Vị Trí Chức Năng Của Ubnd Xã / Top 14 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Vị Trí, Chức Năng Của Các Phòng Chuyên Môn Thuộc Ubnd Huyện

1. Văn phòng UBND huyện: Là cơ quan tham mưu, tổng hợp giúp UBND huyện: Tổ chức các hoạt động của UBND và Chủ tịch UBND trong chỉ đạo, điều hành các hoạt động chung của bộ máy hành chính Nhà nước; Giúp Chủ tịch UBND huyện tổ chức việc điều hòa, phối hợp các hoạt động của các cơ quan chuyên môn cùng cấp, HĐND và UBND cấp xã, thị trấn để thực hiện chương trình, kế hoạch công tác của UBND, Chủ tịch UBND huyện; Tham mưu giúp UBND huyện quản lý nhà nước về công tác Ngoại vụ, Dân tộc; đảm bảo cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động của UBND huyện.

2. Phòng Nội vụ: Là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, tham mưu giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực: Tổ chức, biên chế các cơ quan hành chính, sự nghiệp nhà nước; cải cách hành chính; chính quyền địa phương; địa giới hành chính; công tác Thanh niên; cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn; hội, tổ chức phi chính phủ; văn thư, lưu trữ nhà nước, tôn giáo; thi đua khen thưởng.

3. Phòng Tài nguyên và Môi trường: Là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, tham mưu giúp UBND huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Tài nguyên đất, tài nguyên nước; tài nguyên khoáng sản; môi trường.

4. Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội: Là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, tham mưu giúp UBND huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực: Lao động; Người có công và xã hội (việc làm; dạy nghề; tiền lương; tiền công; bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp; an toàn lao động; người có công; bảo trợ xã hội; bảo vệ và chăm sóc trẻ em; phòng, chông tệ nạn xã hội; bình đẳng giới).

5. Thanh tra huyện: Là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, tham mưu, giúp UBND huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong phạm vi quản lý nhà nước của UBND huyện; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra giải quyết khiếu nại tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.

6. Phòng Y tế: Là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, tham mưu, giúp UBND huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chăm sóc bảo vệ sức khỏe của nhân dân. gồm: Y tế cơ sở; y tế dự phòng; khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng; y dược cổ truyền; thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho người; mỹ phẩm; vệ sinh an toàn thực phẩm; bảo hiểm y tế; trang thiết bị y tế; dân số.

7. Phòng Tài chính và Kế hoạch: Là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, tham mưu, giúp UBND huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực: Tài chính, tài sản, kế hoạch đầu tư; đăng ký kinh doanh; tổng hợp, thống nhất quản lý về kinh tế hợp tác xã, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân.

8. Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn: Là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, tham mưu, giúp UBND huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Nông nghiệp; lâm nghiệp; diêm nghiệp; thủy lợi; thủy sản; phát triển nông thôn; phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại nông thôn, kinh tế hợp tác xã nông, lâm, ngư nghiệp gắn liền với ngành nghề, làng nghề nông thôn trên địa bàn xã.

9. Phòng Giáo dục và Đào tạo: Là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, tham mưu, giúp UBND huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, bao gồm: Mục tiêu, chương trình và nội dung giáo dục và đào tạo; tiêu chuẩn nhà giáo và tiêu chuẩn cán bộ quản lý giáo dục; tiêu chuẩn cơ sở vật chất, thiết bị trường học và đồ chơi trẻ em; quy chế thi cử và cất văn bằng, chứng chỉ; bảo đảm chất lượng giáo dục và đào tạo.

10. Phòng Văn hóa và thông tin: Là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, tham mưu, giúp UBND huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Văn hóa, gia đình; thể dục, thể thao; du lịch; bưu chính, viễn thông và Internet; công nghệ thông tin, hạ tầng thông tin; phát thanh truyền hình; báo chí; xuất bản.

11. Phòng Tư pháp: Là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, tham mưu, giúp UBND huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; thi hành án dân sự; chứng thực; hộ tịch; trợ giúp pháp lý; hòa giải ở cơ sở và các công tác tư pháp khác.

12. Phòng Kinh tế và Hạ tầng:Là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, tham mưu, giúp UBND huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; thương mại dịch vụ; xây dựng; phát triển đô thị; kiến trúc, quy hoạch xây dựng; vật liệu xây dựng; nhà ở và công sở; giao thông vận tải; khoa học công nghệ; hạ tầng kỹ thuật đô thị bao gồm: cấp, thoát nước; vệ sinh môi trường đô thị; công viên; cây xanh; chiếu sáng; rác thải; bến, bãi đỗ xe đô thị.

13. Phòng Dân Tộc: Là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, tham mưu, giúp UBND huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: các chính sách, chương trình phát triển kinh tế-xã hội đối với đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện.

Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Ubnd Cấp Xã

Chức năng nhiệm vụ của UBND cấp xã

NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA UỶ BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ Trong lĩnh vực kinh tế, Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

1. Xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội hàng năm trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua để trình Uỷ ban nhân dân huyện phê duyệt; tổ chức thực hiện kế hoạch đó;

2. Lập dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách địa phương và phương án phân bổ dự toán ngân sách cấp mình; dự toán điều chỉnh ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết và lập quyết toán ngân sách địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định và báo cáo Uỷ ban nhân dân, cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp;

3. Tổ chức thực hiện ngân sách địa phương, phối hợp với các cơ quan nhà nước cấp trên trong việc quản lý ngân sách nhà nước trên địa bàn xã, thị trấn và báo cáo về ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật;

4. Quản lý và sử dụng hợp lý, có hiệu quả quỹ đất được để lại phục vụ các nhu cầu công ích ở địa phương; xây dựng và quản lý các công trình công cộng, đường giao thông, trụ sở, trường học, trạm y tế, công trình điện, nước theo quy định của pháp luật;

5. Huy động sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân để đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng của xã, thị trấn trên nguyên tắc dân chủ, tự nguyện. Việc quản lý các khoản đóng góp này phải công khai, có kiểm tra, kiểm soát và bảo đảm sử dụng đúng mục đích, đúng chế độ theo quy định của pháp luật.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thuỷ lợi và tiểu thủ công nghiệp, Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

1. Tổ chức và hướng dẫn việc thực hiện các chương trình,kế hoạch, đề án khuyến khích phát triển và ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ để phát triển sản xuất và hướng dẫn nông dân chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi trong sản xuất theo quy hoạch, kế hoạch chung và phòng trừ các bệnh dịch đối với cây trồng và vật nuôi;

2. Tổ chức việc xây dựng các công trình thuỷ lợi nhỏ; thực hiện việc tu bổ, bảo vệ đê điều, bảo vệ rừng; phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai, bão lụt; ngăn chặn kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ đê điều, bảo vệ rừng tại địa phương;

3. Quản lý, kiểm tra, bảo vệ việc sử dụng nguồn nước trên địa bàn theo quy định của pháp luật;

4. Tổ chức, hướng dẫn việc khai thác và phát triển các ngành, nghề truyền thống ở địa phương và tổ chức ứng dụng tiến bộ về khoa học, công nghệ để phát triển các ngành, nghề mới.

Trong lĩnh lực xây dựng, giao thông vận tải, Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

1. Tổ chức thực hiện việc xây dựng, tu sửa đường giao thông trong xã theo phân cấp;

2. Quản lý việc xây dựng, cấp giấy phép xây dựng nhà ở riêng lẻ ở điểm dân cư nông thôn theo quy định của pháp luật, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về xây dựng và xử lý vi phạm pháp luật theo thẩm quyền do pháp luật quy định;

3. Tổ chức việc bảo vệ, kiểm tra, xử lý các hành vi xâm phạm đường giao thông và các công trình cơ sở hạ tầng khác ở địa phương theo quy định của pháp luật;

4. Huy động sự đóng góp tự nguyện của nhân dân để xây dựng đường giao thông, cầu, cống trong xã theo quy định của pháp luật.

Trong lĩnh vực giáo dục, y tế, xã hội,văn hoá và thể dục thể thao, Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

1. Thực hiện kế hoạch phát triển sự nghiệp giáo dục ở địa phương; phối hợp với trường học huy động trẻ em vào lớp một đúng độ tuổi; tổ chức thực hiện các lớp bổ túc văn hoá, thực hiện xoá mù chữ cho những người trong độ tuổi;

2. Tổ chức xây dựng và quản lý, kiểm tra hoạt động của nhà trẻ, lớp mẫu giáo, trường mầm non ở địa phương; phối hợp với Uỷ ban nhân dân cấp trên quản lý trường tiểu học, trường trung học cơ sở trên địa bàn;

3. Tổ chức thực hiện các chương trình y tế cơ sở, dân số, kế hoạch hoá gia đình được giao; vận động nhân dân giữ gìn vệ sinh; phòng,chống các dịch bệnh;

4. Xây dựng phong trào và tổ chức các hoạt động văn hoá, thể dục thể thao; tổ chức các lễ hội cổ truyền, bảo vệ và phát huy giá trị của các di tích lịch sử – văn hoá và danh lam thắng cảnh ở địa phương theo quy định của pháp luật;

5. Thực hiện chính sách, chế độ đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, những người và gia đình có công với nước theo quy định của pháp luật;

6. Tổ chức các hoạt động từ thiện, nhân đạo; vận động nhân dân giúp đỡ các gia đình khó khăn, người già cô đơn, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa; tổ chức các hình thức nuôi dưỡng, chăm sóc các đối tượng chính sách ở địa phương theo quy định của pháp luật;

7. Quản lý, bảo vệ, tu bổ nghĩa trang liệt sĩ; quy hoạch, quản lý nghĩa địa ở địa phương.

Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội và thi hành pháp luật ở địa phương, Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

1. Tổ chức tuyên truyền, giáo dục xây dựng quốc phòng toàn dân, xây dựng làng xã chiến đấu trong khu vực phòng thủ địa phương;

2. Thực hiện công tác nghĩa vụ quân sự và tuyển quân theo kế hoạch; đăng ký, quản lý quân nhân dự bị động viên; tổ chức thực hiện việc xây dựng, huấn luyện, sử dụng lực lượng dân quân tự vệ ở địa phương;

3. Thực hiện các biện pháp bảo đảm an ninh, trật tự,an toàn xã hội; xây dựng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc vững mạnh; thực hiện biện pháp phòng ngừa và chống tội phạm, các tệ nạn xã hội và các hành vi vi phạm pháp luật khác ở địa phương;

4. Quản lý hộ khẩu; tổ chức việc đăng ký tạm trú, quản lý việc đi lại của người nước ngoài ở địa phương.

Trong việc thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo, Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn có nhiệm vụ tổ chức, hướng dẫn và bảo đảm thực hiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân ở địa phương theo quy định của pháp luật.

Trong việc thi hành pháp luật, Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

1. Tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật; giải quyết các vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp luật;

2. Tổ chức tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân theo thẩm quyền;

3. Tổ chức thực hiện hoặc phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc thi hành án theo quy định của pháp luật; tổ chức thực hiện các quyết định về xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.

Uỷ ban nhân dân phường thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại các điều 111, 112, 113, 114, 115, 116 và 117 của Luật tổ chức HĐND & UBND và thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

1. Tổ chức thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân phường về việc bảo đảm thực hiện thống nhất kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội và quy hoạch đô thị, xây dựng nếp sống văn minh đô thị, phòng, chống các tệ nạn xã hội, giữ gìn trật tự vệ sinh, sạch đẹp khu phố, lòng đường, lề đường,trật tự công cộng và cảnh quan đô thị; quản lý dân cư đô thị trên địa bàn;

2. Thanh tra việc sử dụng đất đai của tổ chức, cá nhân trên địa bàn phường theo quy định của pháp luật;

3. Quản lý và bảo vệ cơ sở hạ tầng kỹ thuật trên địa bàn phường theo phân cấp; ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm đối với các cơ sở hạ tầng kỹ thuật theo quy định của pháp luật;

4. Kiểm tra giấy phép xây dựng của tổ chức, cá nhân trên địa bàn phường; lập biên bản, đình chỉ những công trình xây dựng, sửa chữa, cải tạo không có giấy phép, trái với quy định của giấy phép và báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, quyết định.

Chức năng nhiệm vụ của UBND cấp xã

NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA UỶ BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ Trong lĩnh vực kinh tế, Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

1. Xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội hàng năm trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua để trình Uỷ ban nhân dân huyện phê duyệt; tổ chức thực hiện kế hoạch đó;

2. Lập dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách địa phương và phương án phân bổ dự toán ngân sách cấp mình; dự toán điều chỉnh ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết và lập quyết toán ngân sách địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định và báo cáo Uỷ ban nhân dân, cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp;

3. Tổ chức thực hiện ngân sách địa phương, phối hợp với các cơ quan nhà nước cấp trên trong việc quản lý ngân sách nhà nước trên địa bàn xã, thị trấn và báo cáo về ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật;

4. Quản lý và sử dụng hợp lý, có hiệu quả quỹ đất được để lại phục vụ các nhu cầu công ích ở địa phương; xây dựng và quản lý các công trình công cộng, đường giao thông, trụ sở, trường học, trạm y tế, công trình điện, nước theo quy định của pháp luật;

5. Huy động sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân để đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng của xã, thị trấn trên nguyên tắc dân chủ, tự nguyện. Việc quản lý các khoản đóng góp này phải công khai, có kiểm tra, kiểm soát và bảo đảm sử dụng đúng mục đích, đúng chế độ theo quy định của pháp luật.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thuỷ lợi và tiểu thủ công nghiệp, Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

1. Tổ chức và hướng dẫn việc thực hiện các chương trình,kế hoạch, đề án khuyến khích phát triển và ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ để phát triển sản xuất và hướng dẫn nông dân chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi trong sản xuất theo quy hoạch, kế hoạch chung và phòng trừ các bệnh dịch đối với cây trồng và vật nuôi;

2. Tổ chức việc xây dựng các công trình thuỷ lợi nhỏ; thực hiện việc tu bổ, bảo vệ đê điều, bảo vệ rừng; phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai, bão lụt; ngăn chặn kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ đê điều, bảo vệ rừng tại địa phương;

3. Quản lý, kiểm tra, bảo vệ việc sử dụng nguồn nước trên địa bàn theo quy định của pháp luật;

4. Tổ chức, hướng dẫn việc khai thác và phát triển các ngành, nghề truyền thống ở địa phương và tổ chức ứng dụng tiến bộ về khoa học, công nghệ để phát triển các ngành, nghề mới.

Trong lĩnh lực xây dựng, giao thông vận tải, Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

1. Tổ chức thực hiện việc xây dựng, tu sửa đường giao thông trong xã theo phân cấp;

2. Quản lý việc xây dựng, cấp giấy phép xây dựng nhà ở riêng lẻ ở điểm dân cư nông thôn theo quy định của pháp luật, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về xây dựng và xử lý vi phạm pháp luật theo thẩm quyền do pháp luật quy định;

3. Tổ chức việc bảo vệ, kiểm tra, xử lý các hành vi xâm phạm đường giao thông và các công trình cơ sở hạ tầng khác ở địa phương theo quy định của pháp luật;

4. Huy động sự đóng góp tự nguyện của nhân dân để xây dựng đường giao thông, cầu, cống trong xã theo quy định của pháp luật.

Trong lĩnh vực giáo dục, y tế, xã hội,văn hoá và thể dục thể thao, Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

1. Thực hiện kế hoạch phát triển sự nghiệp giáo dục ở địa phương; phối hợp với trường học huy động trẻ em vào lớp một đúng độ tuổi; tổ chức thực hiện các lớp bổ túc văn hoá, thực hiện xoá mù chữ cho những người trong độ tuổi;

2. Tổ chức xây dựng và quản lý, kiểm tra hoạt động của nhà trẻ, lớp mẫu giáo, trường mầm non ở địa phương; phối hợp với Uỷ ban nhân dân cấp trên quản lý trường tiểu học, trường trung học cơ sở trên địa bàn;

3. Tổ chức thực hiện các chương trình y tế cơ sở, dân số, kế hoạch hoá gia đình được giao; vận động nhân dân giữ gìn vệ sinh; phòng,chống các dịch bệnh;

4. Xây dựng phong trào và tổ chức các hoạt động văn hoá, thể dục thể thao; tổ chức các lễ hội cổ truyền, bảo vệ và phát huy giá trị của các di tích lịch sử – văn hoá và danh lam thắng cảnh ở địa phương theo quy định của pháp luật;

5. Thực hiện chính sách, chế độ đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, những người và gia đình có công với nước theo quy định của pháp luật;

6. Tổ chức các hoạt động từ thiện, nhân đạo; vận động nhân dân giúp đỡ các gia đình khó khăn, người già cô đơn, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa; tổ chức các hình thức nuôi dưỡng, chăm sóc các đối tượng chính sách ở địa phương theo quy định của pháp luật;

7. Quản lý, bảo vệ, tu bổ nghĩa trang liệt sĩ; quy hoạch, quản lý nghĩa địa ở địa phương.

Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội và thi hành pháp luật ở địa phương, Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

1. Tổ chức tuyên truyền, giáo dục xây dựng quốc phòng toàn dân, xây dựng làng xã chiến đấu trong khu vực phòng thủ địa phương;

2. Thực hiện công tác nghĩa vụ quân sự và tuyển quân theo kế hoạch; đăng ký, quản lý quân nhân dự bị động viên; tổ chức thực hiện việc xây dựng, huấn luyện, sử dụng lực lượng dân quân tự vệ ở địa phương;

3. Thực hiện các biện pháp bảo đảm an ninh, trật tự,an toàn xã hội; xây dựng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc vững mạnh; thực hiện biện pháp phòng ngừa và chống tội phạm, các tệ nạn xã hội và các hành vi vi phạm pháp luật khác ở địa phương;

4. Quản lý hộ khẩu; tổ chức việc đăng ký tạm trú, quản lý việc đi lại của người nước ngoài ở địa phương.

Trong việc thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo, Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn có nhiệm vụ tổ chức, hướng dẫn và bảo đảm thực hiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân ở địa phương theo quy định của pháp luật.

Trong việc thi hành pháp luật, Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

1. Tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật; giải quyết các vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp luật;

2. Tổ chức tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân theo thẩm quyền;

3. Tổ chức thực hiện hoặc phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc thi hành án theo quy định của pháp luật; tổ chức thực hiện các quyết định về xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.

Uỷ ban nhân dân phường thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại các điều 111, 112, 113, 114, 115, 116 và 117 của Luật tổ chức HĐND & UBND và thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

1. Tổ chức thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân phường về việc bảo đảm thực hiện thống nhất kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội và quy hoạch đô thị, xây dựng nếp sống văn minh đô thị, phòng, chống các tệ nạn xã hội, giữ gìn trật tự vệ sinh, sạch đẹp khu phố, lòng đường, lề đường,trật tự công cộng và cảnh quan đô thị; quản lý dân cư đô thị trên địa bàn;

2. Thanh tra việc sử dụng đất đai của tổ chức, cá nhân trên địa bàn phường theo quy định của pháp luật;

3. Quản lý và bảo vệ cơ sở hạ tầng kỹ thuật trên địa bàn phường theo phân cấp; ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm đối với các cơ sở hạ tầng kỹ thuật theo quy định của pháp luật;

4. Kiểm tra giấy phép xây dựng của tổ chức, cá nhân trên địa bàn phường; lập biên bản, đình chỉ những công trình xây dựng, sửa chữa, cải tạo không có giấy phép, trái với quy định của giấy phép và báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, quyết định.

Vị Trí Vai Trò Và Chức Năng Xã Hội Của Luật Sư ( Tập 1)

NHẬN THỨC VỀ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ

So với nhiều nghề khác trong xã hội , nghề Luật sư ở Việt Nam là một nghề khá non trẻ, tuy vật đến nay, cũng đã ra đời hơn một thế kỷ. Dưới chế độ phong kiến, ở nhiều nước phương Đông như: Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, v.vv… chưa tồn tại Luật sư và Nghề Luật sư. Trong khi đó, ở một số nước phương tây, bắt nguồn từ sự sáng tạo của nền pháp chế cổ La Mã tồn tại từ 20 thế kỷ trước, đã có người bào chữa .

Sau khi xâm lược Việt Nam vào giữa thế kỷ XIX (1858), nhất là sau khi chiếm được 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa), thực dân pháp đã coi đây là “đất đai nước Pháp” và người dân 3 tỉnh này này là “thần đan mới của Hoàng đế Pháp” . Ngày 25-7-1864, Hoàng đế Pháp Napoleon III ban Sắc lệnh và tổ chức nền tư pháp ở Nam Kỳ. Trong đó, Điều 27 quy định: “Có thể thiết lập nằng nghị định của Thống đốc, bên cạnh các Tòa án, những người biện hộ viên(bào chữa viên ) đảm trách việc bào chữa và làm lý đoán , làm và ký tên tất cả những giấy tờ cần thiết cho việc thẩm cứu những vụ án dân sự, thương mại và chấp hàng những bản án, những quyết định và bảo vệ cho bị can, bị cáo trước những tòa tiểu hình và đại hình”. Sau khi chiếm thêm 3 tình miền Tây Nam Kỳ (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên), Pháp sát nhập 3 tình này vào “Nam Kỳ thuộc Pháp “đặt toàn bộ 6 tình Nam Kỳ dưới chế độ thuộc địa, tách Nam Kỳ ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Ngày 26-11-1867, Thống đốc Nam Kỳ Pierre de La Grandiere ký ban hành nghị định về việc hành nghề bào chữa trước Tòa án Pháp ( dành cho xét xử người Pháp và người đã nhập quốc tịch pháp ở Nam Kỳ theo quy định tại điều 27 Sắc lệnh ngày 25-7-1864 của Hoàng đế Napoleon III.

Như vậy, nghề Luật sư xuất hiện tại Việt Nam từ nửa sau thế kỷ thứ XIX và lúc đầu chỉ thuộc về người Pháp, dành cho công dân Pháp. Sau cách mạng thánh 8 năm 1945, nghề Luật sư được hoạt động trở lại theo Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 của chủ tịch Chính Phủ lầm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về tổ chức đoàn thể Luật sư (sau đây gọi tắt là sắc lệnh số 46/SL) do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành . Mặc dù vậy, lúc đó, vì nhiều nguyên nhân, mà quan trọng nhất là nguồn lực của đất nước phải tập trung vào công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp , nên nghề Luật sư lúc này không pháp triển. Một số Luật sư đã tham gia cách mạng và trở thành những nhân vật quan trọng, giữ vai trò cố vấn cho Chủ tịch Hồ Chí Minh về các mặt pháp lý trong cuộc đấu tranh pháp lý với thực dân pháp như các Luật sư: Phan Anh; Trần Đình Thảo; Vũ Đình Hòe; Vũ Trong Khánh; Trần Đình Công; Vũ Văn Hiền ; Phạm Văn Bạch; Phạm Ngọc Thuần ; Bùi Thị Cẩm ; Nguyễn Thành Vĩnh ,v.v..Một số Luật sư ở thời kỳ này đã chuyển sang hoạt động ở một số hoạt động khác.

Tuy nhiên, vào cuối năm 1949, đề bảo đảm bào chữa của bị can, bị cáo , chính quyền cách mạng đã thiết lập chế độ Bào chữa viên, tạm thời thay thế vai trò của Luật sư .Cụ thể, ngày 18-6-1949, Sác lệnh số 69/Sl của Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ cộng hòa ra đời, sau đó được thay thế bởi sắc lệnh số 144/SL của Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ cộng hòa ngày 22-12-1949( sửa đổi điều 1 Sắc lệnh số 69/SL) mở rộng quyền bào chữa cho các bị cáo trước Tòa án. Hai Sắc lệnh 69/SL và 144/SL cho thấy, quyền bào chữa của công dân Việt Nam thời kỳ này được thực hiện ở các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế.

Chế độ Bào chữa viên được duy trì ở miền Bắc cho đến ngày đất nước thống nhất (năm 1975). Thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đội ngũ bào chữa viên ngày càng phát triển. Bên cạnh Luật sư tham gia kháng chiến, nhiều Luật sư, Luật gia từng làm việc trong chế sộ cũ cũng gia nhập đội ngũ Bào chữa viên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Năm 1959, có thể xem là một năm đặc biệt quan trọng với sự ra đời của hiến pháp năm 1959, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa , tiếp tục khẳng định quan điểm của Đảng và Nhà nước về quyền bào chữa để bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Cụ thể, Điều 101 Hiến pháp năm 1959 quy định: “quyền bào chữa của người bị cáo được bảo đảm. Năm 1963 văn phòng Luật sư thí điểm đầu tiên ở miền Bắc được thành lập tên là Văn phòng Luật sư Hà Nội”. Sau khi văn phòng Luật sư này ra đời, yếu cầu Luật sư bào chữa để bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trước Tòa án ngày càng tăng. Lúc đầu Luật sư chỉ giải quyết những vụ án do Tòa án chỉ định, về sau các bị cáo, đương sự có nhu cầu mời Luật sư đã trực tiếp đến “văn phòng Luật sư” để đề đạt nguyện vọng .Năm 1974, Tòa án nhan dân tối cao chuyển giao “văn phòng Luật sư” sang Ủy ban Pháp chế Chính phủ (được thành lập năm 1972) để quản lý theo chức năn quy định tại nghị định số 190/CP ngày 09-10-1972 của Hội đồng Chính phủ quy định nhiệm vụ , quyền hạn và tổ chức bộ máy của Ủy ban Pháp chế thuộc Hội đòng Chính phủ.

Sau ngày giải phòng Miền nam Việt Nam ngày 30-4-1975, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam , kế thừa thực tiễn ở miền Bắc, tiếp tục thực hiện chế độ Bào chữa viên , vì các Luật sư đoàn ở miền Nam dưới chế độ cũ đều bị giải tán. Việc thực hiện quyền bào chữa này được triển khai trên cơ sở Điều 4 Sắc lệnh số 01-SL/76 ngày 18-3-1976 của Hội đồng Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và tinh thần thông tư số 06/BTP/TT ngày 11-6-1976 của Bộ Tư Pháp và Chính Phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Điều 13 Hiến pháp năm 1908 nêu rõ: “quyền bào chữa của bị cáo được đảm bảo .Tổ chức Luật sư được thành lập đề giúp bị cáo và các đương sự khác về mặt pháp lý”. Tuy nhiên , thời kỳ này , trong mô hình kinh tế quy hoạch hóa tập trùng quan liêu bao cấp , vai trò của Nhà nước bao trùm toàn bộ đời sống xã hội, Nhà nước bao trùm toàn bộ hoạt động sản xuất-kinh doanh , từ đầu vào cho tới lưu thông , phân phối hàng hóa bằng những mệnh lệnh hành chính. Hậu quả là nền kinh tế không phát triển, xã hội rơi vào khủng hoảng, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, kèm theo đó là tình hình kinh tế và trật tự xã hội cũng hết sức phức tạp. Trong bối cảnh đó , pháp luật không được đề cao và tất yếu, nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của xã hội cũng sẽ không có , hệ quả là Luật sư và nghề Luật sư tồn tại chỉ mạng tính hình thức.

Từ năm 1986, đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp được chuyển sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo đó, Nhà nước chỉ đóng vai trò xây dựng thể chế, bảo đảm cho việc thực hiện pháp luật, Nhà nước tạo điều kiện và cơ hội cho các chủ thể và các thành phần kinh tế hoạt động, phát triển theo quy luật kinh tế thị thường. Đồng thời Nhà nước giảm dần và hạn chế các mệnh lệnh hành chính trong việc điều hành nền kinh tế.

Cùng với những thành quả của công cuộc đổi mới đất nước, vai trong của nghề Luật sư và nhiều nghành nghề khác trong xã hội cũng từng bước được nang cao, đóng góp không nhỏ vào sự đổi mới chung của đất nước.

Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng, ngày 18-12-1987 , Hội đồng Nhà nước đã thông qua Pháp lệnh tổ chức Luật sư . Từ đó, các tổ chức Luật sư chuyên nghiệp ra đời thay thế các hình thức Bào chữa viên được thiết lập ở miền bắc từ năm 1949 và ở miền nam sau ngày giải phóng năm 1975. Pháp lệnh tổ chức Luật sư năm 1987 đã xác lập vị trí pháp lý của nghề Luật sư trong thời kỳ đổi mới đất nước. Những quy định của pháp lệnh này đã tạo nền tảng pháp lý cho việc thành lập các Đoàn Luật sư trên toàn quốc, thông qua đó tập hợp đội ngũ Luật sư tham gia vào các hoạt động tư pháp, cung cấp dịch vụ pháp lý cho xã hội .

Đoàn Luật sư vừa đóng vai trò là tổ chức xã hội -nghề nghiệp, vừa đóng vai trò là tổ chức hành nghề Luật sư.

Pháp lệnh Luật sư năm 2001 là bước tiến về thẻ chế của nghề Luật sư ở nước ta. Các chế định về Luật sư , nghề Luật sư , tổ chức hành nghề luật tổ chức xã hội – nghề nghiệp của Luật sư đã được hoàn thiện hơn, tron đó phản ánh rõ tổ chức xã hội – nghề nghiệp của Luật sư và tổ chức hành nghề Luật sư. Những quy định này đã tạo cơ hội cho nghề Luật sư phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đóng góp vào công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Khi kinh tế phát triển, các mâu thuẫn và tranh chấp kinh tế sẽ phát sinh, Các vị phạm pháp luật và tội phạm cũng có thể gia tăng. Trong bối cảnh đó, Nhà nước đóng vai trò giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp, ngăn chặn, xử lý các vị phạm và tội phạm. Thực tiễn cho thấy, nếu các chủ thể kinh tế có sử dụng dịch vụ pháp lý của Luật sư ngay từ khi bắt đầu sản xuất và trong cả quá trình kinh doanh, thì không những các mâu thuẫn, tranh chấp kinh tế sẽ giảm mà còn góp phần vào việc phát triển sản xuất – kinh doanh theo quy định của pháp luật, từ đó giúp Nhà nước giải quyết những tranh chấp mâu thuẫn kinh tế và xử lý vi phạm pháp luật, tội phạm hiệu quả hơn. Đối với các vụ án hình sự, nếu được tham gia quá trình tố tụng ngay từ khi thân chủ bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố vụ án, khởi tố bị can, Luật sư sẽ có điều kiện phối hợp với cơ quan điều tra giải quyết vụ án, góp phần vào việc bảo về công lý, bảo vệ pháp chế , tình trạng oan sai sẽ được hạn chế.

Nghề Luật sư cũng giống như nhiều nghề khác, hình thành do nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Sau 30 năm đổi mới đất nước, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển ngoạn mục. Tuy vậy cho đến nay vẫn còn những vấn đề cần phải tiếp tục giải quyết để phát triển bền vững trong bối cảnh công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, đặc biệt là khin thế giới bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 từ năm 2016.

Vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, Luật sư đã đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Ngày 14-01-2013, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định số 149/QĐ-TTg lấy ngày 10 tháng 10 hàng năm là ngày truyền thống của Luật sư Việt Nam. Đây là mốc son chói lọi của nghề Luật sư sau 70 năm ra đời, phát triển trong chính thể dân chủ ở Việt Nam.

Tiếp theo: Vị trí vai trò của Luật sư (3)

Vị Trí Và Chức Năng Của Xương Chày

Xương chày là xương lớn nằm ở trong xương mác và là xương cẳng chân duy nhất tiếp khớp với xương đùi.

Đầu gần là một khối xương to do lồi cầu trong và lồi cầu ngoài tạo nên. Mặt trên của mỗi lồi cầu lõm thành mặt khớp trên tiếp khớp với một lồi cầu xương đùi. Trên mặt sau-dưới lồi cầu ngoài có mặt khớp mác tiếp khớp với chỏm xương mác. Các mặt khớp trên của hai lồi cầu được ngăn cách nhau bằng vùng gian lồi cầu, vùng này bao gồm lồi gian lồi cầu nằm giữa các diện gian lồi cầu trước và sau.

Thân xương gần có hình lăng trụ tam giác với ba mặt là mặt trong, mặt ngoài và mặt sau và ba bờ là bờ trước, bờ trong và bờ gian cốt. Thân xương có lồi củ chày nằm ở trước, dưới và giữa hai lồi cầu. Phần trên của mặt sau thân có một đường gờ chạy chếch xuống dưới và vào trong đường cơ dép.

Đầu xa nhỏ hơn đầu gần, có mặt khớp dưới hướng xuống dưới tiếp khớp với xương sên và khuyết mác hướng ra ngoài tiếp khớp với đầu dưới xương mác. Đầu dưới kéo dài xuống thành một mỏm ở trong xương sên tạo nên mắt cá trong

Xương chày giải phẫ u và xương mác liên kết với nhau như sau: Đầu trên hai xương nối với nhau bằng khớp chày – mác trên. Đây là một khớp hoạt dịch thuộc loại khớp phẳng, trong đó mặt khớp chỏm mác ở mặt trong chỏm mác tiếp khớp với mặt khớp mác của lồi cầu ngoài xương chày. Khớp này được giữ vững bởi các dây chằng chỏm mác sau và trước. Bờ gian cốt của hai thân xương được nối với nhau bằng màng gian cốt cẳng chân. Đầu dưới của hai xương liên kết với nhau bằng khớp sợi chày – mác. Mô sợi liên kết mặt trong mắt cá ngoài (đầu dưới xương mác) với khuyết mác của đầu dưới xương chày.

Mạch máu nuôi dưỡng xương chày gồm 3 nguồn mạch là : động mạch nuôi xương ( đi vào lỗ nuôi xương ở mặt sau chỗ nối 13 giữa và 1/3 trên xương chày), động mạch đầu hành xương và động mạch màng xương có nguồn gốc từ các động mạch cơ. Mạch máu nuôi xương chày rất nghèo và càng về phía dưới giữa các hệ thống mạch thì ít có sự nối thông vì thế gãy xương chày rất khó liền xương.