Vị Dụ Về Chức Năng Của Gia Đình Gdcd 10 / Top 5 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Chức Năng Cơ Bản Của Gia Đình Là Gì ? Khái Niệm Về Chức Năng Của Gia Đình

Chức năng cơ bản của gia đình là vai trò cơ bản của gia đình mà vai trò đó làm cơ sở cho toàn bộ sự hoạt động và phát triển của gia đình.

Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi nuôi dưỡng mỗi con người, có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của mỗi con người. Theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam thì gia đình có ba chức năng cơ bản: chức năng sinh đẻ, chức năng giáo dục, chức năng kinh tế. Chức năng sinh đẻ nhằm tái sản xuất ra con người, nhằm duy trì và phát triển nòi giống. Nhờ có chức năng sinh để của gia đình mà xã hội không thể bị diệt vong. Chức năng giáo dục nhằm trang bị cho con người những tri thức cần thiết để phục vụ cuộc sống, phục vụ cho sự phát triển của đất nước. Chức năng kinh tế của gia đình nhằm tạo ra những gia đình ấm no. Kinh tế gia đình phát triển thì nền kinh tế quốc gia mới hưng thịnh. Trong các chức năng trên, chức năng giáo dục đóng vai trò quan trọng. Ngoài ra, gia đình Việt Nam còn có chức năng quan tâm, chăm sóc, bảo vệ người cao tuổi.

Yêu cầu phản tố là gì ? Quy định về yêu cầu phản tố(09/11)

Yêu cầu của đương sự là gì ? Quy định về yêu cầu của đương sự(09/11)

Yếu tố nước ngoài là gì ? Quy định pháp luật về yếu tố nước ngoài ?(09/11)

Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa là gì ?(09/11)

Ý thức pháp luật là gì ? Quy định về ý thức pháp luật(09/11)

Ý thức công dân là gì ? khái niệm ý thức công dân được hiểu thế nào ?(09/11)

Ý chí nhà nước là gì ? Khái niệm ý chí nhà nước hiểu thế nào cho đúng ?(09/11)

Xử phạt vi phạm hành chính là gì ? Quy định về xử phạt vi phạm hành chính(09/11)

Xử lý vi phạm pháp luật là gì ? Quy định về xử lý vi phạm pháp luật(09/11)

Xử lý vi phạm kỷ luật lao động là gì ? Quy định về xử lí vi phạm kỷ luật lao động(09/11)

Bộ máy nhà nước là gì ? Khái niệm về bộ máy nhà nước ?

Vi phạm pháp luật là gì ? Quy định về hành vi vi phạm pháp luật

Quyền tham gia quản lí nhà nước và xã hội là gì ? Quy định về quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội

Gia Đình Là Gì? Phân Tích Các Chức Năng Cơ Bản Của Gia Đình

Các chức năng cơ bản của gia đình. Gia đình là tế bào của xã hội, Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình.Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.

Mỗi gia đình là một tế bào của xã hội, là nơi con người ta sinh ra và lớn lên, là nơi nuôi dưỡng các thế hệ về cả thể chất, trí tuệ lẫn đạo đức, nhân cách để hội nhập vào cuộc sống cộng đồng – xã hội và hơn nữa là trở thành những con người lương thiện, sống có ích, có nghĩa, có tình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt”.Vậy gia đình có những chức năng gì? Tầm quan trọng của việc nghiên cứu xã hội học gia đình đồi với lĩnh vực pháp luật?

Để hiểu được những vấn đề trên trước hết trước hết ta phải hiểu được khái niệm gia đình là gì?

Gia đình là thiết chế xã hội, trong đó những người có quan hệ ruột thịt (hoặc đặc biệt cùng chung sống). Gia đình là phạm trù biến đổi mang tính lịch sử và phản ánh văn hóa của dân tọc và thời đại. Gia đình là trường học đầu tiên có mối quan hệ biện chứng với tổng thể xã hội.

Gia đình – đơn vị xã hội (nhóm xã hội nhỏ), là hình thức tổ chức xã hội quan trọng nhất của sinh hoạt cá nhân dựa trên hôn nhân và các quan hệ huyết thống, tức là quan hệ vợ chồng, giữa cha và mẹ, giữa anh chị em và người thân thuộc khác cùng chung sống và có kinh tế chung.

“Gia đình là tế bào của xã hội, Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình.Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành những công dân tốt. Con cháu có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ.Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa các con.

Khái niệm về gia đình mang tính pháp lý ở Việt Nam được ghi trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Điều 8. Giải thích từ ngữ ): “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau theo hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo qui định của Luật này”.

Tóm lại Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt của con người, là một thiết chế văn hóa xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển dựa trên các mối quan hệ như: quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục giữa các thành viên trong gia đình.

“Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt”(5) Gia đình có ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã hội.

Gia đình đóng vai trò, vị trí hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của loài người. Gia đình được sinh ra, tồn tại và phát triển có sứ mệnh đảm đương những chức năng đặc biệt mà xã hội và tự nhiên đã giao cho, không thiết chế xã hội nào có thể thay thế được. Chức năng của gia đình là một khái niệm then chốt của xã hội học gia đình, các nhà nghiên cứu xã hội học gia đình trên cấp độ vi mô và cấp độ vĩ mô đều khẳng định những chức năng cơ bản của gia đình.

Quan hệ giữa gia đình và xã hội cũng như quan hệ giữa các thành viên và các thế hệ trong gia đình thông qua việc thực hiện các chức năng của gia đình, do đó trở thành đối tượng nghiên cứu chủ yếu của xã hội học gia đình. Các nhà xã hội học đã nghiên cứu về gia đình trên các cấp độ cả vi mô và vĩ mô đã cho thấy gia đình có các chức năng cơ bản sau: chức năng kinh tế, chức năng tái sinh sản, duy trì nói giống và chức năng giáo dục.

Đây là chức năng cơ bản quan trọng của gia đình nhằm tạo ra của cải, vật chất, là chức năng đảm bảo sự sống còn của gia đình, đảm bảo cho gia đình được ấm no, giàu có làm cho dân giàu, nước mạnh như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “dân có giàu thì nước mới mạnh “. Chức năng này bao quát về nhu cầu ăn, ở, tiện nghi, là sự hợp tác kinh tế giữa các thành viên trong gia đình nhằm thỏa mãn nhu cầu của đời sống.

Để có kinh tế của mỗi gia đình ngày càng được cải thiện và nâng cao, ngoài những thành viên đang còn ở độ tuổi trẻ em thì những thành viên đang ở độ tuổi lao động cần có một công việc, một mức thu nhập ổn định. Ngoài ra còn cần có nguồn thu nhập thêm để có thêm nguồn thu chi trả cho những chi phí lặt vặt hàng ngày.

Chức năng này góp phần cung cấp sức lao động – nguồn nhân cho xã hội. Chức năng này sẽ góp phần thay thế những lớp người lao động cũ đã đến tuổi nghỉ hưu, đã hết khả năng lao động linh hoạt, năng động, sáng tạo. Việc thực hiện chức năng này vừa đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của xã hội vừa đáp ứng được nhu cầu về tâm sinh lí, tình cảm của chính bản thân con người. Ở mỗi quốc gia khác nhau thì việc thực hiện chức năng này là khác nhau. Ví dụ:

Ở Việt Nam, thực hiện kế hoạch hóa gia đình, mỗi gia đình chỉ có từ 1 đến 2 con vừa đảm bảo được sức khỏe cho mẹ lại đảm bảo được chất lượng về cuộc sống cho gia đình và có điều kiện chăm sóc, dạy bảo các con.

Ở Trung Quốc hiện nay tỉ lệ nam giới đang có sự chênh lệch lớn so với nữ giới, vì thế nên nhà nước đang thực hiện chính sách khuyến khích sinh con một bề là con gái. Đến năm 2010, tại Trung Quốc, SRB đạt 118 bé trai/100 bé gái, giảm so với 121 (năm 2008), 119 (năm 2005), 121 (năm 2004). Tỷ số giới tính sẽ vẫn tiếp tục chênh lệch ở mức báo động 119 bé trai trên 100 bé gái vào những năm 2030.

Đây là chức năng hết sức quan trọng của gia đình, quyết định đến nhân cách của con người, dạy dỗ nên những người con hiếu thảo, trở thành người công dân có ích cho xã hội bởi gia đình là trường học đầu tiên và ở đó cha mẹ là những người thầy đầu tiên trong cuộc đời mỗi con người:” Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con; tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội.. ”

Mỗi gia đình đều hình thành tính cách của từng thành viên trong xã hội Gia đình là môi trường xã hội hóa đầu tiên của con người và là chủ thể của sự giáo dục. Như khoa học đã xác định rõ ràng, cơ sở trí tuệ và tình cảm cá nhân thường hình thành ngay từ thời thơ ấu. Gia đình trang bị cho đứa trẻ những ý niệm đầu tiên để lí giải thế giới sự vật, hiện tượng, những khái niệm về cái thiện và cái ác, dạy cho trẻ con hiểu rõ đời sống và con người, đưa trẻ con vào thế giới của những giá trị mà gia đình thừa nhận và thực hiện trong đời sống của nó.

Việt Nam là một quốc gia mang đậm nét đẹp truyền thống về đạo đức và lối sống thuần phong mĩ tục, vì thế nội dung giáo dục của gia đình cũng phải chú ý đến việc giáo dục toàn diện cả về phẩm chất đạo đức, kinh nghiệm, lối sống, ý thức, cung cách cư xử trong cuộc sống và giáo dục cả về tri thức…

Để chức năng này được thực hiện một cách có hiệu quả thì gia đình phải có phương pháp giáo dục, răn đe một cách đúng đắn. Ai sai thì nhận sai và sửa chữa chứ đừng vì cái tôi, cái sĩ diện và tính bảo thủ của mình mà cố chấp không thay đổi. Có nhiều gia đình dạy dỗ con cái bằng những trận đòn roi, những cái bạt tai đến tối mặt mũi.. Liệu đó có phải là biện pháp hiệu quả? Những biện pháp ấy chẳng những không đem lại tác dụng gì mà càng khiến con cái trở nên chai lì, tâm lí tiêu cực và mất đi tình cảm thân thiết, niềm tin vào những người trong cùng một mái nhà.

Thay bằng những trận đòn roi đến nhừ người thì những bậc cha mẹ nên dạy dỗ, chỉ bảo con cái mình nhẹ nhàng, phân tích rõ đúng sai để con trẻ hiểu. Hơn nữa những bậc cha mẹ, ông bà nên là một tâm gương để thế hệ trẻ noi theo. Các thành viên trong gia đình sống thuận hòa, vui vẻ, cùng nhau chia sẻ những khó khăn trong cuộc sống.

Lại có nhiều những gia đình cha mẹ mải kiếm tiền mà không biết hài hòa giữa vật chất và tinh thần nên không có thời gian quan tâm sát sao đến con cái khiến chúng trở nên sống buông thả, bị cám dỗ vào những tệ nạn xã hội, có những hành vi đi ngược lại với thuần phong mĩ tục và truyền thống đạo đức của dân tộc…

Tuy việc giáo dục ở gia đình chỉ là một khía cạnh nhưng đó vẫn là cái gốc, con người sẽ trở nên hoàn thiện hơn khi có sự kết hợp giáo dục cả ở gia đình, nhà trường, xã hội và hơn nữa là ý thức tự giác tu dưỡng rèn luyện từ phía mỗi người…

Thông qua việc thực hiện chức năng giáo dục, gia đình thực sự trở thành cầu nối không thể thay thế được giũa xã hội và cá nhân.

Gia đình là phạm trù lịch sử, biến đổi theo thời gian. Mỗi thời đại lịch sử cũng như mỗi chế độ xã hội đều sản sinh ra một loại gia đình, xây dựng một kiểu gia đình lí tưởng với chức năng xã hội của nó.

Ngoài ba chức năng cơ bản trên thì gia đình còn có chức năng thoả mãn nhu cầu tinh thần, tình cảm và chăm sóc sức khỏe. Đây là chức năng có ý nghĩa quan trọng trong việc chia sẻ tình yêu thương gắn bó giữa các thành viên của gia đình, đặc biệt là tình yêu hạnh phúc lứa đôi. Tổ ấm gia đình vừa là điểm xuất phát cho con người trưởng thành, vững tin bước vào cuộc sống xã hội, đồng thời cũng là nơi bao dung, an ủi cho mỗi cá nhân trước những rủi ro, sóng gió cuộc đời. Càng về cuối đời, con người càng trở nên thấm thía và khao khát tìm về sự bình ổn, thoả mãn nhu cầu cân bằng trạng thái tâm lý, tình cảm trong sự chăm sóc, đùm bọc của gia đình; chăm sóc sức khỏe, đảm bảo cho việc chăm sóc sức khỏe của các thành viên tron gia đình.

3. Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu xã hội học gia đình đối với lĩnh vực pháp luật

Xã hội học gia đình là ngành xã hội học chuyên biệt nghiên cứu hệ thống các nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài của của sự hoạt động, sự phát triển và sự thay đổi của gia đình với tư cách là hình thức hoạt động của con người, cơ cấu và các chức năng của gia đình trong những điều kiện kinh tế – xã hội và văn hóa cụ thể của xã hội.(7)

Xã hội học gia đình, với tư cách là lĩnh vực chuyên ngành của xã hội học, nghiên cứu các nhân tó bên trong của gia đình. Đó là những nhân tố như quan hệ hôn nhân nhân – huyết thống giữa các thành viên trong gia đình; tình cảm giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái; sự phân chia trách nhiệm và nghĩa vụ giữa các thành viên trong gia đình… Xã hội học gia đình cũng nghiên cứu các nhân tố bên ngài của gia đình. Chẳng hạn, mối quan hệ của gia đình với các lĩnh vực khác của xã hội như văn hóa, giáo dục, tôn giáo, kinh tế, với tổng thể các mối quan hệ xã hội.

Xã hội học gia đình bản thân nó là khoa học xã hội học chuyên biệt nghiên cứu về gia đình. Nó có những quy luật đặc thù riêng song cũng là bộ phận của xã hội học cho nên nó cũng đòi hỏi phải nghiên cứu gia đình một cách tổng thể trong mối quan hệ, sự tác động qua lại của các yếu tố cấu thành cơ cấu của gia đình, chức năng của gia đình đối với bản thân mối quan hệ nội tại của gia đình và mối quan hệ gia đình với mọi quan hệ của xã hội tổng thể.

Hiện thực xã hội luôn vận động, biến đổi và phát triển kéo theo sự biến đổi của các mỗi quan hệ xã hội. Pháp luật cũng phải vận động và phát triển tương ứng với từng giai đoạn lịch sử của xã hội. Nghiên cứu xã hội học gia đình nhằm có những căn cứ đúng đắn để đánh giá cơ cấu, thực trạng mức sống, nhu cầu, sự biến đổi trong cuộc sống của gia đình trong xã hội từ đó đưa ra các chính sách, điều luật phù hợp với xã hội thực tại. Ví dụ như về thời gian phụ nữ được nghỉ sau khi sinh là 4 tháng hay 6 tháng thì hợp lý? Các quy định ưu đãi cho hộ nghèo… Khía cạnh nghiên cứu này mang lại cho chủ thể của hoạt động xây dựng pháp luật sự hiểu biết đầy đủ, chân thực, khách quan về cơ cấu, tình hình thực tế, nguyên nhân của những mặt còn tồn tại… Thông qua việc nghiên cứu, các nhà làm luật sẽ tập hợp lại những nguyện vọng của nhân dân và thể hiện dưới những điều luật mang tính bắt buộc.

Đây cũng là hình thức thu thập thông tin, tài liệu lý luận và thực nghiệm phục vụ cho các dự án luật như: Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Lao Động, Luật Phòng Chống Bạo Lực Gia Đình,Luật Bình Đẳng Giới …và sau này có thể có thêm nhiều luật mới ra đời.

3.2.2 Ý nghĩa của xã hôi học gia đình đối với hoạt động thực hiện pháp luật

“Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích làm cho các quyết định của pháp luật đi vào thức tiễn của cuộc sống, trở thành hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật”(8) . Trong môi trường gia đình được giáo duc về việc thực hiện pháp luật các chủ thể sẽ có xử sự tích cực hơn trong việc thực hiện pháp luật

Gia đình là trường học đầu tiên của con người. Gia đình cũng cung cấp cho con mỗi thành viên dù ít dù nhiều những kiến thức cơ bản về pháp luật. Hiểu biết pháp luật thì sẽ thực hiện pháp luật và thiêú hiểu biết pháp luật thì sẽ thực hiện pháp luật. Nghiên cứu xã hội học gia đình để thấy được thực trạng bạo lực gia đình như thế nào, trẻ em có được đến trường không, có bị bóc lột sức lao động không…

3.2.3 Ý nghĩa của xã hôi học gia đình đối với hoạt động áp dụng pháp luật

Áp dụng pháp luật là hoạt động của các cá nhân có thẩm quyền nhằm cá biệt các quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể.

Gia đình ảnh hưởng trực tiếp đến ý thức pháp luật của những đứa con. Bố mẹ gương mẫu nghiêm chỉnh chấp hành luật lệ thì những đứa con cũng noi theo. Bố mẹ coi thường pháp luật thì những đứa con rất dễ bị ảnh hưởng.

3.3 Đối với ý thức pháp luật

“Ý thức pháp luật là thái độ, tình cảm của con người đối với pháp luật (pháp luật trong quá khứ hoặc hiện tai hay trong tương lai). Nó giữ vai trò chi phối tất cả các quá trình điều chỉnh hành vi của con người, bao gồm:

Thứ nhất là về hệ tư tưởng pháp luật: Nghiên cứu xã hội học gia đình để tìm hiểu về sự giáo dục con cái về pháp luật từ đó đưa ra các biện pháp nâng cao hiểu biết của nhgười dân về hệ thống luật pháp không chỉ trong nước mà con trên thế giới. Ví dụ như ban hành các chính sách, qui định về giáo dục phải phù hợp với từng địa phương (miền núi ít người khác với đồng bằng, nông thôn).

Thứ hai là về tâm lý pháp luật: Nhờ vào việc nghiên cứu xã hội học gia đình, chúng ta biết được thái độ, tình cảm của người dân đối với hệ thống pháp luật hiện hành đối với cuộc sống gia đình.

Ý thức pháp luật cá nhân: thể hiện thế giới quan pháp lý, thái độ pháp lý của cá nhân. Sự hình thành và phát triển ý thức pháp luật cá nhân là quá tình con người nhận thức, tích lũy những kiến thức về pháp luật và những hiện tượng pháp lý khác.Ý thức pháp luật bị chi phối bởi lập trường giai cấp, hệ tư tưởng thịnh hành trong xã hội, truyền thống dân tộc, điều kiện, hoàn cảnh sống.

Như vậy, những thói quen, tư tưởng trong gia đình tác động ít nhiều tới ý thức pháp luật mỗi cá nhân. Gia đình truyền thống nặng về tư tưởng nho giáo sẽ khó chấp nhận những điều luật hội nhập với thế giới. Đôi khi những suy nghĩ ấy lại có phần cổ hủ không theo kịp thời đại. Gia đình có lối sống theo kiểu phương đông phóng khoáng lại cảm thấy những điều luật thể hiện mặt truyền thống là rất bất cập và lạc hậu. Gia đình cũng dậy cho chúng ta biết ý thức đúng – sai và phải biết chịu trách nhiệm trước việc làm sai trái. Có thể thấy:”ý thức pháp luật của mỗi ca nhân được hình thành và phát triển trong môi trường sống của họ, qua sự giáo dục trong gia đình, nhà trường…”.

Ý thức pháp luật nhóm: được hình thành dựa trên quan điểm, tình cảm của một số các ca nhân có cùng thái độ, tình cảm với pháp luật, tuy nhiên ở đây gia đình cũng giữ một vai trò không nhỏ trong việc định hướng, hình thành ý thức pháp luật của cá nhân mỗi người.

Ý thức pháp luật xã hội: được hiểu là tổng thể những quan niện tư tưởng của xã hội đõ về pháp luật, trong một xã hội văn minh mà cơ sở là cac gia đình tiến bộ sẽ dẫn đến việc ý thức pháp luật tốt, việc thực hiện pháp luật được chấp hành cách nghiêm chỉnh. Điều này, phụ thuộc vào hiểu biết của mỗi cá nhân ở cả chiều rộng và chiều sâu,” hiểu được pháp luật càng đầy đủ, chính xác sẽ có điều kiện thực hiên chúng một cách nghiêm chỉnh…Ngược lại, không hiểu biết pháp luật, hiểu biết một cách không đầy đủ,không đúng đắn là một trong những nguyên nhân dẫn đến vi phạm pháp luật”.

Bất kì một xã hội nào muốn phát triển, ổn định và bền lâu thì rất cần có các gia đình – những tế bào nhỏ của xã hội ấm êm, hạnh phúc và phát triển cả về Đức – Trí – Thể – Mĩ. Nếu các chức năng của gia đình được các gia đình ý thức thực hiện một cách có hiệu quả thì chắc rằng đất nước sẽ ngày càng phát triển toàn diện hơn, nâng cao về đạo đức lối sống, trí tuệ của người Việt.

Xã hội học gia đình với các nghiên cứu thực tiễn từ các nhà khoa học đã khẳng định về vai trò, vị trí và chức năng của gia đình trong đời sống mỗi con người. Và việc nghiên cứu ấy có ý nghĩa thực tiễn đối với pháp luật và thể hiện rõ nhất ở ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Như vậy, xã hội học gia đình đóng góp một phần quan trọng vào nhận thức, ý thức và hành động của mỗi người từ đó hình thành nên hệ thống các tư duy một cách đúng đắn, mạch lạc mang lại một cuộc sống vui vẻ, hòa hợp và ý nghĩa

Một Số Chức Năng Của Gia Đình Hiện Nay

Gia đình là một xã hội thu nhỏ bao gồm một hay nhiều thế hệ khác nhau sống và hoạt động bên nhau một cách có tổ chức có nguyên tắc thành văn hay bất thành văn. Sự hòa thuận được đảm bảo bởi sự ấm cúng, cảm giác an toàn và tình yêu thương” [Vũ Dũng (2008), Từ điển Tâm lý học, NXB Từ điển Bách khoa, tr.205].

Các chức năng cơ bản của gia đình– Chức năng tái sản xuất ra con người, tất cả các nhóm xã hội, các thiết chế xã hội khác không có chức năng này, trừ gia đình. Việc thực hiện chức năng này không chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu, mong ước của người vợ, người chồng mà còn là vấn đề xã hội, vấn đề duy trì tính liên tục của xã hội.

– Chức năng xã hội hoá, giáo dục con cái: Có thể nói, giáo dục gia đình có ý nghĩa to lớn để giúp trẻ thành người. Ngôn ngữ mẹ đẻ, thói quen sinh hoạt gia đình, cách ăn mặc, giao tiếp, cách quan sát, các nhu cầu và phương thức thoả mãn nhu cầu đều được gia đình hướng dẫn, hướng trẻ theo một nếp sống, truyền thống ổn định. Đây chính là cơ sở đầu tiên và quan trọng bậc nhất để hình thành nhân cách trẻ sau này.

– Chức năng kinh tế: Chức năng kinh tế biểu hiện trên cả hai phương diện: sản xuất và tiêu dùng. Trong điều kiện hiện nay, nhiều gia đình có thành viên làm ở các công ty, nhà nước… chính vì vậy, chức năng kinh tế của gia đình được giảm nhẹ ở khâu tổ chức, sản xuất, nhưng với tư cách là đơn vị tiêu dùng thì tính toán thu chi hàng tháng, hàng năm vẫn là nỗi lo của các chủ gia đình.

– Chức năng thoả mãn các nhu cầu tâm lý của các thành viên trong gia đình. Đây là chức năng đặc biệt quan trọng trong việc chia sẻ trách nhiệm, tình yêu thương gắn bó giữa các thành viên trong gia đình. Gia đình là một cộng đồng đặc biệt, không một cộng đồng hay tổ chức nào có thể đem lại tình cảm ấm áp, sâu sắc và thiêng liêng như gia đình. Gia đình vừa là nơi nuôi dưỡng cho con người trưởng thành, đồng thời cũng là nơi bao dung, an ủi cho mỗi cá nhân trước những rủi ro, sóng gió của cuộc đời.

– Chức năng chăm sóc sức khỏe: Mặc dù hiện nay các dịch vụ y tế công cộng đã phát triển tốt, nhưng việc gia đình có trách nhiệm chăm sóc sức khoẻ cho các thành viên trong gia đình vẫn hết sức quan trọng, nhất là với người ốm, người già. Chăm sóc sức khoẻ ở đây không chỉ đơn thuần sức khoẻ về thể chất mà còn cả sức khoẻ tinh thần.

Mai Văn Hải (Viện Tâm Lý Học)

Bài 1: Cấu Trúc Và Chức Năng Của Gia Đình

Tóm tắt lý thuyết

Để đưa ra một khái niệm chuẩn xác về gia đình là một vấn đề hết sức khó khăn, phức tạp. Bởi mỗi một xã hội lại có một cách nhìn khác nhau về gia đình nên chúng ta chỉ có thể đưa ra khái niệm trong một hoàn cảnh cụ thể và trong một khung cảnh nhất định. Nếu như ở các nước Châu Âu coi gia đình đơn giản chỉ là một nhóm xã hội như bao nhóm xã hội khác thì ở các nước Á Đông, trong đó có Việt Nam luôn xem gia đình như một tế bào xã hội có đầy đủ các yếu tố sinh thành.

Vì vậy, theo nghĩa truyền thống chúng ta có thể xem xét gia đình như là một thiết chế xã hội đặc thù, là một nhóm xã hội nhỏ mà các thành viên chung sống với nhau trong một không gian sinh tồn, có quan hệ hôn nhân, huyết thống, tình cảm, nuôi dưỡng. Các thành viên gắn bó mật thiết với nhau bởi nghĩa vụ quyền lợi được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, nhằm đáp ứng nhu cầu riêng của mỗi người cũng như thực hiện vai trò của gia đình trước toàn xã hội.

Trong nghiên cứu của xã hội học, gia đình cũng được nhìn nhận tương tự “Gia đình là một nhóm xã hội được hình thành trên cơ sở hôn nhân và quan hệ huyết thống, những thành viên trong gia đình có sự gắn bó và ràng buộc với nhau về trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ có tính hợp pháp được nhà nước thừa nhận và bảo vệ”.

Gia đình được xác định trên hai phương diện, nó vừa là một nhóm sinh học vừa là một nhóm xã hội. Tuy nhiên, ở đây chúng ta hướng sự quan tâm đến mặt xã hội của nó, đó là những quan hệ hướng nội và hướng ngoại của gia đình.

Gia đình mở rộng (gia đình kép): Kiểu gia đình này có từ ba thế hệ trở lên mà chúng ta thường gọi là “tam, tứ đại đồng đường”, các thành viên gồm ông bà, cha mẹ, con cháu, còn có thể là chú, bác, cô, dì… cùng sống chung với nhau dưới một mái nhà. Giữa họ thường có quan hệ huyết thống với nhau. Vì vậy giữa các thế hệ có sự gắn bó tình cảm sâu sắc nhờ đó bảo tồn được các giá trị truyền thống như hiếu thảo, kính trên nhường dưới và có sự phân công lao động rõ ràng trong gia đình như người chồng, người cha có nhiệm vụ lao động kiếm thu nhập… Việc giáo dục trẻ em và chăm lo cho người già vì thế được tốt hơn.

Tuy nhiên kiểu gia đình này cũng có nhược điểm, đó là sự xung đột giữa các thế hệ trong gia đình vì sự khác biệt về tuổi tác cũng như hoàn cảnh, điều kiện sống nên sự bất đồng về nhiều vấn đề là tất yếu không thể tránh khỏi, thường gặp đại loại như xung đột giữa ông bà – con cháu, mẹ chồng – nàng dâu… Bên cạnh đó là việc duy trì những hủ tục lạc hậu từ thời xưa như trọng nam khinh nữ, người phụ nữ không có quyền hành gì trong gia đình, phải phụ thuộc và đàn ông…

Kiểu gia đình này rất phổ biến trong xã hội nông thôn truyền thống, song nó đang giảm dần trong xã hội hiện đại.

Gia đình hạt nhân (gia đình đơn): Đây là kiểu gia đình cơ bản và đơn giản nhất nhưng chiếm đại đa số trong xã hội hiện nay. Gia đình này có cấu trúc đơn giản chỉ gồm hai thế hệ là cha mẹ và con cái, phổ biến ở phương Tây và những đô thị lớn của Việt Nam. Ba quan hệ cơ bản của kiểu gia đình này là: Vợ – chồng, cha mẹ – con cái, anh – chị – em. Gia đình đơn được hình thành khi con cái kết hôn, thoát ly khỏi cha mẹ, tách ra thành một đơn vị kinh tế độc lập và sinh con cái.

Kiểu gia đình này tạo điều kiện cho các cá nhân phát huy khả năng tự lập, tự giải quyết những vấn đề trong cuộc sống mà không còn phải phụ thuộc vào cha mẹ. Trong gia đình hạt nhân, chế độ gia trưởng đã phải nhường bước dần cho sự bình đẳng ngày càng phát triển hơn giữa nam và nữ, vợ và chồng. Công việc nội trợ không còn là bổn phận duy nhất của người phụ nữ, cũng như công việc kiếm tiền, nuôi sống gia đình không còn là nhiệm vụ duy nhất của nam giới. Các thành viên ít chịu sự giám sát lẫn nhau. Họ được tự do và ít nhiều được sống theo cách của mình chứ không bị áp đặt trong khuôn mẫu như trước kia. Thế hệ thanh niên thời đại mới tự do hơn, phóng khoáng, sáng tạo và mạnh mẽ hơn để thích nghi với đòi hỏi của môi trường xã hội hiện đại.

Tuy nhiên, do vấn đề tự do được đề cao nên cha mẹ khó kiểm soát được con cái, sự bận rộn với công việc khiến trẻ thiếu sự quan tâm giáo dục của cha mẹ nên dễ sa vào hư hỏng; ông bà về già bị cô đơn, thiếu sự chăm sóc, phụng dưỡng của con cháu; giảm khả năng bảo lưu các giá trị truyền thống của gia đình.

Trong tương lai, kiểu gia đình hạt nhân sẽ ngày càng chiếm ưu thế vì nó phù hợp với sự phát triển của xã hội hiện đại và năng động. Ở Việt Nam hiện nay thì kiểu gia đình này tồn tại phần lớn ở các gia đình trí thức, viên chức nhà nước, công nhân công nghiệp, gia đình quân đội, gia đình công an.

Gia đình mẫu hệ mới: Là gia đình chỉ có mẹ và con cái, không có người đàn ông đóng vai chồng. Kiểu gia đình này xuất hiện do sự phát triển của xã hội làm thay đổi nhận thức của mỗi người về quan niệm hôn nhân, tình yêu và vấn đề tình dục trở nên cởi mở hơn, cũng như chất lượng cuộc sống không ngừng tăng lên, tự do cá nhân được đề cao làm xuất hiện kiểu gia đình mới này.

Gia đình phụ hệ: Là gia đình có huyết thống tính theo dòng cha, khác với mẫu hệ tính theo dòng mẹ. Biểu hiện của gia đình phụ hệ có thể nhận biết qua hình thức tổ chức gia đình, dòng họ do người đàn ông (người cha) đứng đầu, vai trò người cha, con trai trong gia đình được đề cao, cách thức đặt tên con theo họ hay tên của cha, kế thừa gia sản, hình thái hôn nhân, nơi cư trú trong hôn nhân là ở gia đình xuất thân của người cha (tức bên nội).

Gia đình thiếu: Là gia đình một vợ một chồng, không có con cái do vô sinh hoặc do họ không muốn có con. Đây là kiểu gia đình đang ngày một gia tăng ở các nước phát triển. Trong xã hội công nghiệp hiện đại, con người có xu hướng kết hôn muộn và không muốn sinh con đẻ cái. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân trong đó chủ yếu là họ dành thời gian cho công việc và phát triển sự nghiệp của mình. Vì vậy việc xuất hiện của đứa trẻ trong gia đình sẽ khiến cho vợ chồng mất đi quỹ thời gian làm việc. Hệ quả là gia đình mất đi chức năng cơ bản của nó là tái sản xuất xã hội, thiếu tình cảm gắn bó giữa các thành viên và quan trọng là thiếu sợi dây liên kết giữa vợ và chồng là con cái, dễ dẫn đến sự rạn nứt tình cảm và đổ vỡ gia đình mà biểu hiện là ly hôn. Không những thế, kiểu gia đình này gia tăng sẽ gây ra tình trạng già hóa dân số, thiếu nguồn nhân lực cho tương lai, đặt ra vấn đề nan giải cần xã hội giải quyết.

Gia đình đa hôn: Gồm hai biến thể là:

Đa thê: Người đàn ông cùng một lúc có nhiều vợ. Điều này thể hiện rõ sự bất bình đẳng giữa nam và nữ trong đó người phụ nữ hoàn toàn lệ thuộc vào người đàn ông và không có bất cứ quyền hành gì trong gia đình, đồng thời giữa những người phụ nữ có sự áp bức lẫn nhau như giữa vợ lớn với vợ thứ, giữa những người vợ thứ với nhau, vô tình góp phần làm tăng quyền lực của người chồng, củng cố sự áp bức lên những người vợ. Đây là kiểu gia đình tồn tại phổ biến trong xã hội phong kiến khi địa vị của người đàn ông trong xã hội được đề cao. Tuy nhiên trong xã hội hiện đại, mô hình gia đình này đang dần mất đi vì phần lớn hệ thống pháp luật các nước trên thế giới quy định hôn nhân một vợ một chồng, bình đẳng với nhau.

Đa phu: Tức một người vợ đồng thời có nhiều chồng. Kiểu gia đình này hiếm hơn gia đình đa thê nhưng vẫn còn tồn tại ở một số dân tộc ít người ở những vùng hẻo lánh trên thế giới, nơi vẫn còn tồn tại chế độ mẫu hệ.

Gia đình đồng giới: Đây là gia đình của những người cùng giới tính chung sống với nhau như một gia đình bình thường. Luật pháp một số nước trên thế giới thừa nhận hôn nhân đồng tính như bằng California (Mỹ), Hungary, Anh, Đan Mạch… Nhưng ở Việt Nam hiện nay, kiểu gia đình này không được pháp luật và dư luận xã hội chấp nhận.

Chức năng tái sản sinh xã hội

F.Engels viết: “Nhân tố quyết định trong lịch sử qui cho đến cùng là sản xuất và tái sản xuất. Nhưng bản thân sự sản xuất đó có hai loại: Một là sản xuất ra tư liệu sản xuất, ra thức ăn, gạo, nhà ở và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó, hai là sự tự sản xuất ra chính bản thân con người, là sự truyền nòi giống.

Một trong những chức năng cơ bản của gia đình là duy trì nòi giống, tạo ra những thế hệ con cháu tiếp nối. Đó không chỉ là nhu cầu sinh lý, thỏa mãn việc tái sản xuất ra con người cho xã hội mà còn thỏa mãn nhu cầu có con, tạo niềm vui, hạnh phúc vợ chồng.

Xã hội phát triển không ngừng và gia đình đóng một vai trò là tế bào trong xã hội đó. Chính vì thế, chức năng tái sinh sản của gia đình không còn đơn thuần chỉ là việc tái sinh sản ra những thế hệ tiếp nối theo quan niệm “trời sinh voi sinh cỏ” mà còn phải thỏa mãn nhu cầu tạo ra những thế hệ toàn diện, những công dân tốt, khỏe mạnh về thể chất, tinh thần. Để tiếp nối những thành tựu của con người từ những thế hệ đi trước và biết phát huy, sáng tạo ra những thành tựu sau này phục vụ cho nhu cầu sống và khám phá ngày càng cao của xã hội và nhân loại, chức năng tái sản xuất của gia đình có một vai trò quyết định.

Là một chức năng quan trọng của gia đình mà xã hội không thể thay thế được, là sự hình thành nên một con người mới. Giáo dục cho thế hệ mai sau trong từng gia đình những tri thức về cuộc sống, mong muốn thế hệ mai sau của mình có những phẩm chất phù hợp với những định hướng giá trị của xã hội ở từng giai đoạn phát triển nhất định bởi gia đình là môi trường giáo dục quan trọng và thuận lợi cho nuôi dưỡng và giáo dục thế hệ trẻ, là trường học học đầu tiên hình thành nhân cách và năng lực cá nhân.

Để phát triển thành một con người trưởng thành, đứa trẻ đó phải trải qua những năm tháng phát triển nhất định theo quy luật tự nhiên như từ lúc trẻ sơ sinh đến khi 14-15 tuổi là giai đoạn quyết định sự hình thành về tố chất và phẩm chất cá nhân, 16-17 tuổi là giai đoạn tiếp tục hoàn thành các phẩm chất đã hình thành và định hướng nghề nghiệp. Trong các quá trình này, vai trò của những thành viên khác trong gia đình đặc biệt là cha mẹ, cần phải có sự quan tâm về mặt tâm lý, tình cảm, lối sống… điều này mang một ý nghĩa định hướng quan trọng trong việc phát triển toàn diện của con mình, bởi họ là người trực tiếp gần gũi và trong một giai đoạn nhất định còn là tấm gương, hình mẫu cho con mình trước khi bước vào môi trường giáo dục ngoài xã hội. Vì thế, gia đình phải là ngôi trường đầu tiên hướng dẫn cho thế hệ mai sau của mình những kỹ năng cần thiết để hòa nhập xã hội trong những bước chân đầu tiên tiến gần đến kỹ năng xã hội. Tuy nhiên, việc giáo dục còn tùy thuộc vào từng gia đình, bởi các vấn đề như hoàn cảnh kinh tế, trình độ học vấn của bố mẹ, địa bàn cư trú của gia đình, sự định hướng giá trị – nghề nghiệp của mỗi gia đình là khác nhau.

Chức năng kinh tế và văn hóa

Mỗi gia đình đều có những nhu cầu sinh hoạt khác nhau cũng như những nhu cầu thiết thực về ăn, uống… nhằm duy trì sự ổn định về đời sống vật chất cho các thành viên trong gia đình. Gia đình thể hiện kinh tế chung từ kinh tế của các thành viên trong gia đình, là một bên thành phần trong quan hệ kinh tế thông qua tiêu dùng, mua – bán, đảm bảo nhu cầu vật chất và tinh thần cho các thành viên trong gia đình.

Cuộc sống phát triển cao, nhu cầu của con người ngày càng nhiều. Gia đình không chỉ có chức năng kinh tế mà còn có chức năng văn hóa xuất phát từ nhu cầu giải trí, nghỉ ngơi, sinh hoạt văn hóa, thể thao, du lịch… Đáp ứng như một món ăn tinh thần làm cho cuộc sống thêm phong phú thể hiện trình độ phát triển cao, sự tinh tế, hướng về khía cạnh của cuộc sống, phát triển tâm hồn con người, chú trọng đến cái nội tâm bên trong để đạt đến sự phát triển hoàn thiện nhất.

Chức năng thỏa mãn nhu cầu tình cảm, tâm lý.

Trong một gia đình tồn tại nhiều nhu cầu khác nhau, trong đó có nhu cầu về mặt tình cảm, tâm lý của các thành viên trong gia đình. Gia đình là nơi mỗi cá nhân có thể chia sẻ những cảm xúc riêng tư nhất mà thông qua quá trình giao tiếp trong xã hội họ không thể bày tỏ, đó là nơi nghỉ ngơi và tụ họp, mọi người cùng bộc bạch cảm xúc cho nhau bằng ngôn từ và cử chỉ, vì vậy mọi căng thẳng, áp lực từ cuộc sống, việc học tập như được giảm nhẹ. Gia đình là nơi mà họ có thể bình tâm suy nghĩ, tiếp nhận được những lời khuyên chân tình, sự động viên, khích lệ của các thành viên mà nhờ đó những vấn đề khó xử của một người có thể được đưa ra bàn bạc và cùng nhau giải quyết và do đó gia đình là nơi tạo ra nguồn động lực để một người có thể tiếp tục thực hiện tốt vai trò của một công dân trong xã hội. Hơn nữa, gia đình còn là nơi con người có thể sống thoải mái nhất trong những cử chỉ, hành vi, ngôn từ mà không cần rào trước đón sau hoặc tuân theo những quy tắc ứng xử trong xã hội, chính vì thế mà năng lượng được tái tạo. Có thể nói, gia đình là điểm tựa vững chắc cho mỗi con người trong mọi và chạm với xã hội.

Chức năng chăm sóc người già và trẻ em

Xã hội phát triển đồng nghĩa với việc cải tiến của công nghệ máy móc hiện đại trong đó các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe cho con người ngày càng được nâng cao và quan tâm nhiều hơn, từ đó dẫn đến xu hướng các thành viên ít có sự quan tâm hơn trước về việc chăm sóc gia đình của mình vì cho rằng xã hội đã có đủ điều kiện đáp ứng. Nhưng thực chất chức năng này của gia đình cũng hết sức quan trọng bởi đây không phải chỉ là vấn đề chữa bệnh mà còn là việc chăm sóc, an ủi kịp thời về mặt tâm lý, tình cảm đối với người ốm đau bệnh tật.

Gia đình sẽ biến đổi cùng với sự phát triển của xã hội và nhất là trong xã hội công nghiệp hóa – đô thị hóa, những thay đổi chúng ta dễ dàng nhận thấy nhất đó là sự thay đổi về chức năng, cấu trúc và vai trò của nó.

Mất đi dần chức năng xã hội hóa.

Trong xã hội nông nghiệp, gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc truyền thụ nghề nghiệp, chuyển giao kiến thức, hình thành các kỹ năng, chỉ dẫn vai trò, giáo dục các khuôn mẫu xã hội.

Gia đình là môi trường giáo dục cơ bản và sớm nhất trong đời người gia đình luôn kết hợp toàn diện và bằng nhiều hình thức khác nhau cùng với xã hội thực hiện chức năng của mình.

Biểu hiện cho chức năng này của gia đình trong xã hội xưa là sự xuất hiện của các làng nghề gia truyền trong đó nghề nghiệp trong gia đình được truyền từ đời này qua đời khác, từ thế hệ này qua thế hệ khác một trong gia đình.

Tuy nhiên không phải lúc nào gia đình là môi trường đầy đủ đảm bảo xã hội hóa cho các thành viên trong gia đình. Đặc biệt trong xã hội công nghiệp hóa – đô thị hóa hiện nay chức năng này một phần chuyển sang cho nhà trường. Nhà trường là nơi cung cấp các kiến thức chuyên môn, tay nghề, học vấn qua hệ thống giáo dục đào tạo.

Trong khi các thiết chế giáo dục càng tỏ ra hoàn thiện thì chức năng xã hội hóa trẻ em ở gia đình càng thu hẹp lại. Đặc biệt là trong việc chuẩn bị các kỹ năng nghề nghiệp, đào tạo tay nghề, kiến thức chuyên môn ở mức độ cao đủ đáp ứng các yêu cầu của xã hội công nghiệp thì chỉ có các trường đại học, cao đẳng, trung học dạy nghề mới có thể đáp ứng được.

Giảm dần chức năng chăm sóc, bảo vệ trẻ em, nuôi dưỡng người già và các thành viên khác trong gia đình.

Trong xã hội truyền thống nông nghiệp, gia đình có vai trò rất lớn giúp đỡ thân nhân trong những lúc khó khăn, chẳng hạn như khi ốm đau, bệnh tật, công việc, học hành… Đặc điểm này xuất phát từ kiểu gia đình kép trong xã hội nông nghiệp khi mà các thế hệ ông bà, cha mẹ, con cái cùng sống chung trong một nhà. Chính đặc điểm này đã giúp cho các thế hệ trong gia đình gắn bó với nhau hơn, giữ gìn được truyền thống của các thế hệ trong nội bộ gia đình, dòng họ, bảo tồn các tập tục lễ nghi, có điều kiện chăm sóc người già và thế hệ trẻ.

Tuy nhiên, trong xã hội công nghiệp thì vai trò này chuyển dần sang cho các tổ chức xã hội khác. Trẻ em thì giao phó cho nhà trẻ, mẫu giáo, người già thì phó mặc cho nhà dưỡng lão hoặc đau lòng hơn là để họ tự lo lấy.

Xã hội càng hiện đại con người càng có nhiều mối quan hệ, các thành viên trong gia đình còn nhiều vấn đề phải giải quyết nên sự can thiệp, hỗ trợ của các cơ quan tổ chức trong lúc này là cần thiết. Tuy nhiên sự thay đổi này dẫn tới một hiện tượng tiêu cực đó là mối quan hệ gia đình ngày càng trở nên lỏng lẻo, cha mẹ không kiểm soát hết được hành vi của con cái, người già luôn bị cô đơn, thiếu thốn về vật chất, tinh thần.

Mất đi chức năng đơn vị kinh tế độc lập.

Gia đình trong xã hội nông nghiệp vừa là đơn vị sản xuất vừa là đơn vị tiêu dùng. Trong xã hội đó gia đình kép là phổ biến, gồm nhiều thế hệ chung sống với nhau, họ cùng nhau trồng trọt, chăn nuôi, sản xuất tiêu thủ công nghiệp, họ tạo ra các sản phẩm phục vụ cuộc sống hàng ngày của họ. Mặt khác, cũng đóng vai trò là đơn vị tiêu dùng, vì gia đình trong xã hội nông nghiệp vẫn phải tiêu thụ các sản phẩm của xã hội để phục vụ đầy đủ cuộc sống của họ, nhất là những mặt hàng họ không tự mình sản xuất ra được.

Trong xã hội công nghiệp hóa – đô thị hóa thì gia đình chỉ còn một chức năng duy nhất là đơn vị tiêu dùng, vì những điều kiện khách quan cho sản xuất không còn nữa.

Giảm thiểu vai trò thỏa mãn các nhu cầu văn hóa, tinh thần.

Trong xã hội nông nghiệp các hoạt động vui chơi, giải trí, nghỉ ngơi, sinh hoạt văn hóa diễn ra ở gia đình, dòng họ, làng xóm. Các lễ hội, ngày hội của làng xóm thu hút đông đảo sự tham gia của các thế hệ đặc biệt là các thế hệ trẻ, họ cùng nhau chơi các trò chơi dân gian, hát đối, nam nữ tìm hiểu lẫn nhau và cũng chính đặc điểm này làm cho quan hệ hôn nhân trong xã hội nông nghiệp diễn ra trong một phạm vi hẹp thường chỉ trong làng xóm với nhau. Tuy nhiên, trong xã hội công nghiệp, đô thị thì các hoạt động vui chơi, giải trí, nghỉ ngơi, sinh hoạt văn hóa thường diễn ra trong nhà hát, câu lạc bộ, công viên, nhà thờ, chùa, quán ăn, bên ngoài gia đình.

Sự sút giảm về số lượng thế hệ trong gia đình, điều đó được thể hiện thông qua số lượng thành viên trong gia đình đã giảm xuống, các thế hệ ít đi. Khi mà xu hướng ngày càng nhiều con cái trưởng thành sau khi lấy vợ, lấy chồng tách riêng ra khỏi gia đình cha mẹ tạo thành những gia đình đơn và đại gia đình như trước kia giảm về thế hệ và số lượng thành viên.

Sự thay đổi này trong cấu trúc của gia đình là một điều kiện thuận lợi cho gia đình trong việc phát triển kinh tế, sản xuất, cha mẹ có điều kiện tốt hơn để chăm sóc, giáo dục con cái và đặc biệt là những tác động tích cực đến xã hội trong vấn đề dân số khi mà trong thời gian gần đây vấn đề gia tăng dân số đang là một vấn đề nan giải của các cơ quan chức trách.

Hiện nay, ngoài việc hạn chế số lượng con cái do nhà nước qui định và xu hướng ít con là phù hợp với thời đại mới, thì các tiến bộ y học cho phép người ta chủ động hơn trong việc thai nghén, sinh nở. Người ta có thể chủ động trong việc muốn có con hay không và có con vào thời điểm nào là thuận lợi nhất. Đó cũng là những nguyên nhân làm thay đổi cấu trúc gia đình.

Sự thay đổi trong gia đình do ly hôn mang lại. Ở một số nước phương Tây cho ly hôn là biện pháp hữu hiệu nhất để chấm dứt cuộc hôn nhân. Nhưng ly hôn là một trong các yếu tố đưa đến thay đổi trong cấu trúc gia đình rất lớn. Khi mà người cha – người chồng, người mẹ – người vợ rời bỏ mái ấm gia đình thì những trách nhiệm mà người đó chối bỏ buộc lòng những người còn lại trong gia đình phải gánh vác, những người này phải sắp xếp để bù vào khoảng trống đó. Ở các gia đình pha trộn do kết hôn lại còn phức tạp hơn nhiều vì nó nảy sinh một số vấn đề mới gay cấn như con cái, tài chính, hậu quả còn lại về mặt tình cảm cũng như pháp lý từ cuộc hôn nhân đỗ vỡ trước.

Những thay đổi trong vai trò. Trong xã hội công nghiệp hiện đại có sự thay đổi rõ rệt vai trò của người vợ và người chồng, sự thay đổi đáng kể nhất là người phụ nữ, người vợ ít lệ thuộc vào chồng hơn trước rất nhiều. Họ tự đi làm để đóng góp vào thu nhập chung của gia đình, họ tham gia các công việc xã hội và có những uy tín nhất định trong gia đình, nhất là hiện nay nhiều chị em có trình độ học vấn cao và có việc làm ổn định trước khi tiến tới hôn nhân và đó là yếu tố quan trọng làm thay đổi nhận thức, dẫn tới thay đổi vai trò trong gia đình.

Tuổi kết hôn và phương thức lấy vợ, lấy chồng của nam nữ thanh niên muộn hơn các thế hệ trước. Tuổi kết hôn ngày càng kéo dài, do các quan niệm về hôn nhân – gia đình, tình dục đã thay đổi, một số không ít phụ nữ là người trì hoãn kết hôn, vì đối với họ kết hôn không còn là vấn đề hàng đầu mà phụ nữ quan tâm, họ thường chọn phương thức sống thử trước hôn nhân, còn việc sau đó có tiến tới hôn nhân hay không thì không quan trọng.

Quan niệm về sinh con và các kiểu sinh con là mô hình gia đình ít con, thậm chí ngày càng nhiều thanh niên coi trọng việc thành công và hưởng thụ của cá nhân hơn con cái, thậm chí có người suốt đời không muốn có con. Hay, một bộ phận chọn sinh con ngoài giá thú, những người phụ nữ độc thân mà có con thường là những người có địa vị xã hội tương đối cao, họ tự lực về kinh tế, đồng thời có sự hỗ trợ của khoa học về di truyền đã giúp họ thoả mãn nhu cầu làm mẹ mà không cần phải lấy chồng.

Vợ chồng bình đẳng hơn trong các quyết định quan trọng của gia đình, cùng chia sẻ công việc trên cơ sở giới tính, sức khỏe, nghề nghiệp… vậy nên mức độ gia trưởng giảm.

Việc giáo dục con cái có tính khoa học, chủ yếu bằng thuyết phục, nêu gương và tôn trọng ý kiến của con. Điều quan trọng nữa là cả hai vợ chồng cùng nhau giáo dưỡng con cái.

Gia đình giải thể và tổ chức lại: Tỷ lệ ly hôn tăng lên không ngừng, cùng với điều này là những lần tái hôn kế tiếp đã tạo nên sự giải thể và tổ chức lại gia đình.