Vị Trí Chức Năng Của Quốc Hội Hiến Pháp 2013 / Top 9 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Vị Trí, Chức Năng Của Quốc Hội Trong Hiến Pháp Năm 2013

Đây là sự thay đổi cơ bản về nhận thức xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã đề ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), đồng thời kế thừa tư tưởng lập hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Hiến pháp năm 1946.

Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước không chỉ thông qua các cơ quan đại diện (Quốc hội, Hội đồng nhân dân) mà còn thông qua các cơ quan nhà nước khác, và bằng cả hình thức dân chủ trực tiếp như phúc quyết Hiến pháp khi Quốc hội quyết định (Điều 120), trưng cầu dân ý (Điều 29). Vì thế, quyền lập hiến cao hơn quyền lập pháp, Nhân dân sử dụng quyền lập hiến để thiết lập quyền lực nhà nước, trong đó có quyền lập pháp.

Vềchức năng của Quốc hội, Hiến pháp năm 2013 đã xác định rõ hơn, khái quát hơn trên ba phương diện: thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp; quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Trước hết, về thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, Hiến pháp năm 2013 đã có sự phân biệt rõ ràng giữa quyền lập hiến, quyền lập pháp và thay quy định “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp” bằng quy định “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp” (lập hiến và lập pháp theo Hiến pháp năm 1992 là một quyền).

Hiến định nội dung này, Hiến pháp năm 2013 đòi hỏi Quốc hội phải tập trung hơn nữa vào chức năng làm luật để khắc phục tình trạng vừa thiếu pháp luật, vừa mẫu thuẫn, chồng chéo trong hệ thống pháp luật, thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo đảm mọi hoạt động của các cơ quan Nhà nước, trong đó có Quốc hội đều phải tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, không thể tự định cho mình những nhiệm vụ, quyền hạn khác ngoài những nhiệm vụ và quyền hạn đã được Hiến pháp, pháp luật quy định. Thứ hai, về quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, so với quy định của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đã quy định theo hướng khái quát hơn, bảo đảm phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở để cụ thể hóa nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội trong Hiến pháp và trong các đạo luật chuyên ngành.

Toàn cảnh phiên họp Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 8.

Thứ ba, về giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Đây là hoạt động mang tính chất chính trị, thể hiện ý chí của cử tri và là một trong những tiêu chí để đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. So với Hiến pháp năm 1992 thì quy định này có những điểm mới đáng chú ý sau: (1) phạm vi thẩm quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước của Quốc hội là có giới hạn, không mở rộng đến “toàn bộ” hoạt động của Nhà nước (bao gồm các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ở Trung ương và các cơ quan nhà nước ở địa phương mà chỉ tập trung vào các cơ quan ở trung ương như Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao). (2) Bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc thực hiện quyền giám sát tối cao đối với các thiết chế độc lập như Kiểm toán nhà nước, Hội đồng bầu cử quốc gia và các cơ quan nhà nước khác do Quốc hội thành lập. (3) Quy định khái quát để các luật có điều kiện cụ thể hóa những hoạt động nào của Nhà nước thuộc thẩm quyền giám sát tối cao của Quốc hội.

Theo đó, việc thực hiện chức năng giám sát của Quốc hội được thực hiện tại kỳ họp Quốc hội trên cơ sở hoạt động giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội, bằng các hình thức: xét báo cáo công tác của các cơ quan Nhà nước (Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập); xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thành lập Ủy ban lâm thời để điều tra về một vấn đề nhất định và xem xét kết quả điều tra của Ủy ban; tổ chức các đoàn giám sát; bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn (việc bỏ phiếu tín nhiệm với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn là phương thức để Quốc hội thực hiện quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm, cách chức người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn khi người đó không xứng đáng với trọng trách được giao); bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội…

Vị trí pháp lý của Quốc hội còn được thể hiện rõ trong các mối quan hệ giữa Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Cùng với sự phân công rành mạch chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước còn được thực hiện thông qua sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, tránh lấn sân, chồng chéo, mâu thuẫn khi thực hiện các chức năng, nhiệm vụ đó. Để tăng cường quan hệ phối hợp trong việc thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, Hiến pháp năm 2013 khẳng định Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp.

Theo đó, sự phối hợp, kiểm soát hoạt động của Quốc hội cũng được thể hiện trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ này, theo hướng việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp không chỉ riêng Quốc hội thực hiện mà còn dựa trên ý kiến đề nghị của “Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội”. Đối với quyền lập pháp, Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận quyền sáng kiến lập pháp của nhiều chủ thể, trong đó có Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, đồng thời cũng quy định rõ sự khác nhau về quyền sáng kiến lập pháp của cá nhân đại biểu Quốc hội với các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

Sự tham gia của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan, tổ chức khác trong quá trình soạn thảo và trình các dự án luật đã thể hiện rõ sự phối hợp giữa Quốc hội với các cơ quan hành pháp và tư pháp trong việc thực hiện quyền lập pháp. Đối với việc phối hợp trong thực hiện quyền hành pháp, Hiến pháp năm 2013 khẳng định Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Theo đó, Chính phủ có quyền ban hành các chính sách, văn bản độc lập để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Đây là điểm mới so với Hiến pháp năm 1992 (Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định Chính phủ có quyền ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết việc thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội ). Trong việc thực hiện quyền hành pháp, mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ còn được thể hiện ở quyền quyết định và hoạch định chính sách.

Theo đó, Quốc hội quyết định những chính sách dài hạn, mang tầm định hướng quốc gia, còn Chính phủ quyết định những chính sách ngắn hạn, mang tính chất điều hành các mặt kinh tế, xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, cơ chế phối hợp trong việc thực hiện quyền hành pháp còn thể hiện thông qua việc Quốc hội tham gia vào việc quy định tổ chức và hoạt động của Chính phủ; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; bỏ phiếu tín nhiệm đối với Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ; quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đơn vị hành chính kinh tế – đặc biệt…

Về quan hệ phối hợp, kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp, Hiến pháp năm 2013 quy định Quốc hội có quyền xét báo cáo công tác của Tòa án nhân dân tối cao; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; bỏ phiếu tín nhiệm đối với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; bãi bỏ văn bản của Tòa án nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Ngược lại, việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp, pháp luật, giữ vững kỷ cương pháp luật là nhiệm vụ hàng đầu của cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân không được can thiệp vào hoạt động xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm. Các cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm tôn trọng, giữ gìn, bảo vệ tính pháp quyền và công lý trong các phán quyết của Tòa án. Đây chính là cách thức thể hiện sự phối hợp quan trọng nhất giúp cơ quan tư pháp thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.

Vị Trí , Vai Trò, Chức Năng Của Chính Phủ Theo Hiến Pháp 2013

Vị Trí , Vai Trò, Chức Năng Của Chính Phủ Theo Hiến Pháp 2013, Thực Tế Quyền Và Nghĩa Vụ Cơ Bản Của Công Dân Theo Hiến Pháp 2013, Tiểu Luận Hiến Pháp:bảo Đảm Thục Hiện Văn Hóa Giáo Dục Của Con Người Trong Hiến Pháp 2013, Chế Độ Chính Trị Trong Hiến Pháp 2013, Các Chế Định Chính Trị Cơ Bản Của Hiến Pháp 2013, Sống Và Làm Việc Theo Hiến Pháp Và Pháp Luật, Pháp Luật Về Tuyển Dụng Viên Chức ở Vn Hiện Nay Trạg Và Giải Pháp, Bản Dự Thảo Hiến Pháp Năm 2013, Một Số Chế Định Cơ Bản Của Hiến Pháp 2013, Toàn Văn Hiến Pháp 2013, Tờ Trình Hiến Pháp 2013, Hiến Pháp Năm 2013 Bổ Sung, Đề Cương Hiến Pháp 2013, Câu 9 Bài Thi Tìm Hiểu Hiến Pháp Năm 2013, Các Chế Định Cơ Bản Hiến Pháp Năm 2013, Các Nội Dung Sửa Đổi Của Hiến Pháp 2013, Bản Dự Thảo Hiến Pháp 2013, Nội Dung Sửa Đổi Hiến Pháp Năm 2013, Dự Thảo Hiến Pháp 2013, Nội Dung Hiến Pháp Sửa Đổi 2013, Các Chế Định Cơ Bản Của Hiến Pháp 2013, Nội Dung Sửa Đổi Của Hiến Pháp 2013, Tờ Khai Yêu Cầu Cấp Phiếu Lý Lịch Tư Pháp (theo Mẫu 03/2013/tt-lltp), Các Chế Định Trong Hiến Pháp Năm 2013, Hướng Dẫn Thi Hành Hiến Pháp 2013, Dự Thảo Hiến Pháp 1992 Sửa Đổi Năm 2013, Những Nội Dung Sửa Đổi Của Hiến Pháp 2013, Điều 4 Dự Thảo Hiến Pháp 2013, Nội Dung Sửa Đổi Bổ Sung Hiến Pháp 2013, Nội Dung Hiến Pháp 1992 Sửa Đổi Bổ Sung 2013, Quyền Con Người Trong Hiến Pháp 2013, Quyền Sống Trong Hiến Pháp 2013, Quyền Và Nghĩa Vụ Của Công Dân Trong Hiến Pháp 2013, Tiểu Luận Về Quyền Con Người Trong Hiến Pháp 2013, Mẫu Di Chúc Theo Quy Định Của Pháp Luật, Vụ án Về Người Lập Di Sản Thừa Kế Theo Di Chúc Khi Bị Mất Năng Lực Hành Vi Dân Sự, – Thực Hiện Đổi Mới Căn Bản Khi Thực Hiện Một Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Một Đơn Vị Trong Trường Đh., Ngữ Pháp Chức Năng, Thừa Kế Thế Vị Theo Pháp Luật Việt Nam Hiện Hành, Dẫn Luận Ngữ Pháp Chức Năng, Ngữ Pháp Chức Năng Hoàng Văn Vân, Vị Trí Pháp Lí, Chức Năng Của Quốc Hôj, Phân Tích 6 Chức Năng Của Marketing Hiện Đại, Bien Phap To Chuc Day Hoc Nhom Theo Mo Hinh Truong Hoc Moi Viet Nam, Tình Huống Xử Lý Vi Phạm Hành Chính Đất Đai Theo Luật Đất Đai 2013, Vị Trí Pháp Lí Và Chức Năng Của Chủ Tịch Nước, Module 19 Tổ Chức Hoạt Động Giáo Dục Kỹ Năng Sống Cho Trẻ Mầm Non Theo Thong Tư 12, Module 19 Tổ Chức Hoạt Động Giáo Dục Kỹ Năng Sống Theo Thông Tư 12, Thực Tế Hoạt Động Của ủy Ban Nhân Dân Theo Qui Định Của Pháp Luật Hiện Hành, Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Học Tập Và Làm Theo Đạo Đức, Phong Cách Hồ Chí Minh, Đề án Đổi Mới Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Tổ Chức Thi Hành Pháp Luật, Báo Cáo Tổng Kết Thực Hiện Nghị Quyết Số 16/nq-cp Ngày 14/01/2013 Của Chính Phủ, Công Tác Lãnh Đạo Thực Hiện Chủ Chương Của Đảng , Chính Sách Pháp Luật Của Nhà Nước Và Thực Hien Chỉ, Công Tác Lãnh Đạo Thực Hiện Chủ Chương Của Đảng , Chính Sách Pháp Luật Của Nhà Nước Và Thực Hien Chỉ, Cong Tac Lanh Đạo Thực Hiện Chủ Truong Của Đang Chính Sach Pháp Luạt Nhà Nươc Va Thực Hiện Chỉ Thj N, Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Đảng Viên Hiện Nay, Biện Pháp Tổ Chức Thực Hiện Xây Dựng Thôn Bản Vững Mạnh, Trình Bày So Sánh Về Vị Trí Pháp Lý Và Chức Năng Cơ Bản Của Quốc Hội, Chủ Tịch Nước, Phương Thức Giải Quyết Các Tranh Chấp Kinh Tế Theo Qui Định Của Pháp Luật Hiện Nay, Biện Pháp Phát Triển Kỹ Năng Hợp Tác Cho Trẻ Mẫu Giáo 4-5 Tuổi Trong Trò Chơi Đóng Vai Theo Chủ Đề, Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Thực Hiện Chủ Trương Đường Lối Thoát, Theo Em Chính Sách Văn Hóa Giáo Dục Của Pháp, Báo Cáo Tổng Kết Thực Hiện Nghị Quyết Số 16/nq-cp Ngày 14/01/2013 Của Chính Phủ Ban Hành Chương Trìn, Giai Pháp Nâng Cao Chất Lượng Thực Hiện Nguyên Tắc Tập Trung Dân Chủ Trong Quân Đội, 5 Chức Năng Cơ Bản Của Văn Bản Hành Chính, Chức Năng Cơ Bản Của Hệ Thống Tài Chính, Hãy Kể Tên Và Chức Năng Các Bộ Phận Chính Của Máy Tính, Chức Năng Của Hành Chính Nhà Nước, Chức Năng Chính Của Hệ Điều Hành, Phương Trình Hóa Học Nào Sau Đây Thể Hiện Cách Điều Chế Cu Theo Phương Pháp Th, Thuc Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng, Hiệu Quả Hoạt Động Hội Họp, Tổ Chức Sự Kiện Cấp Phòng, Hướng Dẫn Thực Hiện Luật Tổ Chức Chính Quyền Địa Phương, Văn Bản Hướng Dẫn Thực Hiện Luật Tổ Chức Chính Quyền Địa Phương, Báo Cáo Sơ Kết 03 Năm Thực Hiện Luật Tổ Chức Chính Quyền Địa Phương Năm 2015, Bài Thu Hoạch Biện Pháp Tổ Chức Thực Hiện Xây Dựng Thôn Bản Vững Mãnh Mạnh , Hướng Dẫn Thực Hiện Chế Độ Phụ Cấp Chức Vụ Lãnh Đạo Đối Với Cán Bộ Công Chức Viên Chức, Báo Cáo Tình Hình Thực Hiện Luật Tổ Chức Chính Quyền Địa Phương Năm 2015, Bài Báo Cáo Về Cơ Cấu Tổ Chức, Chức Năng Nhiệm Vụ Và Hoạt Động Của Tổ Chức Hành Nghề Công Chứng, Việc Thực Hiện Chính Sách, Pháp Luật Về Phòng, Chống Xâm Hại Trẻ Em, Văn Bản Pháp Luật Nào Điều Chỉnh Quá Trình Ký Kết Thực Hiện Và Giải Quyết , Đề Xuất Kiến Nghị Những Giải Pháp Để Tổ Chức Thực Hiện Nghị Quyết Trong Thời Gian Tới, Đề Xuất Kiến Nghị Các Giải Pháp Tổ Chức Thực Hiện Nghị Tư 5 Khóa 12 Tại Cơ Quan Trường Thcs Quyết Tr, Uyển Dụng Và Bổ Nhiệm Chính Bạn Làm Công Chức Phụ Trách Mảng Tư Pháp – Hộ Tịch Tại ủy Ban Nhân Dân C, Uyển Dụng Và Bổ Nhiệm Chính Bạn Làm Công Chức Phụ Trách Mảng Tư Pháp – Hộ Tịch Tại ủy Ban Nhân Dân C, Nâng Cao Hiệu Năng Chuyển Giao Trong Mạng Mobile Ip, 2013, Đơn Đăng Ký Dự Tuyển Viên Chức Theo Mẫu Số 01 Ban Hành Kèm Theo Thông Tư Số 15, Tiểu Luận Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Phân Công Công Việc Cho Công Chức Phòng Nội Vụ, Tài Liệu Tiểu Luận Lớp Bồi Dưỡng Theo Tiêu Chuẩn Chức Danh Nghề Nghiệp Bác Sĩ Chính Hạng Ii, 29/2013/nĐ-cp Ngày 08 Tháng 4 Năm 2013 Của Chính Phủ Sửa Đổi, Bổ Sung Một Số Điều Của Nghị Định Số 9, 29/2013/nĐ-cp Ngày 08 Tháng 4 Năm 2013 Của Chính Phủ Sửa Đổi, Bổ Sung Một Số Điều Của Nghị Định Số 9, Nghị Định Số 78/2013/nĐ-cp Ngày 17 Tháng 7 Năm 2013 Của Chính Phủ Về Minh Bạch Tài Sản Thu Nhập, Nghị Định Số 81/2013/nĐ-cp Ngày 19 Tháng 7 Năm 2013 Của Chính Phủ, Nghị Định 81/2013/nĐ-cp Ngày 19/7/2013 Của Chính Phủ, Công Tác Lãnh Đạo Thực Hieenjchur Trương Của Đảng Chính Sách Pháp Luật Nhà Nwowcsvaf Thực Hiện Chỉ T, Cong Tác Lanh Đao Thuc Hiện Chu Trường Cua Đảng Chinh Sách Pháp Luật Của Nha Nước Trong Cong Tác Gia, Báo Cáo Sơ Kết 3 Năm Thực Hiện Cuôc Vận Động Phát Huy Truền Thống, Công Hiến Tài Năng, Đo Lường Sự Hài Lòng Của Người Dân, Tổ Chức Đối Với Sự Phục Vụ Của Cơ Quan, Đơn Vị Có Chức Năng Giải, Đo Lường Sự Hài Lòng Của Người Dân, Tổ Chức Đối Với Sự Phục Vụ Của Cơ Quan, Đơn Vị Có Chức Năng Giải, Quy Định Chức Năng, Nhiệm Vụ, Quyền Hạn Và Cơ Cấu Tổ Chức Của Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam, Báo Cáo Sơ Kết Thực Hiện Cuộc Vận Động Phát Huy Truyền Thống, Cống Hiến Tài Năng, Xứng Danh Bộ Đội C,

Vị Trí , Vai Trò, Chức Năng Của Chính Phủ Theo Hiến Pháp 2013, Thực Tế Quyền Và Nghĩa Vụ Cơ Bản Của Công Dân Theo Hiến Pháp 2013, Tiểu Luận Hiến Pháp:bảo Đảm Thục Hiện Văn Hóa Giáo Dục Của Con Người Trong Hiến Pháp 2013, Chế Độ Chính Trị Trong Hiến Pháp 2013, Các Chế Định Chính Trị Cơ Bản Của Hiến Pháp 2013, Sống Và Làm Việc Theo Hiến Pháp Và Pháp Luật, Pháp Luật Về Tuyển Dụng Viên Chức ở Vn Hiện Nay Trạg Và Giải Pháp, Bản Dự Thảo Hiến Pháp Năm 2013, Một Số Chế Định Cơ Bản Của Hiến Pháp 2013, Toàn Văn Hiến Pháp 2013, Tờ Trình Hiến Pháp 2013, Hiến Pháp Năm 2013 Bổ Sung, Đề Cương Hiến Pháp 2013, Câu 9 Bài Thi Tìm Hiểu Hiến Pháp Năm 2013, Các Chế Định Cơ Bản Hiến Pháp Năm 2013, Các Nội Dung Sửa Đổi Của Hiến Pháp 2013, Bản Dự Thảo Hiến Pháp 2013, Nội Dung Sửa Đổi Hiến Pháp Năm 2013, Dự Thảo Hiến Pháp 2013, Nội Dung Hiến Pháp Sửa Đổi 2013, Các Chế Định Cơ Bản Của Hiến Pháp 2013, Nội Dung Sửa Đổi Của Hiến Pháp 2013, Tờ Khai Yêu Cầu Cấp Phiếu Lý Lịch Tư Pháp (theo Mẫu 03/2013/tt-lltp), Các Chế Định Trong Hiến Pháp Năm 2013, Hướng Dẫn Thi Hành Hiến Pháp 2013, Dự Thảo Hiến Pháp 1992 Sửa Đổi Năm 2013, Những Nội Dung Sửa Đổi Của Hiến Pháp 2013, Điều 4 Dự Thảo Hiến Pháp 2013, Nội Dung Sửa Đổi Bổ Sung Hiến Pháp 2013, Nội Dung Hiến Pháp 1992 Sửa Đổi Bổ Sung 2013, Quyền Con Người Trong Hiến Pháp 2013, Quyền Sống Trong Hiến Pháp 2013, Quyền Và Nghĩa Vụ Của Công Dân Trong Hiến Pháp 2013, Tiểu Luận Về Quyền Con Người Trong Hiến Pháp 2013, Mẫu Di Chúc Theo Quy Định Của Pháp Luật, Vụ án Về Người Lập Di Sản Thừa Kế Theo Di Chúc Khi Bị Mất Năng Lực Hành Vi Dân Sự, – Thực Hiện Đổi Mới Căn Bản Khi Thực Hiện Một Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Một Đơn Vị Trong Trường Đh., Ngữ Pháp Chức Năng, Thừa Kế Thế Vị Theo Pháp Luật Việt Nam Hiện Hành, Dẫn Luận Ngữ Pháp Chức Năng, Ngữ Pháp Chức Năng Hoàng Văn Vân, Vị Trí Pháp Lí, Chức Năng Của Quốc Hôj, Phân Tích 6 Chức Năng Của Marketing Hiện Đại, Bien Phap To Chuc Day Hoc Nhom Theo Mo Hinh Truong Hoc Moi Viet Nam, Tình Huống Xử Lý Vi Phạm Hành Chính Đất Đai Theo Luật Đất Đai 2013, Vị Trí Pháp Lí Và Chức Năng Của Chủ Tịch Nước, Module 19 Tổ Chức Hoạt Động Giáo Dục Kỹ Năng Sống Cho Trẻ Mầm Non Theo Thong Tư 12, Module 19 Tổ Chức Hoạt Động Giáo Dục Kỹ Năng Sống Theo Thông Tư 12, Thực Tế Hoạt Động Của ủy Ban Nhân Dân Theo Qui Định Của Pháp Luật Hiện Hành, Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Học Tập Và Làm Theo Đạo Đức, Phong Cách Hồ Chí Minh,

Vị Trí, Chức Năng Của Chính Phủ Trong Hiến Pháp Năm 2013, Những Điểm Mới

Chính phủ là trung tâm bộ máy nhà nước. Cải cách hành chính là trọng tâm của cải cách bộ máy nhà nước. Với tính năng động được quy định bởi nền kinh tế thị trường, hoạt động của Chính phủ có tác dụng thúc đẩy hoạt động của bộ máy nhà nước. Chính phủ có chức năng cơ bản là thực thi Hiến pháp và pháp luật, hoạch định và điều hành chính sách quốc gia, tổ chức thực hiện phân bổ ngân sách, quản lý và phát huy tất cả các nguồn lực của quốc gia. Là cơ quan có trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật, Chính phủ bảo đảm quản lý thị trường, quản lý xã hội, bảo đảm quyền tự do, dân chủ, quyền con người, quyền công dân; duy trì và bảo đảm trật tự cộng cộng.

So với Hiến pháp năm 1992, quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Hiến pháp năm 2013) về vị trí, tính chất, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cũng như về cơ chế thực hiện quyền lực của Chính phủ đều có những sửa đổi, bổ sung theo tinh thần đổi mới theo hướng, đề cao vị trí, vai trò là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo đảm tính độc lập tương đối, tăng cường tính chủ động, linh hoạt, sáng tạo và tính dân chủ pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của Chính phủ.

Chính phủ (ở các nước thường gọi là Nội các) là một thiết chế vừa mang tính chất chính trị, vừa mang tính chất hành chính nhà nước. Chính phủ là động lực chính của bộ máy nhà nước hiện đại.

Nội dung của Điều 94 Hiến pháp năm 2013 gồm 2 đoạn, trong đó đoạn thứ nhất quy định khái quát đồng thời cả tính chất, vị trí và chức năng của Chính phủ : “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội”. Đây là quy định quan trọng, chứa đựng quan điểm, nhận thức vừa có tính kế thừa, vừa mang tinh thần đổi mới về tính chất, vị trí và chức năng của Chính phủ được hiến định. Nội dung và tinh thần quy định tại đoạn đầu của Điều 94 này – điều đầu tiên của Chương VII về Chính phủ – mang ý nghĩa rất quan trọng, vừa thể hiện tính kế thừa Hiến pháp 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, vừa đổi mới có tính đột phá; chi phối mang tính quyết định đối với toàn bộ nội dung các quy định của Chương này.

Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp

Bên cạnh việc kế thừa Hiến pháp năm 1992 (tiếp tục khẳng định Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan chấp hành của Quốc hội) Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung một quy định mới, quan trọng nhất, đó là Chính phủ thực hiện quyền hành pháp. Quy định Chính phủ thực hiện quyền hành pháp bao hàm cả vị trí của Chính phủ trong phân công thực hiện quyền lực nhà nước, và chức năng hành pháp của Chính phủ.

Nói Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, trước hết là nói đến việc phân công quyền lực (phân quyền) giữa các nhánh quyền lực nhà nước, theo đó, Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp. Giữa 3 cơ quan (3 nhánh quyền lực) này có sự phối hợp và kiểm soát lẫn nhau trong việc thực hiện quyền lực được trao. Nói cách khác, trong cơ cấu quyền lực nhà nước thống nhất, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, tương ứng với quyền lập hiến, lập pháp thuộc về Quốc hội và quyền tư pháp thuộc về Tòa án nhân dân. Sự phân công quyền lực này vừa bảo đảm tính thống nhất, vừa bảo đảm tính phối hợp và kiểm soát lẫn nhau, trên cơ sở hướng tới sự cân bằng và bảo đảm sự thông suốt của quyền lực. Đây là bước tiến có tính đột phá trong lịch sử lập hiến ở nước ta. Tuy nhiên, việc phân công quyền lực này không phải là phân chia quyền lực, không phải là tam quyền phân lập, cân bằng và đối trọng như trong các nhà nước tư sản.

Về mặt lý luận, chức năng hành pháp của Chính phủ thường được thực thi qua các hoạt động chủ yếu sau: (i) hoạch định và điều hành chính sách quốc gia chính sách; (ii) dự thảo và trình Quốc hội các dự án luật; (iii) ban hành các kế hoạch, chính sách cụ thể và văn bản dưới luật để các cơ quan hành chính nhà nước thực thi các chủ trương, chính sách và luật đã được Quốc hội thông qua; (iv) quản lý, điều hành vĩ mô, hướng dẫn, điều hành và giám sát việc thực hiện kế hoạch, chính sách, chủ trương; (vi) thiết lập trật tự công (trật tự hành chính) trên cơ sở các quy định của luật; (v) phát hiện, điều tra, xử lý vi phạm theo thẩm quyền hoặc/và yêu cầu tòa án xét xử theo trình tự thủ tục tư pháp.

Nội hàm và ý nghĩa của quy định Chính phủ thực hiện quyền hành có thể hiểu cụ thể như sau:

(i) Chính phủ thực hiện quyền hành pháp không có nghĩa là toàn bộ quyền hành pháp được phân công cho Chính phủ đảm nhiệm. Cũng như ở các nước khác, ở nước ta, Chính phủ được Hiến pháp phân công thực hiện quyền hành pháp, nhưng trên lý thuyết cũng như trong thực tiễn, không phải tất cả quyền hành pháp được trao cho Chính phủ. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, quyền hành pháp được phân chia giữa Chủ tịch nước và Chính phủ. Bên cạnh một số quyền hạn thuộc về lập pháp và tư pháp, thì nhiều quyền hạn của Chủ tịch nước hiện nay là thuộc về hành pháp như quyền thay mặt nước về đối nội và đối ngoại, quyền thống lĩnh các lực lượng vũ trang, quyền ra lệnh tổng động viên, ban bố tình trạng khẩn cấp… Tuy nhiên, Hiến pháp vẫn trao phần lớn quyền hành pháp cho Chính phủ;

(ii) Được Hiến pháp trao cho quyền hành pháp, Chính phủ có tính chất, vị trí và chức năng mới là cơ quan thực hiện hành pháp. Điều này mang lại cho Chính phủ một vị thế mới trong bộ máy nhà nước, bảo đảm tính độc lập tương đối hơn trong quan hệ với cơ quan lập pháp và cơ quan tư pháp. Theo đó, tạo cơ sở tăng cường tính chủ động, linh hoạt và tính sáng tạo của Chính phủ trong hoạt động, đồng thời, thiết lập tiền đề khách quan cho việc Chính phủ có thể kiểm soát đối với cơ quan lập pháp và cơ quan tư pháp. Với chức năng thực hiện quyền hành pháp, Chính phủ thực hiện việc hoạch định và điều hành chính sách quốc gia, tổ chức thực hiện Hiến pháp và pháp luật để duy trì và bảo vệ trật tự cộng cộng, bảo vệ lợi ích quốc gia, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

Cụ thể hóa chức năng hành pháp, tại Điều 96, Hiến pháp năm 2013 đã quy định khái quát các nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng của Chính phủ như sau:

(i) Khẳng định vai trò hoạch định chính sách của Chính phủ, “Đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn…”.

(ii) Quy định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp và pháp luật (khoản 1);

(iii) Thi hành các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân (khoản 3)…

Bên cạnh quyền trình dự án luật, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung quyền ban hành văn bản pháp quy của Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ như một nhiệm vụ, quyền hạn độc lập của chức năng hành pháp tại Điều 100: “Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật “.

Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nướcCộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nghĩa là Chính phủ nắm quyền thống nhất quản lý điều hành các mặt đời sống kinh tế – xã hội của đất nước, trước hết là quyết định những vấn đề về chủ trương, cơ chế, chính sách, thể chế quản lý hành chính nhà nước. Có vị trí cao nhất nước về mặt quản lý hành chính, nên chức năng hành chính của Chính phủ phải bao quát toàn bộ các công việc quản lý hành chính nhà nước của đất nước, của cả bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị. Các quyết định của Chính phủ phải được tất cả các cơ quan, tổ chức trong xã hội, trong hệ thống chính trị, bộ máy nhà nước tôn trọng và chấp hành nghiêm túc.

Quy định Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất là phản ánh một trật tự trong tổ chức và hoạt động của nền hành chính nhà nước, đề cao tính thống nhất, thông suốt, có hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động quản lý, điều hành mọi mặt đời sống kinh tế – xã hội. Chính phủ là thiết chế có thẩm quyền cao nhất đối với hệ thống hành chính nhà nước.

Hiến pháp năm 2013 có nội dung kế thừa Hiến pháp năm 1992, đó là quy định “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Nhưng vị trí của quy định này có sự điều chỉnh rất mới về kỹ thuật lập hiến, được đưa lên vị trí đầu tiên trong nội dung quy định của Hiến pháp về tính chất, vị trí, chức năng của Chính phủ. Đây là sự kế thừa kỹ thuật lập hiến của Hiến pháp năm 1946, bảo đảm sự đồng bộ, logic với quy định về Quốc hội (là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) và về Tòa nhân dân dân (Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Mặt khác, việc Hiến pháp năm 2013 không kế thừa cách quy định của Hiến pháp 1992 về vấn đề này[1], là một bước chuyển rất cơ bản trong nhận thức về phân công quyền lực, về vị trí, vai trò của Chính phủ trong các mối quan hệ quyền lực. Việc điều chỉnh về mặt kỹ thuật lập hiến này cho thấy, so với các Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp mới đã nhấn mạnh và đề cao tính chất, vị trí, chức năng của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều này có một ý nghĩa rất quan trọng, ít nhất là trên 4 khía cạnh sau đây:

(1) Định hình rõ hơn việc phân công quyền lực giữa Chính phủ, Quốc hội và Tòa nhân dân dân tối cao. Theo đó, ngoài việc phân công rõ thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, lần lượt cho Quốc hội, Chính phủ và Tòa án nhân dân tối cao, thì giữa 3 cơ quan này còn còn có sự phân biệt rất rõ về tính chất, có vị trí ngang nhau: Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

(3) Tạo cơ sở hiến định bảo đảm tính trật tự của hệ thống hành chính nhà nước, bảo đảm tính thống nhất, thông suốt của nền hành chính quốc gia, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính. Với tính chất và vị trí là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ là thiết chế có thẩm quyền hành chính cao nhất không chỉ đối với hệ thống hành chính nhà nước mà còn đối với cả hệ thống chính trị. Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước thống nhất đối với tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế – xã hội của đất nước; quản lý thống nhất nền hành chính quốc gia.

Tính chất hành chính nhà nước cao nhất nước của Chính phủ chi phối không những mối quan hệ của Chính phủ với hệ thống hành chính mà còn các mối quan hệ giữa Chính phủ với các cơ quan lập pháp, hành pháp, với các tổ chức trong hệ thống chính trị nói chung. Theo đó, về mặt hành chính nhà nước, Chính phủ có vị trí và thẩm quyền cao nhất, các quyết định của nó có giá trị trong toàn quốc. Tất cả các cơ quan tổ chức trong hệ thống chính trị, các tổ chức và cá nhân trong xã hội phải tôn trọng và chấp hành. Đồng thời, bảo đảm cho Chính phủ có quyền chủ động, linh hoạt, phát huy tính sáng tạo trong quản lý điều hành.

(4) Vượt lên trên hết, đó là việc quay trở lại với tư tưởng của Hồ Chí Minh được thể hiện trong Hiến pháp năm 1946 là “Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân”. Một chính quyền mạnh trước hết phải được thể hiện ở một Chính phủ mạnh, hiệu lực, hiệu quả. Chính phủ mạnh thì Đảng mạnh, Chính phủ mạnh thì Quốc hội mạnh và cơ quan tư pháp mạnh. Đó là không chỉ một nguyên lý chung, mà còn là thực tiễn rất sinh động của Việt Nam.

Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội

Từ Hiến pháp 1959, lần đầu tiên tính chất, vị trí Hội đồng Chính phủ được quy định là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Đến Hiến pháp năm 1980, với thiết chế Hội đồng Bộ trưởng, quy định này tiếp tục được kế thừa và phát triển theo hướng tập quyền hơn . Hiến pháp 1992 đã sự điều chỉnh nhất định, xác định Chính phủ “là cơ quan chấp hành của Quốc hội”, thể hiện tiến nhận thức quan trọng về mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ.

Tính chất, vị trí và chức năng của Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội suy cho cùng là việc Chính phủ chấp hành và tổ chức thi hành các đạo luật, các nghị quyết của Quốc hội; là thể hiện tính chịu trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên Chính phủ trước Quốc hội; là cơ sở cho việc thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội đối với Chính phủ; là bảo đảm sự gắn bó chặt chẽ giữa Chính phủ và Quốc hội, bảo đảm tính thống nhất trong việc thực hiện quyền lập pháp và hành pháp. Và trên hết là thể hiện đúng nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan duy nhất do cử tri cả nước bầu ra, là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Chính phủ có trách nhiệm phải tuân thủ và thực hiện các luật, nghị quyết của Quốc hội, báo cáo công tác trước Quốc hội, chịu trách nhiệm giải trình trước Quốc hội về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân công.

Với quy định khái quát “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất nước Cộng hòa xã hội chủ nghiã Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, cơ quan chấp hành của Quốc hội”, Hiến pháp đã đồng thời thể hiện tính chất, vị trí, chức năng của Chính phủ trên 3 phương diện: hành chính nhà nước, hành pháp, chấp hành của Quốc hội, gắn bó chặt chẽ với nhau. Chính vì vậy, cả về nhận thức và thực tiễn, các chức năng của Chính phủ (hành chính nhà nước, hành pháp và chấp hành) có sự đan xen, quan hệ chặt chẽ với nhau, khó phân biệt, tách bạch.

Về mối quan hệ giữa Chính phủ với các cơ quan khác

Mối quan hệ giữa Chính phủ với các cơ quan khác cũng thể hiện vị trí của Chính phủ trong thực thi quyền lực được phân công.

hân định rõ hơn phạm vi chính sách và các vấn đề quan trọng do Quốc hội và Chính phủ quyết định trong một số lĩnh vực (như Quốc hội quyết định Trước hết là trong mối quan hệ giữa Chính phủ với Quốc hội, Hiến pháp năm 2013 đã bỏ quy định về thẩm quyền của Quốc hội quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, tạo điều kiện cho Chính phủ và các chủ thể khác chủ động, linh hoạt trong việc đề xuất xây dựng luật, pháp lệnh; p Chính phủ có thẩm quyền ban hành các chính sách, biện pháp cụ thể để quản lý, điều hành các lĩnh vực) mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia…, còn .

Nội dung quy định của Điều 101 của Hiến pháp năm 2013 kế thừa Điều 111 Hiến pháp năm 1992. Điều chỉnh quan trọng nhất về mặt kỹ thuật là nội dung quy định được đặt ở điều cuối cùng của Chương về Chính phủ; khác với Hiến pháp năm 1992, nó được quy định tại Điều thứ 3 của Chương này. Điều này không phải là hạ thấp mối quan hệ của Chính phủ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội mà là để bảo đảm tính hợp lý, lôgíc trong quy định các vấn đề về tổ chức bộ máy, theo đó các vấn đề về mối quan hệ công tác và chế độ làm việc được quy định cuối cùng, sau các quy định về tính chất, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức.

Về sự tham dự phiên họp Chính phủ của người đứng đầu Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương các tổ chức chính trị – xã hội lần đầu tiên được quy định tại Hiến pháp năm 1980 với 2 điểm đáng chú ý: (1) Sự không bình đẳng trong việc tham dự phiên họp Chính phủ, theo đó Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam (nay là Tổng liên đoàn lao động Việt Nam) được quyền tham dự; còn người đứng đầu Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội khác thì được mời tham dự; (2) Điều kiện được mời tham dự là “khi cần thiết”.

Về trách nhiệm của Chính phủ

Về vấn đề trách nhiệm của Chính phủ, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992: ” Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước”.

Trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội là trách nhiệm tập thể, và đó là trách nhiệm chính trị (không phải trách nhiệm pháp lý), trách nhiệm đối với việc thực thi quyền lực được trao. Quốc hội bầu ra Thủ tướng Chính phủ và phê chuẩn các thành viên Chính phủ do Thủ tướng đề nghị không phải Quốc hội trao quyền lực cho Chính phủ, nhưng điều này tạo ra sự gắn bó chặt chẽ giữa Quốc hội và Chính phủ. Chính phủ là một tập thể. Quyền lực của Chính phủ xuất phát từ Hiến pháp. Nhân dân thông qua Hiến pháp trao quyền lực cho Chính phủ. Chính phủ được trao quyền lực của Nhân dân thì phải chịu trách nhiệm trước Nhân dân, mà biểu hiện cụ thể và trước hết là chịu trách nhiệm trước Quốc hội – cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, chịu trách nhiệm trước Quốc hội tức là chịu trách nhiệm trước Nhân dân. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội cũng là biểu hiện của mối quan hệ chặt chẽ giữa Chính phủ với Quốc hội trong phân công và kiểm soát quyền lực. Điều này khác với chế độ cộng hòa tổng thống, nơi mà việc phân chia và đối trọng quyền lực là phương tiện chủ yếu để kiểm soát quyền lực, bảo đảm cho quyền lực không bị lạm dụng. Quyền lực nhà nước được phân chia cho 3 nhanh lập pháp, hành pháp và tư pháp, độc lập và tách biệt nhau. Cả Tổng thống và các Bộ trưởng đều không phải là thành viên của Quốc hội, nên không phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội.

Trách nhiệm của Chính phủ phải báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước là thực hiện t rách nhiệm giải trình trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Thông qua báo cáo công tác của Chính phủ, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước thực hiện việc giám sát, kiểm tra việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý điều hành của Chính phủ. Đây cũng là yêu cầu bảo đảm công khai, minh bạch hoạt động quản lý điều hành của Chính phủ.

Như vậy, thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), kế thừa Hiến pháp năm 1992 và trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, quy định của Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện rõ tinh thần tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ, xây dựng Chính phủ mạnh, hệ thống hành chính nhà nước thống nhất, thông suốt, hiệu lực và hiệu quả, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Phù hợp với tính chất, vị trí, chức năng của Chính phủ, cũng như của Thủ tướng Chính phủ và của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ đã được đổi mới, hoàn thiện hơn theo hướng, phát huy vai trò, trách nhiệm của tập thể Chính phủ, đồng thời đề cao và xác định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân của Thủ tưởng Chính phủ, của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ trong quản lý, điều hành.

Nhận xét chung

So với Hiến pháp năm 1992, trong Hiến pháp năm 2013, tính chất, vị trí, chức năng của Chính phủ đều có những sửa đổi, bổ sung theo tinh thần đổi mới nhằm xây dựng Chính phủ mạnh, hiện đại, dân chủ, pháp quyền, thống nhất quản lý vĩ mô các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của đất nước.

Cùng với việc lần đầu tiên chính thức khẳng định tính chất, vai trò của Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, Hiến pháp mới đã có một số sửa đổi, bổ sung quan trọng cả về phạm vi và nội dung quyền hành pháp của Chính phủ. Với quy định tại khoản 1 và 2 Điều 96 của Hiến pháp mới, quyền hành pháp của Chính phủ đã được bổ sung, đổi mới, hoàn thiện, phù hợp với bản chất, chức năng của quyền hành pháp hiện đại: hoạch định, điều hành chính sách quốc gia và tổ chức thi hành các đạo luật.

Tư tưởng chủ đạo xuyên suốt toàn bộ nội dung sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nội dung và cơ chế thực hiện quyền hành pháp và hành chính của Chính phủ trong Hiến pháp năm 2013 là làm rõ hơn và đề cao vị trí, vai trò, chức năng của Chính phủ trong phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực; đề cao tính dân chủ pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành chính nhà nước theo hướng minh bạch, theo pháp luật, được kiểm soát và bảo đảm tính thống nhất, thông suốt trong thực hiện quyền lực.

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

Bài viết trong lĩnh vực pháp luật được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.

Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.

Chức Năng Của Quốc Hội Theo Hiến Pháp 2013 Và Một Số Kiến Nghị Bảo Đảm Thực Hiện

Ngày đăng: 28/06/2017 03:20

1. Chức năng của Quốc hội theo Hiến pháp năm 2013

a, Thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp của Quốc hội

Về vị trí của Quốc hội, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục ghi rõ: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như Hiến pháp năm 1992. Tuy vậy, khác với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 không ghi Quốc hội là cơ quan “duy nhất” có quyền lập hiến.

Điều 69 Hiến pháp năm 2013 quy định về chức năng lập hiến, lập pháp của Quốc hội như sau: “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp”.Trong khi đó Điều 83 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 quy định: “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp”.Như vậy, theo Hiến pháp năm 1992 thì Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền thông qua, sửa đổi Hiến pháp và pháp luật.

b, Quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước

c, Thực hiện giám sát tối cao

Hiến pháp năm 2013 không quy định Quốc hội giám sát tối cao đối với “toàn bộ hoạt động của Nhà nước” (đoạn 4 Điều 83) mà thu hẹp phạm vi của quyền giám sát tối cao của Quốc hội.

Theo Hiến pháp năm 1992, Quốc hội có quyền giám sát bất cứ hoạt động nào của các cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa phương, kể cả cấp cơ sở. Tại Hiến pháp năm 2013, phạm vi đó đã được giới hạn trong các hoạt động của cơ quan nhà nước ở cấp cao nhất, những cơ quan do Quốc hội thành lập, phê chuẩn như Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (Điều 70 Hiến pháp năm 2013). Phạm vi này phù hợp với chức năng giám sát tối cao của Quốc hội, đồng thời phù hợp với thực tiễn thực hiện chức năng giám sát này.

Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc thực hiện quyền giám sát tối cao đối với các thiết chế độc lập như Kiểm toán nhà nước, Hội đồng bầu cử quốc gia và các cơ quan nhà nước khác do Quốc hội thành lập.

Khoản 2 Điều 84 Hiến pháp năm 1992 quy định về các chủ thể thuộc quyền giám sát tối cao của Quốc hội bao gồm: Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Tuy nhiên, Hiến pháp năm 2013 đã mở rộng thêm phạm vi thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội đối với các thiết chế như Kiểm toán nhà nước, Hội đồng bầu cử quốc gia và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập. Quy định này là phù hợp với tính chất hoạt động giám sát của Quốc hội. Sở dĩ có sự thay đổi này là do Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung hai thiết chế hiến định độc lập (cơ quan) là Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước (Chương X). Vì các cơ quan này thuộc thẩm quyền thành lập của Quốc hội nên phải đưa vào nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội. Hơn nữa, việc hiến định các cơ quan độc lập trên góp phần làm rõ chủ quyền nhân dân, làm rõ hơn cơ chế phân công, phối hợp trong việc kiểm soát quyền lực và hoàn thiện bộ máy Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Quy định mang tính chất khái quát hóa để các văn bản luật có điều kiện cụ thể hóa những hoạt động nào của nhà nước thuộc thẩm quyền giám sát tối cao của Quốc hội

Việc quy định mang tính chất khái quát về những hoạt động của Nhà nước thuộc thẩm quyền giám sát tối cao của Quốc hội tại Khoản 2 Điều 70 Hiến pháp năm 2013 là cơ sở vững chắc để các văn bản pháp luật ban hành sau này được xây dựng có hệ thống, chi tiết, tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các lĩnh vực pháp luật.

2. Một số vấn đề đặt ra

Như trên đã phân tích, để phù hợp với đường lối chính trị, tăng quyền làm chủ của nhân dân, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định Quốc hội không phải là chủ thể “duy nhất”có quyền lập hiến, quyền lập pháp mà đã mở rộng và hiến định quyền này của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ (tại Điều 100, Hiến pháp 2013). Quy định này đặt trong mối tương quan với tổ chức bộ máy nhà nước cũng chỉ ra một số điểm hạn chế trong cách thức lập pháp và thi hành pháp luật ở Việt Nam hiện nay.

Hiến pháp cho phép Chính phủ được ban hành văn bản pháp luật để thi hành luật (sắc lệnh hoặc nghị định). Các văn bản này có giá trị pháp lý thấp hơn luật và đều có thể bị phán quyết thay đổi, hủy bỏ và có chế tài áp dụng bởi một cơ quan tòa án về tính hợp hiến và hợp pháp. Tuy nhiên, ở Việt Nam, nghị định và thông tư được xếp trong cùng một loại là văn bản quy phạm pháp luật, cùng có hiệu lực bắt buộc thi hành và không được khiếu nại hay khởi kiện. Việt Nam cũng chưa có tòa án hiến pháp – nơi trực tiếp thẩm định tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật và xử lý trong trường hợp có sai phạm trong khi tòa án hành chính hiện nay cũng không có thẩm quyền xử lý những nghị định, thông tư có nội dung vi hiến. Hiện nay, thẩm quyền “đình chỉ” và “bãi bỏ”các văn bản pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội mới chỉ trao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội. Tuy nhiên, khi hậu quả của việc áp dụng những văn bản pháp luật vi hiến đã xảy ra trên thực tế thì chủ thể nào sẽ có trách nhiệm xử lý?

Theo số liệu của Bộ Tư pháp tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc tổng kết công tác tư pháp năm 2014 và triển khai nhiệm vụ năm 2015(1), có đến hơn 9 nghìn văn bản có dấu hiệu vi phạm các điều kiện về tính hợp hiến, hợp pháp; trong đó có hơn 1.500 văn bản pháp luật vi phạm về thẩm quyền ban hành. Cùng với đó là tình trạng nợ đọng văn bản hướng dẫn, những văn bản sai cả về hình thức lẫn nội dung, thậm chí vừa ban hành đã gặp phải những phản ứng của dư luận về thiếu tính khả thi. Với những nghị định, thông tư có nội dung vi hiến, thiếu tính khả thi nhưng người dân và doanh nghiệp cũng không có quyền khiếu nại hay khởi kiện bồi thường. Như vậy, về hình thức, sự thay đổi này của Hiến pháp năm 2013 là tiến bộ nhưng đặt trong thể chế chính trị và cách thức tổ chức, vận hành bộ máy quyền lực hiện nay, quy định này dường như đã tiệm quyền của Quốc hội.

Điều 70 Hiến pháp năm 2013 quy định các vấn đề quan trọng của đất nước thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội. Về mặt lý luận, Quốc hội được giao rất nhiều trọng trách nhưng trên thực tế quyền năng này lại bị hạn chế khá nhiều.

Hiến pháp năm 2013 quy định Chính phủ có quyền “trình dự án ngân sách nhà nước trước Quốc hội”(Khoản 2 Điều 96). Theo đó, Chính phủ lập dự toán ngân sách quốc gia trình Quốc hội trong đó các khoản chi ngoài dự toán cũng phải giải trình và lập báo cáo. Tuy nhiên, hiện nay do thành phần đại biểu Quốc hội có nhiều cá nhân hoạt động với chức năng hành pháp kiêm nhiệm nên ảnh hưởng của Chính phủ tới Quốc hội tương đối lớn. Hơn nữa, chức năng giám sát tối cao của Quốc hội thực hiện chưa thực sự hiệu quả nên tình trạng thất thoát, tham nhũng và lãng phí còn diễn biến phức tạp. Liên tục trong nhiều năm qua Chính phủ chi vượt quá dự toán ngân sách. Bội chi ngân sách năm 2015 là 6,11% GDP vượt qua số bội chi dự định là 5,0% GDP(2).

Hiến pháp năm 2013 quy định Quốc hội quyết định chính sách tài chính tiền tệ quốc gia. Nhưng chưa có văn bản pháp luật quy định cụ thể. Các vấn đề như điều chỉnh lãi suất tiền gửi ngân hàng, phát hành trái phiếu chính phủ, khoản 30.000 tỷ đồng cứu trợ thị trường bất động sản(3), việc cho phép độc quyền sản xuất vàng miếng hay cấm mua bán vàng miếng có phải là chính sách tài chính tiền tệ quốc gia hay không? Hay việc Chính phủ bảo lãnh khoản vay 750 triệu USD cho tập đoàn Vinashin(4) có phải là một quyết định về chính sách tài chính tiền tệ quốc gia hay không? Nếu có thì đây rõ ràng là sự vượt quá thẩm quyền được Hiến pháp và pháp luật trao cho của Chính phủ và sự buông lơi thẩm quyền, chức năng của Quốc hội.

Như vậy, Hiến pháp năm 2013 đã quy định chức năng của Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước theo hướng bao quát và hợp lý hơn. Tuy nhiên, quyền năng được trao cho là vậy, nhưng quy định về cơ chế để đảm bảo thực hiện những chức năng đó còn chưa minh bạch và rõ ràng, dẫn tới hoạt động của Quốc hội vẫn còn mang tính hình thức, chưa công khai và quyết liệt.

Giám sát tối cao là một trong những chức năng đặc thù của Quốc hội tương xứng với vị trí là cơ quan quyền lực cao nhất trong bộ máy nhà nước. Điều 1 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội 2003 nêu rõ: “Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao của mình tại kì họp Quốc hội trên cơ sở hoạt động giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội”.Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa có một quy định rõ ràng về chức năng này mà mới chỉ dừng lại ở định nghĩa về hoạt động giám sát.

Về bản chất, hoạt động giám sát nói chung và giám sát tối cao của Quốc hội nói riêng đều là hoạt động: “theo dõi, xem xét và đánh giá”.Điều 11 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 đã chỉ ra các hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội với 7 hoạt động cụ thể nhưng có đến 6 hoạt động là “xem xét”. Trong Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân 2015, những hạn chế vẫn chưa được giải quyết thấu đáo nhằm tăng cường tính khả thi trong hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội để giám sát tiến gần hơn với thực tiễn. Chính từ sự không rõ ràng về khái niệm giám sát tối cao của Quốc hội và giám sát của các cơ quan của Quốc hội dẫn đến việc chưa giới hạn được phạm vi và mục đích giám sát.

Quốc hội Việt Nam thực hiện chức năng giám sát bằng các hình thức: nghe báo cáo của các cơ quan nhà nước tại các kỳ họp; các đại biểu thực hiện quyền chất vấn tại kỳ họp hoặc ngoài kỳ họp; các đoàn kiểm tra, thường là đoàn kiểm tra của các Ủy ban và Hội đồng dân tộc của Quốc hội. Tuy nhiên, chất lượng chất vấn tại các kì họp của Quốc hội chưa thực sự hiệu quả do thiếu thông tin, thiếu cơ chế bắt buộc đối với người bị chất vấn. Các đoàn giám sát còn chưa có cơ chế phối hợp với nhau, mới chỉ dừng lại ở việc ghi nhận ý kiến của địa phương.

Đối tượng của giám sát chưa thực sự phù hợp. Điều 4 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân 2015 quy định về thẩm quyền giám sát của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban khác của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Các bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp năm 2013 đều khẳng định Quốc hội thực hiện chức năng giám sát tối cao đối với hoạt động của bộ máy nhà nước. Như vậy, đối tượng giám sát quá rộng, nội dung không quy định rõ nên chưa xác định được đối tượng nào là trọng tâm, việc nào cần được ưu tiên dẫn đến giám sát còn dàn trải và thiếu hiệu quả. Trong khi ở các nước phát triển, hoạt động giám sát của Quốc hội chỉ tập trung vào Chính phủ và các cơ quan hành pháp; còn ở Việt Nam, hoạt động giám sát của Quốc hội bao quát không chỉ Chính phủ mà còn cả “Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập”(Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014). Công việc này quá tải với Quốc hội, nhất là khi Quốc hội có tới nhiều nhất 65% đại biểu kiêm nhiệm.

3. Một số kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện tốt chức năng của Quốc hội theo Hiến pháp năm 2013

Thứ hai, cần hình thành cơ chế tài phán Hiến pháp. Bảo hiến – theo nghĩa rộng được hiểu là hoạt động phòng ngừa vi phạm Hiến pháp; nghĩa hẹp đồng nghĩa với tài phán Hiến pháp. Ở Việt Nam, việc bảo đảm tính hợp hiến của các đạo luật mới chỉ đặt ra trong quá trình soạn thảo văn bản, và một khi dự thảo luật được Quốc hội thông qua; nghị định, thông tư được Chính phủ, các bộ trưởng thông qua thì mặc định được hiểu là đã đảm bảo tính hợp hiến. Bởi vậy, nhu cầu thành lập tài phán Hiến pháp thông qua Hội đồng bảo hiến là hết sức cần thiết.

Về tổ chức bộ máy, Chủ tịch Hội đồng bảo hiến nên giao cho Chủ tịch nước và các thành viên còn lại được Quốc hội bầu theo đề nghị của Chủ tịch nước. Có thể thấy, vai trò của Chủ tịch nước hiện nay không phải là người đứng đầu hành pháp trong khi việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật có vi phạm hiến pháp chủ yếu là các cơ quan hành pháp. Do vậy, việc trao quyền cho Chủ tịch nước làm Chủ tịch Hội đồng bảo hiến sẽ phát huy tối đa “quyền phủ quyết”này. Hội đồng bảo hiến cần được phân công rõ ràng các chức năng nhiệm vụ sau:

Kiểm tra tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật: bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ban hành.

Đình chỉ việc thi hành văn bản pháp luật trái với Hiến pháp và trình Quốc hội bãi bỏ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất: bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.

Bãi bỏ các văn bản pháp luật của Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Yêu cầu cơ quan Tòa án nhân dân có thẩm quyền xem xét việc bồi thường thiệt hại (nếu có) của các tổ chức, cá nhân phát sinh từ việc thi hành các văn bản pháp luật của các cơ quan trên gây ra thiệt hại.

Kiểm tra tính hợp hiến của các điều ước quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước trước khi trình Quốc hội, Chủ tịch nước phê chuẩn.

Thực hiện nhiệm vụ giải thích Hiến pháp và luật. Hiện nay, nhiệm vụ này được giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội. Tuy nhiên, trên thực tế cơ quan này thực hiện nhiệm vụ giải thích Hiến pháp và luật còn rất hạn chế.

Khi được giao quyền lực mạnh mẽ và quyết liệt như vậy, Hội đồng bảo hiến mới có thể phát huy được vai trò của một cơ quan bảo vệ Hiến pháp. Việc thượng tôn pháp luật của các cơ quan nhà nước sẽ có một trật tự rõ ràng, minh bạch và chặt chẽ hơn.

Thứ ba, cần có một kế hoạch nâng cao năng lực quyền hạn cho Quốc hội bằng việc giảm bớt dần những đại biểu Quốc hội thuộc bộ máy hành pháp kiêm nhiệm. Đồng thời, cần tạo ra cơ chế phối hợp, ràng buộc rõ ràng giữa Chính phủ và Quốc hội; quy định rõ thẩm quyền của Chính phủ trong việc can thiệp vào những vấn đề quan trọng thuộc chức năng của Quốc hội. Đặc biệt đối với các vấn đề quan trọng của đất nước theo quy định tại Điều 70 Hiến pháp, trong mỗi hoạt động của Chính phủ cần phải có sự xem xét, kiểm tra, đánh giá của Quốc hội.

Điều 94 Hiến pháp 2013 quy định: “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội”.Như vậy Hiến pháp năm 2013 đã không trực tiếp khẳng định Chính phủ là cơ quan hành pháp mà chỉ thực hiện quyền hành pháp. Sở dĩ nếu khẳng định Chính phủ là cơ quan hành pháp thì sẽ tạo nhận định Chính phủ ngang bằng, đối trọng và phân quyền với các cơ quan lập pháp và cơ quan tư pháp, xác lập vị thế Chính phủ cao hơn so với việc chỉ quy định “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội”.

Thứ tư, cần xác định cụ thể hoạt động “giám sát” và “giám sát tối cao”, tăng cường các hình thức giám sát

Hoạt động giám sát nói chung và giám sát tối cao nói riêng không chỉ dừng ở mức độ xem xét, theo dõi, đánh giá mà cần quy định theo hướng xác định rõ mục đích của giám sát, giám sát tối cao và các biện pháp, chế tài thích hợp trong quá trình thực hiện hoạt động giám sát. Bên cạnh đó, cần mở rộng hình thức giám sát không chỉ giới hạn thông qua các phiên họp mà cần có những khảo sát thực tế, trao đổi, lắng nghe ý kiến của cử tri để hoạt động giám sát có hiệu quả, giảm bớt tính hình thức, nặng về báo cáo.

Thứ năm, hoạt động giám sát của Quốc hội cần được tiến hành có trọng tâm, tránh quy định dàn trải

Như trên đã phân tích, một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong công tác giám sát của Quốc hội là giám sát hành pháp của Chính phủ. Đơn cử như vấn đề trách nhiệm của Quốc hội trong quản lí, giám sát ngân sách. Quốc hội có trách nhiệm ban hành Luật Ngân sách nhà nước, thông qua và quyết toán ngân sách hằng năm, quyết định những khoản thu chi đặc biệt cũng như những vấn đề quan trọng của đất nước và thực thi việc giám sát ngân sách thường xuyên. “Chính phủ chỉ là người được giao chi tiêu theo luật và chịu sự giám sát của Quốc hội. Cho nên trách nhiệm trong việc sử dụng hiệu quả ngân sách trước tiên thuộc về Quốc hội”(5). Bởi vậy, Quốc hội phải coi những đề nghị của Chính phủ như một dự án tính toán chi li trên cơ sở Chính phủ phải cam kết sử dụng số tiền này một cách hiệu quả, hợp lý. Số tiền này phải được thể hiện bằng những con số cụ thể chứ không bằng những chỉ số như 5,3% GDP mức bội chi ngân sách, giới hạn trần công nợ… Có như vậy Quốc hội mới giám sát được hiệu quả ngay từ chính giai đoạn ban hành chính sách, tránh tình trạng thất thoát và lãng phí nguồn ngân sách.

TS Lưu Ngọc Tố Tâm – Học viện Báo chí và Tuyên truyền

(1) http://tuoitre.vn.

(2) http://www.sggp.org.vn. Kết quả được công bố tại phiên họp thứ 46 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khai mạc ngày 7-3-2016 theo Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, ngân sách nhà nước năm 2015.

(3) http://www.fdvn.vn.

(4) http://www.thesaigontimes.vn.

(5) http://www.baodatviet.vn.

Theo lyluanchinhtri.vn