Trình Bày Cấu Tạo Và Chức Năng Của Hệ Tuần Hoàn

-Chức năng của hệ tuần hoàn :

+Vận chuyển oxygen và chất dinh dưỡng đến các cơ quan trong cơ thể +Mang các chất thải của quá trình trao đổi chất đến các cơ quan bài tiết +Có vai trò trong hệ miễn dịch chống lại sự nhiễm khuẩn +Vận chuyển hormone -Cấu tạo:

+Dịch tuần hoàn: còn gọi là máu, dùng để vận chuyển oxygen và chất dinh dưỡng, khí O2 đến các tế bào cũng như mang chất thải từ tế bào trở về và thoát ra ngoài bằng các cơ quan bài tiết. +Tim: tạo sự chênh lệch về áp suất để làm cho máu lưu thông. +Mạch máu: dùng để vận chuyển máu. +Các van: đảm bảo dòng chảy của máu theo một hướng nhất định.

3

– Đưa nạn nhân ra khỏi chỗ đông người và tiến hành hô hấp nhân tạo bằng phương pháp hà hơi thổi ngạt. – Đặt nạn nhân nằm ngửa, đầu ngửa ra phía sau – Bịt mũi nạn nhân bằng 2 ngón tay – Tự hít 1 hơi đầy lồng ngực rồi ghé môi sát miệng nạn nhân và thổi hết sức vào phổi nạn nhân, không để không khí thoát ra ngoài chỗ tiếp xúc với miệng. – Ngừng thổi để hít vào rồi lại thổi tiếp – Thổi liên tục 12-20 lần/phút cho tới khi quá trình tự hô hấp của nạn nhân được ổn định bình thường.

5

-Ăn đúng cách là ăn phải đúng giờ, khoảng cách bữa ăn đều, không để quá đói, bữa ăn tối cách giờ đi ngủ khoảng 3 tiếng, không nên ăn quá no, ăn uống vệ sinh, ăn thức ăn đầy đủ các chất dinh dưỡng: protid, lipid, glucid, vitamin gồm thịt, cá, trứng, sữa, rau xanh hoa quả không nên ăn thức ăn chua cay, khi ăn phải nhai kỹ và sau khi ăn phải nghỉ ít nhất là 30 phút. Trong khi ăn phải tập trung không nên căng thẳng, cáu gắt, không nên vừa ăn vừa đọc báo đọc sách và xem vô tuyến.

-Trong khoang miệng của chúng ta có chứa nhiều vi khuẩn. Vi khuẩn lợi dụng chất đường trong thức ăn để tạo ra một loại đốm khuẩn nằm ở vị trí giữa khe răng và răng. Những đốm khuẩn này trở thành nơi trú ngụ của vi khuẩn. Chúng tồn tại trong các đốm khuẩn sinh sôi và nảy nở. Cứ thế, vi khuẩn tạo ra nhiều đốm khuẩn. Ngoài ra, thức ăn còn tạo ra một chất có tính axit. Đừng cho rằng răng của chúng ta là cứng. Răng là thứ sợ axit nhất. Bởi vì, axit sẽ bào mòn canxi của răng, khiến cho răng bị đi. Ban ngày, miệng của chúng ta hoạt động rất nhiều, có thể tiết ra lượng lớn dịch nước bọt khiến cho đường có thể hoà tan. Ngoài ra, sự ma sát khi mồm hoạt động còn có thể làm giảm cơ hội hình thành đốm khuẩn. Vì vậy, ban ngày những phần tử xấu không có cơ hội hoạt động. Nhưng, khi chúng ta ngủ, sự hoạt động của miệng ít đi, những phần tử xấu thừa cơ nổi loạn. Vì thế, trước khi đi ngủ không ăn vật đặc biệt là những đồ ăn có chứa nhiều đường như kẹo.

Cấu Tạo Và Chức Năng Của Hệ Tiêu Hóa (Phần 1)

Hệ tiêu hóa là gì?

Hệ tiêu hóa là hệ thống các cơ quan của cơ thể có nhiệm vụ ăn, tiêu hóa thức ăn để tách lấy năng lượng và dinh dưỡng, và đẩy các chất thải còn lại ra ngoài.

Hệ tiêu hóa ở người được chia ra làm 2 phần:

Quá trình tiêu hóa ở người diễn ra hàng ngày bao gồm nhiều bước. Mỗi bước có đặc điểm riêng, kết hợp chặt chẽ với nhau để hấp thu chất dinh dưỡng đi nuôi cơ thể.

Đặc điểm của hệ tiêu hóa

Đây là phần đầu tiêu của ống tiêu hóa, chứa đựng nhiều cơ quan có chức năng quan trọng về tiêu hóa và phát âm như răng, lưỡi, tuyến nước bọt.

Miệng thực hiện các hoạt động đầu tiên của hệ tiêu hóa, đó là nhai và nuốt thức ăn.

Họng là điểm đến tiếp theo của thức ăn, từ đây thức ăn di chuyển đến thực quản.

Thực quản là một ống cơ nối hầu với dạ dày. Thực quản có chiều dài khoảng 25 – 30cm, có hình dẹt vì các thành áp sát vào nhau. Trong trường hợp đang nuốt thức ăn thì thực quản có hình ống.

Bộ phận này tương đối di động, dính với các tạng xung quanh bằng các cấu trúc lỏng lẻo. Ở cổ thì thực quản nằm ở phía sau khí quản, đi xuống vùng trung thất sau nằm ở phía sau tim và trước động mạch chủ ngực, xuyên qua cơ hoành vào ổ bụng, nối với dạ dày.

Thực quản có chức năng chính là đưa thức ăn từ họng xuống dạ dày. Cơ trong họng co lại, cùng với sự nâng lên của thực quản sẽ đẩy thức ăn từ miệng xuống thực quản. Tiếp theo là các cơ ở miệng thực quản sẽ giãn ra để đón nhận lượng thức ăn này.

Đối với những thức ăn lỏng dễ tiêu hóa thì tự rơi xuống dạ dày. Còn những chất đặc hơn, khó tiêu hóa hơn thì sẽ được di chuyển trong thực quản nhờ sóng nhu động chậm của thực quản, kết hợp với trọng lượng của thức ăn.

Dạ dày (còn gọi là bao tử) là đoạn phình ra của ống tiêu hóa giống hình chữ J, một tạng trong phúc mạc nằm ở tầng trên mạc treo kết tràng ngang ở vùng thượng vị và ô dưới hoành trái. Phía trên nối với thực quản qua lỗ tâm vị, phía dưới nối tá tràng qua lỗ môn vị. Có chức năng dự trữ, nghiền thức ăn thấm dịch vị nhờ sự co bóp cơ trơn và phân huỷ thức ăn nhờ hệ enzyme tiêu hóa dịch vị với độ PH phù hợp ở lớp niêm mạc.

Dạ dày liên kết phức tạp với các bộ phận khác trong khoang bụng được cấu tạo bởi lớp cơ chắc chắn và liên kết chặt chẽ nên có khả năng co bóp mạnh và chứa khoảng 4,6- 5,5 lít nước.

Cấu tạo của dạ dày gồm: Tâm vị, Đáy vị, Thân vị, Môn vị, Thành trước dạ dày, Thành sau dạ dày, Bờ cong vị bé, Bờ cong vị lớn.

Dạ dày có 2 chức năng chính, đó là co bóp nghiền trộn cho thức ăn thấm acid dịch vị và chuyển hóa thức ăn nhờ hệ enzyme tiêu hóa trong dịch vị.

Ruột non dài khoảng 5-9m, trung bình 6.5m, là đoạn dài nhất của ống tiêu hóa, đi từ môn vị của dạ dày đến góc tá- hỗng tràng. Ruột non gồm ba phần là tá tràng, hỗng tràng và hồi tràng.

+ Tá tràng nằm ở vị trí tiếp giáp giữa dạ dày và ruột non. Cụ thể, tá tràng bắt đầu từ môn vị của dạ dày tới góc tá tràng – hỗng tràng. Nói cách khác, tá tràng là đoạn ruột đầu của ruột non.

+ Chức năng của tá tràng là trung chuyển thức ăn giữa dạ dày và ruột non. Ngoài ra, bộ phận này còn làm nhiệm vụ trung hòa acid của dịch mật và tụy trước khi nó xuống hỗng tràng và hồi tràng của ruột non.

Hỗng tràng và hồi tràng dài khoảng 6-7m, 4/5 đoạn ở trên gọi là hỗng tràng, ranh giới hai phần không rõ ràng. Chúng uốn thành 14-16 quai hình chữ U bắt đầu từ nơi hỗng tràng liên tiếp với phần trên của tá tràng và tận hết ở chỗ hồi tràng đổ vào manh tràng. Ở trên, các quai chữ U nằm ngang, ở dưới các quai thường nằm dọc. Hỗng tràng và hồi tràng được treo vào thành lưng bởi mạc treo ruột non.

Đại tràng hay còn gọi là ruột già. Đây là phần gần cuối trong hệ thống tiêu hóa, gắn liền với phần cuối cùng của hệ tiêu hóa là ống hậu môn.

Dạ dày, ruột non và ruột già đều làm nhiệm vụ tiêu hóa thức ăn. Tuy nhiên, xét về cấp độ thì dạ dày ở cấp độ 1 – tiêu hóa thức ăn ban đầu. Ruột non ở cấp độ 2 và giữ vai trò chủ yếu. Ruột già thuộc cấp độ 3 với nhiệm vụ đảm bảo chắc chắn rằng thức ăn đã được tiêu hóa hết.

Ruột già sẽ xử lý một số chất xơ, đạm và mỡ mà dạ dày và ruột non không xử lý được hết. Điểm đặc biệt là ruột già không có các enzyme tiêu hóa thức ăn mà xử lý các chất này nhờ vào hệ vi khuẩn phong phú sống trong ruột già.

+ Hấp thụ chất dinh dưỡng và khoáng chất

Các thức ăn sau khi đã được hấp thu từ ruột non, sẽ được đổ xuống ruột già và hấp thụ lại dinh dưỡng thêm một lần nữa. Ngoài ra, ruột già còn là nơi hấp thụ muối khoáng và các nguyên tố khác. Các chất này sẽ được đưa vào máu, cùng với dinh dưỡng mà ruột non hấp thụ để nuôi sống cơ thể.

+ Hấp thụ nước, đóng khuôn chất bã

Đại tràng chia làm 3 phần chính: manh tràng, kết tràng và trực tràng. Ruột non thông với ruột già tại ranh giới giữa manh tràng và kết tràng. Giữa ruột non và ruột già có van hồi manh tràng giữ cho các chất trong ruột già không chảy ngược lại lên ruột non.

Hình dạng giống một chiếc túi hình tròn, vị trí của nó nằm ở ngay phía dưới của hỗng tràng được đổ vào bên trong ruột già. Manh tràng được liên kết với ruột thừa – di tích còn sót lại của quá trình tiến hóa ở con người và vượn người. Trong ruột thừa có chứa các tế bào lympho B và lympho T là những tế bào đặc biệt có tác dụng tiêu diệt các tế bào lạ và vi khuẩn có hại đối với cơ thể.

Là thành phần chính của đại tràng, được chia làm 4 phần: kết tràng lên, kết tràng ngang, kết tràng xuống và cuối cùng là kết tràng xích-ma.

Sau khi uốn cong 2 lần, kết tràng xích ma nối tiếp với trực tràng là một ống thẳng, dài khoảng 15cm và kết thúc ở hậu môn mở ra ngoài cơ thể. Gồm 2 cơ vòng để kiểm soát hoạt động đóng mở của hậu môn trực tràng nằm sau bàng quang ở nam và sau tử cung ở nữ.

Cấu Tạo Và Chức Năng Của Hệ Tiêu Hóa (Phần 2)

Trong bài viết trước, chúng ta đã cùng nhau đi tìm hiểu về cấu tạo và đặc điểm của hệ tiêu hóa. Tuy nhiên với cấu tạo và đặc điểm như vậy thì hệ tiêu hóa có chức năng gì, hôm nay chúng ta cùng đi tìm hiểu về chức năng của hệ tiêu hóa và quá trình tiêu hóa diễn ra trong cơ thể.

Chức năng của hệ tiêu hóa

Hệ tiêu hóa được bắt đầu từ miệng →Thực quản → Dạ dày → Tá tràng →Ruột non → Đại tràng (ruột già) → Trực tràng → Hậu môn.

Thức ăn được đưa vào cơ thể qua đường miệng, sau đó đi qua các cơ quan khác của hệ tiêu hóa, ở đây thức ăn dần được làm nhỏ và các chất dinh dưỡng được phân giải thành các phân tử mà cơ thể có thể hấp thụ. Nhờ vậy mà cơ thể có năng lượng để thực hiện các hoạt động sống khác.

95% vi khuẩn, virus và các tác nhân gây bệnh xâm nhập cơ thể qua đường TIÊU HÓA, 5% qua đường HÔ HẤP và đường HẬU MÔN. Tuy nhiên có đến 70 – 80% hệ thống miễn dịch của chúng ta nằm ở ruột.

Đường ruột có cấu tạo đặc biệt, gồm các nhung mao và vi nhung mao, tạo nên diện tích tiếp xúc lên đến 40 – 50 m2. Hệ nhung mao kết hợp với hệ vi sinh đường ruột tạo nên một hàng rào bảo vệ tự nhiên ngăn các vi khuẩn gây bệnh xâm nhập vào máu. Ngoài ra, tại đường ruột có rất nhiều các tế bào miễn dịch. Nhờ vậy mà đường ruột có thể vừa hấp thụ dinh dưỡng vừa hạn chế được sự xâm nhiễm của các vi khuẩn gây bệnh qua đường tiêu hóa.

Niêm mạc ruột có khoảng 30 triệu các nhung mao, dưới nhung mao là các vi nhung mao, nó tạo ra bề mặt 40 – 50m2. Nhung mao kết hợp với hệ vi sinh đường ruột tạo thành lớp màng lọc đặc biệt kín kẽ. Màng lọc này chỉ cho các chất dinh dưỡng, các vitamin và khoáng chất có lợi đi qua và ngăn cản các vi khuẩn gây bệnh, các chất độc từ thực phẩm xâm nhập cơ thể.

Gan là một cơ quan chịu trách nhiệm cho hàng trăm hoạt động hóa học diễn ra liên tục mà cơ thể bạn cần để sống. Ngoài vai trò là trung tâm trong tất cả các quá trình trao đổi chất của cơ thể, chịu trách nhiệm tổng hợp và chuyển hóa các chất dinh dưỡng quan trọng như chất béo, carbohydrate và protein. Khi máu từ các cơ quan tiêu hóa đến gan, mang theo chất dinh dưỡng, thuốc và cả các chất độc hại, gan phát huy chức năng giải độc cho cơ thể bằng cách xử lý, chuyển đổi các chất độc hại thành một chất ít độc hại hơn là ure, rồi đẩy ngược vào máu. Ure sau đó được vận chuyển đến thận và bị đào thải ra khỏi cơ thể qua nước tiểu.

Với sự trợ giúp của vitamin K, gan còn tạo ra nhiều protein quan trọng trong quá trình đông máu. Nó cũng là một trong những cơ quan phá vỡ các tế bào máu cũ hoặc bị hư hỏng để tạo ra các tế bào máu mới. Đó là lý do vì sao người ta thường nói tái tạo máu, lọc máu cũng là một trong những chức năng của lá gan.

Quá trình tiêu hóa thức ăn của cơ thể

Thức ăn vào miệng được cắt nhỏ và làm nhuyễn bởi hệ thống răng miệng và được trộn đều với nước bọt do các tuyến nước bọt (ở dưới hàm, dưới lưỡi và mang tai) tiết ra.

Thức ăn được vào đường tiêu hóa và trải qua quá trình phân hủy những phân tử thức ăn lớn thành những phân tử nhỏ hơn. Sau đó các phân tử dinh dưỡng nhỏ này rời khỏi hệ tiêu hóa và đi vào cơ thể ngay trước khi chúng có thể được sử dụng. Điều này được hoàn thành bằng quá trình thứ hai được gọi là sự hấp thu, khi các phân tử thức ăn đi qua các màng huyết tương của ruột non vào máu.

Kết quả của quá trình tiêu hóa ở miệng, thức ăn được nghiền nhỏ nhào trộn lẫn nước bọt thành viên thức ăn mềm, trơn rồi được lưỡi đưa xuống họng vào thực quản, xuống dạ dày. Về mặt hóa học, một phần tinh bột được cắt nhỏ thành các đường đôi và tiếp tục quá trình tiêu hóa.

Sau khi thức ăn từ thực quản xuống dạ dày. Dạ dày có chức năng nghiền, nhào trộn thức ăn với dịch vị và kiểm soát việc đưa vị trấp xuống tá tràng.

Thức ăn được chứa đựng trong dạ dày và bắt đầu quá trình trộn lẫn với dịch vị dạ dày, bao gồm acid, enzyme pepsin, chất nhầy, tạo thành một chất bán lỏng, đồng nhất giống cháo bột gọi là vị trấp. Vị trấp được đưa từng đợt xuống tá tràng với tốc độ phù hợp với sự tiêu hóa và hấp thu ở ruột non.

Kết quả của quá trình tiêu hóa ở dạ dày là tạo ra vị trấp trong đó một phần protein được chuyển hóa thành proteose và pepton, một phần tinh bột chín thành maltose, maltotriose và oligosaccharide. Dầu mỡ, lipid hầu như chưa được phân giải.

Ở ruột non, thức ăn được nhào trộn với dịch mật và dịch tụy, dịch mật và dịch ruột. Sự tiêu hóa thức ăn bắt đầu từ miệng đến dạ dày sẽ được hoàn tất tại lòng ruột do biểu mô ruột non hấp thu. Sau đó các sản phẩm tiêu hóa được hấp thu cùng với vitamin, các chất điện giải và nước.

Kết quả của quá trình tiêu hóa ở ruột non là hấp thu hoàn toàn lượng glucose qua các tế bào biểu mô ở đoạn cuối hỗng tràng. Các protein, chất béo được cắt nhỏ ra thành các sản phẩm tiêu hóa dễ dàng hơn. Được khuếch tán qua màng tế bào biểu mô niêm mạc ruột.

Ruột già là vị trí cuối cùng thức ăn được hấp thu trước khi bị đào thải ra ngoài môi trường với chức năng chủ yếu là hấp thu nước và các chất điện giải.

Tại ruột già có rất nhiều vi khuẩn có nhiệm vụ tiết ra enzyme phân giải cấu trúc carbonhydrate phức tạp mà dạ dày và ruột non chưa tiêu hóa được. Các tuyến tiêu hóa tham gia vào quá trình tiết enzyme tiêu hóa để phân giải thức ăn. Ngoài ra gan là nhà máy xử lý các chất. Tất cả các chất sau khi được hấp thu tại ruột sẽ theo tĩnh mạch mạc treo tràng trên đổ vào tĩnh mạch của gan, lúc này gan có trách nhiệm dự trữ chất dinh dưỡng và chuyển hóa độc tố cho cơ thể.

Cấu Tạo Và Chức Năng Hệ Mạch

Cấu tạo và chức năng của hệ mạch

1. Cấu tạo và chức năng của động mạch

Ðộng mạch có chức năng đưa máu từ tim đến các mao mạch toàn cơ thể. Hệ động mạch gồm các ống dẫn đàn hồi và có sức cản cao. Từ động mạch chủ, các mạch máu được phân nhánh ngày càng nhỏ dần, càng xa tim, thiết diện của mỗi động mạch càng nhỏ, nhưng thiết diện của hệ động mạch càng lớn, vận tốc máu càng xa tim càng giảm.

Thành động mạch có 3 lớp: lớp trong là lớp tế bào nội mạc; lớp giữa chứa các tế bào cơ trơn và các sợi đàn hồi, tỉ lệ giữa sợi cơ trơn và sợi đàn hồi thay đổi theo từng loại động mạch; lớp ngoài là tổ chức liên kết , có các sợi thần kinh, ở những động mạch lớn có cả mạch máu nuôi dưỡng thành động mạch.

Máu lưu thông trong mạch máu tuân theo những quy luật huyết động học. Ðó là những quy luật thủy động học được áp dụng vào máu và mạch máu. Những quy luật thường được đề cập tới khi nghiên cứu về tuần hoàn máu trong mạch máu. Ở đây nói về định luật Poiseulle:

– Ðịnh luật Poiseulle: khi một chất lỏng chảy trong một ống hình trụ, nằm ngang có một tiết diện hằng định thì lưu lượng giữa hai điểm trên ống tỷ lệ thuận với hiệu số áp lực và bình phương tiết diện của ống, tỷ lệ nghịch với chiều dài giữa hai điểm và độ quánh của chất lỏng.

– Ứng dụng định luật trên đối với hệ thống mạch máu:

Ở người và động vật bậc cao, áp lực của máu ở tĩnh mạch chủ trên đổ vào tâm nhĩ phải gần như = 0. Do đó Q= P/R hay P = Q.R

Như vậy áp lực máu tại động mạch tỷ lệ thuận với lượng máu đổ vào động mạch trong đơn vị thời gian và sức cản ngoại vi. Còn sức cản đối với dòng máu tại một điểm nào đó trong hệ mạch bao giờ cũng phụ thuộc vào chiều dài của đoạn mạch (tính từ tim đến điểm đó), vào độ quánh của máu và kích thước của lòng mạch.

Các mạch máu có tính giãn nở, đó là khả năng của mạch giãn phình ra tùy theo sự thay đổi áp suất trong lòng mạch. Ở động mạch chủ, tim đập ngắt quãng, nhờ tính đàn hồi, máu vẫn chảy liên tục. Trong thời kỳ tâm thu, máu được tống vào động mạch với áp suất lớn khiến cho nó giãn ra, lúc này thành mạch nhận được một thế năng. Trong kỳ tâm trương, mạch máu trở lại trạng thái ban đầu, do thế năng của thành động mạch chuyển thành động năng đẩy máu, làm cho máu chảy liên tục. Khả năng đàn hồi giảm theo tuổi, do sự tăng độ cứng thành mạch

Lớp cơ trơn của thành mạch được chi phối bởi thần kinh, có thể chủ động thay đổi đường kính, nhất là ở các tiểu động mạch. Ðặc tính này khiến lượng máu được phân phối đến cơ quan tùy theo nhu cầu.

Huyết áp (HA) là áp suất máu trong động mạch. Máu chảy được trong động mạch là kết quả của hai lực đối lập, lực đẩy máu của tim và lực cản của mạch máu, trong đó lực đẩy máu của tim thắng nên máu chảy được trong động mạch với một tốc độ và áp suất nhất định. Huyết áp trước đây được đo bằng đơn vị milimet thủy ngân (mmHg). Ngày nay, đơn vị đo lường quốc tế hệ SI (système international) khuyên dùng đơn vị kilopascal (kPa), 1mmHg = 0,133 kPa và 7,5mmHg = 1 kPa.

Còn gọi là huyết áp tâm thu, thể hiện khả năng co bóp của tim, là giới hạn cao nhất của những dao động có chu kỳ của huyết áp. Huyết áp tối đa thay đổi tùy tuổi, thường từ 90-140mmHg.

Còn gọi là huyết áp tâm trương, thể hiện sức căng của thành mạch, là giới hạn thấp nhất của những dao động có chu kỳ của huyết áp. Huyết áp tối thiểu thay đổi từ 50-90mmHg.

Là chênh lệch giữa huyết áp tối đa và huyết áp tối thiểu, là điều kiện cần cho tuần hoàn máu. Bình thường khoảng 50mmHg.

Là trung bình của tất cả áp suất máu được đo trong một chu kỳ thời gian. Huyết áp trung bình gần với huyết áp tâm trương hơn huyết áp tâm thu trong chu kỳ hoạt động của tim.

HA trung bình = HA tâm trương + 1/3 HA hiệu số

Huyết áp động mạch giảm ít từ động mạch lớn sang động mạch vừa vì kháng lực nhỏ, nhưng giảm nhanh trong các động mạch nhỏ và tiểu động mạch. Huyết áp trung bình ở cuối tiểu động mạch là 30-35mmHg. Huyết áp hiệu số chỉ còn 5mmHg.

– Các yếu tố ảnh hưởng đến huyết áp

Lưu lượng máu Q chảy qua một ống mạch chịu sự chi phối của hai yếu tố: hiệu áp suất giữa hai đầu ống (P1-P2 = P), là động lực đẩy máu qua ống và sức chống đối lại dòng chảy qua ống còn gọi là sức cản R (resistance) của hệ mạch.

Theo định luật Ohm ta có :

Q = P/R hay R = Q x P

Sức cản R = 8ηl/π.r 4 cho nên ta có P = Q.R. Trong đó chiều dài hệ mạch là không đổi, như vậy HA phụ thuộc vào lưu lượng tim, tính chất của máu và bán kính mạch máu.

+ Lưu lượng tim : Q = Qs . f.

Qs là khối lượng máu mỗi lần tim bóp tống ra (khoảng 70ml). f (tần số tim): số lần tim bóp trong 1 phút (khoảng 70 lần).

Vậy Q = Qs x f = 70ml x 70 lần = 4900ml/phút.

Khi tim co bóp mạnh, máu được đẩy vào động mạch nhiều hơn, thể tích tâm thu tăng do đó huyết áp cao hơn và ngược lại.

Nhưng có khi tim đập chậm mà HA không giảm, gặp ở người tập luyện thể thao. Ví dụ: Tim đập chậm 50 lần nhưng Qs =100ml , do đó Q = 5000ml.

Ðộ quánh của máu cũng là một yếu tố quan trọng quyết định HA, nếu độ quánh giảm thì HA hạ, đó là trường hợp của người bị bệnh thiếu máu, do thiếu protein trong huyết tương và thiếu cả hồng cầu, do đó độ quánh giảm. Trường hợp mất máu, do bị chảy máu nặng, làm cho V giảm, cơ thể sẽ rút nước gian bào để bù V hoặc do truyền dịch để bù V, độ quánh bị giảm nên HA giảm.

Có trường hợp độ quánh tăng, nhưng HA vẫn giảm, gặp trong mất nước như nôn mửa nhiều, tiêu chảy nặng làm cho V giảm, lúc này máu bị cô đặc làm cho độ quánh tăng, nhưng V giảm, vì vậy HA giảm.

Mạch giãn thì HA hạ, mạch co thì HA tăng. Ở người cao tuổi, mạch máu kém đàn hồi, sức cản R tăng, khiến cho huyết áp cao.

– Những biến đổi sinh lý của huyết áp

+ Theo tuổi: Trẻ càng nhỏ huyết áp động mạch càng thấp, càng về già huyết áp càng cao theo mức độ xơ cứng động mạch.

+ Theo giới: Huyết áp ở phụ nữ thường thấp hơn so với nam giới cùng lứa tuổi khoảng 6 mmHg.

+ Thay đổi theo trọng lực: Ở vị trí đứng thẳng, huyết áp trung bình của động mạch ngang tim là 100mmHg, do ảnh hưởng của trọng lực, động mạch ở cao hơn tim 1cm thì huyết áp giảm 0,77mmHg, thấp hơn tim 1cm thì huyết áp tăng 0,77mmHg.

+ Thay đổi theo chế độ ăn: Ăn nhiều đạm, ăn mặn thì huyết áp tăng.

+ Thay đổi theo nhịp sinh học: HA thay đổi theo ngày đêm như hình sin. HA thường hạ vào sáng sớm tăng dần đến trưa rồi chiều giảm.

+ Vận động: Khi vận động, huyết áp tăng do sự đáp ứng của cơ thể đối với hoạt động thể lực lúc đầu, sau đó huyết áp giảm dần nhưng vẫn cao hơn bình thường. Trường hợp huyết áp giảm trong vận động nặng, thường do khả năng bơm máu của tim không đủ hiệu lực. Ở người có rèn luyện, trị số huyết áp thường thấp, cũng như nhịp tim thấp hơn so với người bình thường không rèn luyện.

2. Ðặc điểm cấu trúc chức năng tĩnh mạch

Hệ tĩnh mạch bắt nguồn từ mao mạch, kể từ khi thành mao mạch có cơ trơn là đó là tiểu tĩnh mạch. Thiết diện của một tĩnh mạch càng về gần tim càng lớn, tổng thiết diện của cả hệ tĩnh mạch lớn hơn hệ động mạch. Mỗi động mạch lớn thường có hai tĩnh mạch đi kèm. Trên đường đi của hệ tĩnh mạch có các xoang tĩnh mạch.

Thành tĩnh mạch có 3 lớp như động mạch nhưng mỏng và dễ giãn rộng hơn:

– Lớp trong cùng là lớp tế bào nội mạc với từng đoạn nhô ra tạo thành những nếp gấp hình bán nguyệt đối diện nhau làm thành van tĩnh mạch hướng cho máu chảy một chiều về tim. Các van tĩnh mạch có ở các tĩnh mạch chi, không có van ở các tĩnh mạch nhỏ, tĩnh mạch từ não hoặc từ các tạng.

– Lớp giữa gồm những sợi liên kết và sợi cơ, sợi cơ vòng và dọc đan lẫn với sợi mô liên kết.

– Lớp ngoài mỏng gồm những sợi liên kết chun giãn.

Do cấu trúc như trên, tĩnh mạch có tính giãn cao, có thể chứa một lượng máu lớn với sự thay đổi ít áp lực bên trong. Ở một thời điểm nào đó, khoảng 65% thể tích máu toàn bộ được chứa trong tĩnh mạch so với 20% trong hệ thống động mạch. 3.3.2.1. Nguyên nhân của tuần hoàn tĩnh mạch

Tim bơm máu vào vòng tuần hoàn lớn, tạo nên huyết áp. Huyết áp giảm dần từ động mạch qua mao mạch đến tĩnh mạch huyết áp giảm rất nhiều, nhưng cũng đủ đưa máu trở về tim. Trong thời kì tâm thất thu, áp suất tâm nhĩ giảm xuống đột ngột do van nhĩ – thất bị hạ xuống về phía mỏm tim làm buồng nhĩ giãn rộng, tác dụng này làm hút máu từ tĩnh mạch trở về tâm nhĩ.

Một số tĩnh mạch có chứa các van, có chức năng giống van tim. Van là những nếp lớn trong thành tĩnh mạch, chỉ cho phép máu chảy một chiều về tim. Các van chủ yếu ở trong các tĩnh mạch chi.

Khi cử động, sự co của các cơ xung quanh, ép vào tĩnh mạch, phối hợp với các van khiến cho máu chảy về tim. Do đó sự vận cơ giúp máu về tim tốt hơn. Khi các van suy yếu, sẽ ứ máu ở tĩnh mạch gây phù.

Khi hít vào, cơ hoành hạ thấp, các tạng trong bụng bị ép, áp suất tăng lên và ép máu về tim. Ðồng thời, áp suất trong lồng ngực càng âm hơn ( từ -2,5mmHg đến -6mmHg), khiến cho áp suất tĩnh mạch trung ương dao động từ 6mmHg thì thở ra đến gần 2mmHg khi hít vào. Sự giảm áp suất này làm tăng lượng máu trở về tim phải.

– Ảnh hưởng của trọng lực

Ở tư thế đứng trọng lực có ảnh hưởng tốt tới tuần hoàn tĩnh mạch ở trên tim và lại không thuận lợi cho tuần hoàn tĩnh mạch ở bên dưới tim.

Máu chảy trong tĩnh mạch là do các nguyên nhân của tuần hoàn tĩnh mạch. Máu chảy trong tĩnh mạch có một áp suất gọi là huyết áp tĩnh mạch. Huyết áp tĩnh mạch được đo bằng áp kế nước và có trị số thấp, áp suất máu trong tĩnh mạch khuỷu tay là 12 cmH20, ở tĩnh mạch trung tâm nơi tĩnh mạch chủ đổ về tâm nhĩ phải có giá trị thấp bằng trong tâm nhĩ phải là 0 mmHg.

Huyết áp tĩnh mạch tăng thường gặp trong suy tim phải hoặc suy tim toàn bộ hoặc khi có trở ngại trên đường máu trở về tim, có khi lên đến 20 cmH 2 0.

Huyết áp tĩnh mạch giảm trong shock vì mao mạch giãn rộng, chứa một lượng máu lớn.

3. Ðặc điểm cấu trúc chức năng của mao mạch

Các tiểu động mạch phân nhánh thành các mao mạch, các mao mạch tạo thành những mạng đi vào tổ chức. Hệ mao mạch gồm các mao mạch thực sự, là những mạch máu dài và mỏng (thành dày 0,5μm, đường kính mao mạch 8μm). Ðầu mao mạch có cơ vòng tiền mao mạch, kiểm soát lượng máu đi vào mao mạch. Thành mao mạch là lớp tế bào nội mô, bên ngoài là màng đáy. Giữa các tế bào nội mô có những khe nhỏ đi xuyên qua thành mao mạch, đường kính khoảng 6-7nm, không cho các chất có phân tử lượng lớn hơn 35000 đi qua, như thế các thế các protein của máu bình thường không qua được thành mao mạch. Phần lớn nước và chất điện giải có thể đi qua khe dễ dàng.

Ngoài những mao mạch thực sự, còn có những luôn mở gọi là kênh ưu tiên, nối giữa tiểu động mạch và tiểu tĩnh mạch, như vậy máu từ động mạch luôn đi sang tĩnh mạch theo kênh ưu tiên. Khi cơ thắt tiền mao mạch co lại máu chủ yếu đi theo kênh này, khi cơ thắt tiền mao mạch mở ra thì máu đi qua những mao mạch thực sự (hình 3.7).

Máu chảy trong mao mạch là do sự chênh lệch áp suất từ tiểu động mạch đến tiểu tĩnh mạch. Huyết áp giảm rất thấp khi qua mao mạch (10mmHg), đến tiểu tĩnh mạch chỉ còn 10-15mmHg. Trong trường hợp bệnh lý, mao mạch giãn ra, huyết áp thấp hơn huyết áp tĩnh mạch, máu sẽ bị ứ lại trong mao mạch, huyết tương thấm qua mao mạch, gây phù.

Lưu lượng máu qua mao mạch tùy thuộc vào sự hoạt động của tổ chức đó và được điều hòa bởi cơ thắt tiền mao mạch cũng như sức cản của động mạch nhỏ và tiểu động mạch đến tổ chức. Khi nghỉ ngơi, các cơ thắt này chỉ mở 5-10% các mao mạch để cho máu đi qua, trái lại khi hoạt động (co cơ), máu tràn ngập mao mạch.

Máu không chảy liên tục qua mạng mao mạch mà thường ngắt quãng, do sự co, giãn của cơ thắt tiền mao mạch và cơ trơn thành mao mạch. Trong các mao mạch nhỏ hồng cầu phải biến dạng để đi qua mao mạch, do đó có những đoạn của mao mạch chỉ có hồng cầu, có những đoạn chỉ có huyết tương. Máu chảy qua mao mạch rất chậm, tốc độ < 0,1 cm/giây, điều này thuận lợi cho sự trao đổi chất.

Sự trao đổi chất diễn ra ở các mao mạch thực sự. Có 5% tổng lượng máu (khoảng 250ml) ở hệ mao mạch tham gia trao đổi chất.

Dưỡng chất, oxy và những chất khác trong máu sẽ đi qua thành mao mạch, vào dịch kẽ, rồi vào tế bào. Tế bào thải các chất theo hướng ngược lại. Sự qua lại này được thực hiện theo 3 con đường: khuếch tán, vận chuyển theo lối ẩm bào và sự lọc.

Những chất có trọng lượng phân tử tương đối lớn như các protein không hòa tan trong mỡ, không thể qua các lỗ của thành mao mạch mà được vận chuyển bởi các bọc ẩm bào.

Cách thức trao đổi qua mao mạch quan trọng nhất là sự khuếch tán đơn giản. Các chất như oxy, carbonic, glucose, acid amin, hormon và những chất khác khuyếch tán qua thành mao mạch theo sự chênh lệch nồng độ. Các chất hòa tan trong lipid như oxy, carbonic và ure đi qua trực tiếp màng bào tương của tế bào nội mạc, các chất ít hòa tan trong lipid như Na+, K+, Cl– và glucose khuếch tán qua các lỗ giữa tế bào nội mô.

Nước và các chất hòa tan đi qua các lỗ giữa tế bào nội mạc bằng sự lọc, phụ thuộc vào sự chênh lệch áp suất giữa trong và ngoài mao mạch. Mặc dù cách thức trao đổi này tương đối bé (ngoại trừ ở thận), nhưng quan trọng duy trì thể tích máu tuần hoàn. Sự trao đổi này phụ thuộc vào áp suất thủy tĩnh và áp suất keo.

– Áp suất thủy tĩnh (Pc), tức huyết áp, có khuynh hướng đẩy nước và các chất hòa tan từ máu sang dịch kẽ, trị số thay đổi từ 32mmHg ở mao động mạch đến 15mmHg mao tĩnh mạch.

Áp suất thủy tĩnh dịch kẽ (Pi) thường bằng 0.

– Áp suất keo huyết tương (πc), phụ thuộc protein huyết tương, tác dụng kéo nước và các chất hòa tan vào trong mao mạch. Bình thường khoảng 28mmHg.

Áp suất keo dịch kẽ (πi), trị số này rất nhỏ khoảng 1mmHg.

Sự di chuyển của chất dịch, còn gọi là áp lực lọc thực sự, tại mao mạch được tính như sau :

Sự di chuyển dịch = k (Pc + πi) – (Pi + πc )

K là hệ số lọc của mao mạch (0,08-0,015 ml/ph/mmHg 100g mô).

Áp lực lọc dương tính thì dịch sẽ bị đẩy từ mao mạch ra khoảng kẽ, ngược lại, nếu âm thì dịch được tái hấp thu trở lại vào mao mạch.

Như vậy, ở mao động mạch ta có : (32+ 1) – (28+0) = 5 và dịch sẽ di chuyển từ máu vào mô, và tương tự, ở mao tĩnh mạch áp lực lọc là -12mmHg, do đó dịch được vận chuyển từ dịch kẽ vào máu.

Mỗi ngày, trung bình 24 lít dịch được lọc qua mao mạch (chiếm 0,3% lưu lượng tim); 85% dịch lọc được tái hấp thu trở lại mao mạch, còn lại qua hệ bạch huyết về tim.

Bất kỳ nguyên nhân nào gây thay đổi áp suất ở mao mạch hoặc áp suất keo đều biểu hiện bệnh lý. Ví dụ: HA mao mạch tăng do bị cản trên đường về tim thì nước bị đẩy ra dịch kẽ gây phù, hoặc protid máu giảm nước cũng thoát ra khỏi mao mạch gây phù.

Theo GTSLĐV&Người

3 Nhân Tố Đảm Bảo Chức Năng Hệ Tuần Hoàn

Hệ tuần hoàn có chức năng quan trọng, duy trì sự sống của cơ thể. Để đảm bảo chức năng hệ tuần hoàn được duy trì cần có 3 yếu tố quan trong bao gồm thể tích tuần hoàn, mạch máu và tim. Chỉ một sự thay đổi trong các yếu tố trên có thể ảnh hưởng tới chức năng hệ tuần hoàn.

1. Chức năng hệ tuần hoàn là gì?

Hệ tuần hoàn chứa các thành phần quan trọng của cơ thể, có các chức năng chính bao gồm:

Vận chuyển các chất dinh dưỡng và oxy cho tế bào.

Vận chuyển các chất là sản phẩm bài tiết ra khỏi tế bào.

Vai trò trong hệ miễn dịch giúp cơ thể chống lại các bệnh lý nhiễm khuẩn.

Vận chuyển hormon tới cơ quan đích.

Điều hòa thân nhiệt do nguồn máu nóng sưởi ấm các cơ quan và làm nhiệm vụ thải nhiệt cho cơ thể, ổn định độ PH và duy trì cân bằng nội mô.

Hệ tuần hoàn gồm có hệ tuần hoàn lớn và hệ tuần hoàn nhỏ:

Vòng tuần hoàn phổi: Máu sau khi trao đổi oxy tại tế bào, đã bị khử oxy được đưa vào tâm nhĩ phải, từ đây máu được chuyển sang tâm thất phải và được bơm vào động mạch phổi để đi lên phổi. Ở phổi, máu giải thoát khí CO2 và hấp thụ oxy rồi quay trở lại tim qua tĩnh mạch phổi.

Vòng tuần hoàn hệ thống: Máu từ vòng tuần hoàn phổi qua tĩnh mạch phổi là máu giàu oxy vào tâm nhĩ trái, rồi từ nhĩ trái xuống tâm thất trái. Máu được tim co bóp đẩy từ tâm thất trái vào động mạch chủ để phân phối đi khắp cơ thể. Sau khi trao đổi chất với các tế bào tại các mô trong cơ thể, máu trở lại tâm nhĩ phải qua tĩnh mạch chủ trên và tĩnh mạch chủ dưới kết thúc vòng đại tuần hoàn.

Chức năng hệ tuần hoàn vô cùng quan trọng đối với cơ thể, duy trì sự sống cho cơ thể. Để đảm bảo các chức năng này thì cần có những yếu tố quan trọng, nhằm duy trì và đảm bảo vận hành hệ thống tuần hoàn tốt nhất.

2. Yếu tố đảm bảo chức năng hệ tuần hoàn

Để đảm sự hoạt động và đảm bảo được những chức năng của hệ tuần hoàn cần có sự hoàn chỉnh của 3 yếu tố gồm tim, hệ mạch và thể tích tuần hoàn.

2.1 Thể tích tuần hoàn

Thể tích tuần hoàn còn gọi là máu, dùng để vận chuyển oxygen và chất dinh dưỡng, khí O2 đến các tế bào, mang chất thải từ tế bào trở về và thoát ra ngoài bằng các cơ quan bài tiết như đường hô hấp, qua thận.

Khi có một nguyên nhân nào đó dẫn tới giảm thể tích tuần hoàn sẽ gây ra tình trạng sốc giảm khối lượng tuần hoàn. Sốc giảm tuần hoàn là một tình trạng đe dọa tính mạng do suy tuần hoàn, khiến cho việc cung cấp oxy không đủ để đáp ứng nhu cầu trao đổi chất của tế bào gây ra tình trạng thiếu oxy tế bào và mô.

Thể tích tuần hoàn có thể giảm khi bị mất nước, mất máu, tiêu chảy, sốt…

Nếu tình trạng mất dịch trong cơ thể diễn ra nhanh hoặc kéo dài thì sẽ dẫn tới sốc, cần được bù dịch khi mất bằng đường uống hoặc tiêm truyền để đảm bảo chức năng tuần hoàn.

2.2 Tim

Tim nằm trong lồng ngực, có trục lệch trái, là một khối cơ rỗng, trọng lượng tim khoảng 300gram, được chia thành 4 buồng gồm 2 tâm nhĩ và 2 tâm thất:

Nhĩ phải và nhĩ trái, thành mỏng, nhận máu tĩnh mạch, đưa xuống tâm thất.

Tâm thất phải và tâm thất trái, thành dày, bơm máu vào động mạch với áp lực cao. Thành tâm thất trái dày gấp hai lần so với thành thất phải, do áp lực đưa máu vào động mạch chủ lớn.

Hai tâm nhĩ ngăn cách nhau bởi vách liên nhĩ, hai tâm thất ngăn cách nhau bởi vách liên thất.

Giữa tâm thất và tâm nhĩ được ngăn cản bởi các van nhĩ thất. Bên trái có van hai lá ngăn cách tâm nhĩ trái và tâm thất trái, bên phải có van ba lá ngăn cách tâm thất phải và nhĩ phải. Nó giúp máu chảy theo một chiều từ nhĩ xuống thất.

Chức năng chính của tim là khi tim co bóp thì tạo áp lực đẩy máu vào trong động mạch, từ đó đi nuôi dưỡng cơ thể. Tim được hoạt động theo cơ chế tự động, điều hòa nhờ hệ thống thần kinh thực vật và được nuôi dưỡng bởi hệ thống động mạch vành.

2.3 Hệ mạch

Hệ mạch máu có chức năng vận chuyển máu tới cơ quan và từ cơ quan về tim. Hệ mạch gồm có động mạch, tiểu động mạch, mao mạch, tĩnh mạch và tiểu tĩnh mạch.

Động mạch có chức năng đưa máu từ tim tới các cơ quan, chức năng vận chuyển máu dưới áp suất lớn, do đó cấu tạo thành động mạch gồm 3 lớp cơ rất chắc khỏe và có khả năng chun giãn để tạo áp lực co bóp đẩy máu lưu thông. Khi xa dần tim động mạch chia thành các nhánh nhỏ mang chất dinh dưỡng và oxy đi nuôi dưỡng mô cơ quan. Huyết áp động mạch là áp suất máu trong động mạch, máu chảy được trong động mạch là kết quả của hai lực đối lập, lực đẩy máu của tim và lực cản của thành động mạch. Huyết áp động mạch duy trì ổn định thì máu từ động mạch có thể đến nuôi dưỡng các cơ quan, ngược lại nếu huyết áp thấp dẫn tới máu không nuôi dưỡng được cơ quan có thể dẫn tới tử vong. Còn nếu huyết áp động mạch quá cao gây ra áp lực lớn lên thành mạch, có nguy cơ vỡ thành mạch, nếu vỡ thành mạch tại não gây xuất huyết não…

Tiểu động mạch: Là các nhánh nhỏ cuối cùng của hệ động mạch, hoạt động như các van điều hòa lượng máu tới mao mạch tùy theo nhu cầu máu của cơ quan đó. Thành mạch có thể đóng tịt dòng máu hoặc mở rộng để máu qua nhiều nhờ sức mạnh của thành tiểu động mạch.

Mao mạch: Mao mạch có đặc tính là thành mỏng và có thể thấm được các phân tử nhỏ. Tại mao mạch các chất dinh dưỡng, khi, chúng tôi đổi chất với mô.

Tiểu tĩnh mạch: Từ mao mạch, máu đổ vào những mạch máu với thành mỏng gọi là tiểu tĩnh mạch.

Tĩnh mạch: Tiểu tĩnh mạch tập trung thành những tĩnh mạch lớn. Thành tĩnh mạch có 3 lớp giống như động mạch nhưng mỏng và dễ giãn rộng hơn. Các lớp của thành tĩnh mạch gồm:

Lớp trong cùng là lớp tế bào nội mạc với từng đoạn nhô ra tạo thành những nếp gấp hình bán nguyệt đối diện nhau tạo thành van tĩnh mạch, mục đích để hướng cho máu chảy một chiều về tim. Các van tĩnh mạch thì có ở các tĩnh mạch chi và không có van ở các tĩnh mạch nhỏ, tĩnh mạch từ não hoặc tĩnh mạch từ các tạng.

Lớp giữa gồm những sợi liên kết và sợi cơ.

Lớp ngoài mỏng gồm những sợi liên kết chun giãn. Có khả năng chun giãn tốt.

Như vậy để đảm bảo được chức năng tuần hoàn thì cần 3 yếu tố quan trọng là tim, hệ mạch và thể tích tuần hoàn. Một sự thay đổi bất thường ở một trong 3 yếu tố đều gây ra sự suy giảm chức năng của hệ tuần hoàn, có thể nguy hiểm tới tính mạng của người bệnh.

Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là một trong những bệnh viện không những đảm bảo chất lượng chuyên môn với đội ngũ y bác sĩ đầu ngành, hệ thống trang thiết bị công nghệ hiện đại. Bệnh viện cung cấp dịch vụ khám, tư vấn và chữa bệnh toàn diện, chuyên nghiệp, không gian khám chữa bệnh văn minh, lịch sự, an toàn và tiệt trùng tối đa.

Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số hoặc đăng ký trực tuyến TẠI ĐÂY.

Bài viết tham khảo nguồn: Hội Tim học Việt Nam