Chức Năng Nhận Thức Và Dự Báo Của Văn Học

Văn học nghệ thuật tồn tại trước hết với tư cách của một hình thái nhận thức, có khả năng mở rộng sự hiểu biết của con người. Mỗi tác phẩm văn học từ xưa tới nay đều có giá trị như một thành tựu trên chặng đường nhận thức chung của nhân loại. Vì thế, văn học luôn đưa ta tới những chân trời mới, giúp ta hiểu hơn cuộc sống không chỉ trong hiện tại mà cả trong quá khứ, không chỉ trong phạm vi đất nước mình mà cả ở những xứ sở xa xôi.

Vì vậy chức năng đầu tiên của văn học là chức năng nhận thức và dự báo. Văn học đáp ứng nhu cầu hiểu biết của con người, trở thành “cuốn sách giáo khoa của đời sống”. Khi nắm bắt đời sống trong tính toàn vẹn thẩm mỹ của nó, nhà văn thường đem vào trong tác phẩm của mình một lượng thông tin phong phú và sinh động về đối tượng mà mình miêu tả. Đó là lượng thông tin thẩm mĩ, giàu hình tượng, dễ tiếp nhận đối với mọi người.

Trong tác phẩm “Ông già và biển cả” chúng ta có thể hiểu thêm về biển, về sự phát hiện những quá trình vật lí, sinh học diễn ra trong lòng đại dương mà còn ở sự khám phá về mối tương quan giữa con người và biển, về bản lĩnh và khát vọng của con người trong cuộc đấu tranh xác lập ý nghĩa tồn tại của mình trước thế giới tự nhiên và thế giới con người.

Phản ánh cuộc sống một cách toàn vẹn, sinh động, văn học còn có khả năng vươn tới tầm cao của sự khái quát, nắm bắt sự vận động bên trong của đời sống hiện thực. Chính từ độ chín của sự khám phá, khái quát ấy, văn học có khả năng dự báo tương lai.

Nhờ năng lực ước đoán, tưởng tượng và sự nhạy cảm trước mọi biến động của lịch sử, nhiều nhà văn dự cảm được những biến động của lịch sử, những quá trình xã hội mới ngay khi thực tế đời sống quanh mình vẫn còn trong trạng thái bốn phương phẳng lặng.

Nhà văn tài năng sẽ không đóng khung cuộc sống trong cái nhìn tĩnh quan mà luôn nhìn nhận đánh giá trong sự vận động, phát triển. Yếu tố tiên tri như một phẩm chất chung của những thành tựu văn học lớn. Tuy nhiên, mức độ dự báo, tính chất và nội dung dự báo không phải như nhau trong mỗi trào lưu văn học.

Bên cạnh những tác phẩm tràn đầy dự cảm lạc quan và niềm tin mạnh mẽ vào con người cũng có không ít những tác phẩm, những xu hướng văn học bộc lộ thái độ bi quan, tuyệt vọng trước tương lai loài người. Đối mặt với hiện tại, thâm nhập sâu rộng vào quá trình thực tiễn, văn học hiện thực chủ nghĩa dễ nắm bắt được những tín hiệu của tương lai.

Please follow and like us:

Comments

Sưu Tầm Những Nhận Định Hay Về Văn Học

Tổng hợp những nhận định hay, những lời phê bình văn học của các tác giả nổi tiếng,bí kíp viết 1 bài văn hayNHẬN ĐỊNH VỀ VĂN HỌC

Cuộc sống còn tuyệt vời biết bao trong thực tế và trên trang sách. Nhưng cuộc sống cũng bi thảm biết bao. Cái đẹp còn trộn lẫn niềm sầu buồn. Cái nên thơ còn lóng lánh giọt nước mắt ở đời.(Trích trong Nhất ký của Nguyễn Văn Thạc)

Tôi hãy còn một trái tim, một dòng máu nóng để yêu thương, cảm thông và chia sẻ. (Dostoevski)

Điều duy nhất có giá trị trong cuộc đời chính là những dấu ấn của tình yêu mà chúng ta đã để lại phía sau khi ra đi. (Albert Schweitzer)

Chi tiết làm nên bụi vàng của tác phẩm. (Pauxtopxki)

Con hãy lắng nghe nỗi buồn của cành cây héo khô, của chim muông què quặt, của hành tinh lạnh ngắt. Nhưng trước hết con hãy lắng nghe nỗi buồn của con người. (Nadimetlicmet)

Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó. (Bêlinxki)

Văn học là nhân học (M. Gorki)

Nhà văn là người cho máu ( Nữ văn sĩ Pháp Elsa Trisolet)

Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy(Sê – Khốp)

Không có gì nghệ thuật hơn bản thân lòng yêu quý con người(Van Gốc) 11. Văn chương bất hủ cổ kim đều viết bằng huyết lệ (Lâm Ngũ Đường)

Con người đến với cuộc sống từ nhiều nẻo đường, trên muôn vàn cung bậc phong phú nhưng tiêu điểm mà con người hướng đến vẫn là con người. (Đặng Thai Mai)

Tư tưởng nhân đạo xuyên suốt văn học từ xưa đến nay. Khái niệm nhân đạo có những tiền thân của nó, trong lời nói thông thường đó là “tình thương, lòng thương người” (Lê Trí Viễn)

Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái đẹp và cái nhân đạo của lòng người (Xê – Lê – Khốp)

Cốt lõi của lòng nhân đạo là lòng yêu thương. Bản chất của nó là chữ tâm đối với con người (Hoài Chân)

Nếu như cảm hứng nhân bản nghiêng về đồng cảm với những khát vọng rất người của con người, cảm hứng nhân văn thiên về ngợi ca vẻ đeho của của con người thì cảm hứng nhân đạo là cảm hứng bao trùm. (Hoài Thanh) 17. Nghệ thuật là sự vươn tới, sự níu giữ mãi mãi. Cái cốt lõi của nghệ thuật là tính nhân đạo. (Nguyên Ngọc)

Xét đến cùng, ý nghĩa thực sự của văn học là nhân đạo hóa con người (Đề thi HSG văn toàn quốc bảng B năm 1996)

Một tác phẩm thật giá trị phải vượt lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho tất cả loài người. Nó phải chứa đựng nột cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi, nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bằng…Nó làm cho người gần người hơn. (Đời Thừa – Nam Cao)

Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp. (Pautopxki)

Nói nghệ thuật tức là nói đến sự cao cả của tâm hồn. Đẹp tức là một cái gì cao cả. Đã nói đẹp là nói cao cả. Có khi nhà văn miêu tả một cái nhìn rất xấu, một tội ác, một tên giết người nhưng cách nhìn, cách miêu tả phải cao cả. (Nguyễn Đình Thi)

Văn chương có loại đáng thờ và không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. (Nguyễn Văn Siêu)

Cuộc bể dâu mà con người nhìn thấy trong văn thơ dân tộc là máu trong trái tim của người nghệ sĩ (Tố Hữu)

Nhà văn phải là người đi tìm gắng đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn của con người. (Nguyễn Minh Châu)

Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường. Những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đày đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực.(Nguyễn Minh Châu)

Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được run lên ở các cung bậc và tình cảm và tình cảm chứ không phải là tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên và là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng một tác phẩm như thế nào. (Nguyễn Khải)

Cảm động lòng người trước hết không gì bằng tình cảm và tình cảm là cái gốc của văn chương. (Bạch Cư Dị)

Những cuộc chiến qua đi, những trang lịch sử của từng dân tộc được sang trang, các chiến tuyến có thể được dựng lên hay san bằng. Nhưng những tác phẩm đi xuyên qua mọi thời đại, mọi nền văn hóa hoặc ngôn ngữ cuối cùng vẫn nằm ở tính nhân bản của nó. Có thể màu sắc, quốc kì, ngôn ngữ hay màu da chúng ta khác nhau. Nhưng máu chúng ta đều có màu đỏ, nhịp tim đều giống nhau. Văn học cuối cùng là viết về trái tim con người. (Maxin Malien)

Xét đến cùng, ý nghĩa thực sự của văn học là nhân đạo hóa con người (M. Gorki)

Tôi muốn tác phẩm của tôi giúp mọi người trở nên tốt, có tâm hồn thuần khiết, tôi muốn chúng góp phần gợi dậy tình yêu con người, đồng loại và ý muốn đấu tranh mãnh liệt cho những lí tưởng của chủ nghĩa nhân đạo và sự tiến bộ của loài người. (Sô – Lô – Khốp)

Nói tới giá trị nhân đạo là nói tới thái độ của người nghệ sĩ dành cho con người mà hạt nhân căn bản là lòng yêu thương con con người. (Từ điển văn học)

Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu. (L. Tônxtôi)

Nếu truyện Kiều là một dòng sông thì thơ chữ Hán là những con suối nhỏ, tất cả đều đổ vào đại dương mênh mông là chủ nghĩa nhân đạo của nhà thơ (Nguyễn Đăng Mạnh)

Nhà văn phải là nhà thư ký trung thành của thời đại. (Banlzac)

Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lý. (M. Gorki)

Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than. (Nam Cao)

Một nhà văn thiên tài là người muốn cảm nhận mọi vẻ đẹp man mác của vũ trụ. (Thạch Lam)

Sống đã rồi hãy viết, hãy hòa mình vào cuộc sống vĩ đại của nhân dân. (Nam Cao)

Ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo ra ngôn ngữ. Nhà văn không chỉ học tập ngôn ngữ của nhân dân mà còn là người phát triển ra ngôn ngữ sáng tạo, không nên ăn bám vào người khác. Giàu ngôn ngữ thì văn sẽ hay… Cũng cùng một vốn ngôn ngữ ấy nhưng sử dụng có sáng tạo thì văn sẽ có bề thế và kích thước. Có vốn mà không biết sử dụng chỉ như nhà giàu giữ của. Dùng chữ như đánh cờ tướng, chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí của nó. Văn phải linh hoạt. Văn không linh hoạt gọi là văn cứng đơ thấp khớp…. (Nguyễn Tuân)

Mỗi tác phẩm nghệ thuật phải là mỗi phát minh về hình thức và khám phá mới về nội dung. (Lêonit Lêonop)

Cái quan trọng trong tài năng văn học và tôi nghĩ rằng cũng có thể trong bất kì tài năng nào, là cái mà tôi muốn gọi là tiếng nói của riêng mình. (Ivan Tuốc Ghê Nhiép)

Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà văn cả… Nếu anh không có giọng riêng, anh khó trở thành nhà văn thực thụ (Sê – Khôp)

Văn học làm cho con người thêm phong phú, tạo khả năng cho con người lớn lên, hiểu được con người nhiều hơn.(M.L.Kalinine)

Đối với con người, sự thật đôi khi nghiệt ngã, nhưng chưa bao giờ cũng dũng cảm cũng cố trong lòng người đọc niềm tin ở tương lai. Tôi mong muốn những tác phẩm của tôi sẽ làm cho con người tốt hơn, tâm hồn trong sạch hơn, thức tỉnh tình yêu đối với con người và khát vọng tích cực đấu tranh cho lí tưởng nhân đạo và tiến bộ của loài người. (Sô – Lô – Khốp)

Một tiểu thuyết thực sự hứng thú là tiểu thuyết không chỉ mua vui cho chúng ta, mà còn chủ yếu hơn là giúp đỡ chúng ta nhận thức cuộc sống, lí giải cuộc sống. (Giooc – giơ – Đuy – a – men)

Văn học không quan tâm đến những câu trả lời do nhà văn đem lại, mà quan tâm đến những câu hỏi do nhà văn đặt ra, và những câu hỏi này luôn luôn rộng hơn bất kỳ một câu trả lời cặn kẽ nào.(Ciaudio Magris – Nhà văn Ý)

Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu. Tình yêu con người, ước mơ cháy bornh vì một xã hội công bằng, bình đẳng, bác ái luôn luôn thôi thúc các nhà văn sống và viết, vắt cạn kiệt những dòng suy nghĩ, hiến dâng máu nóng của mình cho nhân loại. (Leptonxtoi)

Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn. (Thạch Lam)

Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc bài học trông nhìn và thưởng thức. (Thạch Lam)

Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói tình cảm của con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư. (Lê Ngọc Trà)

Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện. (Nam Cao)

Tôi khuyên bạn nên đọc truyện cổ tích… thơ ngụ ngôn, các tuyển tập ca dao… Hãy đi sâu vào vẻ đẹp quyến rũ của ngôn ngữ bình dân, hãy đi sâu vào những câu hài hòa cân đối trong các bài ca, trong truyện cổ tích… Bạn sẽ thấy ở đó sự phong phú lạ thường của các hình tượng, sự giản dị sức mạnh làm say đắm lòng người, vẻ đẹp tuyệt vời của những định nghĩa… Hãy đi sâu vào những tác phẩm của nhân dân, nó trong lành như nguồn nước ngọt ngào, tươi mát, róc rách từ khe núi chảy ra. (M. Gorki)

Tất cả mọi nghệ thuật đều phục vụ cho một nghệ thuật vĩ đại nhất là nghệ thuật sống trên Trái Đất. (Béc – tôn Brếch)

Giống như ngọn lửa thần bốc lên từ những cành khô, tài năng bắt nguồn từ những tình cảm mạnh mẽ nhất của con người. (Raxun Gazatop)

Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do chính cuộc sống viết ra. (Anđecxen)

Sưu tầm những nhận định hay về các tác phẩm văn xuôi lớp 12

Nghị luận ý kiến bàn về văn học

Nhận Thức Trong Văn Học Là Gì ?

Bản chất nhận thức của văn học đã được biết đến từ lâu. Hễ nói đến văn học là người ta không quên nói tới các chức năng nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ.Lí luận văn học ngày nay đã đặt đúng vị trí thẩm mĩ lên hàng đầu, song bản chất nhận thức của văn học vẫn là điều khẳng định. Vấn đề là cần xác định bản chất ấy như thế nào cho phù hợp với đặc trưng của văn học.

Nghiên cứu bản chất nhận thức của văn học, theo chúng tôi, nhất thiết đòi hỏi phải chỉ ra đối tượng đặc thù của văn học, phải giải thích cái lô gích vì sao nhận thức trong văn học lại cho phép nhà văn hư cấu và gắn liền với lí tưởng thẩm mĩ về cuộc sống cũng như tình cảm chủ quan của chủ thể nhận thức và sáng tạo, những điều mà nhận thức khoa học nói chung không chấp nhận.

Câu trả lời thiết nghĩ, có thể tìm thấy ở gợi ý ban đầu của Aristote từ trong sách Thi pháp học (Nghệ thuật thơ ca) của ông viết cách đây 2300 năm trước công nguyên. Nói về nhiệm vụ của nhà thơ ông viết: “Nhiệm vụ của nhà thơ không phải ở chỗ nói về các sự việc đã thực sự xảy ra, mà là nói về cái có thể xảy ra theo quy luật xác suất hay quy luật tất nhiên… Nhà sử học nói về những điều đã xảy ra thực sự, còn nhà thơ thì nói về những gì có thể xảy ra. Vậy nên thơ ca có ý vị triết học và nghiêm chỉnh hơn lịch sử, vì thơ ca nói về cái chung mà lịch sử lại nói về cái cá biệt” (1). Aristote đã nêu ra sự phân biệt rất quan trọng: lịch sử – lĩnh vực của cái đã xảy ra, còn thơ ca (văn học) – lĩnh vực của cái có thể xảy ra theo quy luật xác suất hay tất yếu. Sự phân biệt này cho ta thấy hai điểm. Một là không nên hiểu tư tưởng văn học của Aristote một cách giản đơn thô thiển chỉ là sự mô phỏng – bắt chước – sao chép cuộc sống đã có như lâu nay nhiều người vẫn hiểu. Điều này nhà triết học Nga A. F. Losev đã phân tích rõ trong công trình của ông về triết học cổ Hi Lạp(2). Hai là Aristote cho thấy lĩnh vực quan tâm của văn học không phải là hiện thực đã và đang tồn tại, mà là lĩnh vực của những cái có thể xảy ra. Theo chúng tôi, đó là một tư tưởng rất sâu sắc, có thể lấy làm điểm xuất phát để tìm hiểu đặc trưng nhận thức của văn học.

Triết học duy vật biện chứng từ lâu cho thấy, hiện thực và khả năng là một cặp phạm trù của sự thống nhất đối lập, chuyển hoá cho nhau. Từ điển triết học của Rodental chủ biên, viết: “Hiện thực là bất cứ khách thể nào (sự vật, trạng thái, tình huống) đã tồn tại với tính cách là kết quả của một khả năng nào đó”. “Khả năng biểu hiện khuynh hướng phát triển khách quan nằm trong những hiện tượng đang tồn tại”(3). Khả năng tiềm tàng trong hiện thực (tiềm lực), và trong những điều kiện nhất định nó có thể chuyển hoá thành hiện thực, song không thể gọi khả năng là hiện thực, bởi vì cái gì là khả năng thì không phải là hiện thực và ngược lại cũng vậy, cái gì đã là hiện thực thì không còn là khả năng. Như thế, có thể nói, theo Aristote thì văn học không phản ánh hiện thực, mà chỉ là sự tư duy về những khả năng của hiện thực, hoặc nói theo lối đã quen, văn học chỉ phản ánh các khả năng của hiện thực.

Kiến giải của Aristote buộc ta phải suy nghĩ tới phạm trù khả năng trong triết học, và mối quan hệ giữa văn học nghệ thuật với cái khả năng. Mặc dù mọi lĩnh vực kiến thức của con người đều có phần khám phá cái khả năng, song muốn hiểu bản chất của văn học không thể không nghiên cứu nội dung, đặc điểm của phạm trù quan trọng này. Điều đáng tiếc là phạm trù này cho đến nay trong phạm vi triết học thường chưa được phát triển đúng mức phải có. Trong khi nhấn mạnh tới sự thống nhất mâu thuẫn của chúng, người ta phân biệt “khả năng thực tế” với “khả năng trừu tượng” và quan tâm trước hết đến khả năng thực tế, còn khả năng trừu tượng (khả năng hình thức), những khả năng không có điều kiện chuyển hoá thành hiện thực trong thực tế, những khả năng đã mất thì ít có ý nghĩa và dĩ nhiên là không được quan tâm. Như thế, văn học, nhất là văn học hiện thực chủ nghĩa, theo lí thuyết nói trên, chỉ quan tâm đến hiện thực với các khả năng thực tế mà thôi. Thực ra điều đó không hoàn toàn đúng. Đối với nhu cầu sáng tạo và đời sống tinh thần của con người thì cái khả năng là quan trọng nhất, bất kì là khả năng nào. Con người khác con vật ở chỗ biết sáng tạo ra của cải vật chất, biến đổi tự nhiên và biến đổi cả bản thân mình, do đó ngoài thực tại ra, mọi cái khả năng đối với nó đều có ý nghĩa sống còn, bởi có khả năng là có viễn cảnh, có đổi thay, có chân trời. Mọi khả năng của hiện thực, dù là khả năng trừu tượng, thậm chí khả năng khó tin như người lấy tiên, người lấy ma, người chết sống lại… đều có tác dụng mở rộng không gian nhận thức thế giới, nhận thức hiện tại. Nhà triết học Đức M. Heidegger cho rằng thơ sáng tạo tồn tại, thơ nói về cái “vô”. “Vô” không phải là không có gì mà là vô hạn. Vô hạn là trạng thái tự do vượt lên cái hữu hạn, mà trạng thái ấy chỉ có thể có trong thế giới tinh thần. Vì thế theo Haidegger thơ không phải là đồ trang sức bề ngoài, không phải cảm xúc, tình cảm nhất thời, không phải thứ tiêu khiển, mà là một nền tảng được hun đúc của lịch sử. Ông nói con người “tràn đầy thành quả lao động, nhưng vẫn ngự trị trên mặt đất một cách thi vị” (4). Cái thi vị ở đây là sự tồn tại hướng tới cái vô hạn. Hiểu như vậy, cái khả năng đáp ứng được nhu cầu vươn lên cái vô hạn của con người, cho nên nó trở thành đối tượng của văn học. Thật vậy, nếu hiện thực là sự thực hiện của một trong những khả năng của hiện thực, thì nó luôn luôn là hữu hạn, còn khả năng là vô hạn. Hiện thực gồm tất cả những cái đang có trong hiện tại hữu hạn. Trái lại khả năng là vô hạn. Bởi cái hiện thực có thể có khả năng là không hiện thực. Cái khả năng cũng có thể là cái không có khả năng. Cái tất yếu cũng có thể không tác động mà bị chi phối bởi cái ngẫu nhiên. Cái hiện thực đã thành quá khứ cũng hàm chứa nhiều khả năng. Đằng sau mỗi cái dĩ nhiên đã thành quá khứ có vô vàn cái khả năng đã không còn cơ hội trở thành hiện thực. Nhưng những khả năng đã mất, không còn hiệu lực thực tế ấy vẫn còn ý nghĩa như là những bài học cho tương lai. Con người vẫn thường nhớ và hối tiếc những việc đã qua. Ấy là hối tiếc những khả năng tốt đẹp đã bị phí hoài, những cơ hội nghìn năm đã ra đi không trở lại. Nhà lí luận văn học Nga Iu. Lotman khi bàn về lịch sử đã nói rất chí lí: “Lịch sử chỉ là một trong vô vàn con đường có thể đi. Mỗi con đường đã đi đồng thời là một sự đánh mất các con đường khác” (5). Những khả năng đã mất không phải là vô nghĩa đối với cuộc sống con người, chúng vẫn tiếp tục là đề tài bàn luận, suy nghĩ để lựa chọn con đường tối ưu cho cuộc đời. Và bên trong mỗi cái hiện thực đang tồn tại lại có vô vàn khả năng có thể xảy ra mà không phải bao giờ con người cũng nắm bắt được hết. Đồng thời cùng với một khả năng có thể xảy ra lại có vô vàn khả năng đa dạng, đa chiều có thể xảy ra tiếp sau đó. Các khả năng trừu tượng, phi lí cũng không phải là vô nghĩa. Chúng mở rộng tư duy để hiểu những khả năng, giống như cái ảo giúp hiểu thêm cái thực, cái âm giúp hiểu thêm cái dương! Khả năng luôn luôn phong phú hơn hiện thực và chính nó mở rộng không gian cho tư duy, cho lựa chọn và cho phát triển. Trong triết học chúng ta thường đánh giá rất cao cái tất yếu. Lịch sử chỉ phát triển theo cái tất yếu và theo triết học mác xít, con người chỉ có được tự do khi nhận thức được cái tất yếu ấy. Nhưng khoa học tự nhiên hiện đại đã cho thấy một bức tranh khác. Theo nhà vật lí Prigoring “Các quá trình được dự báo vận động theo các quy luật đã tính trước. Rồi sau đó xuất hiện cái điểm, khi sự vận động đạt đến chỗ không thể dự báo, và đó là chỗ giao nhau của ít nhất là hai, mà thực tế là của vô vàn con đường. Nếu trước đó chúng ta cho rằng có thể tính được xác suất gặp một đường nào đó, nhưng chính ở đó, theo Prigoring, tính xác suất không tác động, mà lại do cái ngẫu nhiên tác động”(6). Nhưng ở đâu có cái ngẫu nhiên tác động thì ở đó có không gian của những cái khả năng mà con người không thể lường trước được.

Khả năng là khuynh hướng, xu thế chuyển biến, vận động, phát triển của hiện thực, là viễn cảnh của tồn tại con người. Con người sẽ ra sao, cuộc sống sẽ ra sao, xã hội sẽ về đâu,… những câu hỏi lớn về hiện tại và tương lai đặt ra từ thời xa xưa mà tôn giáo, triết học và nghệ thuật đều có sứ mệnh trả lời cho mỗi người. Các khả năng, do vậy làm thành đối tượng nhận thức cao nhất của con người. Nhận thức khoa học lịch sử xét cho cùng cũng là nhằm dự báo khả năng cho tương lai.

Nghệ thuật là sáng tạo những thế giới tưởng tượng không có thực, nhằm thể hiện quan niệm nhà văn về cuộc sống, thể hiện những ý nghĩa của hiện thực được nhà văn phát hiện. Tính chất của cái khả nhiên cho phép nghệ thuật có thể tưởng tượng, hư cấu, tạo ra những những thế giới chưa từng có. Các hình tượng văn học kiệt xuất xưa nay, Hămlet, Đôn Kihôtê, Gia Cát Lượng, Quan Vũ, A Q, Kiều, Chí Phèo, Lão Hạc, Xuân Tóc Đỏ… đều thế. Hiện thực với tư cách là sự thực hiện của những khả năng, nó là sự thật, là vật chất, nó có tính ngoan cố không cho phép ai có thể bóp méo, cắt rời, nhào nặn để sáng tạo nên bất cứ hình tượng nào. Bởi như thế là bóp méo, xuyên tạc thực tế. Khi người ta nói nhào nặn chất liệu của hiện thực để sáng tạo nghệ thuật, thì thực chất là nói về việc nhào nặn chất liệu có tính khả năng, chứ không phải nhào nặn hiện thực như nó vốn có. Chỉ có tính khả năng là cái có tính mềm dẻo, tính co dãn cho phép có thể nhào nặn để làm nên sản phẩm mới bằng hư cấu, tưởng tượng.

Cái khả năng còn cho phép người ta được tự do lựa chọn những yếu tố phù hợp với lí tưởng và thị hiếu thẩm mĩ nhằm thể hiện quan niệm sống của mình. Khả năng khi đang là những khuynh hướng tiềm tàng trong hiện thực, nếu không có con người biết phát hiện ra thì nó vẫn chìm khuất trong thực tế. Khả năng là phương diện dành riêng cho con người tự do phát hiện và gắn liền với tính tích cực tư duy, sáng tạo của nó. Ở đây cái khả năng cho phép thống nhất các hiện tượng đời sống với lí tưởng và sáng tạo, thống nhất cái khả nhiên với cái thẩm mĩ. Do thế cái khả năng mới là đối tượng đặc thù của nhận thức văn học.

Cái khả năng với tính chất của nó có thể tác động đến tư tưởng, tình cảm con người rất mãnh liệt. Chẳng hạn khả năng trừng phạt là một nhân tố ngăn ngừa tội phạm mạnh hơn là sự trừng phạt tàn khốc thực tế. Khả năng về sự khổ cực, nghèo túng, đói kém, bệnh tật, khả năng bị khinh bỉ, chê cười thường làm nảy sinh niềm sợ hãi nhiều hơn là các trạng thái đó trong thực tế. Sợ hãi là chức năng của cái khả năng đau đớn hay mất mát cũng giống như mong muốn là chức năng của các khả năng hưởng thụ. Nhà lí luận văn học Nga M. Epstein trong Triết học về cái khả năng nhận xét: “Nói chung, nếu chúng ta nhớ lại lịch sử, thì cái khả năng cũng có ảnh hưởng đến hành vi và tình cảm con người không ít hơn cái hiện thực. Cái tiềm năng có sức tác động mạnh mẽ khi nó vẫn là tiềm năng, có thể nói là tác động đến con người một cách “phi hiện thực”. Niềm tin và sự nghi ngờ, niềm khát khao và nỗi sợ hãi, hi vọng và thất vọng, sự dũng cảm và sự hèn nhát, sự thánh thiện và sự điên cuồng và những trạng thái cảm xúc hay đạo đức thường được gợi lên không phải bằng tình trạng thực tế của sự vật mà là bằng cái khả năng của chúng. Đó là khả năng Chúa còn hay là không, khả năng tôi được cứu hay là bị hại.”(7) Cả dân tộc Việt đi vào hai cuộc kháng chiến không cân sức bằng niềm tin vào khả năng chiến thắng chứ không phải chỉ bằng hiện thực khổ đau. Văn học phản ánh sâu sắc cái khả năng chính là do cội nguồn tác động lớn lao của cái khả năng đối với đời sống con người. Dù kết thúc có hậu hay kết thúc bi kịch văn học đều đặt con người đứng trước sự thể nghiệm, suy tư và lựa chọn về khả năng.

Tất nhiên, văn học không giản đơn chỉ là phản ánh các khả năng của hiện thực. Làm như thế văn học sẽ chẳng khác gì chính trị, tương lai học, xã hội học… Mọi người đều biết, tư duy chẳng phải gì khác, mà là hành động xuyên qua hiện thực để tiến đến các khả năng bị che giấu trong đó. Như thế, chỉ nói đến khả năng là chưa đủ. Điểm đặc thù của văn học còn là sáng tạo những cái khả nhiên của đời sống. “Cái khả năng” mà Aristote nói đến trong bản dịch tiếng Việt nêu trên, theo Chu Quang Tiềm, có thể dịch là “cái khả nhiên”, nghĩa là “cái có thể như thế”. Hiện thực tồn tại trong dạng cái dĩ nhiên (cái đã có như thế) và “cái tất nhiên” (cái bắt buộc phải như thế). Chỉ có trong văn học cái khả năng đã chuyển hoá thành cái khả nhiên do nhà văn sáng tạo dưới dạng hình tượng nghệ thuật. Mọi tác phẩm văn học hư cấu – mọi hình tượng nghệ thuật có giá trị của nhân loại xưa nay thực chất đều là những cái khả nhiên như vậy. Một hình tượng người nông dân (như chị Dậu, anh Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố) hay hình tượng Bác Hồ (chẳng hạn trong thơ Tố Hữu, Minh Huệ, Chế Lan Viên…) đều là những cái khả nhiên trong cảm thụ của tác giả. Không có cái khả nhiên duy nhất. Hình tượng văn học với tư cách là cái khả nhiên còn giàu tính khả năng hơn nữa, bởi ở đây còn có tính khả năng của sức tưởng tượng mang tính cá thể của nhà văn.

Vậy cái khả nhiên văn học có giá trị nhận thức như thế nào? Về mặt này văn học có đặc điểm nhận thức gần gủi với triết học. Nhà triết học Bertrand Russell trong chương “Giá trị của triết học” trong sách Những vấn đề triết học (1912) đã viết: “Mặc dù triết học không thể nói với ta một cách chắc chắn câu trả lời chân lí đối với các mối nghi ngờ do triết học gợi lên thì nó cũng có thể đề xuất với ta nhiều khả năng, những khả năng ấy mở rộng tư tưởng của ta và giải phóng ta khỏi sự chuyên chế của cái thói quen. Bằng cách đó, trong khi giảm bớt tình cảm tin cậy của ta đối với trạng thái sự vật như chúng đang có, triết học tăng cường mạnh mẽ tri thức của ta về những trạng thái mà chúng có thể xuất hiện…, nó đánh thức sự kinh ngạc của ta bằng cách cho thấy những sự vật quen thuộc qua các bình diện khác lạ. Cần nghiên cứu triết học không phải nhằm để đưa ra các câu trả lời xác định đối với các câu hỏi, bởi vì thông thường, không có câu trả lời xác định nào có thể được coi là chân lí, mà là vì bản thân các câu hỏi, bởi các câu hỏi đó mở rộng quan niệm của ta về những gì có thể có, chúng làm phong phú sức tưởng tượng trí tuệ của ta.”(8) Có thể nghĩ rằng, kiến giải của nhà triết học về triết học cũng hoàn toàn phù hợp với bản chất của văn học. Chúng ta không thể nói một cách chắc chắn hoàn toàn những gì văn học biểu hiện là chân lí, bởi đó là nhận thức của nhà văn trong những hoàn cảnh nhất định dưới hình thức hư cấu với rất nhiều ngẫu nhiên. Nhưng ta có thể nói đó là những cái khả nhiên do tác giả sáng tạo nhằm mở rộng tầm hiểu biết về cuộc sống, giải thoát con người khỏi mọi thói quen trì trệ, mọi cái nhìn bề ngoài, kích thích sự chú ý đến mọi biến dị và đa dạng của cuộc đời. Nhưng đồng thời nhận thức văn học khác xa triết học, bởi nhà văn không chỉ khái quát những khả năng mà còn sáng tạo cái khả nhiên, là cái có gía trị thẩm mĩ ở chỗ nó gây khoái cảm cho con người, kích thích và mài sắc không chỉ là tư duy, mà còn mài sắc cảm giác con người về sự đa dạng và khác lạ bất tận của cuộc đời, nuôi dưỡng tình cảm và sự đánh giá có tính nhân văn đối với mọi biến đổi của đời sống. Văn học khác hẳn khoa học vì khoa học chủ yếu nhận thức cái quy luật, cái tất yếu, cái dĩ nhiên của hiện thực dưới hình thức khái niệm, phạm trù, công thức trừu tượng.

Nhìn nhận văn học từ phạm trù cái khả nhiên giúp chúng ta có cơ sở để hiểu chức năng nhận thức đặc thù của nó, nhìn thấy cơ chế bên trong của sự phản ánh thẩm mĩ và do đó có cơ sở đánh giá đúng đắn đối với văn học.

Nguồn: Tạp chí Sông Hương số 231 – 05 – 2008

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Sưu Tầm Những Nhận Định Hay Về Tác Phẩm Văn Học

Tổng hợp những nhận định hay, những lời phê bình văn học của các tác giả nổi tiếng,bí kíp viết 1 bài văn hay NHẬN ĐỊNH VỀ VĂN HỌC

II. Văn xuôi

Cuộc sống còn tuyệt vời biết bao trong thực tế và trên trang sách. Nhưng cuộc sống cũng bi thảm biết bao. Cái đẹp còn trộn lẫn niềm sầu buồn. Cái nên thơ còn lóng lánh giọt nước mắt ở đời.(Trích trong Nhất ký của Nguyễn Văn Thạc)

Tôi hãy còn một trái tim, một dòng máu nóng để yêu thương, cảm thông và chia sẻ. (Dostoevski)

Điều duy nhất có giá trị trong cuộc đời chính là những dấu ấn của tình yêu mà chúng ta đã để lại phía sau khi ra đi. (Albert Schweitzer)

Chi tiết làm nên bụi vàng của tác phẩm. (Pauxtopxki)

Con hãy lắng nghe nỗi buồn của cành cây héo khô, của chim muông què quặt, của hành tinh lạnh ngắt. Nhưng trước hết con hãy lắng nghe nỗi buồn của con người. (Nadimetlicmet)

Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó. (Bêlinxki)

Văn học là nhân học (M. Gorki)

Nhà văn là người cho máu ( Nữ văn sĩ Pháp Elsa Trisolet)

Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy(Sê – Khốp)

Không có gì nghệ thuật hơn bản thân lòng yêu quý con người(Van Gốc) 11. Văn chương bất hủ cổ kim đều viết bằng huyết lệ (Lâm Ngũ Đường)

Con người đến với cuộc sống từ nhiều nẻo đường, trên muôn vàn cung bậc phong phú nhưng tiêu điểm mà con người hướng đến vẫn là con người. (Đặng Thai Mai)

Tư tưởng nhân đạo xuyên suốt văn học từ xưa đến nay. Khái niệm nhân đạo có những tiền thân của nó, trong lời nói thông thường đó là “tình thương, lòng thương người” (Lê Trí Viễn)

Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái đẹp và cái nhân đạo của lòng người (Xê – Lê – Khốp)

Cốt lõi của lòng nhân đạo là lòng yêu thương. Bản chất của nó là chữ tâm đối với con người (Hoài Chân)

Nếu như cảm hứng nhân bản nghiêng về đồng cảm với những khát vọng rất người của con người, cảm hứng nhân văn thiên về ngợi ca vẻ đeho của của con người thì cảm hứng nhân đạo là cảm hứng bao trùm. (Hoài Thanh) 17. Nghệ thuật là sự vươn tới, sự níu giữ mãi mãi. Cái cốt lõi của nghệ thuật là tính nhân đạo. (Nguyên Ngọc)

Xét đến cùng, ý nghĩa thực sự của văn học là nhân đạo hóa con người (Đề thi HSG văn toàn quốc bảng B năm 1996)

Một tác phẩm thật giá trị phải vượt lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho tất cả loài người. Nó phải chứa đựng nột cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi, nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bằng…Nó làm cho người gần người hơn. (Đời Thừa – Nam Cao)

Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp. (Pautopxki)

Nói nghệ thuật tức là nói đến sự cao cả của tâm hồn. Đẹp tức là một cái gì cao cả. Đã nói đẹp là nói cao cả. Có khi nhà văn miêu tả một cái nhìn rất xấu, một tội ác, một tên giết người nhưng cách nhìn, cách miêu tả phải cao cả. (Nguyễn Đình Thi)

Văn chương có loại đáng thờ và không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. (Nguyễn Văn Siêu)

Cuộc bể dâu mà con người nhìn thấy trong văn thơ dân tộc là máu trong trái tim của người nghệ sĩ (Tố Hữu)

Nhà văn phải là người đi tìm gắng đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn của con người. (Nguyễn Minh Châu)

Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường. Những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đày đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực.(Nguyễn Minh Châu)

Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được run lên ở các cung bậc và tình cảm và tình cảm chứ không phải là tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên và là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng một tác phẩm như thế nào. (Nguyễn Khải)

Cảm động lòng người trước hết không gì bằng tình cảm và tình cảm là cái gốc của văn chương. (Bạch Cư Dị)

Những cuộc chiến qua đi, những trang lịch sử của từng dân tộc được sang trang, các chiến tuyến có thể được dựng lên hay san bằng. Nhưng những tác phẩm đi xuyên qua mọi thời đại, mọi nền văn hóa hoặc ngôn ngữ cuối cùng vẫn nằm ở tính nhân bản của nó. Có thể màu sắc, quốc kì, ngôn ngữ hay màu da chúng ta khác nhau. Nhưng máu chúng ta đều có màu đỏ, nhịp tim đều giống nhau. Văn học cuối cùng là viết về trái tim con người. (Maxin Malien)

Xét đến cùng, ý nghĩa thực sự của văn học là nhân đạo hóa con người (M. Gorki)

Tôi muốn tác phẩm của tôi giúp mọi người trở nên tốt, có tâm hồn thuần khiết, tôi muốn chúng góp phần gợi dậy tình yêu con người, đồng loại và ý muốn đấu tranh mãnh liệt cho những lí tưởng của chủ nghĩa nhân đạo và sự tiến bộ của loài người. (Sô – Lô – Khốp)

Nói tới giá trị nhân đạo là nói tới thái độ của người nghệ sĩ dành cho con người mà hạt nhân căn bản là lòng yêu thương con con người. (Từ điển văn học)

Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu. (L. Tônxtôi)

Nếu truyện Kiều là một dòng sông thì thơ chữ Hán là những con suối nhỏ, tất cả đều đổ vào đại dương mênh mông là chủ nghĩa nhân đạo của nhà thơ (Nguyễn Đăng Mạnh)

Nhà văn phải là nhà thư ký trung thành của thời đại. (Banlzac)

Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lý. (M. Gorki)

Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than. (Nam Cao)

Một nhà văn thiên tài là người muốn cảm nhận mọi vẻ đẹp man mác của vũ trụ. (Thạch Lam)

Sống đã rồi hãy viết, hãy hòa mình vào cuộc sống vĩ đại của nhân dân. (Nam Cao)

Ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo ra ngôn ngữ. Nhà văn không chỉ học tập ngôn ngữ của nhân dân mà còn là người phát triển ra ngôn ngữ sáng tạo, không nên ăn bám vào người khác. Giàu ngôn ngữ thì văn sẽ hay… Cũng cùng một vốn ngôn ngữ ấy nhưng sử dụng có sáng tạo thì văn sẽ có bề thế và kích thước. Có vốn mà không biết sử dụng chỉ như nhà giàu giữ của. Dùng chữ như đánh cờ tướng, chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí của nó. Văn phải linh hoạt. Văn không linh hoạt gọi là văn cứng đơ thấp khớp…. (Nguyễn Tuân)

Mỗi tác phẩm nghệ thuật phải là mỗi phát minh về hình thức và khám phá mới về nội dung. (Lêonit Lêonop)

Cái quan trọng trong tài năng văn học và tôi nghĩ rằng cũng có thể trong bất kì tài năng nào, là cái mà tôi muốn gọi là tiếng nói của riêng mình. (Ivan Tuốc Ghê Nhiép)

Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà văn cả… Nếu anh không có giọng riêng, anh khó trở thành nhà văn thực thụ (Sê – Khôp)

Văn học làm cho con người thêm phong phú, tạo khả năng cho con người lớn lên, hiểu được con người nhiều hơn.(M.L.Kalinine)

Đối với con người, sự thật đôi khi nghiệt ngã, nhưng chưa bao giờ cũng dũng cảm cũng cố trong lòng người đọc niềm tin ở tương lai. Tôi mong muốn những tác phẩm của tôi sẽ làm cho con người tốt hơn, tâm hồn trong sạch hơn, thức tỉnh tình yêu đối với con người và khát vọng tích cực đấu tranh cho lí tưởng nhân đạo và tiến bộ của loài người. (Sô – Lô – Khốp)

Một tiểu thuyết thực sự hứng thú là tiểu thuyết không chỉ mua vui cho chúng ta, mà còn chủ yếu hơn là giúp đỡ chúng ta nhận thức cuộc sống, lí giải cuộc sống. (Giooc – giơ – Đuy – a – men)

Văn học không quan tâm đến những câu trả lời do nhà văn đem lại, mà quan tâm đến những câu hỏi do nhà văn đặt ra, và những câu hỏi này luôn luôn rộng hơn bất kỳ một câu trả lời cặn kẽ nào.(Ciaudio Magris – Nhà văn Ý)

Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu. Tình yêu con người, ước mơ cháy bornh vì một xã hội công bằng, bình đẳng, bác ái luôn luôn thôi thúc các nhà văn sống và viết, vắt cạn kiệt những dòng suy nghĩ, hiến dâng máu nóng của mình cho nhân loại. (Leptonxtoi)

Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn. (Thạch Lam)

Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc bài học trông nhìn và thưởng thức. (Thạch Lam)

Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói tình cảm của con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư. (Lê Ngọc Trà)

Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện. (Nam Cao)

Tôi khuyên bạn nên đọc truyện cổ tích… thơ ngụ ngôn, các tuyển tập ca dao… Hãy đi sâu vào vẻ đẹp quyến rũ của ngôn ngữ bình dân, hãy đi sâu vào những câu hài hòa cân đối trong các bài ca, trong truyện cổ tích… Bạn sẽ thấy ở đó sự phong phú lạ thường của các hình tượng, sự giản dị sức mạnh làm say đắm lòng người, vẻ đẹp tuyệt vời của những định nghĩa… Hãy đi sâu vào những tác phẩm của nhân dân, nó trong lành như nguồn nước ngọt ngào, tươi mát, róc rách từ khe núi chảy ra. (M. Gorki)

Tất cả mọi nghệ thuật đều phục vụ cho một nghệ thuật vĩ đại nhất là nghệ thuật sống trên Trái Đất. (Béc – tôn Brếch)

Giống như ngọn lửa thần bốc lên từ những cành khô, tài năng bắt nguồn từ những tình cảm mạnh mẽ nhất của con người. (Raxun Gazatop)

 Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do chính cuộc sống viết ra. (Anđecxen)

59. Cuộc đời là nơi xuất bản, cũng là nơi đi tới của văn học. (Tố Hữu) 60. Sự trưởng thành của một thể loại được đánh dấu bằng cổ nhiên, nhưng rõ hơn lại đánh dấu bằng những phong cách. (LLVH) 61. Nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng riêng chủ quan của mình, tìm thấy những ấn tượng đó có giá trị khái quát và biết làm cho những ấn tượng đó có những hình thức riêng. (M. Gorki) 62. Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo vì vậy nó đồi hỏi người viết sự sáng tạo phong cách mới lạ, thu hút người đọc. (LLVH) 63 . Cái bóng của độc giả đang cuối xuống sau lưng nhà văn khi nhà văn ngồi dưới tờ giấy trắng. Nó có mặt ngay cả khi nhà văn không thừa nhận sự có mặt đó. Chính độc giả đã ghi lên tờ giấy trắng cái dấu hiệu vô hình không thể tẩy xóa được của mình. (LLVH) 64. Phải đẩy tới chóp đỉnh cao của mâu thuẫn thì sự sống nhiều hình mới vẽ ra. (Heghen) 65. Tác phẩm chân chính không kết thúc ở trang cuối cùng, không bao giờ hết khả năng kể chuyện khi câu chuyện về các nhân vật đã kết thúc. Tác phẩm nhập vào tâm hồn và ý thức của bạn đọc, tiếp tục sống và hành động như một lực lượng sống nội tâm, như sự dằn vặt và ánh sáng của lương tâm, không bao giờ tàn tạ như thi ca của sự thật. (Aimatop) 66. Tình huống là một lát cắt của sự sống, là một sự kiện diễn ra có phẩn bất ngờ nhưng cái quan trọng là sẽ chi phối nhiều điều trong cuộc sống con người. (Nguyễn Minh Châu) 67. Văn học phản ánh hiện thực nhưng không phải là chụp ảnh sao chép hiện thực một cách hời hợt nông cạn. Nhà văn không bê nguyên si các sự kiện, con người vào trong sách một cách thụ động, giản đơn. Tác phẩm nghệ thuật là kết quả của một quá trình nuôi dưỡng cảm hứng, thai nghén sáng tạo ra một thế giới hấp dẫn sinh động…thể hiện những vấn đề có ý nghĩa sâu sắc, bản chất của đời sống xã hội con người…Nhân vật trong tác phẩm của một thiên tài thật sự nhiều khi thật hơn cả con người ngoài đời bởi sức sống lâu bền, bởi ý nghĩa điển hình của nó. Qua nhân vật ta thấy cả một tầng lớp, một giai cấp, một thời đại, thậm chí có nhân vật vượt lên khỏi thời đại, có ý nghĩa nhân loại, vĩnh cửu sống mãi với thời gian. (LLVH) 68. Cái đen là cuộc sống. (Secnưsepxki) 69. Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời. (Vũ Trọng Phụng) 70. Người sáng tác là nhà văn và người tạo nên số phận cho tác phẩm là độc giả. (M. Gorki) 71. Văn chương phải là thế trận đuổi nghìn quân giặc. (Trần Thái Tông) 72. Những gì tôi viết ra là những gì thương yêu nhất của tôi, những ước mong nhức nhối của tôi. (Nguyên Hồng) 73. Nếu tác giả không có lối nói riêng của mình thì người đó không bao giờ là nhà văn cả. Nếu anh ta không có giọng riêng, anh ta khó trở thành nhà văn thực thụ. (Sê – Khốp) 74. Nếu những nỗi đau khổ từ lâu bị kiềm chế, nay sôi sục dâng lên trong lòng thì tôi vi Có những đêm không ngủ, mắt rực cháy và thổn thức, lòng tràn ngập nhớ nhung. Khi đó tôi viết. (Lecmôntop) 76. Mỗi khi có gì chất chứa trong lòng, không nói ra, không chịu được thì lại cần thấy làm thơ. (Tố Hữu) 77. Nghệ thuật đó là sự mô phỏng tự nhiên. (Ruskin) 78. Đau đớn thay cho những kiếp sống muốn cất cánh bay cao nhưng lại bị cơm áo ghì sát đất. (Sống mòn – Nam Cao) 79. Điều quan trọng hơn hết trong sự nghiệp của những nhà văn vĩ đại ấy lại là cuộc sống, trường đại học chân chính của thiên tài. Họ đã biết đời sống xã hội của thời đại, đã cảm thấy sâu sắc mọi nỗi đau đớn của con người trong thời đại, đã rung động tận đáy tâm hồn với những nỗi lo âu, bực bội, tủi hổ và những ước mong tha thiết nhất của loài người. Đó chính là cái hơi thở, cái sức sống của những tác phẩm vĩ đại. (Đặng Thai Mai) 80. Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lí. (M. Gorki) 81. Sống đã rồi hãy viết, hãy hòa mình vào cuộc sống vĩ đại của nhân dân. (Quan niệm của Nam Cao sau C ách mạng tháng Tám) 82. Nhà văn phải: “đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy mọi vang động của cuộc đời”. 83. Tất cả trong con người! Tất cả vì con người! Con người! Tiếng ấy thật kì diệu! Tiếng ấy vang lên kiêu hãnh và hùng tráng xiết bao! (M. Gorki) 84. Một tác phẩm trác việt là một tác phẩm làm bất hủ nỗi thống khổ của con người. 85. Nếu như Nguyễn Công Hoan đời là mảnh ghép của những nghịch cảnh, với Thạch Lam đời là miếng vải có lổ thủng, những vết ố, nhưng vẫn nguyên vẹn, thì với Nam Cao, cuộc đời là tấm áo cũ bị xé rách tả tơi từ cái làng Vũ Đại đến mỗi gia đình, mỗi số phận. 86. Ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo ra ngôn ngữ. Nhà văn không chỉ học tập ngôn ngữ của nhân dân mà còn là người phát triển ra ngôn ngữ sáng tạo,không nên ăn bám vào người khác.Giàu ngôn ngữ thì văn sẽ hay…Cũng cùng 1 vốn ngôn ngữ ấy nhưng sử dụng có sáng tạo thì văn sẽ có bề thế và kích thước.Có vốn mà không biết sử dụng chỉ như nhà giàu giữ của.Dùng chữ như đánh cờ tướng,chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí của nó.Văn phải linh hoạt.Văn không linh hoạt gọi là văn cứng đơ thấp khớp (Nguyễn Tuân) 88. Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Vì vậy nó đòi hỏi phải có phong cách, tức là phải có nét gì đó rất mới, rất riêng thể hiện trong tác phẩm của mình. (Nguyễn Tuân) 89. Làm người thì không có cái tôi… nhưng làm thơ thì không thể không có cái tôi. (Viên Mai) 90. Điều còn lại đối với mỗi nhà văn chính là giọng nói của riêng mình. 91. Không có tiếng nói riêng không mang lại những điều mới mẻ cho văn chương mà chỉ biết dẫm theo đường mòn thì tác phẩm nghệ thuật sẽ chết. (Lêonit Lêonop) 92. Tình huống là lát cắt của thân cây mà qua đó ta thấy được trăm năm đời thảo mộc 93. Tình huống là sự kiện mà tại sự kiện đó tính cách của con người được bộc lộ. 94. Tình huống là một khoảnh khắc của dòng chảy đời sống mà qua khoảng khắc thấy được vĩnh viễn, qua giọt nước thấy được đại dương. 95. Tình huống là một sự kiện đặc biệt trong đời sống, là kết quả của mối quan hệ đời sống nên nó éo le và nghịch cảnh. 96. Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác, cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những điều tốt đẹp. (Ai – ma – tốp) 97. Giá trị của 1 tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các bậc tình cảm, chứ không phải là cái tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên cũng là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng tác phẩm lớn (Nguyễn Khải). 98. Mỗi con người đều mang trong mình nhiệm vụ của người nghệ sĩ.(M. Gorki) 99. Những kết luận khoa học như những thỏi vàng chỉ lưu hành trong một phạm vi nhỏ hẹp. Còn tri thức từ những tác phẩm văn chương như những đồng tiền nhỏ dễ dàng lưu thông len lõi đến với người ta. 100. Như một hạt giống vô hình, tư tưởng gieo vào tâm hồn nghệ sĩ và từ mảnh đời màu mở ấy nó triển khai thành một hình thức xác định, thành các hình tượng nghệ thuật đầy vẻ đẹp và sức sống.(Bêlinxki) 101. Đối tượng mà anh muốn nói đến dù là cái gì cũng chỉ có 1 từ để biểu hiện nó. (Môpat xăng – Pháp) 102. Đối với con người,sự thực đôi khi nghiệt ngã ,nhưng bao giờ cũng dũng cảm cũng cố trong lòng người đọc niềm tin ở tương lai.Tôi mong muốn những tác tác phẩm của tôi sẽ làm cho con người tốt hơn,tâm hồn trong sạch hơn,thức tỉnh tình yêu đối với con người và khát vọng tích cực đấu tranh cho lí tưởng nhân đạo và tiến bộ của loài người (Sô – lô – khốp) 103. Tôi không thể nào tưởng tượng nổi một nhà văn mà lại không mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu thương con người. Tình yêu này của người nghệ sĩ vừa là một niềm hân hoan say mê, vừa là một nỗi đau đớn, khắc khoải, một mối quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của những người chung quanh mình. Cầm giữ cái tình yêu ấy trong mình, nhà văn mới có khả năng cảm thông sâu sắc với những nỗi đau khổ, bất hạnh của người đời, giúp họ có thể vượt qua những khủng hoảng tinh thần và đứng vững được trước cuộc sống. (Nguyễn Minh Châu) 104. Văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật. (Nguyễn Tuân) 105. Văn học, nghệ thuật là công cụ để hiểu biết, để khám phá, để sáng tạo thực tại xã hội. (Phạm Văn Đồng) 106. Nếu một tác giả không có lối đi riêng của mình thì người đó sẽ không bao giờ là nhà văn học được. (Tsêkhôp)

II. THƠ

1. Anđecxen đã lượm lặt những hạt thơ trên luống đất của người dân cày, ấp ủ chúng nơi trái tim ông rồi gieo vào những túp liều, từ đó lớn lên và nở ra những đóa hoa thơ tuyệt đẹp, chúng an ủi trái tim những người cùng khổ. (Pauxtopxki) 2. Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành mật ngọt 3. Một mật ngọt thành đòi vạn chuyến ong bay. (Chế Lan Viên) 4. Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết vàng mà đời rơi vãi. 5. Hãy nhặt lấy chữ của đời mà góp nên trang. (Chế Lan Viên) 6. Cuộc sống là cánh đồng màu mở để cho thơ bén rễ sinh sôi.(Puskin) 7. Thơ ca mang đến cho con người những điều kỳ diệu .8. Người giai nhân: bến đợi dưới cây già . Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt. (Xuân Diệu) 10. Thơ ca mang đến cho con người những điều kỳ diệu. 11. Thi ca là một tôn giáo không kì vọng 12. Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm. (Voltaire) 13. Thơ là viên kim cương lấp lánh dưới ánh mặt trời. (Sóng Hồng) 14. Thơ là thần hứng. (Platon) 15. Thơ là ngọn lửa thần. (Đecgiavin) 16. Thơ ca là niềm vui cao cả nhất mà loài người đã tạo ra cho mình.(C. Mac) 17. Thơ trước hết là cuộc đời sau đó mới là nghệ thuật. (Bêlinxki) 18. Thơ là cái nhụy của cuộc sống, nên nhà thơ phải đi hút cho được cái nhụy ấy và phấn đấu làm sao cho cuộc đời của mình cũng có nhụy. (Phạm Văn Đồng) 19. Bài thơ anh, anh làm một nửa mà thôi 20. Còn một nửa để mùa thu làm lấy 21. Cái xào xạc hồn anh chính là xào xạc lá 22. Nó không là anh nhưng nó là mùa. (Chế Lan Viên) 23. Đối với nhà thơ thì cách viết, bút pháp của anh ta là một nửa việc làm. Dù bài thơ thể hiện ý tứ độc đáo đến đâu, nó cũng nhất thiết phải đẹp. Không chỉ đơn giản là đẹp mà còn đẹp một cách riêng. Đối với nhà thơ, tìm cho ra bút pháp của mình – nghĩa là trở thành nhà thơ. (Raxun Gamzatop) 24. Thơ chỉ bật ra trong tim khi cuộc sống đã thật tràn đầy. (Tố Hữu) 25. Làm thơ là cân một phần nghìn milligram quặng chữ.(Maiacopxki) 26. Một câu thơ hay là một câu thơ có sức gợi. (Lưu Trọng Lư) 27. Cái kết tinh của mỗi vần thơ và muối bể 28. Muối lắng ở ô nề, thơ đọng ở bể sâu. (Nghĩ về thơ – Chế Lan Viên) 29. Hình thức cũng là vũ khí 30. Sắc đẹp câu thơ cũng phải đấu tranh cho chân lí. (Nghĩ về thơ – Chế Lan Viên) 31. Đời thi sĩ là thơ, như đời một nông dân là lúa 32. Nhan sắc của viên ngọc ư! Có khi là nhiệm vụ nó đấy rồi. (Sổ tay thơ – Chế Lan Viên) 33. Câu thơ phải luôn bất ổn và xôn xao 34. Không thể nằm yên mà ngủ được nào. (Chế Lan Viên) 35. “Ta là ai?” Như ngọn gió siêu hình 36. Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt 37. “Ta vì ai?” Khẽ xoay chiều ngọn bất 38. Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh. (Chế Lan Viên) 39. Thi sĩ là con chim sơn ca ngồi trong bóng tối hát lên những tiếng êm dịu để làm vui cho sự cô độc của chính mình. (B. Shelly) 40. Để trong lòng là chí, ngụ ra ý là thơ. Người có sâu, cạn cho nên thơ mờ có tỏ, rộng hẹp khác nhau. Người làm thơ không ngoài lấy trung hậu làm gốc, ý nghĩa phải hàm súc, lời thơ phải giản dị.(Nguyễn Cư Trinh) 41. Thơ là một bức họa để cảm nhận thay vì để ngắm. (Leonardo DeVinci) 42. Thơ ca làm cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời trở thành bất tử. (Shelly) 43. Thơ là rượu của thế gian. (Huy Trực) 44. Trong tâm hồn của con người đều có cái van mà chỉ có thơ ca mới mở được. (Nhêcơraxop) 45. Trên đời có những thứ chỉ giải quyết được bằng thơ.(Maiacopxki) 46. Nhà thơ, ngay cả các nhà thơ vĩ đại nhất cũng phải đồng thời là những nhà tư tưởng. (Bêlinxki) 47. Thơ là chuyện đồng điệu. (Tố Hữu) 48. Thơ là tiếng gọi đàn. (Xuân Diệu) 49. Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. (Sóng Hồng) 50. Thơ sinh ra từ tình yêu và lòng căm thù, từ nụ cười trong sáng hay giọt nước mắt đắng cay. (Raxun Gamzatôp) 51. Thơ ca là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tinh thần, do đó không đơn giản mà cũng không thần bí, thiêng liêng… Thơ ca chân chính phải là nguồn thức ăn tinh thần nuôi tâm hồn phát triển, nó không được là thứ thuốc phiện tinh thần êm ái, nhỏ nhen mà độc hại… (LLVH) 52. Tôi thu thập hình tượng như con ong hút mật vậy. Một con ong phải bay một đoạn đường bằng sáu lần xích đạo trong một năm ba tháng và đậu trên bảy triệu bông hoa để làm nên một gam mật.(P. Povienko) 53. Những câu thơ lấp lánh như những tấm huy chương.(Pauxtopxki) 54. Thơ là bà chúa của nghệ thuật. (Xuân Diệu) 55. Thơ là tiếng nói của tri âm. (Tố Hữu) 56. Giọng ca buồn là thích hợp nhất cho thơ. (Etga Pô) 57. Thơ ca phải say mới thích. (Tố Hữu) 58. Từ bao giờ cho đến bây giờ, từ Hômerơ đến kinh thi, đến ca dao Việt Nam, thơ vẫn là một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó đã ra đời giữa những vui buồn của loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế. (Hoài Thanh) 59. Thơ chính là tâm hồn. (M. Gorki) 60. Thơ là thơ đồng thời là họa, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng. (Sóng Hồng) 61. Thơ là tiếng lòng. (Diệp Tiếp) 62. Thơ là thư kí chân thành của trái tim. (Duy bra lay) 63. Thơ hay là thơ giản dị, xúc động và ám ảnh. Để đạt được một lúc ba điều ấy đối với các thi sĩ vẫn còn là điều bí mật. (Trần Đăng Khoa) 64. Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. (Sóng Hồng) 65. Bài thơ hay là bài thơ đọc lên không còn thấy câu thơ mà chỉ còn thấy tình người và tôi muốn thơ phải thật là gan ruột của mình.(Tố Hữu) 66. Hãy hát lên khi mỗi mảnh hồn anh là một sợi dây đàn (Platông) 67. Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa. (Xuân Diệu) 68. Thơ cũng như nhạc có thể trở thành một sức mạnh phi thường khi nó chinh phục được trái tim của quần chúng nhân dân. (Sóng Hồng) 69. Câu thơ hay là câu thơ có kahr năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người. (Chu Văn Sơn) 70. Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa từ từ ngữ. 71. Mỗi chữ phải là hạt ngọc buông xuống trang bản thảo. Hạt ngọc mới nhấy của mình tìm được do phong cách riêng của mình mà có. (Tô Hoài) 72. Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm hồn con người trước cuộc đời. (Tố Hữu) 73. Thơ là cây đàn muôn điệu của tâm hồn, của nhịp thở con tim. Xưa nay thơ vẫn là cuộc đời, là lương tri, là tiếng gọi con người hãy quay về bản chất thực của mình để vươn lên cái chân, thiện, mỹ, tới tầm cao của khát vọng sống, tới tầm cao của giá trị sống. 74. Thơ là tâm hồn, tình cảm. Nó diễn đạt rất thành công mọi cung bậc tình cảm đa dạng và phong phú của con người: niềm vui, nỗi buồn, sự cô đơn, tâm trạng chán chường, tuyệt vọng, nỗi trăn trở, băn khoăn, sự hồi hợp, phấp phỏng, một nỗi buồn vu vơ. Một nỗi niềm bâng khuâng khó tả, một sự run rẩy thoáng qua, một phút chốc ngẩn ngơ… Có những tâm trạng và cung bậc tình cảm của con người chỉ có thể diễn đạt bằng thơ. Chính vì thế thơ không chỉ nói hộ lòng mình, thơ còn là sự an ủi, vỗ về, động viên khích lệ người ta đứng dậy đi tới. 75. Thơ ca đồng thời song hành với con người chức năng thức tỉnh lương tri đang ngủ. (Eptusencô)) 76. Cũng như nụ cười và nước mắt, thực chất của thơ là phản ánh một cái gì đó hoàn thiện từ bên trong. (R.Tagore) 77. Thơ phát khởi trong lòng người ta.(Lê Quý Đôn) 78. Hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần.(Ngô Thì Nhậm) 79. Sáng tác thơ là một việc do cá nhân thi sĩ làm, một thứ sản xuất đặc biệt và cá thể. Anh phải đi sâu vào tâm hồn cá biệt của anh để nói cái to tát của xã hội, cái tốt đẹp của chế độ, để tránh cái khô khan, nhạt nhẽo, anh phải có cá tính, anh phải trau dồi cái độc đáo mà công chúng rất đòi hỏi. Nhưng đồng thời anh phải đấu tranh để cái việc sự sáng tạo ấy không trở thành anh hùng chủ nghĩa. (Xuân Diệu). Sưu tầm những nhận định hay về các tác phẩm thơ lớp 12

Một Số Quan Niệm, Nhận Định Về Văn Học Cực Hay

Giới thiệu đến các em những quan niệm sáng tác của những nhà văn, nhà thơ trong nước và trên thế giới, giúp các em ôn thi đại học, luyện thi tú tài, ôn thi học sinh giỏi cũng như tất cả những ai đam mê với văn chương có thêm kiến thức về lí luận văn học (dù chỉ là 1 phần nhỏ): 2/ “Một nhà nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo trong cốt tủy”. (Sê khốp) 3/ Nhà văn phải là người “thư kí trung thành của thời đại”.  (Banlzac) 4/ “Văn học,đó là tư tưởng đi tìm cái đẹp trong ánh sáng”. (Charles DuBos) 5/ Nhà văn phải biết “khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp”. (Ai ma tôp). 6/ “Đối với tôi văn chương không phải là 1 cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên ; trái lại , văn chương là 1 thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác , vừa làm cho lòng người trong sạch và phong phú hơn”.( Thạch Lam ) 7/ M.Gorki nói : văn học “ giúp con người hiểu được bản thân mình , nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lý .” 8/ Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối , nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối , nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than.(Nam Cao – Trăng sáng). 9/ Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ . Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương , loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người .(Nguyễn Văn Siêu). 10/ “Thơ là âm nhạc của tâm hồn ,nhất là những tâm hồn cao cả ,đa cảm”.    (Voltaire) 11/ Thơ là: – “viên kim cương lấp lánh dưới ánh mặt trời” (Sóng Hồng). – “thần hứng” (Platon). – “ngọn lửa thần” (Đecgiavin).  12/ “Thơ ca là niềm vui cao cả nhất mà loài người đã tạo ra cho mình” (C.Mac). 13/ “Thơ,trước hết là cuộc đời,sau đó mới là nghệ thuật” (Biêlinxki). 14/ “Thơ là cái nhụy của cuộc sống, nên nhà thơ phải đi hút cho được cái nhụy ấy và phấn đấu làm sao cho cuộc đời của mình cũng có nhụy” (Phạm văn Đồng). 15/ Còn Chế Lan Viên thì đúc kết đựơc rằng: Bài thơ anh anh làm một nửa mà thôi Còn một nửa cho mùa thu làm lấy Cái xào xạc hồn anh chính là xào xạc lá Nó không là anh nhưng nó là mùa”. 16/ “Một nhà văn thiên tài là người muốn cảm nhận mọi vẻ đẹp man mác của vũ trụ” (Thạch Lam). 17/ “Sống đã rồi hãy viết,hãy hòa mình vào cuộc sống vĩ đại của nhân dân”.(đây là quan niệm của Nam Cao sau cách mạng Tháng Tám). 18/ Nhà văn phải”đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy mọi vang động của đời”. 19/ “Ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo ra ngôn ngữ. Nhà văn không chỉ học tập ngôn ngữ của nhân dân mà còn là người phát triển ra ngôn ngữ sáng tạo,không nên ăn bám vào người khác.Giàu ngôn ngữ thì văn sẽ hay…Cũng cùng 1 vốn ngôn ngữ ấy nhưng sử dụng có sáng tạo thì văn sẽ có bề thế và kích thước.Có vốn mà không biết sử dụng chỉ như nhà giàu giữ của.Dùng chữ như đánh cờ tướng,chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí của nó.Văn phải linh hoạt.Văn không linh hoạt gọi là văn cứng đơ thấp khớp”(Nguyễn Tuân) 20/ “Giá trị của 1 tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các bậc tình cảm, chứ không phải là cái tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên cũng là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng tác phẩm lớn” (Nguyễn Khải). * Nói về phong cánh và cá tính sáng tạo của nhà văn:                                        21/ “Mỗi tác phẩm phải là mỗi phát minh về hình thức và khám phá về nội dung” (Lêonit Lêonop) 22/ “Cái quan trọng trong tài năng văn học và tôi nghĩ rằng cũng có thể  trong bất kì tài năng nào, là cái mà tôi muốn gọi là tiếng nói của riêng mình” (Ivan Tuốc ghê nhi ép). 23/ “Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà văn cả…Nếu anh không có giọng riêng, anh ta khó trở thành nhà văn thực thụ” (Sê khốp) 24/ “Đối với nhà thơ thì cách viết, bút pháp của anh ta là 1 nửa việc làm. Dù bài thơ thể hiện ý tứ độc đáo đến đâu, nó cũng nhất thiết phải đẹp. Không chỉ đơn giản là đẹp mà còn đẹp 1 cách riêng. Đối với nhà thơ, tìm cho ra bút pháp của mình -.nghĩa là trở thành nhà thơ” (Raxun Gamzatop). 25/ “Đối với con người, sự thực đôi khi nghiệt ngã , nhưng bao giờ cũng dũng cảm cũng cố trong lòng người đọc niềm tin ở tương lai. Tôi mong muốn những tác tác phẩm của tôi sẽ làm cho con người tốt hơn, tâm hồn trong sạch hơn, thức tỉnh tình yêu đối với con người và khát vọng tích cực đấu tranh cho lí tưởng nhân đạo và tiến bộ của loài người” (Sô lô khốp). 26/ “Văn học làm cho con người thêm phong phú, tạo khả năng cho con người lớn lên, hiểu được con người nhiều hơn” (M.L.Kalinine). 27/ “Một tiểu thuyết thực sự hứng thú là tiểu thuyết không chỉ mua vui cho chúng ta, mà còn chủ yếu hơn là giúp đỡ chúng ta nhận thức cuộc sống, lí giải cuộc sống” (Giooc-giơ Đuy-a-men). 28/ “Văn học thực chất là cuộc đời. Văn học sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát và cũng là nơi đi tới của văn học”. (Tố Hữu) 29/ Nhà văn đương đại Italia Claudio Magris viết rằng: “Văn học không quan tâm đến những câu trả lời do nhà văn đem lại, mà quan tâm đến những câu hỏi do nhà văn đặt ra, và những câu hỏi này, luôn luôn rộng hơn bất kỳ một câu trả lời cặn kẽ nào”.  30/ Đây là quan niệm về thơ ca của Raxun Gamzatop trong bài thơ “Thơ ca” của ông Có công việc làm hẳn có lúc ngừng tay Có cuộc hành trình hẳn có mươi phút nghỉ Thơ là việc nghỉ ngơi vừa là việc đầy lao lực Thơ vùa là chỗ dừng chân,vừa là cuộc hành trình Thơ vừa là bài hát ru ngây ngất đầu giường thơ bé Như ước mơ mùa xuân như khát vọng chiến công Tôi yêu thơ và thơ liền hiển hiện, Thơ đã sinh ra,tình yêu cũng đến cùng Khi tôi nhỏ thơ giống như bà mẹ Khi lớn lên thơ lại giống người yêu. Chăm sóc tuổi già thơ sẽ làm con gái Lúc từ giã cõi đời,kỉ niệm hóa thơ lưu Có lúc thơ như trái núi cao không thể tới, Có lúc thành cánh chim sà đậu xuống lòng tay Thơ là đôi cánh nâng tôi bay Thơ là vũ khí trong trận đánh Là tất cả,thơ ơi,chỉ trừ không chịu là yên tĩnh! Tôi nguyện suốt đời trung thực sống cho thơ… Là công việc tận cùng?Là rãnh rỗi bắt đầu? Là cuộc hành trình ư?Hay chỉ là chỗ nghỉ? Tôi chỉ biết với tôi thơ vẫn là 2 vế: Rãnh rỗi và việc làm;chỗ nghỉ và hành trình… 31/ Trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh nhận định: “Từ bao giờ đến bây giờ, từ Hômero đến kinh thi đến ca dao việt nam, thơ vẫn là 1 sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó đã ra đời giữa những vui buồn của loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế”. 32/ Tố Hữu nói: “thơ chỉ bật ra trong tim ta khi cuộc sống đã tràn đầy”. 33/ Thơ ca là cuộc đời…Người nghệ sĩ phải tìm đến cuộc đời hút lấy những chất mật tinh túy nhất, ngọt ngào nhất để tạo nên những vần thơ có giá trị. 34/ Nói như Maiacopxki: “làm thơ là cần 1 phần nghìn milligram quặng chữ”. 35/ Thơ ca là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn, do đó không giản đơn mà cũng không thần bí, thiêng liêng…Thơ ca chân chính phai là nguồn thức ăn tinh thần nuôi tâm hồn phát triển, nó không được là thứ thuốc phiện tinh thần êm ái mà nhỏ nhen, độc hại. 36/ Nhà thơ Lưu Trọng Lư cho rằng: “Một câu thơ hay là 1 câu thơ có sức gợi”. 37/ Văn học 12 nhận định: “Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Vì vậy đòi hỏi người sáng tạo phải có phong cách nổi bật, tức là có cái gì rất riêng mới lạ trong phong cách của mình”. 38/ L.Tônx tôi khẳng định: “Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu. Tình yêu con người, ước mơ cháy bỏng vì 1 xã hội công bằng,bình đẳng bái ái luôn luôn thôi thúc các nhà văn sống và viết,vắt kiện cạt những dòng suy nghĩ,hiến dâng bầu máu nóng của mình cho nhân loại” 39/ Với Thạch Lam thì: “Thiên chúc của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn” 40/ Trong tác phầm “Theo giòng”, Thạch Lam viết: “Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc 1 bài học trông nhìn và thưởng thức” 41/ “Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói của tình cảm con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư” (Lê Ngọc Trà). 42/ Trong tác phẩm Đời thừa Nam Cao cho ràng:” Một tác phẩm thật giá trị,phải vượt lên bên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người .Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ,vừa đau đớn lại vừa phấn khởi.Nó ca tụng lòng thương,tình bác ái,sự công bình…Nó làm cho người gần người hơn.”. Ngoài ra ông cũng cho ràng : ”Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bât lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện.”. Còn nữa! HÃY TIẾP TỤC BỔ SUNG CÁC EM NHÉ!