ở chiến trường, coi đây là điều kiện quan trọng để giành thắng lợi. Chính Người đã trực tiếp chỉ đạo khai mở con đường chiến lược đi tới Điện Biên Phủ trong kháng chiến chống thực dân Pháp và sau này là con đường Hồ Chí Minh vượt dãy Trường Sơn, vượt biển để chi viện cho chiến trường miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để “một bát gạo, một đồng tiền, một viên đạn, một viên thuốc, một tấc vải, phải đi thẳng đến chiến sĩ”11.

Người quan tâm sâu sát và cụ thể từ việc chú trọng nâng cao chất lượng của Quân đội để nâng cao sức mạnh chiến đấu, dặn dò mỗi cán bộ phải: học tư tưởng chiến lược, chiến thuật, học cách dạy bộ đội đánh giặc, học phương pháp chỉ huy chiến đấu. Người ra Chỉ thị: Toàn quân ta phải ra sức học tập chính trị, quân sự và văn hóa. Trong xây dựng Quân đội, Người luôn đề cao tư tưởng chiến lược quân sự là xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân, hậu cần nhân dân, xây dựng một hậu phương vững mạnh cho tiền tuyến bởi đó là yếu tố cơ bản bảo đảm cho thắng lớn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng vấn đề xây dựng Quân đội cách mạng bởi Quân đội là công cụ của nhà nước vô sản chuyên chính. Người đã trực tiếp chỉ đạo việc tổ chức các đội tự vệ, dân quân và sáng lập ra Quân đội nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, Quân đội ta là Quân đội nhân dân, từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà chiến đấu, cho nên đi đến đâu đều được dân tin, dân phục, dân yêu. Từ đó, Người đã phác họa một lực lượng vũ trang nhân dân đông đảo gồm có bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và các tổ chức dân quân tự vệ.

Trong suốt quá trình chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa và tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức coi trọng vai trò chiến lược của dân quân tự vệ, là lực lượng vô địch của toàn dân tộc. Vô luận kẻ địch hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó đều phải tan rã.

Con người và hậu cần kỹ thuật là nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang, trong đó con người là nhân tố quyết định, hậu cần kỹ thuật là yếu tố rất quan trọng. Trên bước đường tiến lên chính quy, hiện đại, vũ khí và trang bị của Quân đội ta ngày càng nhiều, trình độ ngày càng cao, cơ sở vật chất – kỹ thuật ngày càng lớn. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ phải coi trọng kỹ thuật, ra sức học tập để làm chủ kỹ thuật. Khen ngợi một số đơn vị có thành tích tốt về cải tiến kỹ thuật, Người cho rằng: Đó là bước đầu tiên trên con đường muôn dặm của cách mạng kỹ thuật.

Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình xây dựng và phát triển, đội ngũ cán bộ Quân đội đã không ngừng phấn đấu, rèn luyện, tu dưỡng nhân cách, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”, được dân tin, dân phục, dân yêu, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đa số cán bộ Quân đội đều thể hiện rõ bản lĩnh chính trị vững vàng của mình; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tích cực tham gia vào công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo; không ngừng nâng cao trình độ, năng lực; giữ vững phẩm chất cách mạng. Tuy nhiên, những biến đổi phức tạp của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của khu vực, thế giới; sự tác động của cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập… đã phần nào chi phối đến tư tưởng, tình cảm của một số cán bộ Quân đội.

Trước những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, thực hiện phi chính trị hóa Quân đội của các thế lực thù địch, hơn bao giờ hết, đội ngũ cán bộ Quân đội hôm nay phải tích cực học tập, rèn luyện và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh; phải luôn kiên định lập trường, tư tưởng, trau dồi đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt, quyết tâm hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng với lòng tin và sự mong mỏi của Người. Đó cũng là những vấn đề cốt lõi nhất đòi hỏi người cán bộ Quân đội phải tiếp tục nâng cao “Đức” và “Tài”, khi đất nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, đặc biệt là cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. Đây còn là yêu cầu về phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ trong quân đội đã được xác định trong văn kiện của Đại hội Đảng bộ Quân đội trong thời gian tới.

1, 4, 8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 344, 539, 534.

2, 6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 131, 512.

3, 11. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 30, 433.

5, 9, 10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 262; t. 14, tr. 435; t. 10, tr. 588.

7. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 182.

Đại tá, TS. Đào Hải Triều

Theo Tạp chí Nhịp cầu Tri thức