Những Chức Năng Đối Ngoại Của Nhà Nước / Top 7 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Bảo Đảm An Ninh, An Toàn Hoạt Động Đối Ngoại Của Đảng, Nhà Nước

Năm 2019, Cục An ninh đối ngoại đã chủ động trong công tác nắm tình hình, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống; kịp thời tham mưu lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Bộ Công an nhiều chủ trương, giải pháp đảm bảo an ninh đối ngoại…

Phát huy tốt vai trò chủ trì, phối hợp với các lực lượng triển khai kế hoạch đảm bảo an ninh các sự kiện quan trọng đối ngoại của đất nước. Những kết quả trên của Cục An ninh đối ngoại đã góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị quan trọng của Đảng, Nhà nước, nâng cao uy tín, hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế.

Thứ trưởng Bùi Văn Nam phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị.

Với sự nỗ lực, phấn đấu của cấp ủy, lãnh đạo và toàn thể cán bộ, chiến sỹ, năm 2019 nhiều tập thể, cá nhân thuộc Cục An ninh đối ngoại đã được tặng thưởng Bằng khen, Giấy khen, gồm: 1 cá nhân được Chủ tịch nước tặng Huân chương Chiến công hạng Nhì; 1 cá nhân được Chủ tịch nước tặng Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhì; 1 tập thể và 1 cá nhân được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen; 8 tập thể và 33 cá nhân được Bộ trưởng Bộ Công an tặng Bằng khen; 1 tập thể, 3 cá nhân được Bộ trưởng Bộ Ngoại giao tặng Bằng khen; 1 tập thể, 3 cá nhân được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tặng Bằng khen…

Thứ trưởng Bùi Văn Nam cùng các đại biểu và CBCS Cục An ninh đối ngoại.

Tổng kết phong trào thi đua “Vì an ninh Tổ quốc” năm 2019, Cục An ninh đối ngoại vinh dự được Bộ Công an tặng Cờ thi đua xuất sắc.

Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Thứ trưởng Bùi Văn Nam biểu dương những kết quả, thành tích nổi bật mà Cục An ninh đối ngoại đạt được trong năm 2019. Đồng chí Thứ trưởng khẳng định, những kết quả, thành tích đạt được của Cục An ninh đối ngoại góp phần quan trọng vào thành tích chung của toàn lực lượng Công an nhân dân.

Chỉ đạo nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện trong thời gian tiếp theo, Thứ trưởng Bùi Văn Nam đề nghị Cục An ninh đối ngoại bám sát các Nghị quyết của Quốc hội, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ, lãnh đạo Bộ Công an về các mặt công tác trọng tâm năm 2020, đặc biệt là tham gia đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước, các sự kiện diễn ra trong năm Chủ tịch ASEAN; công tác đảm bảo an ninh Đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

Cần chú trọng nâng cao hiệu quả công tác nắm tình hình, phân tích, xử lý thông tin, kịp thời đề xuất tham mưu Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực an ninh đối ngoại… Tăng cường các hoạt động hợp tác quốc tế trên lĩnh vực an ninh; triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết về Chiến lược an ninh quốc gia trong tình hình mới.

Tiếp tục triển khai chỉ đạo của Đảng uỷ Công an Trung ương, lãnh đạo Bộ về công tác Đảng, công tác xây dựng lực lượng; chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, chiến sỹ trong đơn vị, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Chức Năng Nhà Nước Là Gì? Phân Tích Chức Năng Của Nhà Nước?

Chức năng Nhà nước là gì? Phân tích Chức năng của nhà nước?

Chức năng của nhà nước là những mặt hoạt động cơ bản của nhà nước phù hợp với bản chất, mục đích, nhiệm vụ của nhà nước và được xác định bởi điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước trong mỗi giai đoạn phát triển của nó.

2. Phân tích chức năng của nhà nước

– Định nghĩa trên cho thấy, nói đến chức năng nhà nước là nói đến những hoạt động của nhà nước để thực hiện những công việc mà nhà nước phải làm, đó là tổ chức và quản lý các mặt của đời sống xã hội.

Những công việc đó gắn liền với nhà nước mà không một thực thể nào trong xã hội có thể làm thay nhà nước, đồng thời, nhà nước có đủ khả năng để làm. Nói cách khác, chức năng nhà nước là khái niệm dùng để chỉ những hoạt động, phần việc quan trọng của riêng nhà nước mà chỉ nhà nước mới có đủ khả năng, điều kiện để thực hiện những hoạt động đó. Do vậy, có thể hiếu, chức năng nhà nước là những phương diện, loại hoạt động cơ bản của nhà nước nhằm thực hiện các nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước. Đó là những mặt hoạt động, hướng hoạt động chủ yếu của nhà nước, phát sinh từ bản chất, mục tiêu, nhiệm vụ, vai trò và điều kiện tồn tại của nhà nước trong mỗi giai đoạn phát triển của nó.

– Chức năng của nhà nước luôn phản ánh bản chất của nhà nước hay do bản chất của nhà nước quyết định. Ví dụ, với bản chất là bộ máy chuyên chính của giai cấp địa chủ, quý tộc phong kiến và bộ máy quản lý xã hội nhằm thiết lập và giữ gìn trật tự của xã hội phong kiến nên chức năng đàn áp và nô dịch nông dân bằng quân sự và về tư tưởng, tiến hành chiến tranh xâm lược nước khác khi có điều kiện… là các chức năng phổ biến của các nhà nước phong kiến. Còn với bản chất là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và là bộ máy chuyên chính vô sản, các chức năng tổ chức và quản lý kinh tế, tổ chức và quản lý văn hóa, giáo dục, khoa học, kỹ thuật… là chức năng phổ biến của các nhà nước xã hội chủ nghĩa.

– Chức năng của nhà nước còn phụ thuộc vào nhiệm vụ cơ bản của nhà nước. Giữa chức năng và nhiệm vụ của nhà nước vừa có sự thống nhất, vừa có sự khác biệt, vừa có mối liên hệ mật thiết với nhau. Nhiệm vụ của nhà nước là những công việc đặt ra đòi hỏi nhà nước phải giải quyết theo những mục tiêu đã định sẵn. Nhà nước có hai loại nhiệm vụ là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài và nhiệm vụ trước mắt, cấp bách. Nhiệm vụ chiến lược, lâu dài là những vấn đề nhà nước phải giải quyết trong suốt chặng đường phát triển của đất nước. Nhiệm vụ chiến lược, cơ bản, lâu dài được thực hiện thông qua các chức năng nhà nước nên chức năng nhà nước có phạm vi hẹp hơn so với nhiệm vụ chiến lược của nhà nước và nhiệm vụ chiến lược của nhà nước có vai trò quyết định đối với việc xác định và thực hiện chức năng nhà nước. Ví dụ, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Nhà nước Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tất cả các chức năng của Nhà nước ta đều được xác định và thực hiện nhằm thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược này. Nhiệm vụ trước mắt, cấp bách là những công việc mà nhà nước phải giải quyết trong ngắn hạn, ngay lập tức để thực hiện một chức năng nào đó của nhà nước, do vậy, nhiệm vụ trước mắt, cấp bách có phạm vi hẹp hơn so với chức năng nhà nước, được xác định nhằm thực hiện chức năng, do chức năng quyết định. Ví dụ, nhiệm vụ kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật môi trường của các doanh nghiệp hiện nay được xác định và thực hiện nhằm thực hiện chức năng quản lý môi trường của nhà nước.

– Giữa chức năng và vai trò của nhà nước vừa có sự thống nhất, vừa có sự khác biệt. Chức năng của nhà nước thường nói tới việc nhà nước được sinh ra để làm gì, còn vai trò của nhà nước thường đề cập công dụng, tác dụng của nhà nước. Trong trường hợp này, chức năng và vai trò của nhà nước có ý nghĩa gần như tương tự nhau. Tuy nhiên, ngoài ý nghĩa trên, vai trò của nhà nước còn được sử dụng để nói về tầm quan trọng của nhà nước (chẳng hạn vai trò của nhà nước đối với xã hội).

3. Các yếu tố ảnh hưởng chức năng nhà nước

Chức năng của nhà nước chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố sau:

– Điều kiện kinh tế – xã hội cụ thể của đất nước trong từng thời kỳ phát triển của nó. Thực tế cho thấy, nhà nước phải làm gì, làm như thế nào, điều đó phụ thuộc rất lớn vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước, do đó, các nhà nước khác nhau có thể có chức năng khác nhau. Ví dụ, chức năng của nhà nước phong kiến Việt Nam trước đây khác với chức năng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Trong một nhà nước cụ thể, ở các giai đoạn phát triển khác nhau, số lượng chức năng, tầm quan trọng của mỗi chức năng, nội dung, cách thức thực hiện từng chức năng cũng có thể khác nhau. Ví dụ, trước năm 1986, quản lý, bảo vệ môi trường chưa phải là chức năng của Nhà nước ta nhưng hiện nay nó trở thành chức năng có tầm quan trọng đặc biệt và không thể thiếu. Hoặc, thiết lập và phát triển các mối quan hệ ngoại giao, hữu nghị và hợp tác quốc tế, hội nhập quốc tế là chức năng không thể thiếu của các nhà nước đương đại…

– Chức năng của nhà nước còn phụ thuộc vào bản chất, mục tiêu, nhiệm vụ của nhà nước và hoàn cảnh quốc tế. Điều này đã được phân tích ở trên.

4. Mối quan hệ giữa các chức năng của nhà nước

Một nhà nước thường có nhiều chức năng và các chức năng đó có liên hệ chặt chẽ với nhau, việc thực hiện chức năng này thường có ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng khác. Chẳng hạn, nhà nước chỉ có thể thực hiện tốt việc tổ chức và quản lý kinh tế khi thực hiện tốt hoạt động bảo vệ tổ quốc, tương tự các hoạt động về mặt xã hội như phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, bảo trợ xã hội… chỉ có thể thực hiện tốt khi thực hiện có hiệu quả hoạt động tổ chức và quản lý kinh tế.

5. Các phương thức (hình thức và phương pháp) thực hiện chức năng của nhà nước

– Để thực hiện chức năng của mình, đòi hỏi nhà nước phải sử dụng các hình thức khác nhau, trong đó có các hình thức cơ bản (hình thức mang tính pháp lý) là xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật.

Muốn tổ chức và quản lý các mặt của đời sống xã hội, thiết lập trật tự xã hội, nhà nước phải tiến hành xây dựng pháp luật để hướng dẫn cách xử sự cho mọi người, xác định rõ những việc được làm, không được làm, phải làm cho các cá nhân, tổ chức khi tham gia vào các quan hệ xã hội nhất định để làm cho các quan hệ đó phát triển theo chiều hướng nhà nước mong muốn. Ví dụ, muốn thiết lập trật tự an

toàn giao thông đường bộ, nhà nước phải ban hành luật giao thông đường bộ để hướng dẫn cách tham gia giao thồng đường bộ cho tất cả mọi người; để bảo đảm sự ổn định của gia đình, nhà nước phải ban hành luật hôn nhân và gia đình để hướng dẫn cách xử sự của các thành viên trong gia đình với nhau… Thông qua hoạt động xây dựng pháp luật, hệ thống pháp luật được từng bước hình thành và hoàn thiện.

Pháp luật sau khi được ban hành thường không thể tự đi vào đời sống, có nhiều quy định mà các cá nhân, tổ chức trong xã hội không tự thực hiện được, do đó, nhà nước phải tiến hành các hoạt động cần thiết nhằm tổ chức cho các chủ thể trong xã hội thực hiện các quy định của pháp luật, chẳng hạn, nhà nước tiến hành phổ biến pháp luật cho người dân, giải thích, tuyên truyền, động viên, khuyến khích tính tích cực của họ, cung cấp nhân lực, vật lực, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện các quy định của pháp luật… Có như vậy, những mong muốn, yêu cầu, đòi hỏi của nhà nước thế hiện trong pháp luật mới có thể được thực hiện một cách có hiệu quả.

Trong quá trình thực hiện pháp luật, vì những lý do khác nhau, việc vi phạm pháp luật là khó tránh khỏi. Khi đó, nhà nước phải bảo vệ pháp luật bằng cách thực hiện các hoạt động để xử lý người vi phạm, giáo dục, cải tạo họ cũng như răn đe, phòng ngừa chung nhằm bảo đảm tính tôn nghiêm của pháp luật, bảo đảm các yêu cầu của nhà nước được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, triệt để, chính xác.

Ngoài ra, còn có các hình thức khác như tổ chức các cuộc hội thảo, các phong trào thi đua, các biện pháp tác nghiệp vật chất, kỹ thuật…

– Phương pháp thực hiện chức năng của nhà nước gồm có hai phương pháp chủ yếu là thuyết phục và cưỡng chế. Thuyết phục là dùng lời nói để thuyết trình, giảng giải, chứng minh, phân tích… nhằm tạo ra sự phục tùng tự giác của đối tượng thuyết phục (hoặc đối tượng quản lý) đối với chủ thể thuyết phục (hoặc chủ thể quản lý). Cưỡng chế là bắt buộc bằng bạo lực một tổ chức hoặc một cá nhân phải làm hay không được làm một việc gì đó, hoặc phải gánh chịu sự thiệt hại về nhân thân, về tự do hoặc về tài sản… đã được quy định trong pháp luật. Ngoài hai phương pháp ừên còn có các phương pháp khác như phương pháp kinh tế, phương pháp hành chính…

Trong số các chức năng của Nhà nước Việt Nam hiện nay thì ba chức năng quan trọng nhất là chức năng kinh tế, chức năng xã hội và chức năng bảo vệ Tố quốc.

Like fanpage Luật sư Online tại: https://www.facebook.com/iluatsu/

Kinh Tế Đối Ngoại Là Gì? Các Tiềm Năng Ngành Kinh Tế Đối Ngoại

Trước khi trả lời câu hỏi trên thì các bạn cũng cần nắm được đối ngoại là gì, là có chức năng kinh tế, xây dựng cũng như củng cố được mối quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các nước với nhau, dựa theo nguyên tắc bình đẳng, win – win, đôi bên cùng có lợi và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

Dó đó khái niệm kinh tế đối ngoại các bạn có thể hiểu đơn giản, là ngành học có sự nghiên cứu chuyên sâu các vấn đề về mối quan hệ trao đổi, giao dịch ngoại thương giữa hai lãnh thổ, địa giới khác nhau trên toàn quốc. Ngoài ra thì có thể các bạn cũng đã biết.

Và cũng không ít bạn đặt ra câu hỏi kinh tế đối ngoại tiếng Anh là gì?, thực tế thì các trường đại học kinh tế đối ngoại hay là cao đẳng kinh tế đối ngoại cũng có tên viết dưới dạng tiếng Anh và có sự xuất hiện của cụm từ “Foreign Economic relation”, đồng thời đó cũng chính là câu trả lời của câu hỏi trên.

Đây cũng là một nội dung các bạn không thể bỏ qua khi đang tìm hiểu về ngành kinh tế đối ngoại, chính sách đối ngoại hay còn được gọi là chính sách ngoại giao. Là chiến lược do Nhà nước đưa ra nhằm bảo vệ lợi ích của quốc gia cùng với việc đạt được mục tiêu trên môi trường quan hệ quốc tế.

Và những người nghiên cứu đưa ra các chính sách kinh tế đối ngoại sẽ là những nhà phân tích chính sách đối ngoại. Do mức độ toàn cầu hóa theo xu hướng những năm gần đây thì các hoạt động xuyên quốc gia ngày càng được mở rộng và có nhiều tương tác với các chủ thể phi quốc gia.

Sự tương tác này cũng đánh giá cũng như giám sát những nỗ lực tối đa hóa lợi ích của ngoại giao kinh tế đa phương. Với mục tiêu là lợi ích quốc gia là tối quan trọng thì những chuyên gia quản lý Nhà nước về kinh tế đối ngoại cũng sẽ có các chính sách đối ngoại được Chính phủ thiết kế dựa trên quy trình ra quyết định cấp cao.

Chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam nói riêng và của toàn thế giới nói chung thì tỉ lệ thay đổi cũng như phạm vi cũng sẽ khác nhau, cũng có thể sẽ bị tác động, ảnh hưởng từ nhiều yếu tố khác nhau mà làm thay đổi được lợi ích quốc gia cùng với sự ổn định của chính quốc gia đó.

2. Ngành kinh tế đối ngoại – nơi đào tạo những nhân tài

Thực tế thì mỗi trường sẽ có những tổ hợp xét tuyển khác nhau, nên khá là khó nếu nêu ra được chi tiết hết. Tuy nhiên chúng tôi sẽ chia sẻ thông tin tại một số trường đại học kinh tế đối ngoại để các bạn nắm rõ được.

* Đại học Ngoại thương Hà Nội: toán – lý – hóa, toán – văn -nhật; toán – văn – trung (D04); toán – văn – nga (D02); toán – văn – pháp (D03); toán – lý – anh, toán – văn – anh.

* Đại học Kinh tế Tài chính thành phố Hồ Chí Minh: văn – sử – địa; toán – văn – anh; toán – lý – hóa; toán – lý – anh.

* Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội: toán – văn – anh; toán – lý – anh.

* Đại học kinh tế – luật thành phố Hồ Chí Minh: toán – văn – anh, toán – lý – anh, toán – lý – hóa.

Ngoài ra cũng có một vài trường khác như: Đại học kinh tế đối ngoại tại tp HCM, Cao đẳng kinh tế đối ngoại tại tp HCM, Cao đẳng ngoại thương; Cao đẳng ngoại thương tphcm, CĐ kinh tế đối ngoại cũng có những tổ hợp môn để tuyển sinh riêng biệt, nhưng đa phần là các trường đều lựa chọn môn ngoại ngữ và toán. Tuy nhiên các tiêu chí tuyển sinh trường cao đẳng kinh tế đối ngoại thì sẽ thấp hơn so với hệ đại học, nên nếu bạn là người đam mê lĩnh vực này thì vẫn có cơ hội được tiếp cận nếu còn hạn chế về điểm số cũng như kiến thức.

Hiện nay cũng không ít bạn khi tìm hiểu các thông tin về khái niệm kinh tế đối ngoại là gì có những suy nghĩ học trường cao đẳng kinh tế đối ngoại có tốt không? Hay Các ngành trường cao đẳng kinh tế đối ngoại có phong phú không? Chúng tôi cũng xin trả lời rằng các trường kinh tế đối ngoại dù là hệ cao đẳng hay đại học đều có chương trình đào tạo của ngành này được hướng đến những kiến thức chuyên sâu ngành nghề thông qua những môn học không thể bỏ qua như: Tài Chính quốc tế, vận tải và bảo hiểm, marketing quốc tế, pháp luật trong hoạt động kinh doanh quốc tế, hải quan, kế toán, chứng khoán, thương mại điện tử, thanh toán quốc tế…

Chi tiết từng môn học thì sẽ được phụ thuộc và những chương trình học của thụ tại các trường cao đẳng – đại học kinh tế đối ngoại. Quan trọng là quá trình các bạn lĩnh hội kiến thức có đủ tốt, đủ sâu cùng với sự nghiêm túc với khoa kinh tế đối ngoại, thì câu hỏi trên có thể chỉ là thừa thãi.

Thực tế thì hiện nay các trường đào tạo chuyên ngành kinh tế đối ngoại uy tín như Đại học – Cao đẳng Ngoại thương tp HCM, Đại học kinh tế – luật, Đại học kinh đối ngoại TP HCM, hay một số trường CD kinh tế đối ngoại uy tín khác như Cao đẳng kinh tế đối ngoại TP HCM … thì sẽ được tạo nhiều điều kiện một cách tối đa cũng như có nhiều cơ hội được lĩnh hội những kỹ năng nghiệp vụ đàm phán quốc tế, ngoại giao kinh tế, giao dịch thương mại, xây dựng, phát triển, phân tích quản trị dự án…

Những yếu tố này chính là tiền đề, nền tảng đều giúp các bạn sinh viên sẽ tự tin hơn sau khi tốt nghiệp và dẹp bỏ được nỗi lo không cạnh tranh được thị trường việc làm hiện nay. Các ngành của trường cao đẳng kinh tế đối ngoại tphcm và trường kinh tế ngoại giao Việt Nam thì luôn được đề cao về vấn đề ngoại ngữ nhưng đặc biệt nhất vẫn là ngành kinh tế đối ngoại, các bạn sinh viên thường xuyên được học tập dưới sự giảng dạy của giáo viên nước ngoài.

Chính vì vậy khi còn trên ghế nhà trường hãy cố học tập, rèn luyện những kỹ năng mềm một cách thành thạo cùng với trau dồi phản xạ giao tiếp ngoại ngữ để có thể đến gần hơn với

Việc làm Thương mại điện tử

3. Tình hình việc làm ngành kinh tế đối ngoại

Dựa vào thống kê của trung tâm thông tin và dự báo kinh tế – xã hội quốc gia thì trong những năm tới ngành kinh tế đối ngoại sẽ trở thành một trong những việc làm có sự bùng nổ về nguồn việc làm. Thực tế thì đây cũng là ngành có nhiều lĩnh vực khác nhau để lựa chọn tại nhiều địa điểm làm việc, có khá là nhiều tin tức tuyển dụng trên chúng tôi Thậm chí cũng có nhiều trường cao đẳng kinh tế đối ngoại tuyển dụng các vị trí giảng viên dành cho ngành kinh tế. Như vậy cũng phần nào thấy được tiềm năng phát triển của ngành này.

Và lúc này có lẽ các bạn cũng có thể tự tin trả lời câu hỏi Ngành kinh tế đối ngoại là gì? khi tham gia vào tham gia ứng tuyển những vị trí khác nhau tùy vào niềm đam mê cũng như điều kiện của các bạn đáp ứng được yêu cầu cũng như đòi hỏi của vị trí nào.

Có thể nói hiện nay, vị trí việc làm này đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với các doanh nghiệp, bởi vậy mà trên các trang mạng cùng với ban đối ngoại trung ương tuyển dụng cũng cập nhật thường xuyên các thông tin tìm kiếm ứng viên sáng giá.

Tùy thuộc vào mục tiêu cũng như quy mô của từng doanh nghiệp mà chi tiết công việc này có nội dung khác nhau, nhưng có một vài nhiệm vụ chủ yếu thì các bạn có thể tham khảo được và tự tin trả lời câu hỏi ngành kinh tế đối ngoại làm gì:

* Xây dựng, duy trì và phát triển những mối quan hệ tốt đẹp với các cơ quan chính quyền, đối tác, khách hàng…

* Tổ chức thực hiện những buổi tiếp đón khách hàng của công ty.

* Lập kế hoạch và theo dõi tiến độ hoàn thành công việc kinh doanh đối ngoại.

* Phát triển thương hiệu, hình ảnh của công ty thông qua các hoạt động, sự kiện đối ngoại thường kỳ hoặc không thường kỳ khi được yêu cầu cũng như kế hoạch.

* Trực tiếp báo cáo định kỳ hoặc theo yêu cầu về công tác quản lý, điều hành cũng như theo dõi quá trình hoạt động kinh doanh cho ban lãnh đạo của công ty.

* Chủ động ưu tiên làm những hồ sơ Pháp lý dự án ở các Sở, Bộ, Ngành và Uỷ ban

* Ngoài ra cũng báo cáo công việc và chịu trách nhiệm trực tiếp trước sự quản lý của trưởng phòng hoặc phó giám đốc.

* Thực hiện một số nhiệm vụ phát sinh khác được phân công.

Với những nội dung về nhiệm vụ của ngành kinh tế đối ngoại này thì các bạn cũng có thể thấy được nhà tuyển dụng sẽ có yêu cầu cũng như kỳ vọng khá cao đối với các ứng viên về các yếu tố như: tiếng Anh lưu loát đọc – nói – viết – nghe, khả năng giao tiếp, phản xạ nhanh, có kinh nghiệm làm việc thực tế sẽ được ưu tiên,…

Đi cùng với sự hội nhập kinh tế đa quốc gia thì những ứng dụng công nghệ thông tin mạng cũng được phát triển hơn, các bạn cũng dễ dàng tìm được việc làm nhờ vào các phương tiện trực tuyến khác nhau. Và hiện nay, các website việc làm là cách được các bạn ứng viên được sử dụng nhiều bởi khả năng hiệu quả của các site này mang lại khi tim viec nhanh tai phu tho hay bất cứ tỉnh thành nào khác tại Việt Nam

Tuy nhiên có không ít bạn vì tâm lý muốn tìm việc làm tại Trà Vinh, Hà Nội, Cần Thơ,…ngành kinh tế đối ngoại nhanh nên đã mắc phải những chiêu trò lừa đảo của kẻ xấu. Minh chứng là có không ít bạn đã “tiền mất tật mang”, vừa bị mất tiền đặt cọc vừa bị đánh cắp mất thông tin cá nhân tùy vào mục đích của từng đối tượng lừa đảo.

Khi các bạn truy cập vào địa chỉ trên thì chỉ cần thao tác tìm kiếm Tây Ninh tuyển dụng kinh tế đối ngoại và đừng quên chọn tỉnh thành bạn đang muốn được làm việc. Sau khi thao tác xong thì màn hình sẽ hiện lên một danh sách các việc làm của ngành này để các bạn lựa chọn.

Thêm vào đó các bạn có thể sử dụng thêm tính năng “so sánh lương” hoặc “tra cứu lương” để có thể thấy với những kinh nghiệm, kỹ năng chuyên môn bạn đang có phù hợp với nhà tuyển dụng nào và từ đó cũng dễ dàng đưa ra quyết định lựa chọn nơi để ứng tuyển.

Như vậy bạn sẽ dễ dàng hơn trong quá trình tìm kiếm thông tin tuyển dụng và tự trả lời với bản thân câu hỏi “kinh tế đối ngoại là gì” và “học kinh tế đối ngoại ra làm gì?”.

Những Điểm Mới Trong Chính Sách An Ninh Đối Ngoại Của Nhật Bản

Ngày 4/4/2014, Nhật Bản đã công bố “Sách xanh Ngoại giao”, thể hiện sự quan ngại của Nhật Bản về tham vọng biển của Trung Quốc và quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển đảo của mình. Trước đó, ngày 17/12/2013 Nhật Bản đã đưa ra chiến lược an ninh mới với trung tâm là chính sách ngoại giao và quốc phòng, nhằm đảm bảo an ninh quốc gia, đóng góp cho hòa bình và ổn định khu vực và thế giới. Giới phân tích cho rằng đây là những bước chuyển quan trọng theo hướng đưa Nhật Bản trở thành “nước lớn về quân sự”.

Mục tiêu “nước lớn quân sự” đã được Nhật Bản ấp ủ từ lâu (ảnh:rte.ie)

Từ “an ninh lệ thuộc” sang “an ninh tự chủ”

Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, quan hệ Nhật – Mỹ đã bị che lấp bởi cục diện đối đầu hai cực. Báo chí Trung Quốc lúc đó tuyên truyền rằng, chính sách đối ngoại của Nhật Bản lệ thuộc vào Mỹ và “chỉ có thể nghe theo Mỹ”. Trước năm 1970, dưới “cái ô bảo vệ an ninh” của Mỹ, Nhật Bản thực hiện “đường lối Yoshida” với những nội dung: Ưu tiên phát triển kinh tế, kiểm soát tăng trưởng quân bị quá nhanh, áp dụng thái độ kín tiếng trong các vấn đề quốc tế, nên không thể có chiến lược an ninh độc lập.

Cùng với sự thay đổi của tình hình quốc tế, Mỹ ngày càng không thể cung cấp và bảo đảm an ninh đầy đủ cho Nhật Bản (nhất là từ sau chiến tranh Việt Nam), bản thân Nhật Bản cũng tìm cách độc lập hơn về chính trị, kinh tế, ngoại giao, thậm chí cả quốc phòng. Ngay từ tháng 6/1980, cơ quan tư vấn của Thủ tướng Nhật Bản đã trình báo cáo nghiên cứu mang tên “Chiến lược bảo đảm an ninh tổng hợp” (Báo cáo 80), trong đó nhấn mạnh, “Nhật Bản cần thiết phải tự bảo đảm an ninh và ổn định quốc gia, sử dụng tổng hợp sức mạnh kinh tế, sức mạnh ngoại giao và sức mạnh sáng tạo văn hóa”. Từ đó, Nhật Bản đã bắt đầu hoạch định chiến lược an ninh quốc gia sau chiến tranh.

“Báo cáo 94” của Nhật Bản (1994) đã đưa ra “Chiến lược bảo đảm an ninh mang tính xây dựng năng động”, trong đó đã thể hiện tư tưởng “an ninh hợp tác” đậm đặc hơn, tự chủ phòng vệ bắt đầu được coi trọng. “Báo cáo 04” (2004) đưa ra “Chiến lược bảo đảm an ninh thống nhất”, trong đó nhấn mạnh, thông qua kết hợp giữa “tự nỗ lực” bản thân với “quan hệ đồng minh” và “hợp tác quốc tế”, thực hiện hai mục tiêu, nhiệm vụ lớn gồm “Bảo vệ an ninh Nhật Bản” và “Cải thiện môi trường an ninh quốc tế”, tự chủ phòng vệ được nâng lên vị trí quan trọng. “Báo cáo 09” và “Báo cáo 10” đưa ra “Chiến lược bảo đảm an ninh hợp tác đa tầng”, trong đó nhấn mạnh, Nhật Bản cần áp dụng các biện pháp tích cực, chủ động hơn bảo vệ an ninh tự thân, xác lập vị trí cốt lõi của tư duy “tự phòng vệ”.

Từ “phòng thủ lãnh thổ” đến “can dự bên ngoài”

Từ những năm 1990, Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản đã tham gia nhiều nhiệm vụ ở nước ngoài như gìn giữ hòa bình quốc tế, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn khẩn cấp quốc tế, chi viện chống khủng bố, hộ tống chống cướp biển. Do đó, trên thực tế Nhật Bản đã hoàn thành chuyển đổi từ “phòng vệ lãnh thổ” sang “can dự nước ngoài”. Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản đã trở thành một lực lượng vũ trang có sự kết hợp trong nước và ngoài nước về chức năng phòng thủ và tấn công.

Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản đã tham gia nhiều nhiệm vụ ở nước ngoài (ảnh: AFP)

Nhật Bản đã xây dựng một căn cứ quân sự nước ngoài đầu tiên tại Cộng hòa Djibouti kể từ sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai đồng thời cũng tham gia diễn tập song phương với một số nước và tiến hành thăm viếng hải quân. Sự phát triển chuyển đổi chức năng của Lực lượng Phòng vệ có thể thấy được thông qua nội dung chính của 4 bộ “Đại cương kế hoạch phòng vệ” của Nhật Bản, bao gồm:

(2) “Đại cương 95” (1995) giai đoạn đầu sau Chiến tranh Lạnh, chức năng của Lực lượng Phòng vệ đã trở thành “bảo vệ an ninh Nhật Bản”, “ứng phó với thiên tai quy mô lớn” và “xây dựng môi trường an ninh ổn định hơn”. Có thể thấy, Nhật Bản đã đưa việc sử dụng Lực lượng Phòng vệ ở nước ngoài vào tầm nhìn dài hạn.

(3) “Đại cương 04” (2004) sau sự kiện 11/9/2001 đã xác định 3 chức năng cho Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản: Ứng phó có hiệu quả với “các mối đe dọa mới và nhiều tình thế”; Phòng bị những tình huống xâm lược chính quy; “Chủ động, tích cực và hiệu quả trong việc cải thiện môi trường an ninh quốc tế”. Thông qua tham gia mang “tính tự chủ” vào các vấn đề an ninh quốc tế, những “đóng góp quốc tế” rộng mở mà mơ hồ trước đây của Lực lượng Phòng vệ đã trở nên ngày càng rõ nét hơn.

(4) “Đại cương 10” (2010) ra đời trong bối cảnh Mỹ đẩy mạnh chiến lược xoay trục sang khu vực châu Á-Thái Bình Dương và quan hệ đồng minh Nhật – Mỹ không ngừng được củng cố, tăng cường. Đại cương đã xác định 3 chức năng lớn trong thời kỳ mới của Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản: “Răn đe có hiệu quả và ứng phó các loại tình huống”; “Bảo vệ môi trường an ninh khu vực châu Á-Thái Bình Dương”; “Cải thiện môi trường an ninh toàn cầu”. Điều đó cho thấy, Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản đã trở thành lực lượng cốt lõi bảo đảm an ninh quốc gia ở bên trong, xây dựng môi trường an ninh ở bên ngoài, “can dự nước ngoài” trở thành chức năng chính của họ, chiến lược “mở rộng” ra bên ngoài đã từng bước hình thành.

Từ “lực lượng phòng vệ” đến “quân đội chính quy”

Cựu Thủ tướng Nhật Bản Junichiro Koizumi từng tuyên bố, “Tôi cho rằng, Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản trên thực tế chính là quân đội. Đây là vấn đề đương nhiên và Hiến pháp Nhật Bản sớm muộn sẽ phải thừa nhận Lực lượng Phòng vệ là quân đội”. Quan điểm này đang được Thủ tướng đương nhiệm Nhật Bản Shinzo Abe kế thừa. Sau khi giành thắng lợi trong cuộc bầu cử Thượng viện, Thủ tướng Abe và đảng Tự do Dân chủ (LDP) rất có khả năng sử dụng ưu thế mang tính tổ chức của họ trên cả nước, truyền bá tư tưởng sửa đổi Hiến pháp đến toàn dân, đồng thời đưa ra nhiều khái niệm như “quân đội chính quy”, “quân đội phòng vệ” để phân tán sự quan ngại của người dân đối với việc “quân đội hóa” Lực lượng Phòng vệ.

Từ “lực lượng phòng vệ” đến “quân đội chính quy” Nhật Bản (ảnh:journal-neo.org/)

Khi xem xét đến chuyển đổi tính chất của Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản, có một sự thực cơ bản cần phải thừa nhận là: Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản đã hoàn thành sự chuyển đổi tính chất và ý nghĩa thực của nó. Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản hiện nay đã mang dáng dấp của một quân đội chính quy hiện đại, có đầy đủ các quân binh chủng, biên chế thể chế hoàn bị, năng lực tác chiến mạnh, vũ khí trang bị tiên tiến.

Hiện nay, ngoài vũ khí hạt nhân và vũ khí mang tính tấn công chiến lược, thực lực phòng vệ của Nhật Bản đã đứng vào hàng tiên tiến trên thế giới (riêng Hải quân đứng thứ 3 thế giới). Trong tương lai, Nhật Bản sẽ thông qua phát triển có trọng điểm các trang bị trên biển, trên không cỡ lớn, tầm xa và thông tin hóa như: Máy bay vận tải, tàu chiến cỡ lớn, tên lửa tầm trung và tầm xa; tăng cường năng lực điều động chiến lược; khắc phục điểm yếu trên phương diện vũ khí mang tính tấn công; duy trì ưu thế vũ khí khi tác chiến trên biển, trên không.

Từ phát triển công nghiệp quốc phòng đến xuất khẩu vũ khí

Từ những năm cuối thế 20, đầu thế kỷ 21, Chính phủ Nhật Bản đã bắt đầu có kế hoạch nới lỏng từng bước “Ba nguyên tắc xuất khẩu vũ khí”. Hoạt động xuất khẩu vũ khí và hợp tác với Mỹ nghiên cứu phát triển vũ khí trang bị của Nhật Bản từng bước được đẩy nhanh.

Ngày 26/7/2013, Ủy ban Nghiên cứu Phương hướng Phát triển Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản đã trình Chính phủ Nhật Bản báo cáo định kỳ về sửa đổi “Đại cương kế hoạch phòng vệ”, trong đó nhấn mạnh, Nhật Bản “cần nhanh chóng tăng cường nền tảng công nghệ và sản xuất quốc phòng của lực lượng phòng vệ tiềm năng”, “xây dựng quan hệ hợp tác lâu dài, ổn định giữa chính phủ và tư nhân, tích cực thúc đẩy quân sự chuyển sang dân sự trang bị quốc phòng, nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của các tổ chức công nghiệp quốc phòng”.

Các chuyên gia phân tích cho rằng, mục tiêu chuyển từ “tự tiêu hóa” sang “cạnh tranh nước ngoài” của vũ khí trang bị do Nhật Bản sản xuất sẽ được gấp rút triển khai thực hiện, sự chuyển đổi trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng của Nhật Bản cũng sẽ được đẩy mạnh và Nhật Bản sẽ nhanh chóng khẳng định vị thế của một cường quốc quân sự trên thế giới.

(1) Chính phủ Nhật Bản có thể cấp phép xuất khẩu một số loại vũ khí của mình cho các quốc gia và tổ chức quốc tế, với điều kiện là họ không đứng về phía nào hoặc tham gia vào các cuộc xung đột vũ trang cũng như đảm bảo vũ khí xuất khẩu của Nhật Bản không bị chuyển giao cho bên thứ ba.

(2) cho phép xuất khẩu vũ khí chỉ khi các vũ khí này phục vụ mục đích đóng góp cho hợp tác quốc tế, sử dụng trong các hoạt động của cộng đồng quốc tế và các lợi ích an ninh của Nhật Bản.

(3) Nhật Bản có thể đưa các thiết bị quân sự đang bị hư hỏng ở trong nước ra nước ngoài sửa chữa, cũng như cung cấp vũ khí cho các tổ chức quốc tế và các quốc gia có biên giới nằm gần đường thương mại hàng hải quốc tế với Nhật Bản.

Sửa đổi “Luật Lực lượng Phòng vệ”

Ngày 15/11/2013, Thượng viện Nhật Bản cũng đã thông qua dự luật sửa đổi “Luật Lực lượng Phòng vệ” với đa số phiếu tán thành, trong đó có 2 điểm mới sửa đổi quan trọng:

Một là cho phép Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản mở rộng biện pháp vận chuyển ở nước ngoài. Khi xảy ra sự cố khẩn cấp ở nước ngoài, Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản có thể sử dụng xe vận chuyển Nhật Bản tại bản địa, trong khi đó theo quy định của luật cũ, đối với sự cố tương tự, Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản chỉ có thể sử dụng máy bay và tàu để vận chuyển, không có vận chuyển đường bộ.

Như vậy, mục tiêu “nước lớn quân sự” đã được Nhật Bản ấp ủ từ lâu và từng bước thể hiện trong mỗi giai đoạn chiến lược cụ thể. Ngày nay, trước sự lấn lướt của Trung Quốc và sự hạn chế thực lực của Mỹ tại khu vực, khiến Nhật Bản thấy sự cần thiết phải thể hiện vai trò “chia sẻ trách nhiệm” của mình đối với đồng minh chủ chốt, nhằm bảo vệ chủ quyền của Nhật Bản và đóng góp “chủ động, tích cực” đảm bảo an ninh, ổn định khu vực và thế giới./.