Ví Dụ Về Biện Pháp Khẩn Cấp Tạm Thời / Top 7 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 4/2023 # Top View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Các Biện Pháp Khẩn Cấp Tạm Thời, Biện Pháp Khẩn Cấp Tạm Thời

Các biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định từ Điều 114 đến Điều 131 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 là cơ sở pháp lý quan trọng cho Toà án trong việc quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ bằng chứng, bảo toàn tài sản tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án. So với các biện pháp khác được Tòa án áp dụng trong quá trình tố tụng dân sự, biện pháp khẩn cấp tạm thời (BPKCTT) có những điểm khác biệt, vừa mang tính khẩn cấp, vừa mang tính tạm thời.

Tính khẩn cấp thể hiện ở chỗ, Tòa án phải ra quyết định áp dụng ngay và quyết định này được thực hiện ngay sau khi Tòa án ra quyết định, nếu không sẽ mất hết ý nghĩa, tác dụng. Tính tạm thời thể hiện ở chỗ, quyết định áp dụng BPKCTT chưa phải là quyết định cuối cùng về giải quyết vụ việc dân sự, nếu lý do của việc áp dụng không còn nữa thì Tòa án có thể hủy bỏ quyết định này.

Điều 114 BLTTDS năm 2015 quy định các BPKCTT, bao gồm:

Riêng với quy định ” Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà luật có quy định”, đây là những yêu cầu áp dụng BPKCTT hiện không được quy định trong BLTTDS năm 2015 nhưng được quy định trong các văn bản pháp luật khác thì Tòa án cũng có trách nhiệm xem xét giải quyết như yêu cầu áp dụng BPKCTT thu giữ, niêm phong… quy định tại Điều 207 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Các BPKCTT, được quy định tại khoản 1 Điều 207 Luật này, như sau:

Các biện pháp khẩn cấp tạm thời sau đây được áp dụng đối với hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện sản xuất, kinh doanh hàng hoá đó: a) Thu giữ; b) Kê biên; c) Niêm phong; cấm thay đổi hiện trạng; cấm di chuyển; d) Cấm chuyển dịch quyền sở hữu.

Căn cứ vào quy định cụ thể của từng BPKCTT, BLTTDS năm 2015 và Luật Tố tụng hành chính (Luật TTHC) năm 2015, các BPKCTT có thể được chia làm 2 loại: 1) Các BPKCTT có thể được áp dụng trong tất cả các giai đoạn tố tụng kể cả trường hợp Tòa án chưa thụ lý vụ án; 2) Các BPKCTT được áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án của Tòa án (bắt đầu từ thời điểm Tòa án thụ lý vụ án).

1. Các BPKCTT có thể được áp dụng trong tất cả các giai đoạn tố tụng, bao gồm:

-Biện pháp giao người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. -Biện pháp buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng. -Biện pháp buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm. -Biện pháp buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chi phí cứu chữa tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động. -Biện pháp tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải người lao động. -Biện pháp cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ. -Biện pháp cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình. -Biện pháp tạm dừng việc thực hiện hành vi hành chính.

2. Các BPKCTT được áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án, bao gồm

Việc BLTTDS năm 2015 ghi nhận các BPKCTT, có ý nghĩa tích cực nhằm chống lại các hành vi tẩu tán tài sản, hủy hoại chứng cứ, mua chuộc người làm chứng… qua đó bảo đảm việc giải quyết đúng vụ việc dân sự, bảo toàn được tình trạng tài sản, tránh việc gây thiệt hại không thể khắc phục được, giữ được tài sản bảo đảm cho việc thi hành án, quyết định của Tòa án sau này. Đồng thời đáp ứng kịp thời nhu cầu cấp bách của đương sự, tạo điều kiện cho đương sự sớm ổn định được cuộc sống của họ và những người sống phụ thuộc họ, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Người yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải làm đơn gửi đến Tòa án có thẩm quyền. Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải có các nội dung chính sau đây:

a) Ngày, tháng, năm làm đơn;

b) Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;

c) Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người bị yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;

d) Tóm tắt nội dung tranh chấp hoặc hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình;

đ) Lý do cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;

e) Biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng và các yêu cầu cụ thể.

Tùy theo yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà người yêu cầu phải cung cấp cho Tòa án chứng cứ để chứng minh cho sự cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đó.

Yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 111 của Bộ luật này được giải quyết như sau:

a) Trường hợp Tòa án nhận đơn yêu cầu trước khi mở phiên tòa thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải xem xét, giải quyết. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, nếu người yêu cầu không phải thực hiện biện pháp bảo đảm hoặc ngay sau khi người đó thực hiện xong biện pháp bảo đảm quy định tại Điều 136 của Bộ luật này thì Thẩm phán phải ra ngay quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; nếu không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu;

3. Đối với trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 2 Điều 111 của Bộ luật này thì sau khi nhận được đơn yêu cầu cùng với đơn khởi kiện và chứng cứ kèm theo, Chánh án Tòa án phân công ngay một Thẩm phán thụ lý giải quyết đơn yêu cầu. Trong thời hạn 48 giờ, kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu, Thẩm phán phải xem xét và ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; nếu không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết.

4. Trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 10 và khoản 11 Điều 114 của Bộ luật này thì chỉ được phong tỏa tài khoản, tài sản có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ phải thực hiện.

Điều 134. Kiến nghị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác

Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án quy định tại Điều 187 của Bộ luật này kiến nghị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời bằng văn bản, trong đó phải nêu rõ lý do kiến nghị; biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng; tên, địa chỉ của người có quyền và lợi ích hợp pháp cần được bảo vệ; tên, địa chỉ của người bị yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; tóm tắt nội dung tranh chấp, hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; chứng cứ để chứng minh cho việc kiến nghị của mình là có căn cứ và hợp pháp.

Điều 135. Tòa án tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Tòa án tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 114 của Bộ luật này trong trường hợp đương sự không yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Điều 136. Buộc thực hiện biện pháp bảo đảm

Người yêu cầu Tòa án áp dụng một trong các biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại các khoản 6, 7, 8, 10, 11, 15 và 16 Điều 114 của Bộ luật này phải nộp cho Tòa án chứng từ bảo lãnh được bảo đảm bằng tài sản của ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác hoặc gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Tòa án ấn định nhưng phải tương đương với tổn thất hoặc thiệt hại có thể phát sinh do hậu quả của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng để bảo vệ lợi ích của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và ngăn ngừa sự lạm dụng quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời từ phía người có quyền yêu cầu.

Đối với trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 111 của Bộ luật này thì thời hạn thực hiện biện pháp bảo đảm quy định tại khoản này không được quá 48 giờ, kể từ thời điểm nộp đơn yêu cầu.

Khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá phải được gửi vào tài khoản phong tỏa tại ngân hàng nơi có trụ sở của Tòa án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong thời hạn do Tòa án ấn định.

Trong trường hợp thực hiện biện pháp bảo đảm vào ngày lễ hoặc ngày nghỉ thì khoản tiền bảo đảm được gửi giữ tại Tòa án. Tòa án phải làm thủ tục giao nhận và gửi ngay khoản tiền đó vào ngân hàng vào ngày làm việc tiếp theo.

Các điểm mới về thừa kế của Bộ luật dân sự 2015

Một số điểm mới về thừa kế của Bộ luật dân sự 2015 (Phần 2)

Áp Dụng Biện Pháp Khẩn Cấp Tạm Thời

Nội dung này được Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự tư vấn như sau:

Thứ nhất, theo quy định Điều 99 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2005 thì trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền yêu cầu Toà án đang giải quyết vụ án đó áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 102 của Bộ luật này để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án. Trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay bằng chứng, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền nộp đơn yêu cầu Toà án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 102 của Bộ luật này đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện cho Toà án đó. Toà án chỉ tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp quy định tại Điều 119 của Bộ luật này.

Điều 102 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định các biện pháp khẩn cấp tạm thời:

1. Giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

2. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng.

3. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm.

4. Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động.

5. Tạm đình chỉ việc thi hành quyết định sa thải người lao động.

6. Kê biên tài sản đang tranh chấp.

7. Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.

8. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp.

9. Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hoá khác.

10. Phong toả tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong toả tài sản ở nơi gửi giữ.

11. Phong toả tài sản của người có nghĩa vụ.

12. Cấm hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định.

13. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà pháp luật có quy định.

Điều 108 Bộ luật này quy định biện pháp khẩn cấp tạm thời kê biên tài sản đang tranh chấp như sau: Kê biên tài sản đang tranh chấp được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản. Tài sản bị kê biên có thể được thu giữ, bảo quản tại cơ quan thi hành án hoặc lập biên bản giao cho một bên đương sự hoặc người thứ ba quản lý cho đến khi có quyết định của Toà án.

Điều 113 và Điều 114 Bộ luật này cung quy định phong toả tài sản ở nơi gửi giữ được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài sản đang gửi giữ và việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc bảo đảm cho việc thi hành án. Phong toả tài sản của người có nghĩa vụ được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài sản và việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc bảo đảm cho việc thi hành án.

Như vậy, Tòa án có quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và khi đã có quyết định này của Tòa án thì cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành theo quy định của pháp luật.

Thứ hai, về việc kê biên tài sản đang thế chấp để thi hành án:

Điều 90 Luật Thi hành án dân sự về kê biên, xử lý tài sản đang cầm cố, thế chấp quy định:

1. Trường hợp người phải thi hành án không còn tài sản nào khác hoặc có tài sản nhưng không đủ để thi hành án, Chấp hành viên có quyền kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án đang cầm cố, thế chấp nếu giá trị của tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án.

2. Khi kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp, Chấp hành viên phải thông báo ngay cho người nhận cầm cố, nhận thế chấp; khi xử lý tài sản kê biên, người nhận cầm cố, nhận thế chấp được ưu tiên thanh toán theo quy định tại khoản 3 Điều 47 của Luật này.

Do vậy, nếu tài sản của bà đang thế chấp thuộc diện quy định tại Điều này thì có thể bị kê biên để thi hành án.

Tư Vấn Về Biện Pháp Khẩn Cấp Tạm Thời Mới Nhất 2022

Chào Luật sư, tôi là Nguyễn Nam ở Hà nội, xin luật sư tư vấn cho tôi vấn đề sau: Hiện tôi đang có tranh chấp với ông Phạm Văn Nam về hợp đồng mua bán nhà. Trong quá trình Tòa án nhân dân huyện đang xem xét giải quyết thì ông Phạm Văn Nam lại tiến hành thủ tục chuyển nhượng cho chị Nguyễn Thi Lan và anh Trần Xuân Bắc. Vậy xin hỏi tôi có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp nào để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của mình? Khi yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp này tôi có phải chịu nghĩa vụ gì không? Thủ tục như thế nào? Xin cảm ơn!

Với câu hỏi của bạn Luật Hoàng Phi xin trả lời như sau:

Điều 111 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định như sau:

“Điều 111. Quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời 1. Trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án quy định tại Điều 187 của Bộ luật này có quyền yêu cầu Tòa án đang giải quyết vụ án đó áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 114 của Bộ luật này để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, thu thập chứng cứ, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án. 2. Trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay chứng cứ, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 114 của Bộ luật này đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện cho Tòa án đó. 3. Tòa án chỉ tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp quy định tại Điều 135 của Bộ luật này.”

Như vậy, theo quy định trên thì trường hợp bạn và ông Phạm Văn Nam đang tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà, nay ông Phạm Văn Nam tiến hành bán nhà đang tranh chấp cho chị Nguyễn Thi Lan và anh Trần Xuân Bắc, điều này có thể ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bạn. Áp dụng theo quy định trên tại điều luật thì bạn có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Tư vấn về biện pháp khẩn cấp tạm thời mới nhất 2017

Điều 114 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời như sau:

– Cấm ông Phạm Văn Nam chuyển dịch quyền về tài sản đối với căn nhà đang tranh chấp;

– Cấm ông Phạm Văn nam làm thay đổi hiện trạng căn nhà đang tranh chấp.

Cùng với việc yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên, bạn có nghĩa vụ chịu trách nhiệm về yêu cầu của mình. Trong trường hợp yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho ông Nguyễn Văn Nam hoặc cho người thứ ba thì bạn phải bồi thường.

Về thủ tục, trước hết, người yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải làm đơn gửi đến Tòa án có thẩm quyền. Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải có các nội dung chính sau đây:

– Ngày, tháng, năm làm đơn;

– Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;

– Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người bị yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;

– Tóm tắt nội dung tranh chấp hoặc hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình;

– Lý do cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;

– Biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng và các yêu cầu cụ thể.

Tuỳ theo yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà người yêu cầu phải cung cấp cho Tòa án chứng cứ để chứng minh cho sự cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đó.

Yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được giải quyết như sau:

– Trường hợp Tòa án nhận đơn yêu cầu trước khi mở phiên tòa thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải xem xét, giải quyết. Trong thời hạn 03 ngày làm việc,kể từ ngày nhận đơn, nếu người yêu cầu không phải thực hiện biện pháp bảo đảm hoặc ngay sau khi người đó thực hiện xong biện pháp bảo đảm thì Thẩm phán phải ra ngay quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; nếu không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu;

– Đối với trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 2 Điều 111 đã nêu trên thì sau khi nhận được đơn yêu cầu cùng với đơn khởi kiện và chứng cứ kèm theo, Chánh án Tòa án phân công ngay một Thẩm phán thụ lý giải quyết đơn yêu cầu. Trong thời hạn 48 giờ, kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu, Thẩm phán phải xem xét và ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; nếu không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết.

– Trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời: phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ thì chỉ được phong tỏa tài khoản, tài sản có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ phải thực hiện.

Trong trường hợp cần tư vấn thêm, khách hàng có thể liên hệ với Luật sư của Luật Hoàng Phi qua TỔNG ĐÀI TƯ VẤN LUẬT MIỄN PHÍ 19006557 để được tư vấn.

Tác giả

Nguyễn Văn Phi

Góp Ý Cho Dự Thảo Blttds Về Biện Pháp Khẩn Cấp Tạm Thời

Bài viết: Góp ý cho dự thảo BLTTDS về biện pháp khẩn cấp tạm thời

Tác giả: Đinh Bá Trung*

Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 09(94)/2015 – 2015, Trang 27-34

TÓM TẮT

Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết vụ án dân sự. Tuy nhiên, hiện nay quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về biện pháp khẩn cấp tạm thời có nhiều bất cập. Trong bài viết này, chúng tôi đưa ra các kiến nghị nhằm sửa đổi, bổ sung về điều kiện, thủ tục áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Bộ luật Tố tụng dân sự.

ABSTRACT:

The application of provisional emergency measures have important implications in resolving civil cases. However, the current provisions of the Civil Procedure Code on temporary emergency measures have many shortcomings. In this article, we put forward proposals to amend and supplement the conditions and procedures for the application, change or cancellation of provisional emergency measures in the Civil Procedure Code.

TỪ KHÓA:

Biện pháp khẩn cấp tạm thời (BPKCTT) là biện pháp tố tụng do Tòa án áp dụng khi đương sự, người đại diện của đương sự, tổ chức khởi kiện có đơn yêu cầu hoặc Tòa án chủ động áp dụng trong những trường hợp pháp luật cho phép nhằm mục đích tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự hoặc để bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc đảm bảo việc thi hành án.[1] Tính khẩn cấp trong tố tụng của BPKCTT đòi hỏi Tòa án phải xem xét, áp dụng ngay và biện pháp phải được thi hành ngay khi được Tòa án ra quyết định áp dụng. Việc chậm trễ áp dụng biện pháp này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, làm vô hiệu hóa hoạt động tố tụng. Tính tạm thời trong tố tụng của BPKCTT thể hiện ở chỗ, về mặt pháp lý BPKCTT chưa phải là quyết định cuối cùng về việc giải quyết một vụ việc. Sau khi áp dụng BPKCTT nếu lý do của việc áp dụng không còn nữa thì Tòa án có thể thay đổi hoặc hủy bỏ việc áp dụng BPKCTT.

Có thể nói, BPKCTT là biện pháp rất hữu ích trong tố tụng, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đồng thời giúp Tòa án thuận lợi trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, cũng như đảm bảo thi hành án dân sự.

Tuy nhiên, đến nay, các quy định của pháp luật về BPKCTT trong tố tụng dân sự đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Hiện nay, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (BLTTDS năm 2004) đang được lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân để sửa đổi, bổ sung toàn diện. Trong bài viết này, chúng tôi trình bày ý kiến về việc sửa đổi, bổ sung quy định của BLTTDS về BPKCTT.

1. Kiến nghị về các loại biện pháp khẩn cấp tạm thời cụ thể

1.1. Điều 102 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (Điều 108 Dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi)

Khoản 1 Điều 102 BLTTDS năm 2004 quy định về BPKCTT: “Giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, chăm sóc, giáo dục”. Quy định này chưa đầy đủ, bởi ngoài đối tượng cần được áp dụng biện pháp này là người chưa thành niên, thì người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự cũng cần được áp dụng biện pháp này. Khoản 1 Điều 108 Dự thảo BLTTDS sửa đổi quy định trên thành: “Giao người chưa thành niên, người bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục”. Chúng tôi đồng ý theo nội dung của Dự thảo luật.

1.2. Điều 106 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (Điều 112 Dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi)

1.3. Thay cụm từ “có hành vi” tại các Điều 108, 109, 110 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 thành cụm từ “có dấu hiệu thực hiện hành vi”

Theo quy định tại các Điều 108, 109 và 110 BLTTDS năm 2004 thì các biện pháp kê biên tài sản, cấm chuyển dịch quyền về tài sản đang tranh chấp, cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp chỉ được Tòa án ra quyết định áp dụng BPKCTT nếu có căn cứ cho thấy người đang nắm giữ tài sản này “có hành vi” tẩu tán, hủy hoại tài sản, chuyển dịch quyền tài sản hoặc làm thay đổi hiện trạng tài sản. Điều này có nghĩa là khi Tòa án ra quyết định áp dụng BPKCTT thì những hành vi đó đã được thực hiện. Sự chậm trễ trong việc ra quyết định áp dụng BPKCTT, dù chỉ một khoảng thời gian rất ngắn, cũng đủ để cho người bị yêu cầu áp dụng BPKCTT tẩu tán tài sản, thay đổi hiện trạng tài sản hoặc rút tiền từ tài khoản nhằm trốn tránh việc thi hành nghĩa vụ.

Từ đó việc Tòa án ra quyết định áp dụng BPKCTT khi “người giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản” (khoản 1 Điều 108), “người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi chuyển dịch quyền về tài sản” (Điều 109), “người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tháo gỡ, lắp ghép, xây dựng thêm hoặc có hành vi khác làm thay đổi hiện trạng tài sản đó” (Điều 110) là đã quá muộn, không còn giá trị, nên không đạt được mục đích của việc áp dụng BPKCTT.

Điều 114 Dự thảo BLTTDS sửa đổi (tương ứng Điều 108 BLTTDS năm 2004) quy định: “Kê biên tài sản đang tranh chấp được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy cần ngăn chặn người giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản”. Điều 115 Dự thảo BLTTDS sửa đổi (tương ứng Điều 109 BLTTDS năm 2004) quy định: “Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đang tranh chấp được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy cần ngăn chặn người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp cho người khác”. Điều 116 Dự thảo BLTTDS sửa đổi (tương ứng Điều 110 BLTTDS năm 2004) quy định: “Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy cần ngăn chặn người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tháo gỡ, lắp ghép, xây dựng thêm hoặc có hành vi khác làm thay đổi hiện tạng tài sản đó.” Ba điều của Dự thảo BLTTDS sửa đổi đã thay cụm từ “có hành vi” trong BLTTDS thành cụm từ “có căn cứ cho thấy cần ngăn chặn”. Theo chúng tôi, quy định như vậy sẽ đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu áp dụng BPKCTT hơn. Tuy nhiên, theo chúng tôi, các quy định mới như vậy vẫn rườm rà, chúng tôi kiến nghị dùng nhóm từ “có dấu hiệu thực hiện hành vi…” để đảm bảo sự ngắn gọn, dễ hiểu của điều luật.

1.4. Giải thích việc phong tỏa tài sản có giá trị tương đương

Khoản 4 Điều 117 BLTTDS năm 2004 quy định: “Trong trường hợp áp dụng BPKCTT quy định tại khoản 10, khoản 11 Điều 102[2] của Bộ luật này thì chỉ được phong tỏa tài khoản, tài sản có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng BPKCTT có nghĩa vụ phải thực hiện”. Đối với tài khoản thì có thể xác định được giá trị tương đương với nghĩa vụ nhưng đối với tài sản thì khó xác định giá trị tương đương hoặc để xác định được giá trị tương đương thì phải mất thời gian tiến hành định giá tài sản. Từ đó, người bị áp dụng BPKCTT có thể thực hiện việc tẩu tán tài sản. Khoản 4 Điều 124 Dự thảo BLTTDS sửa đổi (tương ứng khoản 4 Điều 117 BLTTDS năm 2004) quy định: “Trong trường hợp áp dụng BPKCTT quy định tại khoản 10, khoản 11 Điều 108 của Bộ luật này thì chỉ được phong tỏa tài khoản, tài sản có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng BPKCTT có nghĩa vụ phải thực hiện”. Như vậy, Dự thảo BLTTDS sửa đổi không có sự thay đổi nào so với BLTTDS hiện hành. Do đó, chúng tôi kiến nghị bổ sung nội dung của khoản 4 Điều 117 BLTTDS theo hướng: “Đối với trường hợp phong tỏa tài sản tranh chấp, Thẩm phán ước tính giá trị tài sản cần phong tỏa không nhất thiết phải đợi kết quả định giá, thẩm định giá tài sản”.

2. Kiến nghị về thẩm quyền, thủ tục áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời

2.1. Thời hạn ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Khoản 3 Điều 117 BLTTDS năm 2004 quy định: “Đối với trường hợp yêu cầu áp dụng BPKCTT quy định tại khoản 2 Điều 99 của Bộ luật này[3] thì sau khi nhận được đơn yêu cầu cùng với đơn khởi kiện và chứng cứ kèm theo, Chánh án Tòa án chỉ định ngay một Thẩm phán thụ lý giải quyết đơn yêu cầu. Trong thời hạn 48 giờ kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu, Thẩm phán phải xem xét và ra quyết định áp dụng BPKCTT; nếu không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết”. Theo chúng tôi, thời hạn 48 giờ để Thẩm phán xem xét, quyết định có ra quyết định áp dụng BPKCTT hay không là quá dài, đặc biệt đối với các loại yêu cầu áp dụng BPKCTT như: kê biên tài sản đang tranh chấp, cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp, cấm mua bán, tặng cho, trao đổi tài sản, phong tỏa tài khoản. Sự chậm trễ trong việc ra quyết định áp dụng BPKCTT sẽ dẫn đến trường hợp tẩu tán tài sản, không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu áp dụng BPKCTT, không đảm bảo việc thi hành án. Hiện nay, khoản 3 Điều 117 BLTTDS năm 2004 không quy định cụ thể, rõ ràng là Tòa án có quyền áp dụng BPKCTT trong các ngày lễ, ngày nghỉ hay không. Như vậy, xét ở góc độ khách quan và chủ quan, đương sự vẫn có thể tẩu tán được tài sản, lẩn tránh nghĩa vụ thi hành án. Khoản 3 Điều 124 Dự thảo BLTTDS sửa đổi (tương ứng khoản 3 Điều 117 BLTTDS năm 2004) vẫn giữ quy định 48 giờ như hiện nay. Do đó, chúng tôi kiến nghị sửa lại khoản 3 Điều 117 BLTTDS theo hướng: “thời hạn áp dụng BPKCTT tối đa là 24 giờ (đối với trường hợp không thực hiện biện pháp bảo đảm), 36 giờ (đối với trường hợp phải áp dụng biện pháp bảo đảm) tính từ thời điểm Tòa án nhận đơn yêu cầu”.

2.2. Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại phiên tòa

Khoản 2 Điều 117 BLTTDS năm 2004 quy định: “Trường hợp hội đồng xét xử nhận đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử xem xét ra quyết định áp dụng BPKCTT ngay hoặc sau khi người yêu cầu đã thực hiện xong biện pháp bảo đảm quy định tại Điều 120 của Bộ luật này”. Trong trường hợp người yêu cầu phải thực hiện biện pháp bảo đảm[4] thì quy định này là không hợp lý bởi ngay tại phiên tòa đương sự đưa ra yêu cầu áp dụng BPKCTT, đương sự không có thời gian để thực hiện biện pháp bảo đảm nên hội đồng xét xử không thể ra ngay quyết định áp dụng BPKCTT. BLTTDS năm 2004 không có quy định hội đồng xét xử được hoãn hoặc tạm ngừng phiên tòa trong trường hợp này để đương sự thực hiện biện pháp bảo đảm. Điểm b khoản 2 Điều 124 Dự thảo BLTTDS sửa đổi (tương ứng đoạn 2 khoản 2 Điều 117 BLTTDS năm 2004) vẫn không quy định về việc tạm ngừng phiên tòa trong trường hợp đương sự yêu cầu áp dụng BPKCTT tại phiên tòa. Do đó, chúng tôi kiến nghị khoản 2 Điều 117 BLTTDS nên quy định: “Hội đồng xét xử phải tạm ngừng phiên tòa để người yêu cầu áp dụng BPKCTT thực hiện biện pháp bảo đảm” (đối với trường hợp không cần thực hiện biện pháp bảo đảm thì không cần tạm ngừng phiên tòa), tương tự khoản 2 Điều 197 BLTTDS: “Trong trường hợp đặc biệt do Bộ luật này quy định thì việc xét xử có thể tạm ngừng không quá năm ngày làm việc. Hết thời hạn tạm ngừng, việc xét xử vụ án được tiếp tục”.

2.3. Hủy bỏ việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Khoản 1 Điều 122 BLTTDS năm 2004 quy định: “Tòa án ra ngay quyết định hủy bỏ BPKCTT đã được áp dụng khi có một trong các trường hợp sau đây: a) Người yêu cầu áp dụng BPKCTT đề nghị hủy bỏ; b) Người phải thi hành quyết định áp dụng BPKCTT nộp tài sản hoặc có người khác thực hiện biện pháp bảo đảm thi hành nghĩa vụ đối với bên có yêu cầu; c) Nghĩa vụ dân sự của bên có nghĩa vụ chấm dứt theo quy định của Bộ luật Dân sự.” Theo chúng tôi, quy định này chưa đầy đủ. Thực tế đã phát sinh nhiều trường hợp Tòa án không có căn cứ để hủy bỏ BPKCTT đã áp dụng.

Trường hợp 1: Hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời khi Tòa án trả đơn khởi kiện

Theo Điều 99 BLTTDS năm 2004,[5] yêu cầu áp dụng BPKCTT có thể được đưa ra trong quá trình giải quyết vụ án dân sự hoặc cùng với thời điểm nộp đơn khởi kiện. Về nguyên tắc, Tòa án hoàn toàn có quyền trả đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện khi có căn cứ quy định tại Điều 168 BLTTDS năm 2004. Vấn đề đặt ra, giả sử Tòa án đã ra quyết định áp dụng BPKCTT, sau đó trả đơn khởi kiện thì quyết định áp dụng BPKCTT sẽ được xử lý như thế nào. Hiện nay, pháp luật tố tụng dân sự không quy định trường hợp này. Điều này gây lúng túng cho các Tòa án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Từ đó, chúng tôi kiến nghị bổ sung vào khoản 1 Điều 122 BLTTDS hiện hành trường hợp hủy bỏ BPKCTT khi Tòa án trả đơn khởi kiện. Chúng tôi đồng ý với quy định tại điểm h khoản 1 Điều 129 Dự thảo BLTTDS sửa đổi về căn cứ hủy bỏ BPKCTT: “Các trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện theo quy định của Bộ luật này”.

Trường hợp 2: Hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời khi Tòa án đã giải quyết xong vụ án dân sự

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án ra quyết định áp dụng BPKCTT. Sau đó vụ án được giải quyết xong bằng bản án có hiệu lực pháp luật[6] hoặc quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.[7] Bản án, quyết định này được thi hành án bởi cơ quan thi hành án. Tuy nhiên, số phận của quyết định áp dụng BPKCTT không được “định đoạt”. Trong trường hợp này, cơ quan thi hành án không có thẩm quyền đối quyết định áp dụng BPKCTT do Tòa án ban hành. Về phần mình, Tòa án có thẩm quyền hủy bỏ hay quyết định theo cách nào đó đối với quyết định áp dụng BPKCTT do chính mình ban hành ra không? Có quan điểm cho rằng Tòa án đã giải quyết vụ án xong, cơ quan thi hành án đã, đang, sẽ thi hành án nên Tòa án không có thẩm quyền đối với quyết định áp dụng BPKCTT nữa. Hơn nữa, Điều 122 BLTTDS năm 2004 hoàn toàn không quy định căn cứ nào cho phép Tòa án được quyền hủy bỏ BPKCTT khi vụ án đã giải quyết xong. Đây là thiếu sót của pháp luật tố tụng dân sự. Do đó, chúng tôi kiến nghị bổ sung căn cứ hủy bỏ BPKCTT tại khoản 1 Điều 122 BLTTDS năm 2004: “Cùng với việc ra bản án, quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, Tòa án phải ra quyết định hủy bỏ BPKCTT đã áp dụng”. Chúng tôi đồng ý với quy định tại điểm g khoản 1 Điều 129 Dự thảo BLTTDS sửa đổi về căn cứ hủy bỏ BPKCTT: “Vụ việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.

Trường hợp 3: Hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp Tòa án có lỗi khi ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Mặc dù BLTTDS năm 2004 đã quy định trách nhiệm của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nói chung và trong việc áp dụng BPKCTT nói riêng,[8] nhưng vì lý do chủ quan hay khách quan, Thẩm phán vẫn có thể áp dụng BPKCTT không đúng quy định của pháp luật. Ví dụ trường hợp Thẩm phán ra quyết định áp dụng BPKCTT khi người yêu cầu chưa thực hiện biện pháp bảo đảm. Sau đó, khi biết được quyết định áp dụng BPKCTT không đúng pháp luật, Thẩm phán không có căn cứ để hủy bỏ quyết định áp dụng BPKCTT đã ban hành bởi Điều 122 BLTTDS năm 2004 không có quy định về trường hợp này. Do đó, chúng tôi kiến nghị bổ sung vào khoản 1 Điều 122 BLTTDS năm 2004 quy định: “hủy bỏ việc áp dụng BPKCTT khi có căn cứ xác định việc áp dụng BPKCTT không đúng quy định của pháp luật”. Chúng tôi đồng ý với quy định tại điểm đ, khoản 1 Điều 129 Dự thảo BLTTDS sửa đổi về căn cứ hủy bỏ BPKCTT: “Quyết định áp dụng BPKCTT không đúng theo quy định của Bộ luật này”.

Trường hợp 4: Hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời khi vụ án không được thụ lý

Trường hợp người khởi kiện nộp đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT cùng lúc với việc nộp đơn khởi kiện,[9] sau khi xem xét điều kiện áp dụng BPKCTT, Thẩm phán phụ trách ra quyết định áp dụng BPKCTT nhưng sau đó người khởi kiện không nộp tiền tạm ứng án phí để Tòa án thụ lý vụ án[10] nên vụ án không được thụ lý. Như vậy, trong trường hợp này, quyết định áp dụng BPKCTT có hiệu lực hay không, hiện nay pháp luật không quy định rõ. Theo chúng tôi, trong trường hợp này, quyết định áp dụng BPKCTT không có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, để tránh những rắc rối không cần thiết, khoản 1 Điều 122 BLTTDS năm 2004 cần bổ sung trường hợp hủy bỏ BPKCTT: “Tòa án hủy bỏ BPKCTT khi vụ án không được thụ lý theo quy định của pháp luật”. Điểm e khoản 1 Điều 129 Dự thảo có bổ sung căn cứ để hủy bỏ BPKCTT: “Căn cứ của việc áp dụng BPKCTT không còn”. Theo chúng tôi, quy định này cần diễn đạt rõ hơn, ví dụ quy định “Sau khi quyết định áp dụng BPKCTT được ban hành, vụ án không được Tòa án thụ lý, giải quyết”.

Trường hợp 5: Hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời khi Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án

Khi giải quyết vụ án dân sự, Tòa án được quyền đình chỉ giải quyết vụ án nếu có căn cứ theo quy định của pháp luật.[11] Tuy nhiên, nếu trước khi ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án Tòa án đã ra quyết định áp dụng BPKCTT thì giải quyết quyết định áp dụng BPKCTT như thế nào, hiện nay pháp luật tố tụng dân sự không quy định. Do đó, chúng tôi kiến nghị bổ sung vào khoản 1 Điều 122 BLTTDS năm 2004 quy định: “Đồng thời với việc ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, Tòa án phải hủy bỏ BPKCTT đã áp dụng”. Chúng tôi đồng ý với điểm d khoản 1 Điều 129 Dự thảo BLTTDS sửa đổi về việc đã bổ sung căn cứ hủy bỏ BPKCTT “Vụ án được đình chỉ theo quy định tại Điều 211 của Bộ luật này”. Tuy nhiên, để đảm bảo tính chính xác về kỹ thuật lập pháp, Dự thảo BLTTDS sửa đổi nên sửa lại thành: “Vụ án được đình chỉ giải quyết theo quy định tại Điều 211 Bộ luật này”.

2.4. Bổ sung thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Điều 100 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004

Điều 100 BLTTDS năm 2004 quy định thẩm quyền quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT như sau: “1. Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT trước khi mở phiên tòa do một Thẩm phán xem xét, quyết định. 2. Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT tại phiên tòa do Hội đồng xét xử xem xét, quyết định”. Quy định này bất cập ở chỗ không xác định rõ việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT sau khi phiên tòa kết thúc thuộc thẩm quyền của ai? Thẩm quyền này thuộc về Thẩm phán hay Hội đồng xét xử? Với cách quy định như vậy, theo chúng tôi, nhà làm luật có ý không cho phép áp dụng BPKCTT sau khi phiên tòa kết thúc. Điều này là bất hợp lý, bởi:

Một là, nếu đây là phiên tòa sơ thẩm, sau phiên tòa này, đương sự vẫn có thể kháng cáo, Viện kiểm sát nhân dân vẫn có thể kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm vì bản án chưa có hiệu lực pháp luật, người có nghĩa vụ vẫn có thể tẩu tán tài sản nên việc yêu cầu áp dụng BPKCTT là việc cần thiết và chính đáng.

Hai là, nếu đây là phiên tòa phúc thẩm, mặc dù bản án phúc thẩm được tuyên có hiệu lực thi hành ngay, nhưng thủ tục thi hành án chưa tiến hành ngay khi phiên tòa phúc thẩm vừa kết thúc nên cơ quan thi hành án không thể ra quyết định áp dụng BPKCTT. Do đó, việc tẩu tán tài sản hoàn toàn có thể xảy ra.

Ba là, bản án đã có hiệu lực pháp luật vẫn có thể bị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Để được người có thẩm quyền hoãn, tạm đình chỉ thi hành án[12] là điều không chắc chắn nên việc tẩu tán tài sản vẫn có thể xảy ra.

Do đó, chúng tôi kiến nghị sửa đổi, bổ sung vào Điều 100 BLTTDS theo hướng: “1. Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT trước khi mở phiên tòa và sau khi mở phiên tòa do một Thẩm phán xem xét, quyết định”. Như vậy sẽ bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và bảo đảm cho việc thi hành án. Hiện nay, Điều 106 Dự thảo vẫn giữ nguyên Điều 100 BLTTDS năm 2004 là chưa hợp lý

2.5. Bổ sung quy định về trách nhiệm của Tòa án trong việc không ra quyết định, chậm ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Điều 101 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004

Khoản 2 Điều 101 BLTTDS năm 2004 quy định: “Tòa án áp dụng BPKCTT không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng BPKCTT hoặc cho người thứ ba thì Tòa án phải bồi thường nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Tòa án tự mình áp dụng BPKCTT; b) Tòa án áp dụng BPKCTT khác với BPKCTT mà cá nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu; c) Tòa án áp dụng BPKCTT vượt quá yêu cầu áp dụng BPKCTT của cá nhân, cơ quan, tổ chức”. Hiện nay, BLTTDS năm 2004 đã bỏ sót hai trường hợp: Tòa án không ra quyết định áp dụng BPKCTT và Tòa án chậm ra quyết định áp dụng BPKCTT. Theo chúng tôi, hai hành vi này là sự vi phạm của Tòa án và hoàn toàn có thể dẫn đến hậu quả người yêu cầu phải gánh chịu những thiệt hại nhất định. Vì thế, chúng tôi kiến nghị bổ sung hai hành vi này vào khoản 2 Điều 101 BLTTDS năm 2004.

2.6. Kiến nghị cho phép áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không gắn với việc khởi kiện vụ án dân sự

Hiện nay, việc áp dụng BPKCTT phải gắn với việc khởi kiện vụ án dân sự. Bởi, khoản 1 Điều 99 BLTTDS năm 2004 quy định: “Trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 162 của Bộ luật này có quyền yêu cầu Tòa án đang giải quyết vụ án đó áp dụng một hoặc nhiều BPKCTT quy định tại Điều 102 của Bộ luật này để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án”. Yêu cầu về áp dụng BPKCTT cũng được phép đưa ra sớm hơn nhưng phải cùng lúc với việc nộp đơn khởi kiện. Theo đó, khoản 2 Điều 99 BLTTDS năm 2004 quy định: “Trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay bằng chứng, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng BPKCTT quy định tại Điều 102 của Bộ luật này đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện cho Tòa án đó.”

Trong thực tiễn, có nhiều trường hợp cần áp dụng BPKCTT không gắn với việc khởi kiện vụ án dân sự nhưng không có căn cứ để Tòa án ra quyết định, mặc dù Tòa án nhận thấy yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức là cần thiết và hợp lý. Chẳng hạn như trường hợp do mâu thuẫn vợ chồng mà người chồng đã bắt con chung còn nhỏ đi sinh sống nơi khác, người vợ chỉ yêu cầu Tòa án buộc người chồng giao con để chăm sóc, nuôi dưỡng chứ không yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn vì nhận thấy vợ chồng có khả năng đoàn tụ, hoặc người vợ chưa muốn ly hôn.

Trong khi đó, hiện nay, pháp luật của nước ta đã quy định trường hợp cho phép áp dụng BPKCTT không gắn với việc khởi kiện. Điều 1 Pháp lệnh Thủ tục bắt giữ tàu bay năm 2010 quy định: “Pháp lệnh này quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục bắt giữ tàu bay tại cảng hàng không, sân bay để bảo đảm lợi ích của chủ nợ, chủ sở hữu, người thứ ba ở mặt đất bị thiệt hại hoặc người khác có quyền, lợi ích đối với tàu bay (sau đây gọi chung là người có quyền, lợi ích đối với tàu bay) hoặc để thi hành án dân sự và thẩm quyền, trình tự, thủ tục thả tàu bay đang bị bắt giữ”. Điều 1 Pháp lệnh Thủ tục bắt giữ tàu biển năm 2008 quy định: “Pháp lệnh này quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục bắt giữ tàu biển để bảo đảm giải quyết khiếu nại hàng hải, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, thi hành án dân sự, thực hiện tương trợ tư pháp và thẩm quyền, trình tự, thủ tục thả tàu biển đang bị bắt giữ”.

Ngoài ra, Việt Nam đã tham gia các văn bản pháp lý quốc tế, ở đó có các quy định về việc áp dụng các BPKCTT không gắn với việc khởi kiện như:

Theo khoản 1 Điều 13 của Hiệp định giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về quan hệ thương mại (Hiệp định BTA) thì cơ quan xét xử cũng phải có quyền ra lệnh áp dụng một cách khẩn cấp và hữu hiệu các biện pháp tạm thời nhằm ngăn chặn hành vi xâm phạm bất kỳ loại loại quyền sở hữu trí tuệ nào.

3. Góp ý Dự thảo BLTTHDS về biện pháp khẩn cấp tạm thời

Khoản 1 Điều 13 BTA quy định: “1. Mỗi Bên cho phép các cơ quan tư pháp của mình được ban hành lệnh áp dụng các biện pháp tạm thời một cách kịp thời và hiệu quả: a. Để ngăn chặn hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và đặc biệt là ngăn chặn sự xâm nhập của hàng hóa bị kiện là xâm phạm, vào các kênh thương mại thuộc thẩm quyền tài phán của họ, kể cả hàng hóa nhập khẩu ngay sau khi hoàn thành thủ tục hải quan”.

Theo báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao, ở Nhật Bản, Pháp, Úc… việc Tòa án ra quyết định áp dụng BPKCTT không gắn với việc khởi kiện vụ án dân sự là biện pháp hiệu quả cao, để bên vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm.[13]Như vậy, việc áp dụng BPKCTT không gắn với khởi kiện đã được các nước áp dụng. Ở nước ta, đã có Pháp lệnh Thủ tục bắt giữ tàu bay năm 2010 và Pháp lệnh Thủ tục bắt giữ tàu biển năm 2008 quy định về việc áp dụng BPKCTT không gắn với việc khởi kiện. Để đáp ứng yêu cầu của xã hội, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp, BLTTDS cần bổ sung quy định cho phép Tòa án áp dụng BPKCTT không gắn với việc khởi kiện. Hiện nay, Điều 105 Dự thảo BLTTDS sửa đổi (tương ứng Điều 99 BLTTDS năm 2004) vẫn không quy định trường hợp áp dụng BPKCTT không gắn với việc khởi kiện, mặc dù Tòa án nhân dân tối cao có đề xuất bổ sung mới quy định áp dụng BPKCTT không gắn với việc khởi kiện.[14]

CHÚ THÍCH

* ThS, giảng viên Khoa Luật Dân sự, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh

[1] Nguyễn Thị Hoài Phương (Chủ biên), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, 2012, tr. 238 – 239.

[2] Khoản 10 Điều 120 BLTTDS năm 2004: “Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ”. Khoản 11 Điều 102 BLTTDS năm 2004: “Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ”.

[3] Khoản 2 Điều 99 BLTTDS năm 2004: “Trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay bằng chứng, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 102 của Bộ luật này đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện cho Tòa án đó”.

[4] Theo Điều 120 BLTTDS năm 2004, người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong các trường hợp sau đây phải thực hiện biện pháp bảo đảm: kê biên tài sản đang tranh chấp; cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp; cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp; phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ; phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ. Biện pháp bảo đảm được thực hiện là: phải gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Tòa án ấn định nhưng phải tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện.

[5] “(1) Trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 162 của Bộ luật này có quyền yêu cầu Tòa án đang giải quyết vụ án đó áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 102 của Bộ luật này để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án. (2). Trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay bằng chứng, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 102 của Bộ luật này đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện cho Tòa án đó”.

[6] Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm hoặc bản án phúc thẩm.

[7] Theo Điều 187, Điều 220 BLTTDS.năm 2004.

[8] Khoản 2, khoản 4 Điều 13 BLTTDS năm 2004 quy định: “(2). Cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Trường hợp người tiến hành tố tụng có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. (4). Người tiến hành tố tụng dân sự có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho cá nhân, cơ quan, tổ chức thì Tòa án phải bồi thường cho người bị thiệt hại và người tiến hành tố tụng có trách nhiệm bồi hoàn cho Tòa án theo quy định của pháp luật.”

Khoản 2 Điều 101 BLTTDS năm 2004: “Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì Tòa án phải bồi thường nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Tòa án tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; b) Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác với biện pháp khẩn cấp tạm thời mà cá nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu; c) Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vượt quá yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của cá nhân, cơ quan, tổ chức.”

[9] Điều 99 BLTTDS năm 2004.

[10] Điều 171 BLTTDS năm 2004.

[12] Điều 286 BLTTDS năm 2004 quy định: “1. Người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án có quyền yêu cầu hoãn thi hành bản án, quyết định để xem xét việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Việc hoãn thi hành án được thực hiện theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự. 2. Người đã kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có quyền quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đó cho đến khi có quyết định giám đốc thẩm.”

[13]Tòa án nhân dân tối cao, Tài liệu Hội nghị tổng kết thực tiễn thi hành BLTTDS tổ chức tại thành phố Huế ngày 23, 24/10/2014, tr. 20.

[14]Tống Anh Hào, “Khái quát việc tổng kết thực tiễn thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự của Tòa án nhân dân tối cao”, Tài liệu Hội nghị tổng kết thực tiễn thi hành BLTTDS, tổ chức tại Vũng Tàu ngày 16, 17/10/2014.