a. Tính chính xác- đơn nghĩa
Tính chính xác được thể hiện trong cách dùng từ, đặt câu; tính minh bạch thể hiện trong kết cấu lô gíc, sự chặt chẽ giữa nội dung và hình thức nhằm đảm bảo cho nội dung nhất quán, rõ ràng và đơn nghĩa. Ngôn ngữ văn bản hành chính chỉ cho phép một cách hiểu duy nhất. Đặc điểm này quy định tính chất tu từ của văn bản hành chính: Ngôn ngữ trung hòa sắc thái biểu cảm, lời văn lạnh lùng và chính xác (khác với phong cách khoa học tuy tính chính xác cao nhưng cách thức trình bày và diễn đạt có thể vẫn mang màu sắc cá nhân). Đây là dấu hiệu của các loại văn bản hành chính. b. Tính khách quan
Tính chất này được thể hiện rõ ở cách trình bày. Đây là dấu hiệu chung cho tất cả các loại văn bản hành chính thể hiện tính xác nhận của tài liệu này. (Khác với phong cách ngôn ngữ khoa học ít nhiều vẫn mang dấu ấn của tác giả.). Các loại đơn từ cá nhân không mang danh nghĩa cá nhân, còn chữ kí của người chịu trách nhiệm chỉ khẳng định tính chất xác thực của tài liệu chứ không phải khẳng định tư cách tác giả xét về mặt phong cách ngôn ngữ. Tính nghiêm túc-khách quan còn thể hiện ở cách dùng từ ngữ mang tính chuẩn mực và tính quy định, loại trừ yếu tố cảm xúc, yếu tố cá nhân người viết. c. Tính khuôn mẫu
Văn bản hành chính luôn luôn tuân theo những khuôn mẫu đã được quy định về hình thức trình bày. Tùy thuộc vào từng kiểu loại cụ thể mà nó có những khuôn mẫu có thể được in sẵn. Trong nền hành chính hiện đại, mỗi một cơ quan, tùy theo chức năng và công việc mà người ta có thể soạn thảo các mẫu đơn có sẵn để sử dụng, tránh mất thời gian và sai quy cách. Ví dụ trong trường học cần có các mẫu in sẵn như: giấy mời họp phụ huynh, đơn xin phép nghỉ học, nghỉ dạy, đơn xin trợ cấp, đơn xin chuyển công tác, tờ trình điều chỉnh lương, đơn xin hết tập sự… Tuy nhiên, về mặt này nền hành chính chúng ta chưa đáp ứng được và ý thức về vấn đề quy chuẩn hóa các loại văn bản hành chính, thủ tục hành chính, cách thức tiến hành vẫn còn hết sức hạn chế.
III. ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ
1. Từ ngữ
Phong cách hành chính thường sử dụng những từ và cụm từ có tính chất quán ngữ. Nhờ sử dụng những khuôn mẫu có sẵn mà người thảo văn bản dễ dàng đạt được yêu cầu biểu đạt nội dung một cách chính xác và khách quan và do vậy người tiếp nhận cũng nắm bắt vấn đề một cách nhanh chóng.
Văn bản hành chính thường dùng các từ ngữ gọi tên các cơ quan như: BNN, Sở giáo dục, Bộ y tế, v.v…; tên chức vụ: công tố viên, bị cáo, vv; tên tài liệu: thông cáo, văn bản v.v…; sử dụng các quán ngữ: căn cứ, theo đề nghị của…v.v…; sử dụng nhiều từ Hán-Việt: khởi tố, bị can, lưu hành, truy cứu, vv…
Tóm lại từ ngữ trong phong cách hành chính là từ ngữ văn hóa, mang tính chuẩn mực, cụ thể và trung hòa sắc thái biểu cảm; không sử dụng các từ ngữ gợi hình, gợi cảm dễ xuyên tạc.
2. Cú pháp
Văn bản hành chính thường sử dụng những mẫu câu mang tính rập khuôn, mang sắc thái khách quan, lạnh lùng. Các loại câu cơ bản thường dùng trong phong cách này là:
– Câu tường thuật, câu cầu khiến, câu đơn bình thường với trật tự thuận. Không sử dụng câu hỏi và câu cảm thán.
– Không sử dụng lời nói trực tiếp (trừ văn bản tòa án) và những từ tình thái, những cấu trúc chêm xen có tính chất đưa đẩy.
IV. MỘT SỐ VĂN BẢN HÀNH CHÍNH THÔNG DỤNG
1. Nghị quyết
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ…
Thành phần tham dự: đại biểu, thành viên tham gia.
Sau một thời gian làm việc tích cực, nghiêm túc, Hội nghị đã nhất trí với những đánh giá trong bản tổng kết (năm cũ), cuối cùng đã đưa ra Quyết nghị với các nội dung sau:
1. Về công tác chính trị tư tưởng
– Tiếp tục phát động phong trào thi đua
– Phát huy vai trò lãnh đạo của… , tăng cường sự đoàn kết toàn… .
– Phấn đấu 100% cán bộ công chức…
2. Về công tác đào tạo
– Triển khai và thực hiện tốt nhiệm vụ…
– Điều chỉnh, hoàn thiện…
– Phát triển phong trào thi đua phấn đấu…
3. Về công tác nghiên cứu khoa học
– Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học.
– Khuyến khích và tạo điều kiện…
4. Về công tác cán bộ
– Có giải pháp tích cực để quy hoạch và tăng cường đội ngũ cán bộ…
– Động viên, khuyến khích cán bộ…
5. Về công tác thi đua
Phát động phong trào thi đua…
6, Về một số chỉ tiêu khác
Hội nghị đã biểu quyết một số chỉ tiêu cụ thể sau:
– Phấn đấu 100% cán bộ công chức đạt danh hiệu xuất sắc.
– 70 % cán bộ công chức đạt danh hiệu lao động tiên tiến.
Hội nghị đã nhất trí thông qua bản quyết nghị với đa số tán thành.
(đoàn chủ tịch cho hội nghị biểu quyết trước khi bản nghị quyết được biểu quyết lần cuối)
Chủ toạ Thư kí
Yêu cầu: Khảo sát sách giao khoa Ngữ văn tương ứng và viết hoàn chỉnh các văn bản hành chính thông dụng (4 vb/ 1 sv); Thực hành tại lớp: Xây dựng các mẫu văn bản trong Trường Đại học và Trường phổ thông tương ứng (Đơn xin học lại; Giấy xin phép nghỉ học; Đơn xin bảo lưu kết quả; Đơn xin dừng học…).
BÀI 4: PHONG CÁCH NGÔN NGỮ KHOA HỌC
I. KHÁI QUÁT
1. Định nghĩa
Phong cách khoa học là khuôn mẫu thích hợp để xây dựng lớp văn bản thể hiện vai của người tham gia giao tiếp trong lĩnh vực khoa học. Đó là vai của những nhà khoa học, nhà nghiên cứu, giáo viên, kĩ sư…
2. Các dạng của phong cách ngôn ngữ khoa học
– Dạng viết: Bao gồm các loại sau:
+ Các công trình nghiên cứu khoa học, tạp chí, tập san, báo cáo khoa học.
+ Các hình thức tóm tắt, giới thiệu, lược thuật khoa học…
+ Bài thi, luận văn, đề án tốt nghiệp, bài văn bình giảng…
– Dạng nói: Bao gồm các loại sau:
+ Lời giảng bài, lời thuyết trình trong các hội nghị khoa học…
+ Lời thuyết minh các công trình nghiên cứu khoa học.
+ Lời hỏi đáp về các vấn đề khoa học.
II. CHỨC NĂNG NGÔN NGỮ VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA PCKH
1. Chức năng ngôn ngữ
Ngôn ngữ phong cách khoa học có hai chức năng:
– Chức năng thông báo: là chức năng chủ yếu tạo nên tính khách quan và tính có vấn đề của văn bản khoa học.
– Chức năng giao tiếp lí trí: Giao tiếp lí trí vừa là thông báo vừa là chứng minh tính đúng đắn của vấn đề được trình bày. Chứng minh là đặc trưng khu biệt làm cho phong cách ngôn ngữ khoa học khác với các phong cách ngôn ngữ khác. Dựa vào tính chất thông báo và chứng minh mà người ta xác định được màu sắc phong cách ngôn ngữ khoa học.
2. Đặc trưng của phong cách ngôn ngữ khoa học
Phong cách ngôn ngữ khoa học có những đặc trưng cơ bản sau đây:
– Tính trừu tượng – khái quát: Vấn đề khoa học phải thông qua thao tác khái quát, trừu tượng hóa để nhận thức và phản ánh hiện thực khách quan. Nhiệm vụ của người viết văn bản khoa học là phát hiện các qui luật, vấn đề tồn tại trong sự vật hiện tượng nên không thể dừng lại ở cái riêng lẻ, bộ phận mà cần phải thông qua khái quát, thống kê để rút ra vấn đề mang tính chân lí.
– Tính lô gíc nghiêm ngặt: Trong văn bản khoa học, tính thuyết phục cho vấn đề đưa ra nhờ vào cách trình bày, lập luận chặt chẽ theo qui luật của tư duy lô gíc. Tính lô gíc ở đây thể hiện ở chỗ văn bản mang tính nhất quán trong việc phân bố tất cả các đơn vị tương ứng với nội dung hàm chứa. Các vấn đề đưa ra phải cân đối, hợp lô gíc và không gây ra mâu thuẫn. Lô gíc trong khoa học là lô gíc được chứng minh, khác với lô gíc trong nghệ thuật là lô gíc hình tượng.
– Tính chính xác-khách quan: Các vấn đề khoa học luôn luôn yêu cầu phải được phản ánh một cách khách quan và chính xác. Do vậy tính chính xác- khách quan là một thuộc tính hiển nhiên của văn bản khoa học. Trong ngôn ngữ khoa học, tính chính xác thể hiện ở tính đơn nghĩa của từ ngữ trong cách hiểu. Điều này khác với ngôn ngữ nghệ thuật, tính chính xác có nghĩa là trung thành với hình tượng tức là hình tượng phải điển hình.
III. ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ
1. Về từ ngữ
Phong cách ngôn ngữ khoa học thường xuyên dùng các thuật ngữ chuyên môn. Ví dụ: hàm số, mẫu số… trong toán học; điện trở, nhiệt lượng trong vật lí v.v. Các thuật ngữ, các từ chỉ khái niệm thường xuyên được sử dụng tùy theo chuyên ngành khoa học. Để đảm bảo tính chính xác-khách quan, từ ngữ trong văn bản khoa học chỉ được phép một cách hiểu duy nhất: ý nghĩa sự vật lô gíc và trung hòa sắc thái biểu cảm.
2. Về cú pháp
Tính chính xác chi phối cả về mặt cú pháp của văn bản khoa học. Văn bản khoa học thường sử dụng các kiểu kết cấu cú pháp sau đây:
– Sử dụng hình thức câu hoàn chỉnh với kết cấu chặt chẽ, rõ ràng.
– Sử dụng những câu ghép với các cặp từ hô ứng: Vì A nên B; nếu A thì B; để A nên B…
– Sử dụng nhiều phương tiện liên kết câu: như đã nói, Như vậy, Vậy cho nên, Nói tóm lại…
3. Kết cấu một văn bản khoa học:
Hình thức thông thường của một văn bản khoa học thường được trình bày theo kết cấu sau:
CÁC CHÚ Ý KHÁC
1. Cỡ chữ: 13-14 theo phông chữ Unicode
2. Giãn dòng: 29-30 dòng/trang (1,5 line)
3. Lề: trái: 3,5cm, phải: 2cm, trên-dưới: 2,5cm (có thể điều chỉnh cho hợp lí tùy theo tình hình và yêu cầu chung).
4. Tất cả các dấu câu đều đánh sát chữ bên trái, trừ dấu ngoặc đơn, dấu ngoặc kép thì dấu mở đánh kề chữ phải, dấu đóng đánh kề chữ trái.
Bài tập: Khảo sát sách Ngữ văn phổ thông về phong cách ngôn ngữ khoa học và lập đề cương cho một đề tài khoa học.
BÀI 6: PHONG CÁCH NGÔN NGỮ CHÍNH LUẬN
I. KHÁI QUÁT
1. Định nghĩa
Chính luận theo nghĩa hẹp (sgk lớp11 hiện hành) chỉ những lập luận trong lĩnh vực chính trị xã hội. Ví dụ, luận về các vấn đề như:
– Không có gì quý hơn độc lập, tự do (Hồ Chí Minh)
– Việt Nam và những thách thức mới về độc lập và phát triển
– Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng
– Cái giá độc lập của dân tộc Việt Nam
– Để cứu nước và giải phóng dân tộc, cách mạng vô sản là sự lựa chọn duy nhất của Việt Nam.
– Bản chất khoa học của Chủ nghĩa Mác
– Muôn nẻo cái sự nhầm
Phong cách ngôn ngữ chính luận là khuôn mẫu thích hợp để xây dựng lớp văn bản trong đó thể hiện vai của người tham gia giao tiếp trong lĩnh vực chính trị xã hội. Đó là vai của những nhà lãnh đạo, nhà hoạt động chính trị-xã hội, đảng viên, đoàn viên, cán bộ tuyên giáo v.v.
2. Các dạng của phong cách ngôn ngữ chính luận
-Dạng nói: Bài diễn thuyết, bài phát biểu trong mít tinh hay trong lễ đón tiếp ngoại giao, bài phát biểu trong hội nghị…
3. Các loại văn bản chính luận
– Văn bản nghị luận chính trị
– Văn bản nghị luận xã hội
II. CHỨC NĂNG NGÔN NGỮ VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA PHONG CÁCH CHÍNH LUẬN
1. Chức năng ngôn ngữ
– Chức năng giao tiếp lí trí: cung cấp thông tin/ kiến thức mới
– Chức năng thuyết phục (chứng minh và tác động)
Ngôn ngữ trong phong cách chính luận là ngôn ngữ tổng hợp, thuyết phục người nói, người nghe bằng những chứng cứ và lập luận vững chắc được trình bày theo những cách thức riêng mang màu sắc cá nhân. Phong cách ngôn ngữ chính luận cũng sử dụng cả những yếu tố tạo hình để tăng thêm sức hấp dẫn.
2. Đặc trưng của phong cách chính luận
– Tính lập luận chặt chẽ: Mục đích của văn bản chính luận là thuyết phục người nghe tin vào lập luận của mình là đúng. Do vậy yêu cầu phải có sự lập luận chặt chẽ trên cơ sở đưa ra được những luận điểm, luận cứ hợp lô gíc và có cơ sở khoa học thỏa đáng. Về điểm này ngôn ngữ chính luận gần với ngôn ngữ khoa học. Ví dụ: Có anh hùng vì có tập thể anh hùng. Có tập thể anh hùng vì có nhân dân anh hùng, Đảng anh hùng (Hồ Chí Minh); Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc, văn võ song toàn. Văn là chính trị: chính trị cứu nước cứu dân, nội trị, ngoại giao,”mở nền thái bình muôn thuở, rửa nỗi thẹn nghìn thu” (Bình Ngô Đại Cáo). Võ là quân sự: chiến lược và chiến thuật, “yếu thắng mạnh, ít địch nhiều… thắng hung tàn bằng đại nghĩa” (Bình Ngô Đại Cáo); văn và võ đều là võ khí, mạnh như vũ bão, sắc như gươm đao: “viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời” (Lê Quí Đôn), “văn chương mưu lược gắn liền với sự nghiệp kinh bang tế thế” (Phan Huy Chú). Thật là một con người vĩ đại về nhiều mặt trong lịch sử nước ta! (Phạm Văn Đồng); Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta (Lê Duẩn).
– Tính truyền cảm mạnh mẽ: Văn bản chính luận không những thuyết phục người đọc người nghe bằng lí trí mà còn bằng tình cảm. Chính vì vậy ngôn ngữ chính luận luôn luôn được diễn đạt một cách hùng hồn, sinh động và cảm động, lôi cuốn người nghe từ đầu đến cuối. Ví dụ: Đồng bào Nam Bộ là dân của nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn song chân lí đó không bao giờ thay đổi (Hồ Chí Minh); Hỡi đồng bào toàn quốc, chúng ta muốn hòa bình chúng ta đã nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa. Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào chúng ta phải đứng lên… (Hồ Chủ tịch). …Vì vậy, tôi để sẵn mấy lời này, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê Nin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột (Hồ Chí Minh – Di chúc).
III. ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ PHONG CÁCH CHÍNH LUẬN
1. Về từ ngữ
Phong cách chính luận thường sử dụng lớp từ ngữ có tính chất thuật ngữ của các ngành khoa học theo từng thể loại văn bản: nghị luận chính trị, kinh tế, văn hóa, văn học v.v. Từ ngữ chính trị đóng vai trò quan trọng trong việc bộc lộ thái độ của người nói. Qua việc lựa chọn từ ngữ, lập trường quan điểm của người nói, người viết đối với vấn đề nêu ra được thể hiện hết sức rõ ràng. Ví dụ: Hỡi đồng bào toàn quốc, chúng ta muốn… chúng ta đã… Nhưng… Không!…
2. Về cú pháp
Cú pháp của phong cách chính luận mang các đặc điểm sau:
– Có xu hướng đi tìm cách diễn đạt mới nhằm nhấn mạnh vấn đề hay bày tỏ thái độ của người nói, người viết. Ví dụ: Đảng ta là một đảng lãnh đạo, Đảng ta cần phải mạnh mẽ, trong sạchà Là một đảng lãnh đạo, Đảng ta cần phải mạnh mẽ, trong sạch; cái gì có lợi cho dân thì phải hết sức làm, dù là việc nhỏ. Cái gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh, dù là việc nhỏ (Hồ Chí Minh).
– Sử dụng những cách đặt câu có tính chất hội thoại tạo cho người đọc cảm giác quen thuộc, dễ hiểu. Ví dụ: Văn là chính trị, là nội trị, là ngoại giao…; Không!… Chúng ta thà hi sinh tất cả…, tôi ngồi trong phòng một mình mà sung sướng đến phát khóc lên…
– Linh hoạt sử dụng các kiểu câu khác nhau: câu đơn, câu ghép, câu cảm thán… Tuy vậy dù dùng kiểu câu nào đi chăng nữa thì vẫn đảm bảo tính trong sáng, cân đối, nhịp nhàng. Ví dụ: lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
3. Các yếu tố tu từ trong phong cách chính luận
Ngôn ngữ chính luận sử dụng các phương tiện và các biện pháp tu từ ở nhiều cấp độ khác nhau. Mức độ sử dụng các yếu tố tu từ chỉ đứng sau ngôn ngữ nghệ thuật. Tuy nhiên việc sử dụng các yếu tố tu từ trong ngôn ngữ chính luận không nhằm mục đích làm cho văn bản chính luận có tính hình tượng như ngôn ngữ nghệ thuật mà chỉ nhằm cụ thể hóa vấn đề nêu ra một cách cụ thể cảm tính. Các yếu tố tu từ thường gặp trong loại văn bản này là cách sử dụng các từ giàu hình ảnh, các phương tiện ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa v.v. Các biện pháp tu từ thường gặp như: lặp cú pháp, đối chọi, câu hỏi tu từ v.v.
Yêu cầu: Khảo sát sách giáo khoa Tiếng Việt phổ thông và lập đề cương cho một văn bản chính luận sau đó viết thành bài hoàn chỉnh; Phân tích cách lập luận của Phạm Văn Đồng về Nguyễn Trãi hoặc một vấn đề tự chọn.
BÀI 7: PHONG CÁCH NGÔN NGỮ BÁO
I. KHÁI QUÁT
1. Định nghĩa
2. Các dạng của phong cách ngôn ngữ báo
3. Các loại văn bản báo
– Dựa vào ý nghĩa sự vật-lô gíc (tính chất thông tin):
+ Văn bản cung cấp thông tin.
+ Văn bản phản ánh công luận.
– Dựa vào đặc điểm kết cấu tu từ:
+ Tin tức tổng hợp hoặc mẩu tin.
+ Phóng sự điều tra, phỏng vấn.
+ Ý kiến bạn đọc và trả lời bạn đọc.
II. CHỨC NĂNG NGÔN NGỮ VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA PHONG CÁCH BÁO
1. Chức năng ngôn ngữ
Ngôn ngữ văn bản báo có hai chức năng:
– Chức năng giao tiếp lí trí: Giao tiếp lí trí được thực hiện thông qua tính thông báo và phản ánh sự việc, sự kiện mang tính thời sự xảy ra trong đời sống.
– Chức năng phát động: Ngoài chức năng giao tiếp lí trí, một chức năng mang tính đặc thù của ngôn ngữ báo đó là động viên, khích lệ người đọc, người nghe thực hiện một nhiệm vụ nào đấy.
2. Đặc trưng của phong cách ngôn ngữ báo
– Tính chiến đấu, thuyết phục, giáo dục: Báo chí đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội. Nó là diễn đàn của quần chúng lao động đấu tranh chống lại những gì phi đạo đức, trái pháp luật, bảo vệ công lí… nhằm làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Chính vì vậy báo chí là diễn đàn công khai của toàn thể nhân dân đấu tranh cho một mục đích cao cả và tốt đẹp đó là xây dựng một xã hội công bằng và văn minh.
– Tính thời sự cập nhật: Báo chí luôn luôn phản ánh những vấn đề hiện tại mang tính bức thiết nhất. Nếu đề cập những vấn đề của quá khứ hay tương lai thì bài báo đó cũng muốn hướng người đọc đi vào giải quyết những vấn đề hiện tại đang được đặt ra một cách khách quan. Ví dụ:
– Tính kích thích hấp dẫn: Phong cách báo đặc biệt chú trọng vào vấn đề lôi cuốn độc giả quan tâm tìm hiểu sự việc. Do vậy từ đầu đề đến cách kết cấu và cách dùng từ ngữ đều mang tính hấp dẫn, gợi trí tò mò và ý muốn tìm hiểu của người nghe, người đọc. Tính kích thích hấp dẫn thể hiện ngay trong cách đặt tên đầu đề các bài báo. Ví dụ: ca dao… cạo, Công ti trách nhiệm… vô hạn!…
– Tính ngắn gọn: do dung lượng tờ báo có giới hạn và do tính chất tức thời, nhanh chóng của người đọc nên bài báo phải đo đếm từng chữ. Những chữ còn bỏ được sẽ không được phép xuất hiện. Trường hợp bài dài phải đăng liên tiếp trong nhiều kì để đảm bảo cho tính phong phú của thông tin trong một tờ báo.
III. ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ
1.Về từ ngữ
Từ ngữ trong ngôn ngữ báo mang các đặc điểm sau đây:
– Phong cách ngôn ngữ báo sử dụng lớp từ ngữ mang đậm màu sắc biểu cảm, gợi hình, gợi cảm, giàu hình ảnh và mang đậm màu sắc tu từ. Ví dụ: Hội chứng Việt Nam, leo thang chiến tranh, chảy máu chất xám v.v.
– Phong cách báo luôn có xu hướng đi tìm cái mới trong cách dùng từ: người viết báo thường dựa vào các từ ngữ, các quán ngữ có sẵn để tạo nên các đơn vị, cách thức diễn đạt mới giàu tính hình ảnh và tính biểu cảm. Ví dụ: kiện tướng à kiện tướng đào đất, kiện tướng bơi lội…ổ gà à ổ voi, đường đủ mọi loại ổ v.v.
– Phong cách báo dùng nhiều từ viết tắt để đảm bảo tính thông tin cao trong một khuôn khổ không gian trình bày nhất định và giúp cho việc tiếp thu được thuận lợi. Ví dụ: ĐCS, CBCNV v.v.
2. Về cú pháp
Trong phong cách ngôn ngữ báo mặt cú pháp của nó có những đặc điểm sau đây:
– Sử dụng nhiều câu khuyết chủ ngữ nhằm làm cho nội dung thể hiện được ngắn gọn, cô đúc và tăng cường sức thuyết phục qua tính khách quan và tính mệnh lệnh của nó. Ví dụ: Cần phải học ăn, học nói, học gói, học mở, Hôm qua, ngày… khai mạc hội nghị các nước nói tiếng Pháp tại…
– Sử dụng câu có thành phần khởi ngữ để nêu bật thông tin. Loại câu này xuất hiện nhiều nhất là ở các đầu đề văn bản. Ví dụ: Nông trường 1/5 đi lên từ hai bàn tay trắng, Nước sạch cho nông thôn: một vấn đề bức xúc, Ixraen, trước tình trạng dã man của bọn khủng bố…
– Sử dụng những câu đơn kèm theo lời trích dẫn trực tiếp hoặc gián tiếp. Ví dụ: Dưới đầu đề Việt Nam: Một con hổ nhỏ mới? Báo Béclin ra ngày 31/12/91 nhận xét rằng…
Đặc điểm nổi bật của cú pháp phong cách ngôn ngữ báo là việc kết hợp chặt chẽ các hình thức cú pháp mang tính khuôn mẫu với yếu tố diễn cảm được thể hiện dưới những kiểu cú pháp hết sức phong phú và đa dạng.
– Phong cách ngôn ngữ báo sử dụng nhiều phương tiện và biện pháp tu từ nhằm đem lại cho văn bản tính cụ thể, tính gợi cảm và tính hấp dẫn cao.
Cần đặc biệt lưu ý rằng một số truyện ngắn, thơ đăng trên báo nhưng không thuộc phong cách ngôn ngữ báo mặc dù nó nằm trong hệ thống tài liệu đọc nhanh và mang tính thời sự sâu sắc.
Yêu cầu: Khảo sát sách giáo khoa Tiếng Việt phổ thông, viết mẩu tin và lập đề cương cho một bài báo.
BÀI 8: NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
I. KHÁI NIỆM
1. Ngôn ngữ nghệ thuật
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu và là một hệ thống tín hiệu đặc biệt. Nói đến tín hiệu là nói đến chức năng chứa đựng và truyền tải thông tin của chúng. Ngôn ngữ phi nghệ thuật chú trọng vào nội dung thông tin mà nó hàm chứa và chuyển tải thông qua tính lô gíc, tính trực tiếp, tính đơn nghĩa và tính tiếp nhận mau chóng để đối tượng giao tiếp dễ dàng nắm bắt và thực hiện các hành vi tương ứng. Do đặc điểm trên chi phối nên ngôn ngữ phi nghệ thuật là loại ngôn ngữ mang thông tin lô gíc và chỉ có một cách hiểu duy nhất cho tất cả các đối tượng tiếp nhận, chúng thực hiện chức năng quan trọng nhất là chức năng thông báo.
Khác với ngôn ngữ phi nghệ thuật, ngôn ngữ nghệ thuật là một hệ thống tín hiệu hết sức phức tạp và chặt chẽ. Tính phức tạp thể hiện trên hai bình diện: tính đa trị và tính đa phong cách. Ta có thể khám phá ra rất nhiều lớp nghĩa trong những đơn vị (một từ, một câu hay một văn bản) mang thông tin. Trong một tác phẩm văn chương cũng có thể tìm thấy các phong cách ngôn ngữ đan xen nhau một cách hài hòa tạo thành bản hòa tấu không có chi tiết thừa. Với đặc điểm đó đòi hỏi người thưởng thức và tìm hiểu nó phải có một năng lực tổng hợp về các loại tri thức và các thao tác để mổ xẻ và khai thác nó một cách khoa học. Tính chặt chẽ của ngôn ngữ văn chương được thể hiện ở tính hệ thống. Mỗi một tác phẩm là một tổng thể không thể tách rời. Tất cả các yếu tố của hệ thống đều là những dấu hiệu hướng vào sự thể hiện một thông điệp thống nhất. Chức năng quan trọng nhất của ngôn ngữ văn chương là chức năng thẩm mĩ, khác với ngôn ngữ phi nghệ thuật có chức năng quan trọng nhất là chức năng thông báo.
Ngôn ngữ phi nghệ thuật mang tính đơn nghĩa cũng đồng nghĩa với vai trò phản ánh các thuộc tính đơn lẻ của sự vật hiện tượng một cách khách quan. Trong thực tế cuộc sống, mọi sự vật đều tồn tại trong không gian và thời gian trong tư thế không ngừng biến đổi và nó được phản ánh dưới ý thức chủ quan của con người. Ngôn ngữ nghệ thuật là loại ngôn ngữ đa phong cách và đa giá trị, chỉ có nó mới đủ sức phản ánh những thuộc tính vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan của các sự vật hiện tượng trong đời sống chúng ta. Trong khi cố gắng phản ánh những thuộc tính của các sự vật hiện tượng một cách chính xác nhất, ngôn ngữ nghệ thuật trở thành thứ ngôn ngữ mẫu mực đạt đến trình độ phát triển cao. Điều này giải thích vì sao có nhiều ngôn ngữ của nhiều dân tộc không được xếp vào hàng ngũ ngôn ngữ văn học. Thời đại nào cũng vậy, vai trò của các nhà văn trong việc trau dồi ngôn ngữ dân tộc là không thể phủ nhận được. Ngôn ngữ nghệ thuật vì thế xứng đáng giữ vai trò trung tâm của ngôn ngữ dân tộc; sự phát triển của ngôn ngữ dân tộc luôn luôn gắn với các tên tuổi các nhà văn, nhà thơ lớn.
Khuynh hướng ngôn ngữ
Ngôn ngữ nghệ thuật
Ngôn ngữ phi nghệ thuật
Dấu hiệu cấu trúc hình thức
Ngữ điệu, hư từ
Thực từ
Đặc điểm cấu trúc nội dung
Đa trị, giàu hình ảnh, có khả năng gợi liên tưởng
Đơn trị, trừu tượng hóa, khái quát hóa
Ví dụ: Nhớ quá với nhớ ai ra ngẩn vào ngơ; thương lắm với thương thay thân phận đàn bà; thương quá là thương; thương ôi tài sắc bậc này; đến sông Hương uống rượu và say rượu với Sông Hương hoá rượu ta đến uống – Ta tỉnh đền đài ngả nghiêng say… – Nguyễn Trọng Tạo; mau già, già nhanh với tuổi già sầm sập đuổi sau lưng… Tóm lại ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ đa trị. Khi giải mã một văn bản nghệ thuật chúng ta cần thiết phải trả lời 2 câu hỏi: nó nói gì? và cái đó được nói theo cách nào? Giải thích ngôn ngữ nghệ thuật là đi tìm các giá trị của những cấu trúc bao nhau.
Hai phương thức tăng cường năng lực biểu đạt cho ngôn ngữ văn chương thông thường nhất là tạo nghĩa hàm ẩn và vận dụng quan hệ liên tưởng thông qua các phương tiện tu từ để mở rộng phương diện ý nghĩa.
Ngôn ngữ nghệ thuật phản ánh thế giới khách quan bằng hình tượng điển hình. Vì vậy nó là thứ ngôn ngữ được trau chuốt, chọn lựa, sắp xếp… đạt đến một trình độ cao nhất trong nhiệm vụ biểu đạt một nội dung nhất định.
Tóm lại ngôn ngữ ngệ thuật là ngôn ngữ trong các tác phẩm văn chương. Nó là một loại ngôn ngữ phức tạp, mang chức năng chủ yếu là chức năng thông báo thẩm mĩ thông qua sự cảm nhận về hình tượng nghệ thuật được xây dựng bằng chất liệu ngôn từ.
2. Văn học
Theo từ nguyên học, văn là một yếu tố Hán-Việt chính yếu tạo nên ngữ nghĩa cho từ văn chương. Nghĩa của từ văn được hình thành từ thời tiền Tần với khoảng 13 nét nghĩa chủ đạo: đường vân giao nhau, tu sức, điều kiện, tiết tấu, uy nghi, gắng gỏi, thành, động, mĩ-thiện, văn tự, đưa lại cảm hứng, lạc nghệ, văn chương… Khổng Tử coi văn là cái đẹp gắn liền với sự hiểu biết của con người về trí tuệ và đạo lí (văn hóa, lễ nghĩa…). Tóm lại văn được ngày xưa quan niệm là vốn hiểu biết nói chung tạo ra nét đẹp cho phẩm chất con người. Chương là cái tươi sáng. Văn chương là cái tươi sáng, cái đẹp do con người sáng tạo ra. Hiểu một cách khái quát, văn học là khoa học về văn chương. Vấn đề này có 4 quan niệm:
* Văn học là khoa học văn chương được hợp thành từ hai bộ phận, sáng tác văn học và phê bình văn học.
* Văn học là khoa học văn chương được hợp thành từ 3 bộ phận: lịch sử văn học; phê bình văn học; lí luận và phân tích văn học.
* M. Goocki nói: văn học là nhân học (là khoa học về (chất) người – khoa học nhân văn) chất người hay tính người là khái niệm dùng để chỉ những thuộc tính văn hóa có ở con người khi con người hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới theo những chuẩn mực của cái đẹp. Khái niệm này mang tính khái quát khi coi văn chương là một ngành nghệ thuật vận dụng tất cả các thành tựu của các khoa học và nghệ thuật khác làm chất liệu cho nó để sáng tạo ra những sản phẩm văn hóa tinh thần theo tiêu chuẩn của cái đẹp. Khi định nghĩa này được hiểu một cách cực đoan thì văn chương chỉ được chú trọng ở mặt nội dung biểu đạt.
* Lí luận văn học cho rằng văn học là nghệ thuật ngôn từ. Quan niệm này nếu xem ngôn ngữ là một loại tín hiệu có tính hai mặt thì đây là một định nghĩa đi thẳng vào bản chất của văn chương. Nêu lên được nghệ thuật sử dụng ngôn từ coi như chúng ta đang phân tích văn chương, còn trình bày được nội dung biểu đạt của tác phẩm coi như chúng ta mới tiếp cận được ý sơ đẳng nhất mà tác giả của tác phẩm văn chương muốn nói (tính võ đoán của ngôn ngữ thể hiện rõ nét nhất trong ngôn ngữ nghệ thuật). Cách hiểu này cũng dẫn đến tình trạng quá đề cao đến mặt hình thức của văn chương mà không thấy rằng hình thức và nội dung là một cặp phạm trù không tách rời nhau, chúng quy định và tác động qua lại lẫn nhau.