Ví Dụ Về Chức Năng Của Ngôn Ngữ / Top 10 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Chức Năng Thẩm Mỹ Của Các Đặc Điểm Ngôn Ngữ Và Ví Dụ / Văn Học

các chức năng ngôn ngữ thẩm mỹ đó là tài sản mà điều này phải thu hút sự chú ý đến chính nó, mà nó có được một giá trị tự trị. Theo nghĩa này, từ này đồng thời có nghĩa và biểu hiện. Đó là, nó có một ý nghĩa khách quan bên ngoài nó, đồng thời, có ý nghĩa chủ quan, vượt quá mục tiêu.

Do đó, từ này có thể nói một điều và đồng thời cho thấy một điều hoàn toàn khác. Chức năng thẩm mỹ này của ngôn ngữ được nghiên cứu rộng rãi bởi một nhánh triết học: thẩm mỹ.

Thuật ngữ này bắt nguồn từ thuật ngữ aistesis của Hy Lạp cổ đại, có nghĩa là cảm giác hoặc nhận thức, kiến ​​thức có được thông qua kinh nghiệm cảm giác.

Mặt khác, việc sử dụng ngôn ngữ đặc biệt này thể hiện rõ hơn nhiều trong lĩnh vực văn học. Trong thơ, chẳng hạn, các cấu trúc ngôn từ văn học được sử dụng rất nhiều để truyền đạt nhiều nghĩa của nó. Trong số đó, chúng ta có thể đề cập đến màu sắc, âm thanh, cảm xúc và hình ảnh của thế giới vật chất và cụ thể.

Để thực hiện chức năng này của ngôn ngữ, một loạt các tài nguyên được sử dụng. Một số trong số họ là similes, đồng âm, bất hòa, tưởng tượng, chơi chữ và ẩn dụ.

Đây không phải là để sử dụng độc quyền của văn học. Phạm vi các khả năng mà chức năng thẩm mỹ này của ngôn ngữ được phát triển bao gồm phim, chương trình truyền hình và ngôn ngữ hàng ngày.

Chỉ số

1 Đặc điểm của chức năng thẩm mỹ của ngôn ngữ

1.1 Nhấn mạnh vào giá trị biểu cảm

1.2 Ưu tiên hình thức so với nội dung

1.3 Theo chuẩn mực văn hóa

1.4 Sự hiện diện trong mọi bối cảnh ngôn ngữ

2 ví dụ

2.1 Để một vận động viên trẻ chết

3 tài liệu tham khảo

Đặc điểm của chức năng thẩm mỹ của ngôn ngữ

Nhấn mạnh vào giá trị biểu cảm

Ngôn ngữ có một số chức năng. Điều này có thể được sử dụng để thuyết phục (chức năng kháng cáo), truyền đạt thông tin của thế giới cụ thể (chức năng tham chiếu), tham chiếu đến các khía cạnh của ngôn ngữ (chức năng ngôn ngữ kim loại), trong số những người khác..

Trong trường hợp chức năng thẩm mỹ của ngôn ngữ, nó ưu tiên cho giá trị biểu cảm của ngôn ngữ. Đó là, nó đề cập đến khả năng của họ để bày tỏ cảm xúc hoặc tình cảm đánh thức một đối tượng, một ý tưởng hoặc một thực thể.

Điều này có nghĩa là nó không bỏ qua giá trị quan trọng của ngôn ngữ (khả năng đề cập đến thế giới bên ngoài).

Ưu tiên hình thức trên nội dung

Khi một cuốn tiểu thuyết hoặc một bài thơ được đọc, chức năng thẩm mỹ của ngôn ngữ đang được trải nghiệm. Trong tất cả các loại biểu hiện, mục đích là để mang lại niềm vui thẩm mỹ.

Điều này đạt được thông qua chính các từ và sự sắp xếp có ý thức và có chủ ý có tác dụng dễ chịu hoặc làm phong phú.

Vì lý do này, mục đích thẩm mỹ này mang lại sự ưu tiên cho hình thức, hơn là nội dung. Theo cách này, thông thường, đặc biệt là trong bối cảnh văn học, sử dụng ngôn ngữ tượng hình, thơ ca hoặc lố bịch.

Như đã đề cập, trong số các tài nguyên được sử dụng cho mục đích này là similes, ẩn dụ, trớ trêu, tượng trưng và tương tự.

Mặt khác, khi sử dụng các từ cho mục đích nghệ thuật, người ta thường chọn một số từ nhất định và khám phá lại chúng để đảm bảo đạt được hiệu quả mong muốn.

Theo tiêu chuẩn văn hóa

Nói chung, ngôn ngữ nằm trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau với văn hóa của xã hội. Nó phản ánh niềm tin, phong tục, giá trị và hoạt động của một nhóm cụ thể tại một thời điểm nhất định. Không có gì đáng ngạc nhiên khi chức năng thẩm mỹ của nó phải tuân theo tất cả nền tảng văn hóa này.

Sự hiện diện trong tất cả các bối cảnh ngôn ngữ

Mặc dù đánh giá này về chức năng thẩm mỹ của ngôn ngữ được chứng minh rõ ràng hơn trong văn học, nó cũng được tìm thấy trong ngôn ngữ thông tục. Sau này, nó được nhận thức dưới dạng ẩn dụ, chơi chữ và các tài nguyên biểu cảm khác của lời nói hàng ngày.

Ví dụ

Chức năng thẩm mỹ của ngôn ngữ có thể được nhìn thấy mạnh mẽ hơn trong thơ. Trong thực tế, chức năng thơ ca và thẩm mỹ thường được sử dụng như từ đồng nghĩa.

Mục tiêu của ngôn ngữ thơ là truyền đạt một ý nghĩa, cảm giác hoặc hình ảnh sâu sắc đến khán giả. Để tạo hiệu ứng này, bao gồm các hình ảnh có chủ đích và ngôn ngữ tượng hình.

Một vận động viên trẻ chết

(A.E. Housman, bản dịch của Juan Bonilla)

“Ngày bạn đã chiến thắng cuộc đua trong thị trấn của bạnTất cả chúng tôi đi qua quảng trường.Đàn ông và trẻ em hô vang tên bạnvà trên vai chúng tôi đưa bạn đến nhà bạn.

Hôm nay tất cả các vận động viên đi trên con đườngvà trên vai chúng tôi đưa bạn đến nhà bạn.Trong ngưỡng chúng tôi sẽ gửi tiền cho bạn,công dân của thành phố yên tĩnh nhất.

Chàng trai xảo quyệt, bạn đã rời đi sớmNơi vinh quang không quan trọng.Bạn có biết rằng vòng nguyệt quế phát triển nhanhrất lâu trước khi hoa hồng khô héo.

Nhắm mắt và nhìn vào ban đêmbạn sẽ không thể biết ai là người thu âm của bạn. “

Con cừu

André Bello

“Giải thoát chúng ta khỏi sự chuyên chế khốc liệt

của con người, Jove toàn năng

Một con cừu nói,

trao lông cừu cho kéo?

rằng ở những người nghèo của chúng ta

người chăn làm thiệt hại nhiều hơn

trong tuần, trong tháng hoặc năm

móng vuốt của những con hổ làm cho chúng tôi.

Hãy đến, người cha chung của cuộc sống,

mùa hè rực lửa;

mùa đông lạnh,

và cho chúng tôi che chở cho khu rừng râm mát,

chúng ta hãy sống độc lập,

nơi chúng tôi không bao giờ nghe thấy zampoña

ghét, điều đó cho chúng ta lừa đảo,

chúng ta đừng nhìn thấy vũ trang

của kẻ gian chết tiệt

người đàn ông hủy diệt đánh lừa chúng ta,

và cắt chúng tôi, và một trăm đến một trăm giết chết.

Giảm tốc độ thỏ rừng

về những gì anh ấy thích, và đi đến nơi anh ấy thích,

không có zagal, không bút và không có chuông;

và trường hợp cừu buồn!

nếu chúng ta phải thực hiện một bước,

chúng tôi phải xin giấy phép từ con chó.

Mặc quần áo và che chở cho người đàn ông len của chúng tôi;

ram là thức ăn hàng ngày của nó;

và khi tức giận bạn gửi đến trái đất,

cho tội ác của họ, đói, bệnh dịch hoặc chiến tranh,

Ai đã thấy máu người chạy??

trong bàn thờ của bạn? Không: cừu một mình

để xoa dịu cơn giận của bạn …

Tài liệu tham khảo

Dufrenne, M. (1973). Hiện tượng học của kinh nghiệm thẩm mỹ. Evanston: Nhà xuất bản Đại học Tây Bắc.

Đại học Doane. (s / f). Lợi ích của giáo dục thẩm mỹ. Lấy từ doane.edu.

Hoogland, C. (2004). Một thẩm mỹ của ngôn ngữ. Lấy từ citeseerx.ist.psu.edu.

Khu trường cao đẳng cộng đồng Austin. (s / f). Mục đích văn học. Lấy từ austincc.edu.

Llovet, J. (2005). Lý luận văn học và văn học so sánh. Barcelona: Ariel.

León Mejía, A. B. (2002). Chiến lược phát triển truyền thông chuyên nghiệp. Mexico D. F.: Biên tập Limusa.

Nêu Ví Dụ Về 5 Chức Năng Của Tiền Tệ Câu Hỏi 1310417

1.Thước đo giá trị

Mỗi vật phẩm đều có giá trị khác nhau và được so sánh bằng giá trị của tiền tệ. Một đôi giày bảo hộ có giá trị bằng 7 xu ( tiền xu ngày xưa được làm từ nhôm). Một cuốn sách có giá trị bằng 2 đồng (tiền đồng được đúc từ đồng). Mà 2 đồng cũng có giá trị bằng 10 xu.Vì thế có thể nói Giá trị hàng hóa tiền tệ (vàng) thay đổi không làm ảnh hưởng gì đến “chức năng” tiêu chuẩn giá cả của nó.

2.Phương tiện lưu thông

Ngày xưa Việt Nam lưu hành những đồng tiền làm bằng nhôm. Để thuận tiện người ta đã đục lỗ ở giữa đồng tiền để tiện lưu trữ và đến. Những đồng tiền bị đục lỗ đó vẫn có giá trị lưu thông trong xã hội ngày đó.

Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. sở dĩ có tình trạng này vì tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò trong chốc lát. Người ta đổi hàng lấy tiền rồi lại dùng nó để mua hàng mà mình cần. Làm phương tiện lưu thông, tiền không nhất thiết phải có đủ giá trị.

Lợi dụng tình hình đó, khi đúc tiền nhà nước tìm cách giảm bớt hàm lượng kim loại của đơn vị tiền tệ. Giá trị thực của tiền đúc ngày càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó. Thực tế điều đó đã dẫn đến sự ra đời của tiền giấy. Bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là ký hiệu của giá trị, do đó việc in tiền giấy phải tuân theo quy luật lưu thông tiền giấy.

3.Phương tiện cất trữ

Người giàu ngày xưa hay có thói quen cất trữ vàng, bạc trong hũ, trong rương. Bạn dễ dàng nhìn thấy trong các phim truyện xưa, cổ tích, truyện trung đại…. . Ngày nay cũng có nhiều người có thói quen cất trữ tiền trong ngân hàng. Việc làm này không đúng vì tiền cất giữ phải là tiền có giá trị như tiền vàng, bạc.

4.Phương tiện thanh toán

Hiện nay ngân hàng điều cho vay tín dụng. Bạn dễ dàng trở thành con nợ hoặc người mắc nợ của ngân hàng nếu tiêu xài phung phí, không đúng cách.

6.Tiền tệ thế giới

Do ngành du lịch phát triển, nên mọi người dễ dàng du lịch nước ngoài. Khi đi du lịch bạn cần đổi tiền tệ của mình sang tiền tệ nước ngoài. Tỷ giá hối đoái dự vào nền kinh tế của các nước nên có giá trị khác nhau. Hiện tại, như Mỹ – Việt Nam là: 1 USA = 23.143 VNĐ…………..

Phong Cách Chức Năng Ngôn Ngữ

1. PHONG CÁCH CHỨC NĂNG NGÔN NGỮ SINH HOẠT: a. Ngôn ngữ sinh hoạt:

– Là lời ăn tiếng nói hằng ngày dùng để trao đổi thông tin, ý nghĩ, tình cảm,…đáp ứng nhu cầu của cuộc sống.

– Có 2 dạng tồn tại:

+ Dạng nói

+ Dạng viết: nhật kí, thư từ, truyện trò trên mạng xã hội, tin nhắn điện thoại,…

Ví dụ:

“Hắn hầm hầm, chĩa vào mặt mụ bảo rằng: – Cái giống nhà mày không ưa nhẹ! Ông mua chứ ông có xin của nhà mày đâu! Mày tưởng ông quỵt hở? Mày thử hỏi cả làng xem ông có quỵt của đứa nào bao giờ không?…”

( Chí Phèo – Nam Cao)

b. Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt:

– Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt là phong cách được dùng trong giao tiếp sinh hoạt hàng ngày, thuộc hoàn cảnh giao tiếp không mang tính nghi thức. Giao tiếp ở đây thường với tư cách cá nhân nhằm để trao đổi tư tưởng, tình cảm của mình với người thân, bạn bè,…

– Đặc trưng:

+ Tính cụ thể: Cụ thể về không gian, thời gian, hoàn cảnh giao tiếp, nhân vật giao tiếp, nội dung và cách thức giao tiếp…

+ Tính cảm xúc: Cảm xúc của người nói thể hiện qua giọng điệu, các trợ từ, thán từ, sử dụng kiểu câu linh hoạt,..

2. PHONG CÁCH CHỨC NĂNG NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT: a. Ngôn ngữ nghệ thuật:

– Là ngôn ngữ chủ yếu dùng trong các tác phẩm văn chương, không chỉ có chức năng thông tin mà còn thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người. Nó là ngôn ngữ được tổ chức, sắp xếp, lựa chọn, gọt giũa, tinh luyện từ ngôn ngữ thông thường và đạt được giá trị nghệ thuật – thẩm mĩ.

– Chức năng của ngôn ngữ nghệ thuật: chức năng thông tin & chức năng thẩm mĩ.

– Phạm vi sử dụng:

+ Dùng trong văn bản nghệ thuật: Ngôn ngữ tự sự (truyện ngắn, tiểu thuyết, phê bình, hồi kí…); Ngôn ngữ trữ tình (ca dao, vè, thơ…); Ngôn ngữ sân khấu (kịch, chèo, tuồng…)

+ Ngoài ra ngôn ngữ nghệ thuật còn tồn tại trong văn bản chính luận, báo chí, lời nói hằng ngày…

Ví dụ:

“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”

– Chiều xuân – Anh Thơ –

b. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật:

– Là phong cách được dùng trong sáng tác văn chương, nó không có giới hạn về đối tượng giao tiếp, không gian và thời gian giao tiếp.

– Đặc trưng:

+ Tính hình tượng:

Hình tượng là cái được gợi ra từ cái cụ thể của ngôn từ biểu đạt thông qua sự liên tưởng của người nghe, người đọc.

Xây dựng hình tượng chủ yếu bằng các biện pháp tu từ: ẩn dụ, nhân hóa, so sánh, hoán dụ, điệp…

VD câu ca dao:

Hỡi cô tát nước bên đàng Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?

Câu ca dao nêu ở trên: thể hiện cái đẹp trong lao động thông qua hình tượng ” múc ánh trăng vàng “. Nhờ hình tượng mà ngôn ngữ nghệ thuật thường có tính đa nghĩa, hàm súc.

+ Tính truyền cảm: ngôn ngữ của người nói, người viết có khả năng gây cảm xúc, ấn tượng mạnh với người nghe, người đọc.

VD: câu ca dao trên gợi ở người nghe những rung động trước vẻ đẹp của con người và thiên nhiên trong lao động sản xuất nông nghiệp.

+ Tính cá thể: Là dấu ấn riêng của mỗi người, lặp đi lặp lại nhiều lần qua trang viết, tạo thành phong cách nghệ thuật riêng. Tính cá thể hóa của ngôn ngữ còn thể hiện trong lời nói của nhân vật trong tp.

VD: Câu ca dao trên đã chọn được một hình ảnh độc đáo ” múc ánh trăng vàng ” để nói lên vẻ đẹp trong lao động

– Có 2 dạng tồn tại: dạng nói & dạng viết.

Ví dụ:

“Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do ! Dân tộc đó phải được độc lập!”

(Tuyên ngôn độc lập – Hồ Chí Minh)

b. Các phương tiện diễn đạt:

– Về từ ngữ: sử dụng ngôn ngữ thông thường nhưng có khá nhiều từ ngữ chính trị; ngược lại, nhiều từ ngữ chính trị có nguồn gốc từ VBCL nhưng được dùng rộng khắp trong sinh hoạt chính trị nên đã thấm vào lớp từ thông dụng, người ta không còn quan niệm đó là từ ngữ lí luận nữa [đa số, thiểu số, dân chủ, bình đẳng, tự do,…]

– Về ngữ pháp: Câu thường có kết cấu chuẩn mực, gần với những phán đoán logic trong một hệ thống lập luận. Liên kết các câu trong văn bản rất chặt chẽ [ Vì thế, Do đó, Tuy… nhưng….]

– Về các biện pháp tu từ: sử dụng nhiều biện pháp tu từ để tăng sức hấp dẫn cho lí lẽ, lập luận.

c. Đặc trưng phong cách ngôn ngữ chính luận:

Là phong cách được dùng trong lĩnh vực chính trị xã hội.

– Tính công khai về quan điểm chính trị: Văn bản chính luận phải thể hiện rõ quan điểm của người nói/ viết về những vấn đề thời sự trong cuộc sống, không che giấu, úp mở. Vì vậy, từ ngữ phải được cân nhắc kĩ càng, tránh dùng từ ngữ mơ hồ; câu văn mạch lạc, tránh viết câu phức tạp, nhiều ý gây những cách hiểu sai.

– Tính chặt chẽ trong diễn đạt và suy luận: Văn bản chính luận có hệ thống luận điểm, luận cứ, luận chứng rõ ràng, mạch lạc và sử dụng từ ngữ liên kết rất chặt chẽ: vì thế, bởi vây, do đó, tuy… nhưng…, để, mà,….

– Tính truyền cảm, thuyết phục: Thể hiện ở lí lẽ đưa ra, giọng văn hùng hồn, tha thiết, bộc lộ nhiệt tình của người viết

4. PHONG CÁCH NGÔN NGỮ KHOA HỌC: a. VB khoa học & Ngôn ngữ khoa học:

– VB khoa học gồm 3 loại:

+ VBKH chuyên sâu: dùng để giao tiếp giữa những người làm công việc nghiên cứu trong các ngành khoa học [chuyên khảo, luận án, luận văn, tiểu luận,…]

+ VBKH và giáo khoa: giáo trình, sách giáo khoa, thiết kế bài dạy,… Nội dung được trình bày từ thấp đến cao, dễ đến khó, khái quát đến cụ thể, có lí thuyết và bài tập đi kèm,…

– Ngôn ngữ KH: là ngôn ngữ được dùng trong giao tiếp thuộc lĩnh vực khoa học, tiêu biểu là các VBKH.

Tồn tại ở 2 dạng: nói [bài giảng, nói chuyện khoa học,…] & viết [giáo án, sách, vở,…]

Ví dụ:

“Đau mắt đỏ hay còn gọi là viêm kết mạc là tình trạng nhiễm trùng mắt thường gặp do vi khuẩn hoặc virut gây ra hoặc phản ứng dị ứng với triệu chứng đặc trưng là đỏ mắt. Bệnh thường khởi phát đột ngột (cấp tính), lúc đầu ở một mắt sau lây sang mắt kia…” b. Đặc trưng PCNN khoa học:

– Tính khái quát, trừu tượng :

+ Ngôn ngữ khoa học dùng nhiều thuật ngữ khoa học: từ chuyên môn dùng trong từng ngành khoa học và chỉ dùng để biểu hiện khái niệm khoa học.

+ Kết cấu văn bản: mang tính khái quát (các luận điểm khoa học trình bày từ lớn đến nhỏ, từ cao đến thấp, từ khái quát đến cụ thể)

– Tính lí trí, logic:

+ Từ ngữ: chỉ dùng với một nghĩa, không dùng các biện pháp tu từ.

+ Câu văn: chặt chẽ, mạch lạc, là 1 đơn vị thông tin, cú pháp chuẩn.

+ Kết cấu văn bản: Câu văn liên kết chặt chẽ và mạch lạc. Cả văn bản thể hiện một lập luận logic.

– Tính khách quan, phi cá thể:

+ Câu văn trong văn bản khoa học: có sắc thái trung hoà, ít cảm xúc

+ Khoa học có tính khái quát cao nên ít có những biểu đạt có tính chất cá nhân

5. PHONG CÁCH NGÔN NGỮ BÁO CHÍ: a. Ngôn ngữ báo chí:

– Là ngôn ngữ dùng để thông báo tin tức thời sự trong nước và quốc tế, phản ánh chính kiến của tờ báo và dư luận quần chúng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của XH. Tồn tại ở 2 dạng: nói [thuyết minh, phỏng vấn miệng trong các buổi phát thanh/ truyền hình…] & viết [báo viết]

Ví dụ:

“Sau khi Bộ GD&ĐT công bố phương án một kỳ thi chung thực hiện từ năm 2015, nhiều vấn đề vẫn được tiếp tục mổ xẻ. Để người dân hiểu rõ hơn về kỳ thi, lãnh đạo Cục khảo thí và Kiểm định chất lượng tiếp tục giải đáp các thắc mắc.” (http://vnexpress.net/)

b. Các phương tiện diễn đạt:

– Về từ vựng: sử dụng các lớp từ rất phong phú, mỗi thể loại có một lớp từ vựng đặc trưng.

– Về ngữ pháp: Câu văn đa dạng nhưng thường ngắn gọn, sáng sủa, mạch lạc.

– Về các biện pháp tu từ: Sử dụng nhiều BPTT để tăng hiệu quả diễn đạt.

c. Đặc trưng của PCNN báo chí:

– Tính thông tin thời sự: Thông tin nóng hổi, chính xác về địa điểm, thời gian, nhân vật, sự kiện,…

– Tính sinh động, hấp dẫn: Các dùng từ, đặt câu, đặt tiêu đề phải kích thích sự tò mò của người đọc.

6. PHONG CÁCH NGÔN NGỮ HÀNH CHÍNH – CÔNG VỤ: a. VB hành chính & Ngôn ngữ hành chính:

– VB hành chính là VB đuợc dùng trong giao tiếp thuộc lĩnh vực hành chính. Ðó là giao tiếp giữa Nhà nước với nhân dân, giữa nhân dân với cơ quan Nhà nước, giữa cơ quan với cơ quan, giữa nước này và nước kháctrên cơ sở pháp lí [thông tư, nghị định, đơn từ, báo cáo, hóa đơn, hợp đồng…]

Chức năng: thông báo và sai khiến. Chức năng thông báo thể hiện rõ ở giấy tờ hành chính thông thường, ví dụ như: văn bằng, chứng chỉ các loại, giấy khai sinh, hoá đơn, hợp đồng… Chức năng sai khiến bộc lộ rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản của cấp trên gởi cho cấp dưới, của nhà nước đối với nhân dân, của tập thể với các cá nhân.

– Ngôn ngữ hành chính là ngôn ngữ được dùng trong các VBHC. Đặc điểm:

+ Cách trình bày: thường có khuôn mẫu nhất định

+ Về từ ngữ: sử dụng lớp từ hành chính với tần số cao

+ Về kiểu câu: câu thường dài, gồm nhiều ý, mỗi ý quan trọng thường được tách ra, xuống dòng, viết hoa đầu dòng.

b. Đặc trưng PCNN hành chính:

– Tính khuôn mẫu: Kết cấu 3 phần

+ Phần đầu:

Quốc hiệu và tiêu ngữ

Tên cơ quan ban hành văn bản, dưới là số hiệu VB

Địa điểm, thời gian ban hành VB

+ Phần chính: Nội dung chính của VB

+ Phần cuối:

Chức vụ, chữ kí, họ tên của người kí VB, dấu của cơ quan

Nơi nhận

– Tính minh xác: Không dùng phép tu từ, lối biểu đạt hàm ý hoặc mơ hồ về nghĩa. Không tùy tiện xóa bỏ, thay đổi, sửa chữa nội dung. Đảm bảo chính xác từng dấu câu, chữ kí, thời gian. Gồm nhiều chương, mục để tiện theo dõi

– Tính công vụ: Không dùng từ ngữ biểu hiện quan hệ, tình cảm cá nhân [ nếu có cũng chỉ mang tính ước lệ: kính mong, kính gửi, trân trọng cảm ơn,…]. Dùng lớp từ toàn dân, không dùng từ địa phương, khẩu ngữ,…

Ví dụ: Đơn xin nghỉ học, Hợp đồng thuê nhà, ….

Các Phong Cách Chức Năng Của Ngôn Ngữ

a. Tính chính xác- đơn nghĩa

Tính chính xác được thể hiện trong cách dùng từ, đặt câu; tính minh bạch thể hiện trong kết cấu lô gíc, sự chặt chẽ giữa nội dung và hình thức nhằm đảm bảo cho nội dung nhất quán, rõ ràng và đơn nghĩa. Ngôn ngữ văn bản hành chính chỉ cho phép một cách hiểu duy nhất. Đặc điểm này quy định tính chất tu từ của văn bản hành chính: Ngôn ngữ trung hòa sắc thái biểu cảm, lời văn lạnh lùng và chính xác (khác với phong cách khoa học tuy tính chính xác cao nhưng cách thức trình bày và diễn đạt có thể vẫn mang màu sắc cá nhân). Đây là dấu hiệu của các loại văn bản hành chính. b. Tính khách quan

Tính chất này được thể hiện rõ ở cách trình bày. Đây là dấu hiệu chung cho tất cả các loại văn bản hành chính thể hiện tính xác nhận của tài liệu này. (Khác với phong cách ngôn ngữ khoa học ít nhiều vẫn mang dấu ấn của tác giả.). Các loại đơn từ cá nhân không mang danh nghĩa cá nhân, còn chữ kí của người chịu trách nhiệm chỉ khẳng định tính chất xác thực của tài liệu chứ không phải khẳng định tư cách tác giả xét về mặt phong cách ngôn ngữ. Tính nghiêm túc-khách quan còn thể hiện ở cách dùng từ ngữ mang tính chuẩn mực và tính quy định, loại trừ yếu tố cảm xúc, yếu tố cá nhân người viết. c. Tính khuôn mẫu

Văn bản hành chính luôn luôn tuân theo những khuôn mẫu đã được quy định về hình thức trình bày. Tùy thuộc vào từng kiểu loại cụ thể mà nó có những khuôn mẫu có thể được in sẵn. Trong nền hành chính hiện đại, mỗi một cơ quan, tùy theo chức năng và công việc mà người ta có thể soạn thảo các mẫu đơn có sẵn để sử dụng, tránh mất thời gian và sai quy cách. Ví dụ trong trường học cần có các mẫu in sẵn như: giấy mời họp phụ huynh, đơn xin phép nghỉ học, nghỉ dạy, đơn xin trợ cấp, đơn xin chuyển công tác, tờ trình điều chỉnh lương, đơn xin hết tập sự… Tuy nhiên, về mặt này nền hành chính chúng ta chưa đáp ứng được và ý thức về vấn đề quy chuẩn hóa các loại văn bản hành chính, thủ tục hành chính, cách thức tiến hành vẫn còn hết sức hạn chế.

III. ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ

1. Từ ngữ

Phong cách hành chính thường sử dụng những từ và cụm từ có tính chất quán ngữ. Nhờ sử dụng những khuôn mẫu có sẵn mà người thảo văn bản dễ dàng đạt được yêu cầu biểu đạt nội dung một cách chính xác và khách quan và do vậy người tiếp nhận cũng nắm bắt vấn đề một cách nhanh chóng.

Văn bản hành chính thường dùng các từ ngữ gọi tên các cơ quan như: BNN, Sở giáo dục, Bộ y tế, v.v…; tên chức vụ: công tố viên, bị cáo, vv; tên tài liệu: thông cáo, văn bản v.v…; sử dụng các quán ngữ: căn cứ, theo đề nghị của…v.v…; sử dụng nhiều từ Hán-Việt: khởi tố, bị can, lưu hành, truy cứu, vv…

Tóm lại từ ngữ trong phong cách hành chính là từ ngữ văn hóa, mang tính chuẩn mực, cụ thể và trung hòa sắc thái biểu cảm; không sử dụng các từ ngữ gợi hình, gợi cảm dễ xuyên tạc.

2. Cú pháp

Văn bản hành chính thường sử dụng những mẫu câu mang tính rập khuôn, mang sắc thái khách quan, lạnh lùng. Các loại câu cơ bản thường dùng trong phong cách này là:

– Câu tường thuật, câu cầu khiến, câu đơn bình thường với trật tự thuận. Không sử dụng câu hỏi và câu cảm thán.

– Không sử dụng lời nói trực tiếp (trừ văn bản tòa án) và những từ tình thái, những cấu trúc chêm xen có tính chất đưa đẩy.

IV. MỘT SỐ VĂN BẢN HÀNH CHÍNH THÔNG DỤNG

1. Nghị quyết

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ…

Thành phần tham dự: đại biểu, thành viên tham gia.

Sau một thời gian làm việc tích cực, nghiêm túc, Hội nghị đã nhất trí với những đánh giá trong bản tổng kết (năm cũ), cuối cùng đã đưa ra Quyết nghị với các nội dung sau:

1. Về công tác chính trị tư tưởng

– Tiếp tục phát động phong trào thi đua

– Phát huy vai trò lãnh đạo của… , tăng cường sự đoàn kết toàn… .

– Phấn đấu 100% cán bộ công chức…

2. Về công tác đào tạo

– Triển khai và thực hiện tốt nhiệm vụ…

– Điều chỉnh, hoàn thiện…

– Phát triển phong trào thi đua phấn đấu…

3. Về công tác nghiên cứu khoa học

– Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học.

– Khuyến khích và tạo điều kiện…

4. Về công tác cán bộ

– Có giải pháp tích cực để quy hoạch và tăng cường đội ngũ cán bộ…

– Động viên, khuyến khích cán bộ…

5. Về công tác thi đua

Phát động phong trào thi đua…

6, Về một số chỉ tiêu khác

Hội nghị đã biểu quyết một số chỉ tiêu cụ thể sau:

– Phấn đấu 100% cán bộ công chức đạt danh hiệu xuất sắc.

– 70 % cán bộ công chức đạt danh hiệu lao động tiên tiến.

Hội nghị đã nhất trí thông qua bản quyết nghị với đa số tán thành.

(đoàn chủ tịch cho hội nghị biểu quyết trước khi bản nghị quyết được biểu quyết lần cuối)

Chủ toạ Thư kí

Yêu cầu: Khảo sát sách giao khoa Ngữ văn tương ứng và viết hoàn chỉnh các văn bản hành chính thông dụng (4 vb/ 1 sv); Thực hành tại lớp: Xây dựng các mẫu văn bản trong Trường Đại học và Trường phổ thông tương ứng (Đơn xin học lại; Giấy xin phép nghỉ học; Đơn xin bảo lưu kết quả; Đơn xin dừng học…).

BÀI 4: PHONG CÁCH NGÔN NGỮ KHOA HỌC

I. KHÁI QUÁT

1. Định nghĩa

Phong cách khoa học là khuôn mẫu thích hợp để xây dựng lớp văn bản thể hiện vai của người tham gia giao tiếp trong lĩnh vực khoa học. Đó là vai của những nhà khoa học, nhà nghiên cứu, giáo viên, kĩ sư…

2. Các dạng của phong cách ngôn ngữ khoa học

– Dạng viết: Bao gồm các loại sau:

+ Các công trình nghiên cứu khoa học, tạp chí, tập san, báo cáo khoa học.

+ Các hình thức tóm tắt, giới thiệu, lược thuật khoa học…

+ Bài thi, luận văn, đề án tốt nghiệp, bài văn bình giảng…

– Dạng nói: Bao gồm các loại sau:

+ Lời giảng bài, lời thuyết trình trong các hội nghị khoa học…

+ Lời thuyết minh các công trình nghiên cứu khoa học.

+ Lời hỏi đáp về các vấn đề khoa học.

II. CHỨC NĂNG NGÔN NGỮ VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA PCKH

1. Chức năng ngôn ngữ

Ngôn ngữ phong cách khoa học có hai chức năng:

– Chức năng thông báo: là chức năng chủ yếu tạo nên tính khách quan và tính có vấn đề của văn bản khoa học.

– Chức năng giao tiếp lí trí: Giao tiếp lí trí vừa là thông báo vừa là chứng minh tính đúng đắn của vấn đề được trình bày. Chứng minh là đặc trưng khu biệt làm cho phong cách ngôn ngữ khoa học khác với các phong cách ngôn ngữ khác. Dựa vào tính chất thông báo và chứng minh mà người ta xác định được màu sắc phong cách ngôn ngữ khoa học.

2. Đặc trưng của phong cách ngôn ngữ khoa học

Phong cách ngôn ngữ khoa học có những đặc trưng cơ bản sau đây:

– Tính trừu tượng – khái quát: Vấn đề khoa học phải thông qua thao tác khái quát, trừu tượng hóa để nhận thức và phản ánh hiện thực khách quan. Nhiệm vụ của người viết văn bản khoa học là phát hiện các qui luật, vấn đề tồn tại trong sự vật hiện tượng nên không thể dừng lại ở cái riêng lẻ, bộ phận mà cần phải thông qua khái quát, thống kê để rút ra vấn đề mang tính chân lí.

– Tính lô gíc nghiêm ngặt: Trong văn bản khoa học, tính thuyết phục cho vấn đề đưa ra nhờ vào cách trình bày, lập luận chặt chẽ theo qui luật của tư duy lô gíc. Tính lô gíc ở đây thể hiện ở chỗ văn bản mang tính nhất quán trong việc phân bố tất cả các đơn vị tương ứng với nội dung hàm chứa. Các vấn đề đưa ra phải cân đối, hợp lô gíc và không gây ra mâu thuẫn. Lô gíc trong khoa học là lô gíc được chứng minh, khác với lô gíc trong nghệ thuật là lô gíc hình tượng.

– Tính chính xác-khách quan: Các vấn đề khoa học luôn luôn yêu cầu phải được phản ánh một cách khách quan và chính xác. Do vậy tính chính xác- khách quan là một thuộc tính hiển nhiên của văn bản khoa học. Trong ngôn ngữ khoa học, tính chính xác thể hiện ở tính đơn nghĩa của từ ngữ trong cách hiểu. Điều này khác với ngôn ngữ nghệ thuật, tính chính xác có nghĩa là trung thành với hình tượng tức là hình tượng phải điển hình.

III. ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ

1. Về từ ngữ

Phong cách ngôn ngữ khoa học thường xuyên dùng các thuật ngữ chuyên môn. Ví dụ: hàm số, mẫu số… trong toán học; điện trở, nhiệt lượng trong vật lí v.v. Các thuật ngữ, các từ chỉ khái niệm thường xuyên được sử dụng tùy theo chuyên ngành khoa học. Để đảm bảo tính chính xác-khách quan, từ ngữ trong văn bản khoa học chỉ được phép một cách hiểu duy nhất: ý nghĩa sự vật lô gíc và trung hòa sắc thái biểu cảm.

2. Về cú pháp

Tính chính xác chi phối cả về mặt cú pháp của văn bản khoa học. Văn bản khoa học thường sử dụng các kiểu kết cấu cú pháp sau đây:

– Sử dụng hình thức câu hoàn chỉnh với kết cấu chặt chẽ, rõ ràng.

– Sử dụng những câu ghép với các cặp từ hô ứng: Vì A nên B; nếu A thì B; để A nên B…

– Sử dụng nhiều phương tiện liên kết câu: như đã nói, Như vậy, Vậy cho nên, Nói tóm lại…

3. Kết cấu một văn bản khoa học:

Hình thức thông thường của một văn bản khoa học thường được trình bày theo kết cấu sau:

CÁC CHÚ Ý KHÁC

1. Cỡ chữ: 13-14 theo phông chữ Unicode

2. Giãn dòng: 29-30 dòng/trang (1,5 line)

3. Lề: trái: 3,5cm, phải: 2cm, trên-dưới: 2,5cm (có thể điều chỉnh cho hợp lí tùy theo tình hình và yêu cầu chung).

4. Tất cả các dấu câu đều đánh sát chữ bên trái, trừ dấu ngoặc đơn, dấu ngoặc kép thì dấu mở đánh kề chữ phải, dấu đóng đánh kề chữ trái.

Bài tập: Khảo sát sách Ngữ văn phổ thông về phong cách ngôn ngữ khoa học và lập đề cương cho một đề tài khoa học.

BÀI 6: PHONG CÁCH NGÔN NGỮ CHÍNH LUẬN

I. KHÁI QUÁT

1. Định nghĩa

Chính luận theo nghĩa hẹp (sgk lớp11 hiện hành) chỉ những lập luận trong lĩnh vực chính trị xã hội. Ví dụ, luận về các vấn đề như:

– Không có gì quý hơn độc lập, tự do (Hồ Chí Minh)

– Việt Nam và những thách thức mới về độc lập và phát triển

– Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng

– Cái giá độc lập của dân tộc Việt Nam

– Để cứu nước và giải phóng dân tộc, cách mạng vô sản là sự lựa chọn duy nhất của Việt Nam.

– Bản chất khoa học của Chủ nghĩa Mác

– Muôn nẻo cái sự nhầm

Phong cách ngôn ngữ chính luận là khuôn mẫu thích hợp để xây dựng lớp văn bản trong đó thể hiện vai của người tham gia giao tiếp trong lĩnh vực chính trị xã hội. Đó là vai của những nhà lãnh đạo, nhà hoạt động chính trị-xã hội, đảng viên, đoàn viên, cán bộ tuyên giáo v.v.

2. Các dạng của phong cách ngôn ngữ chính luận

-Dạng nói: Bài diễn thuyết, bài phát biểu trong mít tinh hay trong lễ đón tiếp ngoại giao, bài phát biểu trong hội nghị…

3. Các loại văn bản chính luận

– Văn bản nghị luận chính trị

– Văn bản nghị luận xã hội

II. CHỨC NĂNG NGÔN NGỮ VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA PHONG CÁCH CHÍNH LUẬN

1. Chức năng ngôn ngữ

– Chức năng giao tiếp lí trí: cung cấp thông tin/ kiến thức mới

– Chức năng thuyết phục (chứng minh và tác động)

Ngôn ngữ trong phong cách chính luận là ngôn ngữ tổng hợp, thuyết phục người nói, người nghe bằng những chứng cứ và lập luận vững chắc được trình bày theo những cách thức riêng mang màu sắc cá nhân. Phong cách ngôn ngữ chính luận cũng sử dụng cả những yếu tố tạo hình để tăng thêm sức hấp dẫn.

2. Đặc trưng của phong cách chính luận

– Tính lập luận chặt chẽ: Mục đích của văn bản chính luận là thuyết phục người nghe tin vào lập luận của mình là đúng. Do vậy yêu cầu phải có sự lập luận chặt chẽ trên cơ sở đưa ra được những luận điểm, luận cứ hợp lô gíc và có cơ sở khoa học thỏa đáng. Về điểm này ngôn ngữ chính luận gần với ngôn ngữ khoa học. Ví dụ: Có anh hùng vì có tập thể anh hùng. Có tập thể anh hùng vì có nhân dân anh hùng, Đảng anh hùng (Hồ Chí Minh); Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc, văn võ song toàn. Văn là chính trị: chính trị cứu nước cứu dân, nội trị, ngoại giao,”mở nền thái bình muôn thuở, rửa nỗi thẹn nghìn thu” (Bình Ngô Đại Cáo). Võ là quân sự: chiến lược và chiến thuật, “yếu thắng mạnh, ít địch nhiều… thắng hung tàn bằng đại nghĩa” (Bình Ngô Đại Cáo); văn và võ đều là võ khí, mạnh như vũ bão, sắc như gươm đao: “viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời” (Lê Quí Đôn), “văn chương mưu lược gắn liền với sự nghiệp kinh bang tế thế” (Phan Huy Chú). Thật là một con người vĩ đại về nhiều mặt trong lịch sử nước ta! (Phạm Văn Đồng); Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta (Lê Duẩn).

– Tính truyền cảm mạnh mẽ: Văn bản chính luận không những thuyết phục người đọc người nghe bằng lí trí mà còn bằng tình cảm. Chính vì vậy ngôn ngữ chính luận luôn luôn được diễn đạt một cách hùng hồn, sinh động và cảm động, lôi cuốn người nghe từ đầu đến cuối. Ví dụ: Đồng bào Nam Bộ là dân của nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn song chân lí đó không bao giờ thay đổi (Hồ Chí Minh); Hỡi đồng bào toàn quốc, chúng ta muốn hòa bình chúng ta đã nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa. Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào chúng ta phải đứng lên… (Hồ Chủ tịch). …Vì vậy, tôi để sẵn mấy lời này, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê Nin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột (Hồ Chí Minh – Di chúc).

III. ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ PHONG CÁCH CHÍNH LUẬN

1. Về từ ngữ

Phong cách chính luận thường sử dụng lớp từ ngữ có tính chất thuật ngữ của các ngành khoa học theo từng thể loại văn bản: nghị luận chính trị, kinh tế, văn hóa, văn học v.v. Từ ngữ chính trị đóng vai trò quan trọng trong việc bộc lộ thái độ của người nói. Qua việc lựa chọn từ ngữ, lập trường quan điểm của người nói, người viết đối với vấn đề nêu ra được thể hiện hết sức rõ ràng. Ví dụ: Hỡi đồng bào toàn quốc, chúng ta muốn… chúng ta đã… Nhưng… Không!…

2. Về cú pháp

Cú pháp của phong cách chính luận mang các đặc điểm sau:

– Có xu hướng đi tìm cách diễn đạt mới nhằm nhấn mạnh vấn đề hay bày tỏ thái độ của người nói, người viết. Ví dụ: Đảng ta là một đảng lãnh đạo, Đảng ta cần phải mạnh mẽ, trong sạchà Là một đảng lãnh đạo, Đảng ta cần phải mạnh mẽ, trong sạch; cái gì có lợi cho dân thì phải hết sức làm, dù là việc nhỏ. Cái gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh, dù là việc nhỏ (Hồ Chí Minh).

– Sử dụng những cách đặt câu có tính chất hội thoại tạo cho người đọc cảm giác quen thuộc, dễ hiểu. Ví dụ: Văn là chính trị, là nội trị, là ngoại giao…; Không!… Chúng ta thà hi sinh tất cả…, tôi ngồi trong phòng một mình mà sung sướng đến phát khóc lên…

– Linh hoạt sử dụng các kiểu câu khác nhau: câu đơn, câu ghép, câu cảm thán… Tuy vậy dù dùng kiểu câu nào đi chăng nữa thì vẫn đảm bảo tính trong sáng, cân đối, nhịp nhàng. Ví dụ: lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến

3. Các yếu tố tu từ trong phong cách chính luận

Ngôn ngữ chính luận sử dụng các phương tiện và các biện pháp tu từ ở nhiều cấp độ khác nhau. Mức độ sử dụng các yếu tố tu từ chỉ đứng sau ngôn ngữ nghệ thuật. Tuy nhiên việc sử dụng các yếu tố tu từ trong ngôn ngữ chính luận không nhằm mục đích làm cho văn bản chính luận có tính hình tượng như ngôn ngữ nghệ thuật mà chỉ nhằm cụ thể hóa vấn đề nêu ra một cách cụ thể cảm tính. Các yếu tố tu từ thường gặp trong loại văn bản này là cách sử dụng các từ giàu hình ảnh, các phương tiện ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa v.v. Các biện pháp tu từ thường gặp như: lặp cú pháp, đối chọi, câu hỏi tu từ v.v.

Yêu cầu: Khảo sát sách giáo khoa Tiếng Việt phổ thông và lập đề cương cho một văn bản chính luận sau đó viết thành bài hoàn chỉnh; Phân tích cách lập luận của Phạm Văn Đồng về Nguyễn Trãi hoặc một vấn đề tự chọn.

BÀI 7: PHONG CÁCH NGÔN NGỮ BÁO

I. KHÁI QUÁT

1. Định nghĩa

2. Các dạng của phong cách ngôn ngữ báo

3. Các loại văn bản báo

– Dựa vào ý nghĩa sự vật-lô gíc (tính chất thông tin):

+ Văn bản cung cấp thông tin.

+ Văn bản phản ánh công luận.

– Dựa vào đặc điểm kết cấu tu từ:

+ Tin tức tổng hợp hoặc mẩu tin.

+ Phóng sự điều tra, phỏng vấn.

+ Ý kiến bạn đọc và trả lời bạn đọc.

II. CHỨC NĂNG NGÔN NGỮ VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA PHONG CÁCH BÁO

1. Chức năng ngôn ngữ

Ngôn ngữ văn bản báo có hai chức năng:

– Chức năng giao tiếp lí trí: Giao tiếp lí trí được thực hiện thông qua tính thông báo và phản ánh sự việc, sự kiện mang tính thời sự xảy ra trong đời sống.

– Chức năng phát động: Ngoài chức năng giao tiếp lí trí, một chức năng mang tính đặc thù của ngôn ngữ báo đó là động viên, khích lệ người đọc, người nghe thực hiện một nhiệm vụ nào đấy.

2. Đặc trưng của phong cách ngôn ngữ báo

– Tính chiến đấu, thuyết phục, giáo dục: Báo chí đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội. Nó là diễn đàn của quần chúng lao động đấu tranh chống lại những gì phi đạo đức, trái pháp luật, bảo vệ công lí… nhằm làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Chính vì vậy báo chí là diễn đàn công khai của toàn thể nhân dân đấu tranh cho một mục đích cao cả và tốt đẹp đó là xây dựng một xã hội công bằng và văn minh.

– Tính thời sự cập nhật: Báo chí luôn luôn phản ánh những vấn đề hiện tại mang tính bức thiết nhất. Nếu đề cập những vấn đề của quá khứ hay tương lai thì bài báo đó cũng muốn hướng người đọc đi vào giải quyết những vấn đề hiện tại đang được đặt ra một cách khách quan. Ví dụ:

– Tính kích thích hấp dẫn: Phong cách báo đặc biệt chú trọng vào vấn đề lôi cuốn độc giả quan tâm tìm hiểu sự việc. Do vậy từ đầu đề đến cách kết cấu và cách dùng từ ngữ đều mang tính hấp dẫn, gợi trí tò mò và ý muốn tìm hiểu của người nghe, người đọc. Tính kích thích hấp dẫn thể hiện ngay trong cách đặt tên đầu đề các bài báo. Ví dụ: ca dao… cạo, Công ti trách nhiệm… vô hạn!…

– Tính ngắn gọn: do dung lượng tờ báo có giới hạn và do tính chất tức thời, nhanh chóng của người đọc nên bài báo phải đo đếm từng chữ. Những chữ còn bỏ được sẽ không được phép xuất hiện. Trường hợp bài dài phải đăng liên tiếp trong nhiều kì để đảm bảo cho tính phong phú của thông tin trong một tờ báo.

III. ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ

1.Về từ ngữ

Từ ngữ trong ngôn ngữ báo mang các đặc điểm sau đây:

– Phong cách ngôn ngữ báo sử dụng lớp từ ngữ mang đậm màu sắc biểu cảm, gợi hình, gợi cảm, giàu hình ảnh và mang đậm màu sắc tu từ. Ví dụ: Hội chứng Việt Nam, leo thang chiến tranh, chảy máu chất xám v.v.

– Phong cách báo luôn có xu hướng đi tìm cái mới trong cách dùng từ: người viết báo thường dựa vào các từ ngữ, các quán ngữ có sẵn để tạo nên các đơn vị, cách thức diễn đạt mới giàu tính hình ảnh và tính biểu cảm. Ví dụ: kiện tướng à kiện tướng đào đất, kiện tướng bơi lội…ổ gà à ổ voi, đường đủ mọi loại ổ v.v.

– Phong cách báo dùng nhiều từ viết tắt để đảm bảo tính thông tin cao trong một khuôn khổ không gian trình bày nhất định và giúp cho việc tiếp thu được thuận lợi. Ví dụ: ĐCS, CBCNV v.v.

2. Về cú pháp

Trong phong cách ngôn ngữ báo mặt cú pháp của nó có những đặc điểm sau đây:

– Sử dụng nhiều câu khuyết chủ ngữ nhằm làm cho nội dung thể hiện được ngắn gọn, cô đúc và tăng cường sức thuyết phục qua tính khách quan và tính mệnh lệnh của nó. Ví dụ: Cần phải học ăn, học nói, học gói, học mở, Hôm qua, ngày… khai mạc hội nghị các nước nói tiếng Pháp tại…

– Sử dụng câu có thành phần khởi ngữ để nêu bật thông tin. Loại câu này xuất hiện nhiều nhất là ở các đầu đề văn bản. Ví dụ: Nông trường 1/5 đi lên từ hai bàn tay trắng, Nước sạch cho nông thôn: một vấn đề bức xúc, Ixraen, trước tình trạng dã man của bọn khủng bố…

– Sử dụng những câu đơn kèm theo lời trích dẫn trực tiếp hoặc gián tiếp. Ví dụ: Dưới đầu đề Việt Nam: Một con hổ nhỏ mới? Báo Béclin ra ngày 31/12/91 nhận xét rằng…

Đặc điểm nổi bật của cú pháp phong cách ngôn ngữ báo là việc kết hợp chặt chẽ các hình thức cú pháp mang tính khuôn mẫu với yếu tố diễn cảm được thể hiện dưới những kiểu cú pháp hết sức phong phú và đa dạng.

– Phong cách ngôn ngữ báo sử dụng nhiều phương tiện và biện pháp tu từ nhằm đem lại cho văn bản tính cụ thể, tính gợi cảm và tính hấp dẫn cao.

Cần đặc biệt lưu ý rằng một số truyện ngắn, thơ đăng trên báo nhưng không thuộc phong cách ngôn ngữ báo mặc dù nó nằm trong hệ thống tài liệu đọc nhanh và mang tính thời sự sâu sắc.

Yêu cầu: Khảo sát sách giáo khoa Tiếng Việt phổ thông, viết mẩu tin và lập đề cương cho một bài báo.

BÀI 8: NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT

I. KHÁI NIỆM

1. Ngôn ngữ nghệ thuật

Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu và là một hệ thống tín hiệu đặc biệt. Nói đến tín hiệu là nói đến chức năng chứa đựng và truyền tải thông tin của chúng. Ngôn ngữ phi nghệ thuật chú trọng vào nội dung thông tin mà nó hàm chứa và chuyển tải thông qua tính lô gíc, tính trực tiếp, tính đơn nghĩa và tính tiếp nhận mau chóng để đối tượng giao tiếp dễ dàng nắm bắt và thực hiện các hành vi tương ứng. Do đặc điểm trên chi phối nên ngôn ngữ phi nghệ thuật là loại ngôn ngữ mang thông tin lô gíc và chỉ có một cách hiểu duy nhất cho tất cả các đối tượng tiếp nhận, chúng thực hiện chức năng quan trọng nhất là chức năng thông báo.

Khác với ngôn ngữ phi nghệ thuật, ngôn ngữ nghệ thuật là một hệ thống tín hiệu hết sức phức tạp và chặt chẽ. Tính phức tạp thể hiện trên hai bình diện: tính đa trị và tính đa phong cách. Ta có thể khám phá ra rất nhiều lớp nghĩa trong những đơn vị (một từ, một câu hay một văn bản) mang thông tin. Trong một tác phẩm văn chương cũng có thể tìm thấy các phong cách ngôn ngữ đan xen nhau một cách hài hòa tạo thành bản hòa tấu không có chi tiết thừa. Với đặc điểm đó đòi hỏi người thưởng thức và tìm hiểu nó phải có một năng lực tổng hợp về các loại tri thức và các thao tác để mổ xẻ và khai thác nó một cách khoa học. Tính chặt chẽ của ngôn ngữ văn chương được thể hiện ở tính hệ thống. Mỗi một tác phẩm là một tổng thể không thể tách rời. Tất cả các yếu tố của hệ thống đều là những dấu hiệu hướng vào sự thể hiện một thông điệp thống nhất. Chức năng quan trọng nhất của ngôn ngữ văn chương là chức năng thẩm mĩ, khác với ngôn ngữ phi nghệ thuật có chức năng quan trọng nhất là chức năng thông báo.

Ngôn ngữ phi nghệ thuật mang tính đơn nghĩa cũng đồng nghĩa với vai trò phản ánh các thuộc tính đơn lẻ của sự vật hiện tượng một cách khách quan. Trong thực tế cuộc sống, mọi sự vật đều tồn tại trong không gian và thời gian trong tư thế không ngừng biến đổi và nó được phản ánh dưới ý thức chủ quan của con người. Ngôn ngữ nghệ thuật là loại ngôn ngữ đa phong cách và đa giá trị, chỉ có nó mới đủ sức phản ánh những thuộc tính vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan của các sự vật hiện tượng trong đời sống chúng ta. Trong khi cố gắng phản ánh những thuộc tính của các sự vật hiện tượng một cách chính xác nhất, ngôn ngữ nghệ thuật trở thành thứ ngôn ngữ mẫu mực đạt đến trình độ phát triển cao. Điều này giải thích vì sao có nhiều ngôn ngữ của nhiều dân tộc không được xếp vào hàng ngũ ngôn ngữ văn học. Thời đại nào cũng vậy, vai trò của các nhà văn trong việc trau dồi ngôn ngữ dân tộc là không thể phủ nhận được. Ngôn ngữ nghệ thuật vì thế xứng đáng giữ vai trò trung tâm của ngôn ngữ dân tộc; sự phát triển của ngôn ngữ dân tộc luôn luôn gắn với các tên tuổi các nhà văn, nhà thơ lớn.

Khuynh hướng ngôn ngữ

Ngôn ngữ nghệ thuật

Ngôn ngữ phi nghệ thuật

Dấu hiệu cấu trúc hình thức

Ngữ điệu, hư từ

Thực từ

Đặc điểm cấu trúc nội dung

Đa trị, giàu hình ảnh, có khả năng gợi liên tưởng

Đơn trị, trừu tượng hóa, khái quát hóa

Ví dụ: Nhớ quá với nhớ ai ra ngẩn vào ngơ; thương lắm với thương thay thân phận đàn bà; thương quá là thương; thương ôi tài sắc bậc này; đến sông Hương uống rượu và say rượu với Sông Hương hoá rượu ta đến uống – Ta tỉnh đền đài ngả nghiêng say… – Nguyễn Trọng Tạo; mau già, già nhanh với tuổi già sầm sập đuổi sau lưng… Tóm lại ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ đa trị. Khi giải mã một văn bản nghệ thuật chúng ta cần thiết phải trả lời 2 câu hỏi: nó nói gì? và cái đó được nói theo cách nào? Giải thích ngôn ngữ nghệ thuật là đi tìm các giá trị của những cấu trúc bao nhau.

Hai phương thức tăng cường năng lực biểu đạt cho ngôn ngữ văn chương thông thường nhất là tạo nghĩa hàm ẩn và vận dụng quan hệ liên tưởng thông qua các phương tiện tu từ để mở rộng phương diện ý nghĩa.

Ngôn ngữ nghệ thuật phản ánh thế giới khách quan bằng hình tượng điển hình. Vì vậy nó là thứ ngôn ngữ được trau chuốt, chọn lựa, sắp xếp… đạt đến một trình độ cao nhất trong nhiệm vụ biểu đạt một nội dung nhất định.

Tóm lại ngôn ngữ ngệ thuật là ngôn ngữ trong các tác phẩm văn chương. Nó là một loại ngôn ngữ phức tạp, mang chức năng chủ yếu là chức năng thông báo thẩm mĩ thông qua sự cảm nhận về hình tượng nghệ thuật được xây dựng bằng chất liệu ngôn từ.

2. Văn học

Theo từ nguyên học, văn là một yếu tố Hán-Việt chính yếu tạo nên ngữ nghĩa cho từ văn chương. Nghĩa của từ văn được hình thành từ thời tiền Tần với khoảng 13 nét nghĩa chủ đạo: đường vân giao nhau, tu sức, điều kiện, tiết tấu, uy nghi, gắng gỏi, thành, động, mĩ-thiện, văn tự, đưa lại cảm hứng, lạc nghệ, văn chương… Khổng Tử coi văn là cái đẹp gắn liền với sự hiểu biết của con người về trí tuệ và đạo lí (văn hóa, lễ nghĩa…). Tóm lại văn được ngày xưa quan niệm là vốn hiểu biết nói chung tạo ra nét đẹp cho phẩm chất con người. Chương là cái tươi sáng. Văn chương là cái tươi sáng, cái đẹp do con người sáng tạo ra. Hiểu một cách khái quát, văn học là khoa học về văn chương. Vấn đề này có 4 quan niệm:

* Văn học là khoa học văn chương được hợp thành từ hai bộ phận, sáng tác văn học và phê bình văn học.

* Văn học là khoa học văn chương được hợp thành từ 3 bộ phận: lịch sử văn học; phê bình văn học; lí luận và phân tích văn học.

* M. Goocki nói: văn học là nhân học (là khoa học về (chất) người – khoa học nhân văn) chất người hay tính người là khái niệm dùng để chỉ những thuộc tính văn hóa có ở con người khi con người hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới theo những chuẩn mực của cái đẹp. Khái niệm này mang tính khái quát khi coi văn chương là một ngành nghệ thuật vận dụng tất cả các thành tựu của các khoa học và nghệ thuật khác làm chất liệu cho nó để sáng tạo ra những sản phẩm văn hóa tinh thần theo tiêu chuẩn của cái đẹp. Khi định nghĩa này được hiểu một cách cực đoan thì văn chương chỉ được chú trọng ở mặt nội dung biểu đạt.

* Lí luận văn học cho rằng văn học là nghệ thuật ngôn từ. Quan niệm này nếu xem ngôn ngữ là một loại tín hiệu có tính hai mặt thì đây là một định nghĩa đi thẳng vào bản chất của văn chương. Nêu lên được nghệ thuật sử dụng ngôn từ coi như chúng ta đang phân tích văn chương, còn trình bày được nội dung biểu đạt của tác phẩm coi như chúng ta mới tiếp cận được ý sơ đẳng nhất mà tác giả của tác phẩm văn chương muốn nói (tính võ đoán của ngôn ngữ thể hiện rõ nét nhất trong ngôn ngữ nghệ thuật). Cách hiểu này cũng dẫn đến tình trạng quá đề cao đến mặt hình thức của văn chương mà không thấy rằng hình thức và nội dung là một cặp phạm trù không tách rời nhau, chúng quy định và tác động qua lại lẫn nhau.