Giáo Dục Với Chức Năng Kinh Tế Sản Xuất

Do giáo dục tác động đến con người cho nên nó cũng có khả năng tác động đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, đến các quá trình xã hội mà con người là chủ thể. Những tác dụng của giáo dục đối với các quá trình xã hội xét về mặt xã hội học được gọi là những chức năng xã hội của giáo dục. Có 3 loại chức năng xã hội của giáo dục : Chức năng kinh tế – sản xuất, chức năng – chính trị xã hội và chức năng tư tưởng – văn hoá.Mối liên hệ giữa giáo dục và sản xuất đươc hình thành trên sức lao động. Sức lao động xã hội chỉ tồn tại trên nhân cách con người. Giáo dục tái tạo nên sức mạnh bản chất của con người, vì vậy

Những chức năng này thể hiện vai trò của giáo dục đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội về tất cả các mặt. giáo dục được coi là phương thức tái sản xuất ra sức lao động xã hội. Giáo dục góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Giáo dục tạo ra nguồn nhân lực có tri thức, có kỹ thuật, có kỹ năng nghề nghiệp, phát triển kinh tế sản xuất. a) chức năng kinh tế-sản xuất Giáo dục xuất hiện từ khi có con người, tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Lao động dù đơn giản đến đâu cũng cần có sự huấn luyện để con người biết lao động, có kinh nghiệm lao động. Lao động càng phức tạp, càng hiện đại càng đòi hỏi sự đầu tư vào huấn luyện nhiều hơn. Giáo dục đào tạo lại nguồn nhân lực đã bị lỗi thời, tạo nên sức lao động mới, đáp ứng kịp thời nguồn nhân lực thiếu hụt do nhiều nguyên nhân. Bằng con đường truyền thông, giáo dục phát triển ở con người những năng lực chung và năng lực riêng biệt, giúp con người nâng cao năng lực làm việc, thay đổi nghề nghiệp, thay đổi việc làm, góp phần phát triển kinh tế sản xuất. Giáo dục góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao đời sống cộng đồng. Giáo dục tham gia vào chương trình phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. Bằng con đường truyền thông, giáo dục giúp mọi người nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật, tăng năng suất lao động, phát triển kinh tế gia đình, góp phần xóa đói giảm nghèo. Như vậy, giáo dục góp phần phát triển kinh tế sản xuất. Giáo dục thông qua con đường truyền thông, tham gia vào chương trình dân số, kế hoạch hóa gia đình. Giáo dục giúp cho mọi người nhận thức đúng đắn về dân số, sức khỏe sinh sản, giảm tỷ lệ tăng dân số, nâng Cao chất lượng cuộc sống, chất lượng giống nòi, góp phần phát triển sản xuất. Ngày nay trong nền kinh tế thị trường, chất lượng giáo dục gắn liền với chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Muốn nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa thì giáo dục phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong thời đại phát triển như bão táp của khoa học và công nghệ, nhân loại đang chuyển sang nền văn minh tin học, điện tử, sinh học. Khoa học-công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Sự phát triển lực lượng sản xuất gắn liền với sản xuất hàng hóa và thị trường, gắn liền với sự phân công lao động và hợp tác quốc tế. Giáo dục không phải là yếu tố phi sản xuất, giáo dục là yếu tố bên trong, yếu tố cấu thành của sản xuất xã hội. Không thể phát triển lực lượng sản xuất nếu như không đầu tư thỏa đáng cho nhân tố con người, nhân tố hàng đầu của lực lượng sản xuất. Không thể xây dựng được quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa nếu như không nâng cao trình độ dân trí, doanh trí, trình độ tổ chức và quản lý của cán bộ và nhân dân. Thực tiễn đã chỉ ra rằng, không một quốc gia nào muốn phát triển lại đầu tư ít cho giáo dục. Cuộc chạy đua phát triển kinh tế hiện nay là cuộc chạy đua về khoa học công nghệ, chạy đua về giáo dục đào tạo, chạy đua về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Hội nghị lần thứ hai ban chấp hành trung ương khóa 8 đã nhấn mạnh: ” Thực sự coi giáo dục đào tạo là quốc sách, nhận thức sâu sắc giáo dục – đào tạo cùng khoa học công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển.” Để làm tốt chức năng này giáo dục đào tạo phải xây dựng được một xã hội học tập tạo điều kiện cho mọi người có thể học tập thường xuyên, học tập suốt đời. Chính vì vậy, giáo dục phải thực sự đi trước đón đầu thúc đẩy phát triển kinh tế sản xuất. Muốn nền sản xuất phát triển xã hội phát triển thì đòi hỏi giáo dục phải phát triển. Giáo dục phải đào tạo được một đội ngũ nhân lục lao động có trình độ đáp ứng kịp thời với yêu cầu của nền sản xuất đó. 1. Về mạng lưới trường, lớp Mạng lưới trường lớp của Bắc Ninh được quy hoạch theo hướng: Đảm bảo đủ các loại hình trường học để học sinh từ mầm non đến phổ thông có nhu cầu đều được ra lớp. Mỗi xã đều có từ 1 đến 2 trường mầm non, 1 đến 2 trường tiểu học và 1 trường THCS. Mỗi huyện đều có 1 trường THCS huyện, 3 đến 4 trường PTTH và 1 trung tâm giáo dục thường xuyên. Tỉnh có hệ thống trường sư phạm, trường THCN và trường dạy nghề. Hệ thống trường THCN và trường dạy nghề Trung ương đóng trên địa bàn tỉnh góp phần không nhỏ vào việc đào tạo nguồn nhân lực cho tỉnh. Mạng lưới trường lớp của tỉnh Bắc Ninh hiện tại (với 133 trường mầm non, 147 trường tiểu học, 130 trường THCS, 29 trường PTTH, 8 trung tâm GDTX, 1 trường CĐSP, 2 trường THCN địa phương, 1 trường dạy nghề và 4 trường chuyên nghiệp Trung ương đóng trên địa bàn) đã được bố trí theo đúng tinh thần của Luật Giáo dục, phù hợp với địa bàn dân cư, riêng đối với mầm non và tiểu học được chỉ đạo theo hướng gần dân, quy mô nhỏ, tạo điều kiện thuận lợi cho các em đến lớp. 2. Quy mô phát triển giáo dục-đào tạo Những năm qua, thực hiện nghị quyết TW 2 khoá VIII, quy mô ngành giáo dục Bắc Ninh được mở rộng hàng năm nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu học tập của con em nhân dân. Học sinh nghèo, học sinh khuyết tật, học sinh diện chính sách, học sinh vùng sâu, vùng xa đều đã được tạo điều kiện để đến lớp và được hưởng các chính sách xã hội, chính sách khuyến học của Đảng và Nhà nước. Ngành đã có những tham mưu về chính sách, về học phí nhằm khuyến khích mở rộng quy mô, thực hiện phổ cập giáo dục. Quy mô ngành học mầm non được mở rộng đáng kể hàng năm. Tỷ lệ trẻ trong độ tuổi nhà trẻ được huy động ra lớp từ 25% năm 1997 lên 39,3% năm 2002. Tỷ lệ trẻ trong độ tuổi mẫu giáo được huy động ra lớp tăng từ 60,4% năm 1997 lên 79,6% năm 2002, trong đó trẻ 5 tuổi ra lớp đạt 99%. Với bậc phổ thông tỷ lệ học sinh 6 tuổi vào lớp 1, tốt nghiệp tiểu học vào THCS, tốt nghiệp THCS vào THPT hàng năm đều tăng. 99,99% học sinh 6 tuổi được vào lớp 1 (tăng 0,3 so với năm 1997), 85,2% học sinh khuyết tật được ra lớp hoà nhập (tăng 37,3% so với năm 1997). Đặc biệt, quy mô THPT tăng rất nhanh, 83% học sinh tốt nghiệp THCS được vào PTTH các loại hình (tăng 23% so với năm 1997). Đến năm 2002, quy mô THPT toàn tỉnh tăng gấp 2,8 lần so với năm học 1996-1997. Thực hiiện chỉ đạo của Bộ GD-ĐT, ngành đã tích cực chỉ đạo mở rộng việc học 2 buổi/ngày ở mầm non và tiểu học, mở rộng học ngoại ngữ, học hướng nghiệp cho học sinh phổ thông. Học sinh tiểu học được học 2 buổi/ngày tăng từ 5,1% năm 1997 lên 63,6% năm 2002. Tỷ lệ học sinh từ tiểu học đến PTTH được học ngoại ngữ tăng dần hàng năm. Đến năm 2002 học sinh từ lớp 3 tiểu học và 100% học sinh THCS và PTTH đã được học ngoại ngữ, 100% học sinh cuối cấp THCS, PTTH được học hướng nghiệp. Tuy nhiên quy mô phát triển của giáo dục Bắc Ninh còn bộc lộ một số hạn chế. Do mạng lưới trường lớp chưa đáp ứng được yêu cầu phân luồng học sinh sau THCS nên bậc THPT chịu nhiều sức ép về quy mô và phát triển quá tải so với điều kiện hiện có, ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng giáo dục. THPT còn tồn tại nhiều loại hình, phức tạp cho công tác quản lí chỉ đạo. Tỷ lệ học sinh bán công trong các trường THPT còn quá lớn vượt xa quy định của Bộ (năm học 2001-2002, tỷ lệ học sinh bán công trong trường công lập chiếm 34,3%). Quy mô đào tạo nghề cho người lao động còn rất nhỏ và mất cân đối. Sau khi phân cấp quản lí công tác dạy nghề cho ngành lao động thương binh và xã hội, việc phối hợp giữa ngành giáo dục và ngành lao động thương binh xã hội trong lĩnh vực đào tạo bồi dưỡng nghề cho người lao động còn thiếu sự chỉ đạo, chưa thường xuyên, hiệu quả thấp. Do quy mô của các trung tâm GDTX còn nhỏ, thiếu thốn về cơ sở vật chất, hệ thống các trung tâm giáo dục nghề nghiệp, trung tâm giáo dục cộng đồng chưa hình thành rõ nét nên tỷ lệ người lao động được đào tạo, bồi dưỡng nghề còn rất ít (mỗi năm mới chỉ có khoảng 3.000 người lao động được bồi dưỡng chuyên đề qua các trung tâm GDTX – chiếm tỷ lệ 0,8% tổng số người lao động trong độ tuổi). Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp PTTH vào các trường nghề hàng năm mới đạt xấp xỉ 4%. Đây là một khó khăn cho việc đào tạo, bồi đưỡng nguồn nhân lực và nguồn công nhân có tay nghề cao phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước./.

Chu Văn Quý @ 00:10 09/03/2010 Số lượt xem: 292

Giáo Dục Với Chức Năng Kinh Tế Sản Xuất Cac Chuc Nang Cua Giao Duc Doc

Chức năng kinh tế của giáo dục

Do giáo dục tác động đến con người cho nên nó cũng có khả năng tác động đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, đến các quá trình xã hội mà con người là chủ thể. Những tác dụng của giáo dục đối với các quá trình xã hội xét về mặt xã hội học được gọi là những chức năng xã hội của giáo dục. Có 3 loại chức năng xã hội của giáo dục : Chức năng kinh tế – sản xuất, chức năng – chính trị xã hội và chức năng tư tưởng – văn hoá.

Những chức năng này thể hiện vai trò của giáo dục đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội về tất cả các mặt. a) chức năng kinh tế-sản xuất

Giáo dục xuất hiện từ khi có con người, tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Lao động dù đơn giản đến đâu cũng cần có sự huấn luyện để con người biết lao động, có kinh nghiệm lao động. Lao động càng phức tạp, càng hiện đại càng đòi hỏi sự đầu tư vào huấn luyện nhiều hơn.

Mối liên hệ giữa giáo dục và sản xuất đươc hình thành tr ên sức lao động. S ức lao động xã hội chỉ tồn tại trên nh ân cách con người. Giáo dục tái tạo nên sức mạnh bản chất của con người, vì vậy giáo dục được coi là phương thức tái sản xuất ra sức lao động xã hội. Giáo dục góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Giáo dục tạo ra nguồn nhân lực có tri thức, có kỹ thuật , có kỹ năng nghề nghiệp, phát triển kinh tế sản xuất.

Giáo dục đào tạo lại nguồn nhân lực đã bị lỗi thời, tạo nên sức lao động mới, đáp ứng kịp thời nguồn nhân lực thiếu hụt do nhiều nguyên nhân. Bằng con đường truyền thông, giáo dục phát triển ở con người những năng lực chung và năng lực riêng biệt, giúp con người nâng cao năng lực làm việc, thay đổi nghề nghiệp, thay đổi việc làm, góp phần phát triển kinh tế sản xuất . Giáo dục góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao đời sống cộng đồng .

Giáo dục tham gia vào chương trình phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. B ằng con đường truyền thông, giáo dục giúp mọi người nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật, tăng năng suất lao động, phát triển kinh tế gia đình, góp phần xóa đói giảm nghèo. Như vậy, giáo dục góp phần phát triển kinh tế sản xuất.

Giáo dục thông qua con đường truyền thông, tham gia vào chương trình dân số, kế hoạch hóa gia đình. Giáo dục giúp cho mọi người nhận thứ c đúng đắn về dân số, sức khỏe sinh sản, giảm tỷ lệ tăng dân số, nâng Cao chất lượng cuộc sống, chất lượng giống nòi, góp phần phát triển sản xuất .

Ngày nay trong nền kinh tế thị trường, chất lượng giáo dục gắn liền với chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Muốn nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa thì giáo dục phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Trong thời đại phát triển như bão táp của khoa học và công nghệ , nhân loại đang chuyển sang nền văn minh tin học, điện tử, sinh học. Khoa học-công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Sự phát triển lực lượng sản xuất gắn liền với sản xuất hàng hóa và thị trường, gắn liền với sự phân công lao động và hợp tác quốc tế. Giáo dục không phải là yếu tố phi sản xuất, giáo dục là yếu tố bên trong, yếu tố cấu thành của sản xuất xã hội. Không thể phát triển lực lượng sản xuất nếu như khô ng đầu tư thỏa đ áng cho nhân tố con người, nhân tố hàng đầu của lực lượng sản xuất . Không thể xây dựng được quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa nếu như không nâng cao trình độ dân trí, doanh trí, trình độ tổ chức và quản lý của cán bộ và nhân dân. Thực tiễn đã chỉ ra rằng, không một quố c gia nào muốn phát triển lại đ ầu tư ít cho giáo dục. Cuộc chạy đua phát triển kinh tế hiện nay là cuộc chạy đua về khoa học công nghệ, chạy đua về giáo dục đào tạo, chạy đua về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Hội nghị lần thứ hai ban chấp hành trung ương khóa 8 đã nhấn mạnh: ” Thực sự coi giáo dục đào tạo là quốc sách, nhận thức sâu sắc giáo dục – đào tạo cùng khoa học công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển.” Để làm tốt chức năng này giáo dục đào tạo phải xây dựng được một xã hội học tập tạo điều kiện cho mọi người có thể học tập thường xuyên, học tập suốt đời. Chính vì vậy, giáo dục phải thực sự đi trước đón đầu thúc đẩy phát triển kinh tế sản xuất.

Tóm lại : Muốn nền sản xuất phát triển xã hội phát triển thì đòi hỏi giáo dục phải phát triển. Giáo dục phải đào tạo được một đội ngũ nhân lục lao động có trình độ đáp ứng kịp thời với yêu cầu của nền sản xuất đó.

1. Về mạng lưới trường, lớp

Mạng lưới trường lớp của Bắc Ninh được quy hoạch theo hướng: Đảm bảo đủ các loại hình trường học để học sinh từ mầm non đến phổ thông có nhu cầu đều được ra lớp. Mỗi xã đều có từ 1 đến 2 trường mầm non, 1 đến 2 trường tiểu học và 1 trường THCS. Mỗi huyện đều có 1 trường THCS huyện, 3 đến 4 trường PTTH và 1 trung tâm giáo dục thường xuyên. Tỉnh có hệ thống trường sư phạm, trường THCN và trường dạy nghề. Hệ thống trường THCN và trường dạy nghề Trung ương đóng trên địa bàn tỉnh góp phần không nhỏ vào việc đào tạo nguồn nhân lực cho tỉnh.

Mạng lưới trường lớp của tỉnh Bắc Ninh hiện tại (với 133 trường mầm non, 147 trường tiểu học, 130 trường THCS, 29 trường PTTH, 8 trung tâm GDTX, 1 trường CĐSP, 2 trường THCN địa phương, 1 trường dạy nghề và 4 trường chuyên nghiệp Trung ương đóng trên địa bàn) đã được bố trí theo đúng tinh thần của Luật

Giáo dục , phù hợp với địa bàn dân cư, riêng đối với mầm non và tiểu học được chỉ đạo theo hướng gần dân, quy mô nhỏ, tạo điều kiện thuận lợi cho các em đến lớp.

2. Quy mô phát triển giáo dục-đào tạo

Những năm qua, thực hiện nghị quyết TW 2 khoá VIII, quy mô ngành giáo dục Bắc Ninh được mở rộng hàng năm nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu học tập của con em nhân dân. Học sinh nghèo, học sinh khuyết tật, học sinh diện chính sách, học sinh vùng sâu, vùng xa đều đã được tạo điều kiện để đến lớp và được hưởng các chính sách xã hội, chính sách khuyến học của Đảng và Nhà nước. Ngành đã có những tham mưu về chính sách, về học phí nhằm khuyến khích mở rộng quy mô, thực hiện phổ cập giáo dục .

Quy mô ngành học mầm non được mở rộng đáng kể hàng năm. Tỷ lệ trẻ trong độ tuổi nhà trẻ được huy động ra lớp từ 25% năm 1997 lên 39,3% năm 2002. Tỷ lệ trẻ trong độ tuổi mẫu giáo được huy động ra lớp tăng từ 60,4% năm 1997 lên 79,6% năm 2002, trong đó trẻ 5 tuổi ra lớp đạt 99%.

Với bậc phổ thông tỷ lệ học sinh 6 tuổi vào lớp 1, tốt nghiệp tiểu học vào THCS, tốt nghiệp THCS vào THPT hàng năm đều tăng. 99,99% học sinh 6 tuổi được vào lớp 1 (tăng 0,3 so với năm 1997), 85,2% học sinh khuyết tật được ra lớp hoà nhập (tăng 37,3% so với năm 1997). Đặc biệt, quy mô THPT tăng rất nhanh, 83% học sinh tốt nghiệp THCS được vào PTTH các loại hình (tăng 23% so với năm 1997). Đến năm 2002, quy mô THPT toàn tỉnh tăng gấp 2,8 lần so với năm học 1996-1997.

Thực hiiện chỉ đạo của Bộ GD-ĐT, ngành đã tích cực chỉ đạo mở rộng việc học 2 buổi/ngày ở mầm non và tiểu học, mở rộng học ngoại ngữ, học hướng nghiệp cho học sinh phổ thông. Học sinh tiểu học được học 2 buổi/ngày tăng từ 5,1% năm 1997 lên 63,6% năm 2002. Tỷ lệ học sinh từ tiểu học đến PTTH được học ngoại ngữ tăng dần hàng năm. Đến năm 2002 học sinh từ lớp 3 tiểu học và 100% học sinh THCS và PTTH đã được học ngoại ngữ, 100% học sinh cuối cấp THCS, PTTH được học hướng nghiệp.

Do mạng lưới trường lớp chưa đáp ứng được yêu cầu phân luồng học sinh sau THCS nên bậc THPT chịu nhiều sức ép về quy mô và phát triển quá tải so với điều kiện hiện có, ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng giáo dục . THPT còn tồn tại nhiều loại hình, phức tạp cho công tác quản lí chỉ đạo. Tỷ lệ học sinh bán công trong các trường THPT còn quá lớn vượt xa quy định của Bộ (năm học 2001-2002, tỷ lệ học sinh bán công trong trường công lập chiếm 34,3%).

Quy mô đào tạo nghề cho người lao động còn rất nhỏ và mất cân đối. Sau khi phân cấp quản lí công tác dạy nghề cho ngành lao động thương binh và xã hội, việc phối hợp giữa ngành giáo dục và ngành lao động thương binh xã hội trong lĩnh vực đào tạo bồi dưỡng nghề cho người lao động còn thiếu sự chỉ đạo, chưa thường xuyên, hiệu quả thấp. Do quy mô của các trung tâm GDTX còn nhỏ, thiếu thốn về cơ sở vật chất, hệ thống các trung tâm giáo dục nghề nghiệp, trung tâm giáo dục cộng đồng chưa hình thành rõ nét nên tỷ lệ người lao động được đào tạo, bồi dưỡng nghề còn rất ít (mỗi năm mới chỉ có khoảng 3.000 người lao động được bồi dưỡng chuyên đề qua các trung tâm GDTX – chiếm tỷ lệ 0,8% tổng số người lao động trong độ tuổi). Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp PTTH vào các trường nghề hàng năm mới đạt xấp xỉ 4%. Đây là một khó khăn cho việc đào tạo, bồi đưỡng nguồn nhân lực và nguồn công nhân có tay nghề cao phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước./.

Tính Năng Của Sản Phẩm Là Gì: Hô Biến Tính Năng Thành Lợi Ích Sản Phẩm ( Ví Dụ Thực Tế)

[gp-social]

Tính năng của sản phẩm là gì ? Lợi ích của sản phẩm là gì ?

Điều gì khiến khách hàng mua hàng. Tính năng hay … lợi ích ?

Rõ ràng … chúng khác nhau.

Nhưng hầu hết mọi người vô tình gán ghép tính năng là lợi ích sản phẩm. Chúng ta đang bán tính năng thay vì trao giá trị cho khách hàng của mình. Điều này khiến khách hàng không tìm thấy lý do tại sao phải mua sản phẩm đó từ bạn.

Tôi cũng từng như vậy.

Tôi liệt kê tất cả đặc tính sản phẩm. Dài bao nhiêu ? cao như nào ? cân nặng ra sao ? vật liệu gì ? thành phần cấu tạo nên sản phẩm ? .v.v.

Đó là sai lầm.

Bởi vì tất cả đã được in trên bao bì sản phẩm. Đừng tạo thêm sự tẻ nhạt cho khách hàng của bạn nữa. Họ không cần điều đó. Họ muốn biết sản phẩm của bạn có giải quyết được vấn đề của họ không ? Có làm họ hạnh phúc hơn, khỏe mạnh hơn không ? Hoặc có giúp họ kiếm được nhiều tiền hơn không ?

Để trả lời câu hỏi: tính năng của sản phẩm là gì ? Làm thế nào chuyển đổi tính năng để đáp ứng nhu cầu cấp thiết của khách hàng ?

Bạn hãy lẻn vào tâm trí khách hàng, chiếm lấy cảm xúc và hiện thực ước muốn của họ bằng cách biến tính năng thành lợi ích sản phẩm với câu hỏi “Thì sao nào” .

Sẵn sàng để bắt đầu ?

Hãy Nhớ Tính Năng Sản Phẩm Là Nhạt Nhẽo

Hãy tưởng tượng bạn là nhân viên điện máy. Trước mặt bạn là khách hàng cần tư vấn. Họ cần mua máy giặt. Nhưng trước đó họ không biết nhiều về nó.

Bạn sẽ nói gì với khách hàng ?

Bạn nói với khách hàng của bạn với giọng điệu đầy nhiệt huyết. Rằng đây là máy giặt cửa ngang và có lồng giặt bằng inox sản xuất tại Đức. Một hệ thống truyền động bằng bánh răng thế hệ mới. Một vỏ thép dày 3 mili được mạ sơn tĩnh điện 3 lớp. Tốc độ quay lên đến 2000 vòng/phút. Và được trang bị một màn hình cảm ứng hiển thị trực quan.

Khách hàng cảm thấy sao ?

Tẻ nhạt … đúng không ?

Điều đó xảy ra với tất cả mọi người. Cả bạn và tôi.

Trong cuộc trò chuyện trực tiếp. Bạn thuyết phục khách hàng bằng lời nói. Bạn nhoẻn miệng cười và nhún vai. Bạn vỗ về khách hàng bằng sự thông minh và hài hước của mình. .v.v. Tóm lại, ngôn ngữ hình thể được sử dụng tối đa.

Nhưng với văn bản viết, bạn không nhìn thấy phía bên kia chiến tuyến. Bạn không nhìn thấy khách hàng nuốt nước bọt hay nhăn mặt. Bạn không thấy họ cau mày hay ồ lên sung sướng. Bạn không thấy ánh mắt họ dáo dác nhìn xung quanh hay tập trung vào bạn. Bạn chỉ có thể sử dụng câu chữ để thu hút và làm hài lòng họ.

Vì vậy, bạn phải biến văn bản nhạt nhẽo thành nội dung sáng bóng và thực dụng. Bạn phải truyền đạt một hình ảnh mạnh mẽ. Và bạn phải biến các đặc tính trừu tượng của sản phẩm trở nên cụ thể trong trí tưởng tượng của khách hàng.

Tính cụ thể của sản phẩm minh chứng dựa trên khả năng cảm nhận bằng các giác quan cho dù không trực tiếp nhìn thấy sản phẩm.

Phải chăng đó là một nhiệm vụ quá sức ?

Không. Không khó như bạn nghĩ … nếu biết cách.

Bây giờ, phần quan trọng nhất của bài viết sẽ giúp bạn dụ dỗ và mê hoặc khách hàng bằng lợi ích sản phẩm. Hãy đọc lại mô tả sản phẩm của bạn và tự hỏi ” Thì sao nào “. Trả lời thành công câu hỏi đó có nghĩa là bạn không ngừng thu hút những con mắt tò mò của độc giả săm soi từng chữ trên văn bản của bạn. Bạn đang quyến rũ họ.

Tiếp tục nào …

Khách Hàng Quan Tâm Điều Gì Khi Mua Hàng ?

Tính năng và lợi ích sản phẩm khác nhau như thế nào ?

Tính năng sản phẩm là các đặc điểm lý tính. Mô tả về khối lượng, kích thước, màu sắc, vật liệu cấu thành lên sản phẩm.

Lợi ích sản phẩm là các đặc điểm cảm tính. Giúp cải thiện cuộc sống của khách hàng như: vui vẻ hơn, khỏe mạnh hơn, tiết kiệm tiền, kiếm được nhiều tiền hơn, … Lợi ích sản phẩm là lý do khiến khách hàng ra quyết định “xuống tiền” mua sản phẩm của bạn.

Bài viết bán hàng tốt phải kết hợp tính năng và lợi ích sản phẩm.

Đúng vậy.

Bởi vì khách hàng luôn tự hỏi: tại sao tôi phải mua sản phẩm này ? có lợi ích gì cho tôi không nếu tôi sở hữu nó ? sản phẩm này có giải quyết vấn đề tôi đang gặp phải không ? tôi có tiết kiệm được thời gian, tiền bạc nếu mua giải pháp này không? Tóm lại, khách hàng không quan tâm tính năng, thay vào đó là lợi ích sản phẩm.

Để hiểu rõ hơn chúng ta sẽ quay trở lại ví dụ trên.

Bạn đang là nhân viên bán hàng điện máy. Bạn muốn chuyển đổi tính năng thành lợi ích sản phẩm ?

Hãy hỏi ” Thì Sao Nào ? “

” Thì Sao Nào ” có thể hoạt động trong bất kỳ sản phẩm dịch vụ nào.

Một ví dụ tiếp theo về gói dịch vụ du lịch đảo Phú Quốc, kích cầu sau thời Covid-19.

Thật đơn giản, phải không ?

Bạn thấy đó, bất kỳ sản phẩm dịch vụ nào bạn đều có thể chuyển đổi từ tính năng thành lợi ích sản phẩm trong 1 nốt nhạc.

Bây giờ, quay lại bài viết bán hàng của bạn. Đặt câu hỏi “ Thì Sao Nào ? “ cho từng tính năng, bạn sẽ thu được lợi ích của sản phẩm đó.

Kết Nối Lợi Ích Sản Phẩm Với Nhu Cầu Của Khách Hàng Của Bạn

Bạn đã có tính năng sản phẩm ?

Bạn đã chuyển đổi từng tính năng đó thành lợi ích của sản phẩm ?

Nhưng … bạn vẫn không bán được hàng.

Vì sao ?

Vì đôi khi bạn bị mắc kẹt trong quá trình dịch chuyển từ tính năng thành lợi ích. Văn bản của bạn hời hợt. Những lợi ích thực sự chưa được đề cập. Bạn không kết nối được mong muốn sâu sắc nhất với khách hàng của bạn.

Vì vậy. Muốn bán hàng. Bạn cần kết nối từng lợi ích với nhu cầu cấp thiết của khách hàng tiềm năng.

Bạn cần tìm hiểu khách hàng của bạn cần gì ? những vấn đề nào họ gặp phải ? nỗi đau lớn nhất hiện tại của họ là gì ? họ đang mơ ước gì ? điều gì quan trọng nhất khiến họ mua hàng ? điều gì là trở ngại khiến họ phản đối mua sản phẩm của bạn ?

Nhưng tóm lại, tất cả câu hỏi đó đều nhằm mục đích tìm ra 5 nhu cầu cơ bản của khách hàng. Theo Maslow, nếu đáp ứng những nhu cầu này, bạn sẽ dễ dàng bán sản phẩm dịch vụ của mình.

Nhu cầu sinh lý

bao gồm sức khỏe, thức ăn nước uống, ngủ nghỉ, quần áo mặc, giải trí, nhu cầu đi lại.

Nhu cầu an toàn

về tính mạng và tài chính, bảo đảm sức khỏe và hạnh phúc của cá nhân

Nhu cầu xã hội

với các mối liên hệ tình bạn, sự thân mật, các mối liên kết trong gia đình.

Nhu cầu được tôn trọng

đó là lòng tự trọng, tự tin hoặc được công nhận địa vị trong xã hội.

Nhu cầu tự chủ

với mong muốn trở thành một người giỏi nhất. Tự chủ, tự do sáng tạo để thành công nhất trong lĩnh vực của họ.

Tất nhiên, không phải sản phẩm dịch vụ nào cũng đáp ứng tất cả 5 nhu cầu trên. Nhưng hãy chuyển đổi nhiều nhất có thể cho lợi ích sản phẩm của bạn.

Chúng ta hãy xem cách Macbook Pro của Apple đáp ứng các loại lợi ích khác nhau như thế nào ?

” Với bộ vi xử lý lõi tứ Intel Core i7 thế hệ thứ 10, MacBook Pro 13 inch sẵn sàng đảm nhận cả những nhiệm vụ khó khăn nhất. Vì vậy, khi bạn cung cấp năng lượng thông qua các công việc xử lý cấp độ như biên dịch mã, xếp nhiều bản nhạc trong một tác phẩm âm nhạc hoặc mã hóa video, bạn sẽ hoàn thành mọi việc nhanh hơn. Và lần đầu tiên, bạn có thể cấu hình 32GB bộ nhớ trên 13-inch MacBook Pro – lên đến 50 phần trăm nhanh hiệu suất khi bạn đang áp dụng sửa đổi để hình ảnh gigapixel trong Photoshop, khả năng để tải công cụ ảo hơn, và đáng kinh ngạc tính trôi chảy khi bạn đang chạy nhiều máy ảo. “

Tại sao nội dung này hoạt động hiệu quả ?

+ Macbook Pro đáp ứng nhu cầu tự chủ của khách hàng. Vì nó không chỉ đơn giản là nhanh và mạnh mẽ hơn mà ở đó khách hàng có khả năng tự chủ, tự do sáng tạo để tăng hiệu suất công việc lên đến 50%. Họ sẽ thành công hơn trong lĩnh vực của họ.

“Bộ xử lý Intel thế hệ thứ 10 có sẵn với đồ họa Iris Plus mới mạnh mẽ mang lại hiệu năng đồ họa nhanh hơn tới 80% so với thế hệ trước. Điều đó có nghĩa là chỉnh sửa video dễ dàng, kết xuất 3D nhanh hơn và chơi game mượt mà hơn.”

Tại sao nội dung này hoạt động hiệu quả ?

+ Bộ vi xử lý cùng hiệu năng đồ họa nhanh hơn 80% đáp ứng nhu cầu sinh lý ( giải trí sau những giờ làm việc căng thẳng), giúp khách hàng có trải nghiệm chơi Game nhanh hơn và mượt mà hơn.

Bài viết bán hàng tốt sẽ trộn lẫn các nhu cầu và lợi ích khác nhau mà bản thân khách hàng không nhận ra nó. Vì vậy, là một nhà sáng tạo nội dung bạn cần khôn khéo chuyển đổi tính năng sản phẩm thành lợi ích khách hàng. Sau đó, ánh xạ lợi ích sản phẩm thành nhu cầu cá nhân của họ.

Hãy nhớ, bạn chỉ có thể bán lợi ích thực sự cho khách hàng nếu bạn biết những mong muốn và ước mơ thầm kín của họ.

Đúng vậy.

Là nhân viên bán hàng bạn sẽ tập trung trí lực vào doanh số được giao. Nhưng coi mình là người cố vấn cho khách hàng, bạn sẽ tập trung hoàn toàn vào lợi ích sản phẩm.

Lợi ích sản phẩm đáp ứng càng nhiều nhu cầu của khách hàng, bạn càng dễ dàng bán sản phẩm . Có nghĩa là doanh số của bạn sẽ tăng đúng kỳ vọng.

Do đó, bạn không cần sử dụng thủ đoạn để bán được nhiều hàng hơn. Bạn không cần các chiêu trò bẩn thỉu trái lương tâm để tăng doanh số. Và bạn không cần lạm dụng sự bồng bột nhất thời của khách hàng để dụ dỗ họ mua hàng.

Vì thế, một bài viết bán hàng tốt cần:

Đi sâu – len lỏi vào tâm trí khách hàng.

Hiểu – đáp ứng nhu cầu và mong muốn của họ.

Chứng minh – giải thích chi tiết cách bạn giải quyết vấn đề của họ.

Đó là cách bạn viết bài bán hàng chuyên nghiệp.

Share this:

Twitter

Facebook

More

LinkedIn

Reddit

Tumblr

Pinterest

Pin

Share

0

Shares

Nêu Ví Dụ Về 5 Chức Năng Của Tiền Tệ Câu Hỏi 1310417

1.Thước đo giá trị

Mỗi vật phẩm đều có giá trị khác nhau và được so sánh bằng giá trị của tiền tệ. Một đôi giày bảo hộ có giá trị bằng 7 xu ( tiền xu ngày xưa được làm từ nhôm). Một cuốn sách có giá trị bằng 2 đồng (tiền đồng được đúc từ đồng). Mà 2 đồng cũng có giá trị bằng 10 xu.Vì thế có thể nói Giá trị hàng hóa tiền tệ (vàng) thay đổi không làm ảnh hưởng gì đến “chức năng” tiêu chuẩn giá cả của nó.

2.Phương tiện lưu thông

Ngày xưa Việt Nam lưu hành những đồng tiền làm bằng nhôm. Để thuận tiện người ta đã đục lỗ ở giữa đồng tiền để tiện lưu trữ và đến. Những đồng tiền bị đục lỗ đó vẫn có giá trị lưu thông trong xã hội ngày đó.

Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. sở dĩ có tình trạng này vì tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò trong chốc lát. Người ta đổi hàng lấy tiền rồi lại dùng nó để mua hàng mà mình cần. Làm phương tiện lưu thông, tiền không nhất thiết phải có đủ giá trị.

Lợi dụng tình hình đó, khi đúc tiền nhà nước tìm cách giảm bớt hàm lượng kim loại của đơn vị tiền tệ. Giá trị thực của tiền đúc ngày càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó. Thực tế điều đó đã dẫn đến sự ra đời của tiền giấy. Bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là ký hiệu của giá trị, do đó việc in tiền giấy phải tuân theo quy luật lưu thông tiền giấy.

3.Phương tiện cất trữ

Người giàu ngày xưa hay có thói quen cất trữ vàng, bạc trong hũ, trong rương. Bạn dễ dàng nhìn thấy trong các phim truyện xưa, cổ tích, truyện trung đại…. . Ngày nay cũng có nhiều người có thói quen cất trữ tiền trong ngân hàng. Việc làm này không đúng vì tiền cất giữ phải là tiền có giá trị như tiền vàng, bạc.

4.Phương tiện thanh toán

Hiện nay ngân hàng điều cho vay tín dụng. Bạn dễ dàng trở thành con nợ hoặc người mắc nợ của ngân hàng nếu tiêu xài phung phí, không đúng cách.

6.Tiền tệ thế giới

Do ngành du lịch phát triển, nên mọi người dễ dàng du lịch nước ngoài. Khi đi du lịch bạn cần đổi tiền tệ của mình sang tiền tệ nước ngoài. Tỷ giá hối đoái dự vào nền kinh tế của các nước nên có giá trị khác nhau. Hiện tại, như Mỹ – Việt Nam là: 1 USA = 23.143 VNĐ…………..

Nêu Ví Dụ Về 5 Chức Năng Của Tiền Tệ Câu Hỏi 37236

1.Thước đo giá trị

Mỗi vật phẩm đều có giá trị khác nhau và được so sánh bằng giá trị của tiền tệ. Một đôi giày bảo hộ có giá trị bằng 5 xu ( tiền xu ngày xưa được làm từ nhôm). Một cuốn sách có giá trị bằng 1 đồng (tiền đồng được đúc từ đồng). Mà 1 đồng cũng có giá trị bằng 10 xu.Vì thế có thể nói Giá trị hàng hóa tiền tệ (vàng) thay đổi không ảnh hưởng gì đến “chức năng” tiêu chuẩn giá cả của nó.

2.Phương tiện lưu thông

Ngày xưa Việt Nam lưu hành những đồng tiền làm bằng nhôm. Để thuận tiện người ta đã đục lỗ ở giữa đồng tiền để tiện lưu trữ và đến. Những đồng tiền bị đục lỗ đó vẫn có giá trị lưu thông trong xã hội ngày đó.

Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. sở dĩ có tình trạng này vì tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò trong chốc lát. Người ta đổi hàng lấy tiền rồi lại dùng nó để mua hàng mà mình cần. Làm phương tiện lưu thông, tiền không nhất thiết phải có đủ giá trị.

Lợi dụng tình hình đó, khi đúc tiền nhà nước tìm cách giảm bớt hàm lượng kim loại của đơn vị tiền tệ. Giá trị thực của tiền đúc ngày càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó. Thực tiễn đó dẫn đến sự ra đời của tiền giấy. Bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là ký hiệu của giá trị, do đó việc in tiền giấy phải tuân theo quy luật lưu thông tiền giấy.

3.Phương tiện cất trữ

Người giàu ngày xưa hay có thói quen cất trữ vàng, bạc trong hũ, trong rương. Bạn dễ dàng nhìn thấy trong các phim truyện xưa, cổ tích. Ngày nay cũng có nhiều người có thói quen cất trữ tiền trong ngân hàng. Việc làm này không đúng vì tiền cất giữ phải là tiền có giá trị như tiền vàng, bạc.

4.Phương tiện thanh toán

Hiện nay ngân hàng điều cho vay tín dụng. Bạn dễ dàng trở thành con nợ của ngân hàng nếu tiêu xài không đúng cách.

6.Tiền tệ thế giới

Hiện nay ngành du lịch phát triển, mọi người dễ dàng du lịch nước ngoài. Khi đi du lịch bạn cần đổi tiền tệ của mình sang tiền tệ nước bạn. Tỷ giá hối đoái dự vào nền kinh tế của các nước nên có giá trị khác nhau. Hiện tại 1usd = 23.000 VNĐ…