Một Số Biện Pháp Xây Dựng Trường Chuẩn Quốc Gia / Top 5 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 4/2023 # Top View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Một Số Giải Pháp Xây Dựng Trường Mn Đạt Chuẩn Quốc Gia

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆMĐỀ TÀI

MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRONG XÂY DỰNGTRƯỜNG MẦM NON ĐẠT CHUẨN QUỐC GIA MỨC ĐỘ I

I. PHẦN MỞ ĐẦU:Từ năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quyết định số 36/2008/QĐ-BGD&ĐT ngày 16/7/2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo kèm theo Quy chế công nhận trường Mầm non đạt chuẩn quốc gia. Quyết định này thay thế cho Quyết định số 45/2001/QĐ-BGD&ĐT ngày 26 tháng 12 năm 2001 của Bộ Giáo dục và Đào tạo (Bộ GD&ĐT) về việc ban hành Qui chế công nhận trường mầm non đạt chuẩn quốc gia giai đoạn từ năm 2002-2005 và Quyết định số 25/2005/QĐ-BGD&ĐT ngày 22 tháng 8 năm 2005 của bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc sủa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế công nhận trường mầm non đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 2002-2005 ban hành kèm theo Quyết định số 45/2001/QĐ-BGD&ĐT ngày 26 tháng 12 năm 2001 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Theo quy định chung, một trường đạt chuẩn quốc gia phải đạt 5 tiêu chuẩn: tổ chức quản lí; đội ngũ giáo viên và nhân viên; chất lượng chăm sóc – giáo dục trẻ; qui mô trường lớp, cơ sở vật chất (CSVC)và thiết bị; xã hội hóa giáo dục (XHHGD); đây là điều kiện vững chắc để góp phần xây dựng một nền giáo dục phát triển trong tương lai. Chính vì vậy, từ nhiều năm nay, các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương các cấp, Phòng Giáo dục và Đào tạo, các trường trên địa bàn huyện Buôn Đôn đã tập trung huy động các nguồn lực, tích cực xây dựng và hoàn thiện các tiêu chuẩn theo quy định, để được công nhận trường đạt chuẩn quốc gia. Từ khi có Quyết định 36/2008/QĐ-BGD&ĐT ngày 16/7/2008 của Bộ GD&ĐT về việc ban hành Quy chế công nhận trường mầm non đạt chuẩn quốc gia. Trường Mầm non Hoa Hồng được Phòng Giáo dục và Đào tạo Buôn Đôn chọn làm đơn vị thứ 2 trong xây dựng trường mầm non đạt chuẩn quốc gia mức độ 1 của huyện Buôn Đôn. Sau hơn 2 năm tổ chức thực hiện (cuối năm 2012), ngày 20 tháng 12 năm 2012, trường được Ủy ban nhân dân (UBND) Tỉnh kiểm tra và công nhận trường mầm non đạt chuẩn quốc gia mức độ 1 (Quyết định số 75/QĐ-UBND ngày 07 tháng 01 năm 2013 của UBND tỉnh Đắk Lắk); là trường mầm non thứ 2 của huyện Buôn Đôn được công nhận trường mầm non đạt chuẩn quốc gia mức độ 1. Trong quá trình xây dựng trường mầm non đạt chuẩn quốc gia mức độ 1, nhà trường đã đạt được nhiều kết quả. Chính vì lí do đó bản thân tôi đã chọn đề tài “Một số giải pháp trong xây dựng trường mầm non đạt chuẩn quốc gia mức độ 1”. Đề tài được thực hiện tại Trường mầm non Hoa Hồng và có thể vận dụng được cho tất cả các trường mầm non đang tập trung xây dựng trường mầm non đạt chuẩn quốc gia. II. PHẦN NỘI DUNG:1. Cơ sở lí luận: Với quan điểm “Giáo dục là sự nghiệp cách mạng của quần chúng, giáo dục đào tạo vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội”. Với quan điểm đó, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến công tác giáo dục và coi giáo dục là một trong những quốc sách hàng đầu để xây dựng và phát triển. Trên cơ sở quan điểm trên, trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã Tân Hòa về Đề án phát triển giáo dục giai đoạn 2010 – 2015 đã đề ra các mục tiêu: “Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, xây dựng xã hội học tập góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, làm cho giáo dục phục vụ đắc lực sự phát triển kinh tế và xã hội”; “Tập trung xây dựng trường chuẩn quốc gia theo hướng hiện đại hoá, chuẩn hoá, xã hội hoá về cơ sở vật chất, về công tác quản lí, công tác tổ chức dạy và học nhằm đảm bảo chất lượng giáo dục toàn diện thực chất. Từ nay đến năm 2015 phấn đấu 80% các trường trên địa bàn xã Tân Hòa đạt trường chuẩn quốc gia mức độ 1, trong đó có từ 1 – 2 trường được công nhận trường chuẩn quốc gia mức độ 2”.Nhận thức từ chủ trương và tình hình thực tế của các địa phương trên cả nước, nơi nào xây dựng được trường chuẩn quốc gia thì nơi đó giáo dục có điều kiện phát triển toàn diện. Vì vậy, quyết tâm xây dựng nhà trường đạt chuẩn quốc gia mức độ 1 để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đã trở thành nhiệm

Một Số Giải Pháp Đẩy Nhanh Tiến Độ Xây Dựng Trường Học Đạt Chuẩn Quốc Gia

I. Phần mở đầu

Chuẩn quốc gia về trường học được xem là thước đo đánh giá hình thức hoạt động và hiệu quả đạt được của các loại hình trường, trên cơ sở đó để thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Là một huyện còn khó khăn về kinh tế, đời sống nhân dân ở mức trung bình, địa bàn rộng, giao thông chưa thuận lợi, cơ sở vật chất trường lớp đầu tư chưa nhiều, nguồn lực hạn chế, nhưng thời gian qua huyện Trần Văn Thời luôn là đơn vị dẫn đầu trong công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia (ĐCQG) của tỉnh Cà Mau, đặc biệt là hai năm trở lại đây. Tuy nhiên so với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển giáo dục thì kết quả đó chưa đáp ứng yêu cầu.

Theo Nghị quyết của huyện Đảng bộ Trần Văn Thời lần thứ XII, đến năm 2015 toàn huyện có ít nhất 70% trường ĐCQG. Đây là chỉ tiêu mang tính đột phá đối với sự nghiệp giáo dục của huyện. Bởi vì, để nâng cao chất lượng giáo dục, để giáo dục phát triển, không có giải pháp nào khác là xây dựng trường theo hướng ĐCQG. Bên cạnh, xây dựng trường ĐCQG cũng là một tiêu chí quan trọng trong đề án xây dựng nông thôn mới hiện nay.

Với kinh nghiệm bản thân trong việc xây dựng trường ĐCQG thời gian qua cho thấy, xây dựng được một trường ĐCQG là một quá trình chuẩn bị kỹ càng về mọi mặt, phải có sự nỗ lực, quyết tâm cao của các ngành, các cấp cùng với sự hỗ trợ tích cực của xã hội, bên cạnh là vai trò nòng cốt là ngành giáo dục. Tỷ lệ 70% trường ĐCQG đến năm 2015 thật sự là một thách thức, nếu không có biện pháp, giải pháp tốt thì khó có khả năng đạt được.

II. Phần nội dung

1. Cơ sở lý luận:

– Xây dựng trường học ĐCQG là mục tiêu quan trọng trong phát triển sự nghiệp giáo dục, đồng thời là yêu cầu phát triển mới của đất nước, của địa phương. Yêu cầu đó phải được quán triệt cả về nhận thức và hành động từ cấp ủy Đảng, chính quyền, đến các đoàn thể, các tổ chức chính trị- xã hội và nhân dân ở địa phương; phải đặt dưới sự lãnh đạo sâu sắc của Đảng.

– Trong chỉ đạo phải có trọng tâm, trọng điểm để tập trung, tránh đầu tư dàn trải, hiệu quả thấp. Trong thực hiện phải gắn chặt mục tiêu phổ cập giáo dục, chất lượng giáo dục và các nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội của địa phương; phải chú trọng số lượng và chất lượng trong đó chất lượng là quan trọng.

– Việc đầu tư xây dựng phải đảm bảo phù hợp với quy hoạch mạng lưới trường lớp gắn với đề án xây dựng nông thôn mới. Hệ thống nhà trường phải được phân bổ hợp lý, vừa đáp ứng yêu cầu học tập của học sinh, phù hợp với phân bố dân cư lâu dài, vừa đáp ứng với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.

2. Thực trạng và nguyên nhân công tác xây dựng trường học ĐCQG giai đoạn 2000 – 2010.

2.1. Thực trạng:

Trường học ĐCQG được Bộ GD&ĐT triển khai từ năm 1996. Huyện Trần Văn Thời là một trong những đơn vị đầu tiên của tỉnh Cà Mau xây dựng đề án triển khai thực hiện trên địa bàn huyện từ những năm 2000. Qua 10 năm thực hiện (tính đến năm 2010), toàn huyện có 9 trường được công nhận ĐCQG, chiếm tỷ lệ 11,1%. Mặc dù có nhiều cố gắng trong triển khai thực hiện, nhưng kết quả đạt được còn thấp, chưa đáp ứng với kế hoạch đề ra. Vì thế mà chất lượng giáo dục giữa các trường trong huyện chưa được đồng đều, tỉ lệ học sinh, kưu ban, bỏ học, học sinh xếp loại học lực yếu kém còn cao, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho dạy và học còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, chưa đáp ứng với yêu cầu phát triển giáo dục.

2.2. Nguyên nhân:

Có nhiều nguyên nhân, trong đó có các nguyên nhân chủ yếu sau: Công tác tham mưu, đề xuất chưa được thường xuyên, hiệu quả chưa cao; công tác quy hoạch, kế hoạch chưa phù hợp với thực tế và yêu cầu phát triển. Công tác tuyên truyền chưa mang tính chiều sâu; một số cấp ủy, chính quyền, ban ngành, đoàn thể và một bộ phận nhân dân chưa thật sự quan tâm đến công tác xây dựng trường học ĐCQG. Cán bộ quản lý một số trường chưa đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn về trình độ đào tạo và kiến thức phụ trợ khác; một số giáo viên chưa nhiệt tình trong công tác, tay nghề yếu, chậm đổi mới phương pháp giảng dạy…; tỷ lệ học sinh yếu kém, lưu ban, bỏ học khá cao, bình quân trên 5%. Nguồn vốn hạn hẹp, đầu tư thiếu tập trung; nhiều điểm trường thiếu diện tích, mặt bằng để xây dựng; công tác xã hội hoá giáo dục còn mang tính hình thức, hiệu quả thấp.

Từ những nguyên nhân trên nên tiến độ, kết quả xây dựng trường học ĐCQG giai đoạn 2001- 2010 chưa đạt mục tiêu, kế hoạch đề ra.

3. Một số giải pháp, biện pháp xây dựng trường học ĐCQG đã được triển khai thực hiện trong thời gian qua tại huyện

Giai đoạn trước đây, Phòng GD&ĐT chỉ tham mưu ban hành kế hoạch xây dựng trường ĐCQG giai đoạn 2001-2010 không có tham mưu ban hành Nghị quyết, Kế hoạch của Huyện ủy, HĐND huyện; không có điều tra thực trạng, không có giải pháp cụ thể…Cho nên, trong thực hiện không tập hợp được sức mạnh và nguồn lực của hệ thống chính trị, của xã hội để đầu tư xây dựng trường học ĐCQG.

– Thứ hai, thực hiện tốt công tác tuyên truyền, tuyên truyền phải mang tính chiều sâu, bằng nhiều hình thức. Đây là giải pháp quan trọng để qua đó, làm cho các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội; cán bộ, giáo viên ngành giáo dục và cha mẹ học sinh hiểu được sự cần thiết phải đầu tư xây dựng trường học ĐCQG mà có trách nhiệm phối hợp với ngành giáo dục để cùng thực hiện.

Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền, nên những năm qua, công tác xây dựng trường học ĐCQG đã được các ngành, các cấp và nhân dân tham gia tích cực, từ việc xây dựng trường sở, cảnh quan, môi trường sư phạm đến việc quan tâm chất lượng giáo dục, tạo điều kiện cho con em đến trường học tập…. Trước đây, công tác này chỉ có ngành giáo dục thực hiện.

– Thứ ba, nâng cao năng lực quản lý của hiệu trưởng, cán bộ, giáo viên. Đây là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục. Vì vậy, phải thường xuyên tiến hành rà soát, đánh giá, quy hoạch, bồi dưỡng để nâng cao năng lực của đội ngũ CBQL, giáo viên các trường học đảm bảo đạt chuẩn kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ để đáp ứng với yêu cầu mà trước mắt phục vụ cho việc xây dựng trường học ĐCQG.

Hiện nay, năng lực đội ngũ cán bộ, giáo viên của ngành giáo dục huyện đã được nâng lên một bước đáng kể. Trình độ đào tạo đạt chuẩn gần 100%, trong đó trên chuẩn hơn 70% (tỷ lệ này trước đây là 80% và 30%). 100% hiệu trưởng đạt trình độ đào tạo trên chuẩn và đảm bảo các kiến thức phụ trợ khác.

– Thứ tư, chỉ đạo tốt hoạt động dạy và học và các phòng trào thi đua trong nhà trường nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và các hoạt động. Chú trọng bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu kém. Có kế hoạch mở rộng lớp học trên 6 buổi/tuần đối với THCS, 9-10 buổi/ngày đối với tiểu học và bán trú đối với mầm non ở những nơi có điều kiện.

Thực tế cho thấy, chất lượng các mặt giáo dục nói chung những năm gần đây đã được nâng lên rõ rệt. Cụ thể, chất lượng giáo dục năm học 2008 – 2009, tỷ lệ học sinh khá giỏi chiếm khoản 40%, yếu kém hơn 10%; năm học 2011 – 2012, tỷ lệ này là 60% và 5%. Chất lượng giáo dục mũi nhọn tăng lên đáng kể, tỷ lệ học sinh giỏi các cấp năm sau cao hơn năm trước. Đối với các trường học ĐCQG, tỷ lệ học sinh khá, giỏi, học sinh giỏi các cấp đều cao hơn các trường khác. Tỷ lệ lớp học 2 buổi/ngày trên mức quy định.

– Thứ năm, cần tranh thủ các nguồn vốn của tỉnh, của huyện, các chương trình, dự án để đầu tư và đầu tư theo hướng tập trung, tránh dàn trải, hiệu quả thấp. Đối với kinh phí sự nghiệp giáo dục hàng năm phải dành ít nhất từ 30% từ kinh phí hoạt động để phục vụ xây dựng trường học ĐCQG. Tranh thủ sự hỗ trợ từ ngân sách huyện cho việc mở rộng diệc tích, san lắp mặt bằng, xây dựng công trình phụ, phòng chức năng, phòng hiệu bộ…

Do nguồn vốn khó khăn, nên việc lập kế hoạch xây dựng trường học ĐCQG phải thực hiện theo thứ tự ưu tiên từ “dễ đến khó”. Những trường có đủ điều kiện, suất đầu tư thấp thực hiện trước; những trường khó khăn về diện tích, mặt bằng, suất đầu tư lớn thực hiện sau; nhưng trong thời gian này phải có kế hoạch khắc phục, đầu tư dần, như xây dựng các công trình phụ, tạo cảnh quan, môi trường xanh-sạch-đẹp…Trước đây do đầu tư dàn trải, không tranh thủ tốt các nguồn vốn, chương trình, dự án, nên tiến độ thực hiện rất chậm.

– Thứ sáu, thực hiện tốt công xã hội hóa giáo dục. Đây là giải pháp quan trọng nhằm huy động tối đa các nguồn lực của xã hội phục vụ cho giáo dục theo chủ trương của Đảng và Nhà nước. Chính vì thực hiện tốt công tác này, trong những năm qua đã huy động đáng kể sự đóng góp của xã hội cho giáo dục nói chung, xây dựng trường ĐCQG nói riêng. Trong hai năm qua, vận động nhân dân hiến được 3.000 m2 đất để mở rộng diện tích xây dựng các trường đạt chuẩn; đóng góp công sức, vật chất để chăm lo, tu sửa, xây dựng trường lớp trị giá hơn 5 tỷ đồng. Việc xây dựng trường ĐCQG được xem là trách nhiệm chung của các ngành, các cấp và của xã hội.

III. Phần kết luận

1. Kết luận

Qua việc triển khai thực hiện các giải pháp, biện pháp nêu trên về xây dựng trường học ĐCQG trong thời gian qua đã đem lại kết quả thiết thực. Trong hơn hai năm đã xây dựng được 13 trường, tăng 4 trường so với mười năm trước đây. Điều này có thể khẳng định rằng, những giải pháp, biện pháp đó là đúng đắn, phù hợp và hiệu quả.

Tuy nhiên, cái khó lớn nhất hiện nay trong xây dựng trường học ĐCQG là nguồn vốn, trong khi kế hoạch xây dựng trường học ĐCQG thời gian tới rất nặng nề, số lượng nhiều, suất đầu tư lớn, ngân sách eo hẹp. Theo tôi, để đạt được kế hoạch, UBND tỉnh, Sở GD&ĐT Cà Mau cần nghiên cứu và có văn bản hướng dẫn, chỉ đạo vận dụng linh hoạt tiêu chuẩn về cơ sở vật chất cho phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương để nhằm giảm suất đầu tư, giải quyết khó khăn về nguồn vốn, như: sáp nhập và giảm bớt số phòng chức năng không cần thiết, giảm bớt qui mô đầu tư một số hạng mục công trình (sân, hàng rào…) bằng thảm cỏ, cây xanh…

2. Khuyến nghị và đề xuất

– Như đã trình bày ở trên, công tác xây dựng trường học ĐCQG đòi hỏi phải có sự chung tay vào cuộc của các ngành, các cấp, trong đó vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền là rất quan trọng. Không nên xem nhiệm vụ xây dựng trường học ĐCQG là riêng của ngành giáo dục, từ đó giao khoán cho ngành giáo dục thực hiện. Làm như vậy sẽ dẫn đến tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm và không huy động được sức mạnh của hệ thống chính trị, của xã hội để đầu tư phát triển cho giáo dục.

– Hiện nay theo phân cấp của tỉnh, kinh phí đầu tư xây dựng trường ĐCQG đối với cấp THCS do ngân sách tỉnh đảm nhiệm; cấp mầm non, tiểu học do ngân sách huyện đảm nhiệm. Trên thực tế số trường tiểu học, mầm non gấp hai đến ba lần trường THCS, tương ứng số trường ĐCQG theo kế hoạch cũng như vậy. Cho nên, theo phân cấp như trên, ngân sách huyện không thể nào thực hiện đạt kế hoạch. Đề xuất với cấp tỉnh cần có cơ chế phù hợp hơn để hỗ trợ cho cấp huyện trong việc đầu tư xây dựng trường ĐCQG thời gian tới.

Xây Dựng Trường Chuẩn Quốc Gia: Nỗ Lực Của Thanh Hà

Cùng với mục tiêu mỗi năm xây dựng từ 2 đến 3 trường đạt chuẩn Quốc gia trong đó có từ 1 đến 2 trường đạt chuẩn Quốc gia mức độ 2 (Mầm non và Tiểu học), ngành GD-ĐT huyện cũng quyết tâm giữ vững và nâng cao chất lượng các trường đạt chuẩn quốc gia ở giai đoạn trước (hiện tại còn một vài trường đạt chuẩn Quốc gia chất lượng giáo dục chưa ổn định). Theo ông Trần Duy Thược – Trưởng phòng GD-ĐT huyện Thanh Hà, công tác xây dựng trường học đạt chuẩn Quốc gia có nhiều thuận lợi nhờ được chính quyền các cấp quan tâm, Thanh Hà cũng là đơn vị có chất lượng giáo dục cao trong toàn tỉnh. Những năm qua, mạng lưới trường lớp phát triển mạnh mẽ; trên địa bàn huyện hiện có 25 trường mầm non, 25 trường tiểu học, 26 trường THCS, 4 trường THPT, 01 Trung tâm GDNN-GDTX; các địa phương đã quy hoạch diện tích, khuôn viên cho các nhà trường cơ bản đủ theo quy định diện tích tối thiểu. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất được chú trọng đầu tư theo hướng chuẩn hóa, tỉ lệ phòng học kiên cố của cấp mầm non đạt 91.5%, tiểu học đạt 98%; THCS đạt 96.5%; THPT đạt 100%.

“Để nâng cao chất lượng giáo dục, các nhà trường đã và đang tăng cường công tác quản lý, công tác kiểm tra nội bộ, phát huy tính tích cực của giáo viên theo phương pháp dạy học tích cực, chủ động, sáng tạo” – ông Thược cho biết thêm. Hiện nay, cơ cấu giáo viên ở các trường tương đối hợp lý. Năng lực đội ngũ đáp ứng yêu cầu giảng dạy theo chuẩn kiến thức, kỹ năng.

Ước tính đến hết năm 2020 (sau khi sáp nhập các trường), toàn huyện có 60/65 trường chuẩn Quốc gia đạt tỷ lệ 92.3%, trong đó có 16 trường mầm non, tỷ lệ 80%; 20 trường tiểu học, tỷ lệ 100%; 21 trường THCS, tỷ lệ 100%; 03 trường THPT, đạt tỷ lệ 75%. 100% các xã, thị trấn đều có trường đạt chuẩn Quốc gia, có 18 xã, thị trấn có 100% trường chuẩn, 2 xã, thị trấn có 2 trường chuẩn.

Cần cả hệ thống chính trị vào cuộc

Phấn đấu từ nay đến năm 2025, mỗi năm xây dựng từ 1 đến 3 trường đạt chuẩn Quốc gia, ngành GD-ĐT huyện Thanh Hà đã đề ra nhiều giải pháp, đưa ra lộ trình cụ thể, xác định nhiệm vụ trọng tâm, định hướng và giải pháp thực hiện đối với từng đơn vị trường học.

Đối với tiêu chuẩn tổ chức và quản lý,các trường biên chế lớp học đủ số lượng học sinh theo quy định; phát huy vai trò của tổ, nhóm chuyên môn. Có đầy đủ và sắp xếp các loại hồ sơ sổ sách nhà trường theo quy định; phát huy vai trò của các tổ chức, đoàn thể trong và ngoài nhà trường.

Bên cạnh đó, tập trung quán triệt, nâng cao nhận thức cho cán bộ, giáo viên, nhân viên về xây dựng trường đạt chuẩn Quốc gia để đội ngũ thấy được mục đích, yêu cầu, ý nghĩa, tầm quan trọng và quy định của trường chuẩn để tích cực trau dồi, rèn luyện về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn. Hàng năm, nhà trường đầu tư cho việc xây dựng đội ngũ giáo viên giỏi, lao động tiên tiến, chiến sĩ thi đua các cấp đúng theo chuẩn quy định; thực hiện tốt quy chế dân chủ.

Từng đơn vị, địa phương phải có quy hoạch tổng thể, xây dựng kế hoạch cụ thể để xây dựng nhà trường đạt được các tiêu chuẩn như: khuôn viên trường, khu phòng học, khu thực hành bộ môn, khu phục vụ học tập, khu hành chính quản trị, khu sân chơi, bãi tập, khu để xe, khu vệ sinh; môi trường xanh, sạch, đẹp.

Nhà trường cần tham mưu cho các cấp có thẩm quyền giao đủ diện tích đất cho nhà trường theo quy định. Nhà trường tính tổng mức kinh phí tối thiểu cần phải đầu tư xây dựng trường chuẩn từ nguồn vốn ngân sách nhà nước và tích cực cùng địa phương vận động sự đóng góp của các lực lượng xã hội. Các địa phương tổ chức hội nghị chuyên đề về công tác xây dựng trường đạt chuẩn Quốc gia, tích cực huy động và phân bổ các nguồn lực để đáp ứng yêu cầu theo lộ trình. Nhà trường chuẩn bị đầy đủ các điều kiện đồ dùng, trang thiết bị dạy học đúng yêu cầu dạy học theo chương trình giáo dục phổ thông mới thực hiện từ năm học 2020-2021.

Để thực hiện đồng bộ các giải pháp trên, cần có sự tham gia của cả hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân trong thực hiện các tiêu chí của trường chuẩn Quốc gia. Theo ông Trần Duy Thược, để 100% số trường học trong toàn huyện đạt chuẩn thì ngành GD-ĐT Thanh Hà cần thực hiện tốt 3 nhóm giải pháp chính, đó là: “nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên trong toàn ngành; tích cực đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá học sinh để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; tranh thủ các nguồn vốn của Nhà nước và nguồn xã hội hóa để đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học cho các nhà trường, xây dựng cảnh quan nhà trường xanh, sạch, đẹp, đáp ứng được yêu cầu của trường chuẩn Quốc gia”.

Việc đẩy mạnh công tác xây dựng trường đạt chuẩn Quốc gia trên địa bàn huyện Thanh Hà đã thúc đẩy mạnh mẽ phong trào “Thi đua dạy tốt, học tốt” trong các nhà trường. Cùng với việc huy động các nguồn vốn khác nhau để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, ngành GD-ĐT huyện đang tăng cường các giải pháp, phát huy nội lực của các đơn vị trường trong việc thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn, nâng cao chất lượng giáo dục. Tin tưởng rằng, với những nỗ lực đó của Thanh Hà, ngành giáo dục của huyện sẽ đạt được những thành tựu xứng đáng với mong ước của bao thế hệ thầy – trò trên vùng đất hiếu học này./.

Duy Phường

Giải Pháp Khắc Phục Khó Khăn Xây Dựng Trường Thcs Đạt Chuẩn Quốc Gia

Là huyện miền núi, vùng cao, biên giới đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, điều kiện giao thông đến một số cơ sở trường chưa thuận lợi, cơ sở vật chất trường lớp đầu tư chưa nhiều, nguồn lực hạn chế, nhưng thời gian qua, ngành Giáo dục và Đào tạo huyện Bình Liêu đã khắc phục mọi khó khăn để thực hiện kế hoạch xây dựng trường chuẩn quốc gia.

Để xây dựng mô hình trường học chuẩn, ngay từ đầu nhiệm kỳ, năm học 2011-2012, Phòng Giáo dục và Đào tạo đã tham mưu cho UBND huyện ban hành Kế hoạch số 1059/KH-UBND ngày 15/7/2011 về xây dựng trường chuẩn quốc gia giai đoạn 2011-2015. Trên cơ sở Kế hoạch của UBND huyện về xây dựng trường chuẩn quốc gia, hàng năm, Phòng Giáo dục và Đào tạo đã cụ thể hóa bằng nhiệm vụ năm học và tích cực tham mưu với UBND huyện quan tâm chỉ đạo các cơ quan chuyên môn, UBND các xã, thị trấn phối hợp với ngành giáo dục thực hiện có hiệu quả các tiêu chí của trường chuẩn quốc gia đối với các trường trong lộ trình xây dựng trường chuẩn qua các năm học. Đồng thời tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân và cha mẹ học sinh, phối hợp tích cực giữa gia đình và nhà trường thực hiện tốt công tác xã hội hóa giáo dục để xây dựngtrường đạt chuẩn quốc gia trên địa bàn.

Thực trạng về công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia của huyện

Xác định xây dựng trường chuẩn quốc gia là mục tiêu nằm trong kế hoạch phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo của huyện giai đoạn 2011-2015. Theo đó, đến năm 2015, toàn huyện có 70% trường đạt chuẩn quốc gia. Đây là mục tiêu quan trọng mang tính đột phá đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo của huyện.

Trên cơ sở 5 tiêu chí của trường chuẩn quốc gia, Phòng Giáo dục và Đào tạo đã tích cực tham mưu với huyện hoàn thiện các tiêu chí của trường chuẩn quốc gia và kết quả đạt được như sau:

Huyện đã đầu tư, chăm lo và tạo mọi điều kiện cho phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý; củng cố, nâng cao năng lực quản lý trường học, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý giáo dục và các hoạt động dạy và học; tăng cường hoạt động kiểm tra chuyên đề, kiểm tra toàn diện nhằm thực hiện tốt mục đích thúc đẩy, phát hiện và chấn chỉnh kịp thời các hoạt động của nhà trường.

Công tác xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ đạt kết quả khả quan, huyện đã hoàn thành việc chuẩn hóa, nâng chuẩn cán bộ quản lý, giáo viên và thường xuyên tổ chức lớp bồi dưỡng chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ; 100% giáo viên đạt chuẩn về trình độ đào tạo, trong đó trên chuẩn 58,40% (Mầm non: 60,4%; Tiểu học: 65,3%; THCS: 38,6%). Tổ chức bộ máy hợp lý, ổn định, xây dựng biên chế đáp ứng đủ các yêu cầu hoạt động chung của ngành.

Toàn huyện có 27 trường (08 trường Mầm non; có 09 trường Tiểu học; 7trường Trung học cơ sở; 01 trường Trung học phổ thông; 01 trường THCS&THPT; 01 trường phổ thông DTNT. Hiện nay, có 11/27 trường đạt chuẩn quốc gia. Ngoài các trường đã được công nhận đạt chuẩn quốc gia, chưa có trường nào đạt chuẩn về cơ sở vật chất.

Một số trường, điểm trường được xây dựng đã lâu nên kích thước, thiết kế không đủ tiêu chuẩn so với quy định của trường chuẩn quốc gia. Phần lớn các điểm trường lẻ chưa có tường rào; sân chơi, bãi tập không đủ diện tích; Các phòng chức năng thiếu rất nhiều, khó khăn trong việc tổ chức thực hành thí nghiệm; Đồ dùng, thiết bị dạy học ở các trường phổ thông được trang bị đã lâu, nhiều thiết bị đã hư hỏng, không còn sử dụng được.

Ngành Giáo dục và Đào tạo huyện đã tích cực chủ động triển khai và tổ chức thực hiện việc đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp dạy học theo hướng tích cực và phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương, tổ chức các chuyên đề ở các cấp học để tìm ra phương pháp giảng dạy hiệu quả, đồng thời chỉ đạo và quán triệt đến tất cả cán bộ quản lý các trường đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin để phục vụ công tác quản lý, đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên và học sinh; Chất lượng giáo dục ở tất cả các cấp học ngày càng được nâng lên, kết quả các mặt giáo dục được nâng cao; kết quả tốt nghiệp cuối cấp đạt tốt; số học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh ngày càng tăng.

Các xã, thị trấn tham gia phối hợp trong việc xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia, đặc biệt quan tâm dành quỹ đất mở rộng diện tích, để xây dựng cơ sở vật chất cho nhà trường. Việc phối hợp với cha mẹ học sinh chăm lo cho công tác giáo dục được thực hiện tốt. Đặc biệt là sự chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện và lãnh đạo địa phương thể hiện qua việc quan tâm đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ, giáo viên, nhân viên; đầu tư xây dựng cơ sở vật chất…Vì vậy hoạt động giáo dục có những chuyển biến tích cực;

Tuy nhiên, trong qua trình triển khai thực hiện việc xây dựng trường chuẩn quốc gia huyện Bình Liêu còn gặp không ít khó khăn nên tỷ lệ trường học đạt chuẩn quốc gia của huyện còn ở mức thấp so với các huyện thị khác trong tỉnh, có 11/27 trường, tỉ lệ 40,74% (trong đó có: 06 trường MN, 03 trường Tiểu học, 02 trường THCS). Đáng lưu ý là tỷ lệ trường THCS đạt chuẩn quốc gia của huyện mới đạt 28,57%.

2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó là:

Công tác tham mưu chưa được thường xuyên, hiệu quả chưa cao; Công tác tuyên truyền chưa mang tính chiều sâu; một số cấp ủy, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể và một bộ phận nhân dân chưa thật sự quan tâm đến công tác xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia;

Nguồn vốn hạn hẹp, đầu tư thiếu tập trung; chưa huy động được nguồn lực đầu tư;

Phần lớn các trường THCS trong huyện còn chưa đạt chuẩn về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học; thiếu các phòng bộ môn, thiết bị thí nghiệm thực hành, thư viện, sân chơi, bãi tập;

Một bộ phận cán bộ quản lý các nhà trường chưa chủ động, sáng tạo, còn trông chờ vào nguồn đầu tư của Nhà nước. Một số giáo viên chưa thật sự nhiệt tình trong công tác, chậm đổi mới phương pháp dạy học. Chất lượng học tập của học sinh không đồng đều, tỉ lệ học sinh giỏi thấp, học sinh yếu kém cao;

Công tác xã hội hoá giáo dục, sự phối kết hợp giữa các ban, ngành, đoàn thể ở một số địa phương còn đối với công tác xây dựng trường chuẩn còn hạn chế, chưa phát huy được nguồn lực trong nhân dân.

Những nguyên nhân chủ yếu trên đã khiến cho công tác xây dựng trường THCS đạt chuẩn quốc gia đạt kết quả thấp.

3. Giải pháp khắc phục khó khăn xây dựng trường THCS đạt chuẩn quốc gia

Từ thực trạng kết quả công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia của huyện trong thời gian qua, để thực hiện thành công chỉ tiêu xây dựng trường chuẩn quốc gia theo kế hoạch chung của huyện và để khắc phục những khó khăn trong việc xây dựng trường THCS đạt chuẩn quốc gia nói riêng, ngành Giáo dục và Đào tạo xác định cần phải thực hiện tốt những giải pháp như sau:

Một là : Tập trung bồi dưỡng nâng cao trình độ phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực quản lý của cán bộ quản lý, thực hiện tốt nhiệm vụ theo Điều lệ trường học; cử cán bộ quản lý theo học các lớp đào tạo trên chuẩn, lớp quản lý nhà nước, lớp bồi dưỡng chính trị; phát huy hiệu quả hoạt động của các tổ chức đoàn thể và hoạt động giáo dục trong nhà trường; nghiêm túc chấp hành sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền địa phương và của Phòng Giáo dục và Đào tạo.

Hai là : Tham mưu với huyện cử giáo viên theo học các lớp đào tạo trên chuẩn tại các trường chuyên nghiệp trong và ngoài tỉnh để nâng cao tỷ lệ giáo viên đạt trình độ trên chuẩn; Nâng cao phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên; Chỉ đạo các nhà trường tăng cường hoạt động chuyên môn, đổi mới nội dung sinh hoạt tổ, khối nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động chuyên môn; Thực hiện nghiêm túc chương trình bồi dưỡng thường xuyên và bồi dưỡng trong hè theo sự chỉ đạo của Sở Giáo dục và Đào tạo.

Ba là : Tham mưu với huyện đầu tư kinh phí, quy hoạch diện tích mặt bằng đảm bảo các điều kiện chuẩn về cơ sở vật chất và thiết bị trường học. Có đủ diện tích khuôn viên, sân chơi, bãi tập; Có đủ phòng học, phòng học bộ môn và các phòng chức năng theo đúng tiêu chí của trường THCS chuẩn quốc gia.

Bốn là :Để nâng cao chất lượng giáo dục cần tập trung thực hiện tốt các giải pháp: Quan tâm xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ; Tích cực thực hiện đổi mới phương pháp dạy học; Thực hiện tốt kế hoạch, chương trình giáo dục; Thực hiện nghiêm túc việc đánh giá, xếp loại học sinh theo quy định, nâng dần tỷ lệ học sinh khá giỏi về học lực, (hạn chế tỷ lệ yếu kém); học sinh tốt khá về hạnh kiểm (hạn chế tối đa tỷ lệ yếu).

Năm là : Làm tốt công tác tuyên truyền về công tác xã hội giáo dục để huy động nguồn lực của toàn xã hội (các ban, ngành, đoàn thể, các doanh nghiệp, các xã, thị trấn,để kha các nhà hảo tâm…) cùng chăm lo đến công tác giáo dục; Xây dựng cơ chế huy động xã hội hoá một cách cụ thể để các nhà trường thực hiện tốt công tác xã hội hóa nhằm tăng cường nguồn lực đầu tư CSVC trường học (các hạng mục công trình nhỏ, đồ dùng, thiết bị dạy học…)