Một Số Biện Pháp Duy Trì Sĩ Số Học Sinh Vùng Dân Tộc Thiểu Số / Top 10 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Một Số Biện Pháp Duy Trì Sĩ Số Học Sinh Vùng Dân Tộc Thiểu Số

Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh vùng dân tộc thiểu sốPHẦN 1 : MỞ ĐẦU1. Lý do chọn đề tài : 1.1: Lý do khách quan Việc duy trì sĩ số đảm bảo chuyên cần ở trường Tiểu học đóng một vai trò rất quan trọng trong việc học tập của học sinh. Nó là nền tảng giúp các em lĩnh hội kiến thức một cách đầy đủ, mang lại kết quả tốt. Nhưng hiện nay, tình hình học sinh bỏ học ở Tỉnh Đăk Lăk ta đến mức báo động, nhất là học sinh ở vùng khó khăn, vùng biên giới. Theo thống kê của các năm gần đây cho thấy tỉ lệ học sinh bỏ học ngày càng cao, nhất là học sinh ở độ tuổi Cấp I, Cấp II. Căn cứ vào nghị quyết Hội nghị công nhân viên chức năm học 2009 – 2010 của Trường Tiểu học La Văn Cầu về việc hạn chế tình trạng học sinh bỏ học. Nhà trường đã thành lập Ban phòng chống bỏ học gồm : Ban giám hiệu; giáo viên chủ nhiệm; Hội cha mẹ học sinh ; các đoàn thể ; chính quyền địa phương đã thống nhất quan điểm về công tác huy động học sinh đến trường và hạn chế tình trạng học sinh bỏ học là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội. Xác định lí do học sinh không muốn đi học và bỏ học giữa chừng có rất nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân do học lực yếu, kém dẫn đến chán nản, bỏ học là nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp thuộc trách nhiệm của ngành Giáo dục và Đào tạo. Để duy trì, nâng cao hiệu quả công tác phổ cập giáo dục Tiểu học và đạt chỉ

tiêu phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, đòi hỏi một trong những điều kiện không thể thiếu được đó là : ” Duy trì sĩ số cho học sinh nói chung và học sinh dân tộc nói riêng ” . Đây là vấn đề mà các cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương quan tâm , chỉ đạo bằng các Nghị quyết của Đảng bộ các cấp và chi bộ nhà trường. 2.1: Lí do chủ quan. Với trách nhiệm của một giáo viên Tiểu học, bất cứ người giáo viên chủ nhiệm nào cũng mong muốn lớp mình phụ trách suốt từ đầu năm đến cuối năm phải đảm bảo về mặt sĩ số cũng như phải đạt yêu cầu về mặt chất lượng học tập. Giáo viên: Trần Thị Thông – Trường Tiểu học La Văn Cầu * Trang 1Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh vùng dân tộc thiểu sốNhưng thực tế vô cùng phức tạp vì đối tượng học sinh rất đa dạng, vì mỗi em có hoàn cảnh và điều kiện sống khác nhau, nếu giáo viên không khéo léo thì khó mà duy trì sĩ số lớp mình đạt như mong muốn. Địa bàn xã Cư Pơng là xã vùng sâu , vùng xa , tỷ lệ học sinh dân tộc chiếm 87,9% . Hằng năm số lượng học sinh dân tộc bỏ học khá cao, cụ thể năm học 2007-2008 Trường Tiểu học La Văn Cầu có : 16 em học sinh bỏ học chiếm tỉ lệ: 5,14 %. Tỷ lệ học sinh bỏ học nhiều như thế không những ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả đào tạo của nhà trường cũng như ngành giáo dục của huyện, nó còn ảnh hưởng rất nhiều đến công tác phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi . Qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy học sinh vùng dân tộc thiểu số, trước những vấn đề nêu trên, tôi suy nghĩ rất nhiều: làm thế nào mà duy trì được sĩ số học sinh, để thực hiện tốt công tác phổ cập giáo dục Tiểu học và phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi. Nên tôi đã chọn đề tài: ” Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh vùng dân tộc thiểu số “PHẦN 2: MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG PHÁP CỦA ĐỀ TÀI1. Mục tiêu nghiên cứu : Tìm ra các mguyên nhân chủ yếu dẫn đến học sinh bỏ học. Đề xuất những biện pháp duy trì sĩ số học sinh dân tộc ở Lớp 4 B – Trường Tiểu học La Văn Cầu”2. Nhiệm vụ nghiên cứu : Để dạt được mục tiêu nghiên cứu nêu trên đề tài tự xác định cho mình những nhiệm vụ nghiên cứu sau : Giáo viên: Trần Thị Thông – Trường Tiểu học La Văn Cầu * Trang 2Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh vùng dân tộc thiểu số 2.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài . 2.2. Tìm hiểu thực trạng và nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh bỏ học cao ở Trường Tiểu học La Văn Cầu. 2.3. Đề xuất biện pháp nhằm duy trì sĩ số học sinh giai đoạn 2009 – 2010.3. Phương pháp nghiên cứu :

6 em có nguy cơ bỏ học, trong đó: 2 em có hoàn cảnh gần giống nhau. Bố mẹ làm nghề tự do, suốt ngày lo kiếm sống, ít quan tâm đến con mình, nên ngoài giờ đến trường, các em suốt ngày lang thang trên đường, học ít chơi nhiều, đến lớp thường muộn giờ, do không biết sắp xếp thời gian ở nhà, có hôm 2 em này thức khuya xem phim, sáng ngủ quên, tự ý bỏ học mà gia đình không hay biết. Với đối tượng này tôi đã gần gũi các em vừa bằng tình thương, vừa nghiêm khắc nhắc nhở phê bình và chỉ ra hậu quả để các em sửa chữa. Ngoài ra tôi đã đến nhà gặp phụ huynh của 2 em học sinh này. Tôi đã yêu cầu bố mẹ phối hợp với các thầy cô trong việc giáo dục cụ thể : Học sinh và cha mẹ cùng làm cam kết thực hiện những nội quy yêu cầu của nhà trường, của lớp đề ra. Lập thời gian biểu để học sinh thực hiện ở nhà, có sự giám sát của cha mẹ . Phân công học sinh khá, giỏi kèm cặp. Những học sinh được phân công giúp bạn điều chỉnh giờ học cho phù hợp, giảng bài cho bạn, học cùng bạn và trong lớp nhắc nhở động viên và kiểm tra vở ghi chép của các bạn. 2 em hoàn cảnh bố mẹ ly hôn ở với ông bà, các em rất nhút nhát tự ti hay mặc cảm, xa lánh bạn bè, học khá, nhưng không thích phát biểu xây dựng bài. Có nhiều hôm 2 em đã rủ nhau nghỉ học. Tôi đã quan tâm gần gũi các em nhiều hơn, giúp các em lấy lại thăng bằng, giao cho 2 em, hai nhiệm vụ: 1 em làm lớp phó lao động, còn 1 em làm tổ trưởng, dần dần các em đã phát huy được vai trò của mình, trở thành những cán bộ lớp năng nổ, có trách nhiệm, khi các em có tiến bộ, tôi đã động viên các em kịp thời, bằng cách: thưởng cho các em những cuốn tập, những bộ áo quần quyên góp của trường TH Lê Văn Tám (đơn vị kết nghĩa). Có

1 em bố mất sớm ở với mẹ, em học khá , nhưng rất bướng bỉnh,em cũng thường xuyên nghỉ học, hiểu được hoàn cảnh của em , tôi đã trực tiếp gặp em thường xuyên, khuyên nhủ, đồng thời phát huy mặt tích cực của em là học Giáo viên: Trần Thị Thông – Trường Tiểu học La Văn Cầu * Trang 9Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh vùng dân tộc thiểu sốkhá , hướng em vào các hoạt động của tập chọn em làm tổ trưởng. Vừa để em làm vừa nghiêm khắc với những hành vi của em, một tháng sau em có chuyển biến rõ rệt, em đã đi học đều đặn trở lại.Cũng có 1 em thường xuyên vi phạm về nề nếp học tập, hay đi học muộn, ăn mặc không theo nội quy của nhà trường, nhuộm tóc vàng, giờ học không ghi chép bài, hay nói chuyện trong lớp, quay ngang, quay ngửa, khuấy động trong lớp, người lớn nói không nghe lời, hay cãi lại, luôn nghĩ ra mọi trò tinh nghịch ,hễ la mắng là em nghỉ học. Qua tìm hiểu biết được em này con một gia đình khá giả, được bố mẹ nuông chiều. Tôi đã phải thực hiện nhiều biện pháp: chủ động gặp gỡ bố mẹ của em bàn bạc góp ý với họ về biện pháp giáo dục, không chiều theo sở thích của các em và nghiêm khắc với những sai phạm.2.2/ Nắm chất lượng học tập và hạnh kiểm năm trước: Trong tuần đầu ôn tập, tôi cho các em ôn lại những bài tập bám sát theo kiến thức cơ bản của năm trước, đồng thời tôi còn xem lại học bạ của các em năm trước để nắm sức học của từng em. Việc làm này đã giúp tôi lựa chọn biện pháp kèm cặp, uốn nắn phù hợp không để cho các em chán nản, bỏ học vì học yếu.2.3/ Liên lạc với Chi hội Phụ huynh học sinh của lớp:Ở lần họp Phụ huynh học sinh đầu năm, Phụ huynh lớp đã bầu ra Chi hội Phụ huynh học sinh của lớp. Chi hội đã giúp tôi tạo điều kiện cho những em nghèo có đủ quần áo trắng, đồ dùng học tập…; Cùng tôi tìm đến nhà gia đình những học sinh vắng không phép, vận động các em trở lại lớp. Đây là cánh tay đắc lực, hỗ trợ cho tôi trong công tác chủ nhiệm. 2.4/ Giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh khó khăn: Nắm được một số em có hoàn cảnh nghèo đặc biệt ( mồ côi cha hoặc mẹ) , tôi rà soát lại xem em nào còn thiếu quần áo trắng, đồ dùng học tập,… tôi đăng kí cho các em được nhận dụng cụ do nhà trường hỗ trợ. Có 3 em con nhà nghèo không có đủ áo quần , đồ dùng học tập để đi học . Tôi mua tặng các em đồ dùng học tập ngay vào đầu năm học. Ngoài ra tôi còn kêu gọi các em trong lớp dành tặng bạn một số quần áo cũ và tranh thủ sự hỗ trợ từ một số phụ huynh có khả Giáo viên: Trần Thị Thông – Trường Tiểu học La Văn Cầu * Trang 10Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh vùng dân tộc thiểu sốnăng để trang bị thêm những dụng cụ còn lại cho những em này để các em được yên tâm đến trường, không phải mặc cảm vì nhà nghèo. Qua đây tôi cũng thấy tình cảm giữa bạn nhà nghèo và bạn khá giả gần gũi nhau hơn.2.5/ Thành lập Đôi bạn học tập: – Qua nắm được sức học của từng em, tôi lưu ý nhiều đến những em thuộc diện Trung bình, Yếu ( được lên lớp). Tôi phân công một em Giỏi hoặc Khá kèm một em Trung bình hoặc Yếu và sắp xếp cho 2 em ngồi cùng một bàn. Tôi hướng dẫn cho em Giỏi, Khá cách kèm bạn học. Nhắc nhở bạn học bài, xem lại bài; trao đổi kinh nghiệm học tập; cách học bài dễ thuộc; cách vận dụng kiến thức đã học vào làm bài tập; hướng dẫn bạn làm bài tập hoặc củng cố kiến thức mà bạn chưa hiểu, chữa bài tập vào thời gian 15 phút đầu giờ,…– Bản thân tôi đầu giờ cũng vào lớp sớm để kiểm tra tập vở, bài làm ở nhà của những học sinh Trung bình, Yếu; xem cách thực hiện của đôi bạn học tập như thế nào để có những điều chỉnh cho phù hợp hơn.– Qua việc làm trên, tôi thấy tình cảm giữa cô trò đã gắn bó nhau hơn. Những em Trung bình, Yếu thường hay nhút nhát, rụt rè nay không còn nữa mà trở nên mạnh dạn, tự tin hơn. Từ đó các em càng ham thích đến lớp để hòa nhập với bạn bè, việc học của các em ngày càng tiến bộ hơn. 2.6/ Phổ biến nội quy. Gặp gỡ những gia đình học sinh tự ý bỏ học: – Ở tuần đầu tiên, tôi sinh hoạt với học sinh trong lớp rất kĩ về nội quy nhà trường, trong đó có phần quy định: Học sinh phải đi học đều và đúng giờ, nghỉ học phải có lí do và được cha mẹ xin phép . Tổ chức họp phụ huynh học sinh đầu năm, tôi cũng thông báo cho phụ huynh biết về quy định này và nhờ phụ huynh hàng ngày theo dõi, nhắc nhở.– Đối với những trường hợp học sinh tự ý bỏ học ( vì cha mẹ đi làm không có ở nhà) , hết giờ dạy, tôi lập tức đến ngay nhà những em này gặp phụ huynh tìm hiểu nguyên nhân và trao đổi cách khắc phục.Giáo viên: Trần Thị Thông – Trường Tiểu học La Văn Cầu * Trang 11Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh vùng dân tộc thiểu số– Chính nhờ thế mà những học sinh ở lớp tôi chủ nhiệm chỉ nghỉ học 1 ngày không phép thì đến hôm sau đi học lại bình thường, nên năm 2009 – 2010 lớp tôi chủ nhiệm không có hiện tượng học sinh bỏ học giữa chừng. 2.7/ Tổ chức tốt tiết sinh hoạt lớp: -Trong tiết sinh hoạt cuối tuần, sau khi nghe các tổ trưởng báo cáo, tôi cho lớp tuyên dương những tổ đạt duy trì sĩ số suốt cả tuần để làm gương cho lớp và khen những em có tiến bộ về mặt học tập để các em thấy nhiệm vụ học tập của mình và mỗi ngày đến trường thật sự là một ngày vui. – Đối với những mặt học sinh còn hạn chế, tôi nhắc nhở nhẹ nhàng kèm theo hướng dẫn, uốn nắn cho các em để tuần sau các em thực hiện tốt hơn.– Ngoài ra tôi còn nêu gương các anh, chị học sinh những năm trước dù đầu năm còn yếu kém nhưng nhờ sự kiên trì, cố gắng đến cuối năm cũng đã đạt loại Khá, Giỏi để củng cố lòng tin nơi các em.2.8/ Biện pháp tinh thần: – Mỗi ngày bước vào lớp tôi đều quan sát cả lớp, thấy các em có mặt đầy đủ là lòng tôi rất vui. Nhất là những hôm thời tiết khắc nghiệt như: mưa, bão, …Những hôm ấy, tôi cho lớp hoan nghênh bằng một tràng pháo tay để động viên khích lệ tinh thần các em. Trong giờ dạy, tôi đầu tư soạn giảng phân hóa theo đối tượng học sinh sao cho phù hợp với trình độ mọi học sinh trong lớp – nhất là những em Trung bình, Yếu nhằm kích thích học sinh hứng thú học tập, tiếp thu bài nhanh hơn.– Tôi cũng thật sự hòa nhập cùng các em trong giờ dạy hoạt động ngoại khoá hay trò chơi của môn Thể dục, tổ chức đố vui qua hình thức Giải ô chữ trong các tiết Ôn tập hết chương…KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC.2. Kết quả:Sau một năm áp dụng cách làm trên. Năm 2009 – 2010, ở lớp tôi chủ nhiệm đạt kết quả như sau: ( Số liệu học sinh Cuối năm học 2009 – 2010)Giáo viên: Trần Thị Thông – Trường Tiểu học La Văn Cầu * Trang 12Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh vùng dân tộc thiểu sốNăm học Đầu năm Cuối năm Tỉ lệT. số Nữ DT T. số Nữ DT2009 -2010 19 6 15 19 6 15 100 % Từ cách làm trên, tôi đã bày tỏ sáng kiến cho tất cả giáo viên trong tổ, được các thành viên trong tổ áp dụng vào công tác chủ nhiệm và nhận thấy việc duy trì sĩ số của toàn khối cũng đạt kết quả cao, cụ thể là:( Số liệu học sinh khối 4 Cuối năm học 2009 – 2010)Năm họcĐầu năm Cuối nămTỉ lệChuyểnđếnChuyểnđiBỏ họcT.số Nữ DT T.số NữDTT.số Nữ T.số Nữ T.sốNữ DT2009 – 201062 25 56 61 25 55 98,50 0 0 0 0 1 1 Nhìn lại kết quả trên, bản thân tôi rất vui vì mình đã thực hiện đạt cam kết Duy trì sĩ số với Ban Giám Hiệu nhà trường và đã hoàn thành được nhiệm vụ của một giáo viên chủ nhiệm.+ Đối với học sinh: Đã tạo niềm tin nơi các em, em nào cũng ham thích học tập, gắn bó với trường lớp hơn. + Đối với trường, ngành: Góp phần cùng cấp trên làm phong phú thêm kinh nghiệm công tác, phổ biến cho các khối áp dụng thì thiết nghĩ sẽ giảm thiểu tình trạng học sinh bỏ học. 3. Nguyên nhân thành công và tồn tại: * Bản thân tôi suy nghĩ rằng, là một giáo viên chủ nhiệm phải đáp ứng những yêu cầu sau:+ Ngoài việc nâng cao chất lượng dạy học, phải đảm bảo đến việc duy trì sĩ số lớp.+ Quan tâm đến học sinh, nhất là nắm rõ hoàn cảnh những em khó khăn để kịp thời hỗ trợ về vật chất lẫn tinh thần để các em yên tâm học tập.+ Tạo mối quan hệ tương hỗ giữa Gia đình – Nhà trường – Xã hội để có biện pháp giáo dục tốt hơn.Giáo viên: Trần Thị Thông – Trường Tiểu học La Văn Cầu * Trang 13Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh vùng dân tộc thiểu số+ Tạo tình cảm gắn bó giữa các thành viên trong lớp và tình thân ái giữa thầy và trò để học sinh thêm yêu trường lớp hơn.* Những tồn tại:Trong quá trình thực hiện, chúng ta phải lưu ý những vấn đề sau:+ Không phải phụ huynh nào cũng quan niệm giống nhau, có gia đình nghèo tiền nhưng không chịu nghèo chữ; cũng có gia đình nhìn chuyện học chữ của con em họ theo hướng chưa tích cực nên đôi khi họ có thái độ bất cần khi giáo viên đến vận động. Lúc ấy người giáo viên phải thật sự kiên nhẫn.+ Địa bàn dân cư còn một số khó khăn, đường trơn, có gia đình sống ở trong rẫy lầy, dốc …nên còn gặp vất vả trong vận động học sinh.+ Mỗi học sinh có hoàn cảnh, tâm lý khác nhau nên phải tùy theo hoàn cảnh của từng em mà áp dụng từng biện pháp thích hợp.4. Những bài học kinh nghiệm: Qua những việc đã làm, bản thân tôi đã rút ra cho mình bài học kinh nghiệm quý báu mà người giáo viên cần phải có và phải thực hiện:+ Phải thật sự yêu nghề, yêu trẻ; gần gũi, yêu thương trẻ; hiểu biết tâm tư nguyện vọng của trẻ; xem trẻ như người thân trong gia đình.+ Phải nhạy bén trong mọi tình huống và xử lí tình huống đúng lúc, kịp thời.+ Phải kiên trì, nhẫn nại và chịu khó thì mới không bó tay trước mọi thử thách.+ Thường xuyên liên hệ với phụ huynh học sinh để có được sự hỗ trợ kịp thời.+ Phải tôn trọng những thành tích dù nhỏ của học sinh để kịp thời động viên, khích lệ.Giáo viên: Trần Thị Thông – Trường Tiểu học La Văn Cầu * Trang 14Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh vùng dân tộc thiểu sốPHẦN 4: KẾT LUẬN – ĐỀ XUẤT- KIẾN NGHỊ1. Kết luận Người giáo viên chủ nhiệm phải thấy việc thực hiện duy trì sĩ số học sinh là trách nhiệm của một nhà giáo. Đây là vấn đề để thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị công nhân viên chức hàng năm mà nhà trường đã đề ra để hạn chế tình trạng học sinh bỏ học. Đề tài sáng kiến kinh nghiệm về công tác duy trì sĩ số là đề tài không mới, tuy nhiên có những kinh nghiệm đã đi vào lối mòn hoặc thụ động đã được lập đi lập lại, cho nên bản thân dù thực hiện đề tài cũ nhưng mong muốn có những nét mới, có những hiệu quả thiết thực hơn trong tình hình hiện nay. Công tác duy trì sĩ số là một nhiệm vụ thường xuyên, dù đứng ở vị trí nào ta phải quan tâm thực hiện nghiêm túc vấn đề này, phải vận dụng sáng tạo, linh hoạt, năng động trong thực tế; Kết hợp nhiều giải pháp để thực hiện tốt công tác này.Ngoài ra, để công tác duy trì sĩ số học sinh đạt hiệu quả, người giáo viên chủ nhiệm cần phải có tâm đối với mọi học sinh, phải hiểu hoàn cảnh từng học sinh để có biện pháp giúp đỡ, tạo điều kiện cho các em ham thích học tập, yêu mến thầy cô, thích bạn bè. Việc chống lưu ban, bỏ học là nhằm nâng cao hiệu quả công tác phổ cập giáo dục Tiểu học, góp phần nâng cao dân trí là nền tảng ban đầu để đào tạo con người mới phát triển về mọi mặt, tham gia vào việc thực hiện xây dựng nước nhà ngày càng giàu mạnh.Giáo viên: Trần Thị Thông – Trường Tiểu học La Văn Cầu * Trang 15Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh vùng dân tộc thiểu sốĐể thực hiện tốt công tác duy trì sĩ số ở trường Tiểu học, bên cạnh sự cố gắng của bản thân còn phải có sự hỗ trợ và kết hợp của nhà trường, gia đình và các lực lượng xã hội.

2. Một số đề xuất, kiến nghị: Để đảm bảo được công tác duy trì sĩ số, nâng cao chất lượng giáo dục và tiến tới mục tiêu phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi. Cần có sự quan tâm hỗ trợ đúng mức của toàn xã hội. Tôi xin có một số đề xuất như sau: – Đối với nhà trường: + Có hình thức khen thưởng kịp thời đối với lớp, đối với giáo viên chủ nhiệm không có học sinh bỏ học. – Đối với ngành : + Sắp xếp bố trí đủ số lượng giáo viên đứng lớp ngay từ đầu mỗi năm học. + Hỗ trợ kinh phí để nhà trường mở lớp 2 buổi/ ngày. + Tiếp tục tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn, như vậy chất lượng, trình độ tay nghề của giáo viên mới nâng lên cả về chất và về lượng. – Đối với chính quyền các cấp: + Đề nghị tập trung đầu tư cơ sở vật chất cho các đơn vị trường học, gắn kế hoạch đầu tư cơ sở vật chất với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. + Luôn tạo mọi điều kiện giúp đỡ về vật chất cho những em học sinh nghèo và những em có hoàn cảnh khó khăn để các em được đến trường như các bạn khác và tham gia vận động học sinh bỏ học đi học lại cùng với giáo viên chủ nhiệm.

Trần Thị ThôngGiáo viên: Trần Thị Thông – Trường Tiểu học La Văn Cầu * Trang 17Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh vùng dân tộc thiểu sốMỤC LỤCPHẦN 1: MỞ ĐẦU : Trang 11. Lý do chọn đề tài 1.1: Lý do khách quan1.2: Lý do chủ quanPHẦN 2: MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG PHÁP CỦA ĐỀ TÀITrang 21. Mục tiêu nghiên cứu. 2. Nhiệm vụ nghiên cứu .3. Phương pháp nghiên cứu .3.1/ Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết . 3.2/ Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn . 3.3/ Nhóm các phương pháp hỗ trợ .PHẦN 3 : NỘI DUNG VÀ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN Trang 3 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN.Trang 3Giáo viên: Trần Thị Thông – Trường Tiểu học La Văn Cầu * Trang 18Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh vùng dân tộc thiểu sốCHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA CÔNG TÁC DUY TRÌ SĨ SỐ Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC LA VĂN CẦU . Trang 31. Thực trạng công tác duy trì sĩ số ở Trường tiểu học La Văn Cầu.2. Những nguyên nhân dẫn đến học sinh ở Trường tiểu học La Văn Cầu bỏ học cao .CHƯƠNG 3 : NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỂ DUY TRÌ SĨ SỐ HỌC SINH Ở LỚP 4B TRƯỜNG TH LA VĂN CẦU. Trang 51. Các biện pháp2.1/ Nắm hoàn cảnh và đặc điểm gia đình từng học sinh 2.2/ Nắm chất lượng học tập và hạnh kiểm năm trước.2.3/ Liên lạc với Chi hội Phụ huynh học sinh của lớp.2.4/ Giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh khó khăn.2.5/ Thành lập Đôi bạn học tập.2.6/ Phổ biến nội quy. Gặp gỡ những gia đình học sinh tự ý bỏ học:2.7/ Tổ chức tốt tiết sinh hoạt lớp.2.8/ Biện pháp tinh thần.2/ Kết quả:3/ Nguyên nhân thành công và tồn tại.4/ Những bài học kinh nghiệm:PHẦN 4: KẾT LUẬN – ĐỀ XUẤT- KIẾN NGHỊTrang 101. Kết luận .2. Một số đề xuất kiến nghị .Giáo viên: Trần Thị Thông – Trường Tiểu học La Văn Cầu * Trang 19Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh vùng dân tộc thiểu sốNhận xét , xếp loại của hội đồng khoa học nhà trường :

Giáo viên: Trần Thị Thông – Trường Tiểu học La Văn Cầu * Trang 21

Biện Pháp Duy Trì Sĩ Số Học Sinh Dân Tộc Thiểu Số Bậc Tiểu Học Sang Kien Kinh Nghiem Doc

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Độc lập – tự do – hạnh phúc

saùng kieán kinh nghieäm

Biện pháp hiệu quả duy trì sĩ số học sinh tiểu học dân tộc vùng 3.

Họ tên người viết : Phạm Văn Nhơn

II – MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU :

-Nghiên cứu phương pháp giảng dạy lôi cuốn học sinh.

-Nghiên cứu về phương pháp vận động học sinh duy trì sĩ số và chuyên cần trong học tập.

III – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :

-Tìm hiểu về tập tục của người địa phương.

-Học hỏi, trao đổi với đồng nghiệp về vận động và duy trì sĩ số học sinh tiểu học.

-Tự tích luỹ kinh nghiệm bản thân.

-Lập biểu đồ theo dõi số lượng học sinh đến lớp qua từng thời điểm, từng mùa vụ trong năm.

-Tìm tòi, học hỏi, sáng tạo các phương pháp hay phục vụ công tác vận động học sinh thông qua phương tiện thông tin đại chúng : đài phát thanh, truyền hình, báo chí, đặc biệt là báo “giáo dục thời đại”.

IV- PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM :

Chương I : CƠ SỞ LÝ LUẬN

I- ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH CHUNG.

Thứ nhất, phải đảm bảo chất lượng giáo dục, đào tạo cho đất nước những thế hệ trẻ năng động, sáng tạo, tự tin đủ sức đủ tài phục vụ công cuộc xây dựng đất nước.

Thứ hai, thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học tiến tới phổ cập THCS cả nước. Nhiệm vụ này đòi hỏi ở nhà giáo dục phải đảm bảo về “lượng”, tức là phải vận động và duy trì tốt số lượng học sinh trong độ tuổi đi học ở từng địa phương đảm bảo, cho dù khoảng cách giữa mục tiêu và thực tiễn ở nhiều địa phương, nhất là vùng đồng bào dân tộc khó khăn (vùng 3) là quá xa.

II- CƠ SỞ TÂM LÝ HỌC.

Bác Hồ nói : “trẻ em như búp trên cành….” để chỉ cho chúng ta thấy lứa tuổi học sinh bậc tiểu học (thông thường ở độ tuổi 6 – 14 tuổi) có đặc điểm tâm, sinh lý hết sức đặc biệt. Các nhà tâm lý học đã chỉ ra rằng : trí não của trẻ em trong độ tuổi này đang trong giai đoạn phát triển và hoàn thiện. Vì thế, tâm sinh lý của các em cũng có điểm rất riêng. Cùng với hoàn cảnh, điều kiện gia đình khó khăn của từng nơi, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số vùng 3 đã khiến cho trẻ em ở độ tuổi này hoặc không thể tới trường hoặc bỏ học nhiều nhất trong các cấp học. Tuy nhiên, ta cũng nhận thấy một số đặc điểm cơ bản của hiện tượng trên như sau :

III- CƠ SỞ GIÁO DỤC HỌC

1- GIÁO DỤC HỌC SINH Ở TRƯỜNG THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC :

Vì thế, hoạt động dạy học và giáo dục học sinh trên lớp của người giáo viên là rất quan trọng, phụ thuộc rất nhiều đến phương pháp dạy học, phương tiện dạy học và lòng nhiệt tình của giáo viên đó.

2- GIÁO DỤC Ý THỨC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH Ở NHÀ THÔNG QUA CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG HỌC SINH VỚI CƠ CHẾ “XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC”.

Chương III : CƠ SỞ THỰC TIỄN.

I- TÌNH TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN HỌC SINH HAY BỎ HỌC TẠI ĐỊA PHƯƠNG .

A- THỰC TRẠNG :

Tuy những năm gần đây Đảng uỷ, UBND Huyện và các cấp, các ngành có quan tâm hơn song nhìn chung hàng năm tỉ lệ duy trì sĩ số học sinh ở các lớp cũng như tỉ lệ chuyên cần chưa cao. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng giáo dục của địa phương và càng khó khăn hơn trong mục tiêu thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học và tiến tới phổ cập giáo dục THCS đến năm 2010.

B- NGUYÊN NHÂN :

I- NGUYÊN NHÂN KHÁCH QUAN :

a) Do ảnh hưởng bởi điều kiện gia đình khó khăn :

b) Do ảnh hưởng bởi trình độ dân trí thấp :

c) Do ảnh hưởng bởi phong tục tập quán lạc hậu của địa phương :

Ảnh hưởng lớn nhất của hiện tượng học sinh vắng học, bỏ học hiện nay vẫn là việc học sinh theo cha mẹ lên nương làm rẫy do phong tục du canh du cư lâu đời của địa phương. Thông thường, các em theo bố mẹ lên nương dài ngày 2 đợt/năm đó là các dịp phát nương làm rẫy và thu hoạch vụ mùa lúa, sắn….Những dịp này học sinh có thể “đi vắng” từ 3 – 4 tuần. Bên cạnh đó, tục lệ ăn bỏ mả, ăn đám ma (có khi kéo dài tới 5 – 7 ngày) khiến cho học sinh cả làng (hoặc làng bên cạnh) nghỉ học còn rất phổ biến.

Ngoài ra, tục lệ dựng vợ gả chồng sớm của người dân địa phương cũng đã và đang ảnh hưởng tới việc duy trì học tập của học sinh. Hàng năm tại địa phương đều có học sinh (có khi học sinh chỉ lớp 4,5) lấy chồng, lấy vợ bỏ học dở dang.

2- NGUYÊN NHÂN CHỦ QUAN :

a) Về phía học sinh :

b) Về phía giáo viên :

Giáo viên chủ nhiệm lớp là người trực tiếp tình hình học sinh trong lớp nên có thể nói rằng lỗi ở giáo viên trong vấn đề học sinh nghỉ học thường là do bản thân giáo viên chưa tích cực vận động học sinh,chưa phối hợp chặt chẽ giữa gia đình – nhà trường – xã hội hoặc là lên lớp vì lý do nào đó chưa cuốn hút học sinh …

c) Về phía các cấp, các ngành quản lý giáo dục :

Chức năng, nhiệm vụ phù hợp nhất, hiệu quả nhất trong công tác vận động học sinh ở gia đình (vận động học sinh ra lớp, vận động học sinh bỏ học đi học lại) chính là lực lượng chính quyền địa phương, bởi họ là người trực tiếp quản lý các em học sinh tại cộng đồng. Thực tế cho thấy, những địa phương nào năng lực quản lý, sự quan tâm về giáo dục của chính quyền địa phương càng tốt thì ở những nơi đó chất lượng, hiệu quả duy trì sĩ số học sinh càng cao và ngược lại.

II- CÁC NGUYÊN TẮC VÀ BIỆN PHÁP TH ỰC HIỆN DUY TRÌ SĨ SỐ HỌC SINH

A- CÁC NGUYÊN TẮC :

1- Nguyên t Ắc bám sát tHỰc TẾ và tôn TRỌNG THỰC TẾ :

2- NGUYÊN TẮC ĐẢM BẢO TÍNH VỪA SỨC VÀ TÍNH LIÊN TỤC :

Yêu cầu hàng đầu để giáo dục – vận động học sinh có chất lượng là người giáo viên khi áp dụng các biện pháp giáo dục cho một đối tượng học sinh là phải đảm bảo tính vừa sức , tức là chỉ yêu cầu học sinh thực hiện những gì mà em học sinh đó hoặc hoàn cảnh, điều kiện của em học sinh đó có thể. Giáo viên tuyệt đối không được cưỡng chế, doạ nạt học sinh hoặc đòi hỏi học sinh phải thực hiện những gì mà em đó không thể thực hiện : bởi như thế sẽ chẳng những không thu được hiệu quả mong muốn mà còn ảnh hưởng tới tâm lý, nhân cách của học sinh sau này.

Ví dụ : giáo viên đến nhà la mắng, đánh đập học sinh khi các em có biểu hiện lười học….

Ngoài ra, mọi hoạt động vận động – giáo dục học sinh của giáo viên phải thực hiện thường xuyên, liên tục. Tránh tình trạng lúc thực hiện lúc không, nói một đường làm một nẻo….

3- NGUYÊN TẮC HỆ THỐNG :

Khi làm công tác giáo dục – vận động người giáo viên phải áp dụng các biện pháp giáo dục từ nhẹ nhàng đến cứng rắn, từ thấp (trao đổi trực tiếp với học sinh) đến cao (làm việc với các cấp quản lý giáo dục). Bên cạnh đó, giáo viên phải biết phân loại học sinh và phân loại các mức độ vi phạm của học sinh, chẳng hạn các học sinh nghỉ học cùng một ngày nhưng giáo viên phải quan tâm và có biện pháp mạnh hơn đối với những học sinh có biểu hiện hay nghỉ học, lười học.

4- NGUYÊN TẮC LẮNG NGHE VÀ TÔN TRỌNG Ý KIẾN CỦA TẬP THỂ LỚP :

Bên cạnh nguyên tắc bám sát thực tế, giáo viên phải biết quan tâm, lắng nghe và tôn trọng mọi nhận xét, ý kiến của các học sinh khác trong lớp. Thực tế cho thấy : có những học sinh vi phạm sau khi giáo viên đã tìm hiểu thực tế nhưng vẫn không hiểu hết tâm tư, nguyện vọng hay bản chất của học sinh ấy, chỉ khi được các bạn trong lớp trao đổi nhận xét với giáo viên về học sinh này thì giáo viên mới nhìn nhận, đánh giá đúng đắn hơn về nhân cách, hiểu hơn về nguyên nhân những vi phạm của học sinh ấy.

5- NGUYÊN TẮC PHỐI HỢP TRONG CÔNG TÁC :

B- CÁC BIỆN PHÁP :

1- NHÓM CÁC BIỆN PHÁP GIÁO DỤC Ở TRƯỜNG :

b) Thứ hai, giáo viên cần tạo ra nếp học tập tích cực ở học sinh mà trước tiên là đòi hỏi giáo viên phải l ên lớp đúng giờ, đều đặn để tạo thói quen và niềm tin ở học sinh. Qua nhiều năm công tác tại địa bàn tôi thấy đ iều này vô cùng quan trọng. Học sinh có nề nếp học tập tốt hay không cũng do điểm này của giáo viên. Chẳng hạn có lần chính tôi đã bắt gặp học sinh tự bỏ lớp ra về vì đợi mãi mà không thấy giáo viên chủ nhiệm đến lớp. Những ngày sau đó học sinh đi học rất ít bởi đa số các em cho rằng giáo viên sẽ không đi dạy nữa. Hiện tượng này khiến công tác vận động học sinh gặp rất nhiều khó khăn , tỉ lệ duy trì và tỉ lệ chuyên cần của lớp này giảm rõ rệt. Vì thế trong cuộc sống, vì lý do nào đó giáo viên không thể đến lớp được thì phải có đồng nghiệp dạy thay và phải đảm bảo nguyên tắc này nhằm tránh vô tình làm ảnh hưởng đến thói quen nề nếp của học sinh. Đây là trách nhiệm không chỉ ở bản thân mỗi giáo viên mà cả nhà trường cần phải thấu đáo tầm quan trọng của nó mà có biện pháp hỗ trợ giúp đỡ thêm cho giáo viên hoàn thành công việc này như : khi giáo viên đau ốm hay có việc đột xuất phải nghỉ dạy, nhà trường cần linh động bố trí người dạy thay…

c) Dạy học trên lớp :

Nếu ta khẳng định rằng : duy trì sĩ số học sinh phụ thuộc chủ yếu vào người giáo viên chủ nhiệm các lớp tiểu học thì điều quan trọng nhất, cốt yếu nhất của vấn dề này chính là năng lực của người giáo viên.

– Dạy kết hợp với trò chơi học tập: Bởi đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học là ham chơi chóng chán, tức là sức tập trung trong học tập của các em chưa bền bỉ, vì thế nếu giáo viên dạy trong một thời gian dài thì thường thấy hiện tượng học sinh mất tập trung trong việc tiếp thu kiến thức. Để khắc phục tình trạng này, người giáo viên không có gì khác hơn ngoài việc lồng ghép trò chơi vào giữa các tiết học, (nhất là các tiết học cuối buổi). Sau một thời gian tập trung học tập, nếu được chơi những trò chơi vui nhộn, bổ ích sẽ giúp các em lấy lại được sự thoải mái, sẵn sàng cho những nội dung tiếp theo. Bên cạnh đó, trò chơi học tập còn có tác dụng bồi dưỡng tình cảm đạo đức cho các em, giúp cho các em trở nên vui tính hơn, tự tin hơn trong cuộc sống. đ ây cũng chính là yêu cầu chung của Ngành đề ra. Tuy nhiên, để thành công trong việc này đòi hỏi giáo viên cần phải đầu tư nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi thường xuyên để tạo ra sự phong phú trong nội dung trò chơi.

Tóm lại: mục đích cuối cùng của biện pháp này là học sinh trở nên ham thích học tập, tìm thấy niềm vui trong mỗi giờ lên lớp, cảm thấy gắn bó hơn với trường lớp.

* Tạo ra môi trường giáo dục trong lành, đẹp mắt:

Hằng ngày mỗi giáo viên vừa dạy học nhưng cũng phải kết hợp làm một việc khác, đó là giáo dục lễ giáo, rèn luyện tác phong, đạo đức cho học sinh. Ở đây giáo viên cần kết hợp vừa tuyên dương, khen thưởng kịp thời những học sinh có thành tích tốt trong học tập và rèn luyện, vừa đôn đốc nhắc nhở những học sinh có biểu hiện vi phạm. Theo tôi, việc làm trên cần phải quan tâm đúng mức và thực hiện đều đặn định kỳ hàng tuần, hàng tháng….thì mới có hiệu quả. Đây cũng là khâu hết sức quan trọng vì nó giúp học sinh hình thành nhân cách và nhận thức rõ hơn trách nhiệm và quyền lợi của bản thân trong việc học tập.

2-NHÓM CÁC BIỆN PHÁP VẬN ĐỘNG HỌC SINH RA LỚP (KHI HỌC SINH CÓ BIỂU HIỆN BỎ HỌC).

– Thái độ làm việc với phụ huynh và các cấp chính quyền phải hết sức nhã nhặn, phải luôn luôn phân tích cho mọi người hiểu rằng việc vận động – giáo dục học sinh không phải chỉ là trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm hay của nhà trường mà là của cả cộng đồng, mà trước tiên phải là phụ huynh học sinh. Bởi lẽ thực tế có nhiều người (thường là phụ huynh, già làng, trưởng thôn) hiện vẫn còn hạn chế trong suy nghĩ, cho rằng học sinh có đi học hay không là do ở thầy cô giáo chứ họ không có trách nhiệm gì. Ngoài ra, thái độ nhã nhặn còn tạo ra sự gần gũi, giúp cho việc phối kết hợp trong công tác diễn ra trôi chảy hơn, hiệu quả hơn.

– Đối tượng học sinh được vận động có ở nhà hay không? Như trên đã nói, thực tế vào những ngày mùa, nhiều trường hợp học sinh “đi vắng” cùng với gia đình ngủ rẫy hàng tuần, hàng tháng trời mà giáo viên không nắm được, cứ vận dụng máy móc biện pháp này thì sẽ không thể mang lại hiệu quả.

– Từng bước, tăng cường tuyên truyền đời sống văn hoá mới đến với mọi người, tích cực phê phán tập tục ma chay kéo dài nhiều ngày gây tốn kém, lãng phí cũng như hủ tục dựng vợ gả chồng cho con ở tuổi tảo hôn mà đa phần là học sinh đang độ tuổi đi học.

– Mạnh dạn đưa ra một số biện pháp được cho là hữu hiệu nhằm tham mưu cho các cấp thẩm quyền, chẳng hạn như : giáo viên có thể kiến nghị Chính quyền thôn, xã cấm đối tượng thuê trẻ em trong độ tuổi học sinh vào rừng khai thác gỗ, lấy quả ưi, lượm sắt vụn…

– Kịp thời đưa ra cuộc họp danh sách những học sinh vi phạm nội quy học tập, vắng học, bỏ học nhằm giúp cho việc vận động cụ thể, chính xác hơn, tuyệt đối tránh tình trạng nhận xét chung chung, hô hào chung chung vô thưởng vô phạt.

III- ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM VÀO THỰC TIỄN TẠI ĐỊA PHƯƠNG.

IV-BÀI HỌC KINH NGHIỆM:

Khi bước vào thực tế giáo dục – vận động học sinh mới thấy được quả là duy trì sĩ số học sinh tiểu học dân tộc vùng 3 quả là không hề dễ dàng, suông sẻ chút nào. Bởi lẽ đứng trước một đối tượng giáo dục cụ thể nhà giáo cần phải sáng tạo, lựa chọn đưa ra những biện pháp giáo dục phù hợp chứ không đơn thuần chỉ là áp dụng một nguyên tắc hay một biện pháp nào cụ thể. Tuy nhiên qua thực tế làm công tác giáo dục – vận động học sinh, bản thân tôi tự rút ra được những bài học kinh nghiệm như sau:

Thứ hai , nhà giáo dục phải có lối sống lành mạnh, phải luôn là “tấm gương sáng” thực sự đối với học sinh, bản thân giáo viên phải có uy tín với nhân dân, phải tạo ra mối quan hệ tốt, gần gũi với nhân dân và cán bộ địa phương để mọi người sẵn sàng nhiệt tình cộng tác với giáo viên trước mọi đối tượng, mọi tình huống, bởi như Bác Hồ đã dạy: “nhân dân giúp ta hoàn toàn sẽ thắng lợi hoàn toàn”.

CHƯƠNG III: NHỮNG Ý KIẾN ĐỀ XUẤT.

Với đề tài sáng kiến kinh nghiệm này chỉ là chút kinh nghiệm nhỏ nhoi, hạn chế của riêng cá nhân tôi và là hành trang giúp tôi xuất sắc vượt qua những tình huống vận động học sinh khó khăn nhất, nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ hàng đầu được giao của ngành giáo dục Huyện nhà: vận động và duy trì sĩ số học sinh tiểu học vùng 3.

Rất mong được sự đóng góp ý kiến chân thành của các bạn đồng nghiệp.

Xin chân thành cảm ơn!

Phạm Văn Nhơn

Một Số Biện Pháp Duy Trì Sĩ Số Học Sinh Ở Tiểu Học

* Gia đình phải có trách nhiệm về con em, phải tạo mọi điều kiện để trẻ được theo học. Phải coi việc học của trẻ là hết sức quan trọng. Nếu thấy con em mình không vui hoặc có vấn đề gì khó khăn trong việc học tập của con em thì phải báo ngay với giáo viên chủ nhiệm và nhà trường để nhà trường tạo điều kiện giúp đỡ.

* Giáo viên chủ nhiệm phải nhiệt tình,năng nổ phải luôn tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề để cải tiến phương pháp giảng dạy, nhằm nâng cao chất lượng ở trong nhà trường đặc biệt là từng em học sinh để lôi cuốn học sinh,học sinh vui vẻ, tự tin trước khi đến trường tạo thêm niềm vui, phấn khởi thực sự để hội cha mẹ học sinh nhận thấy được ở trường là chỗ dựa vững chắc cho phụ huynh tin tưởng từ đó tạo niềm tin cho phụ huynh phấn khởi và xây dựng môi trường thân thiện ở trong nhà trường .

– Phải kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với Đoàn thể, với địa phương ,tạo những điều kiện môi trường giáo dục tốt.

– Phải tạo đoàn kết, thương yêu giúp đỡ học sinh trong lớp qua các phong trào. Tạo cho các em động cơ ham học trong việc uốn nắn các em,giáo viên chủ nhiệm phải luôn giữ thái độ bình tĩnh,không nóng vội,không dùng lời lẽ nặng nề với các em, hoà đồng vui vẻ với các em, xem học sinh là con đẻ của mình, chia sẻ vui buồn, cùng lắng nghe ý kiến học sinh để có biện pháp giáo dục phù hợp.

-Học sinh tiểu học trong độ tuổi biết tự ái, giận hờn, thích được động viên khen thưởng, tuyệt đối không nên dùng hình phạt, đánh mắng làm cho các em sợ sệt không ham thích đến lớp, phải tạo cho các em một niềm tin để các em an tâm học tập và xem giáo viên chủ nhiệm là người mẹ hiền.

-Nên tổ chức vui chơi tập thể trong các giờ ra chơi, giờ sinh hoạt lớp để tạo sự gắn bó thương yêu trong học sinh và giáo viên.Trong chương trình giảng dạy nên tổ chức những buổi “Học vui,vui học” dưới hình thức ôn tập.

Việc chuyên cần học tập của học sinh đã quyết định sự tiến bộ của các em,nếu để các em nghỉ học một hai lần với lý do không cần thiết lắm thì các em sẽ thích nghỉ học đi chơi hơn là đến lớp bởi nhiều lý do: Sợ bị phạt, sợ bị chế giễu. Giáo viên nên giải thích tai hại của việc bỏ học và đi học không đầy đủ đẫn đến hậu quả không tốt, ảnh hưởngđến kết quả học tập.

*Giáo viên chủ nhiệm và nhà trường phải quan tâm tìm hiểu hoàn cảnh của học sinh để tạo điều kiện giúp đỡ, bố trí buổi học phù hợp có thể lập Quỹ tình thương để hổ trợ một phần nào cho các em về mặt vật chất, đồng thời cắt cử các em học sinh trong lớp thường xuyên giúp đỡ,đỡ đần bớt các công việc gia đình để bạn có thời gian đến trường.

* Các đoàn thể xã hội như: Phụ nữ, nông dân, phải phối hợp với nhà trường quan tâm, giúp đỡ những gia đình gặp khó khăn. Xây dựng quỹ khuyến học trong từng thôn xã, họ hàng để hỗ trợ thêm cho những em gặp khó khăn trong đời sống kinh tế để giúp các em có thể tiếp tục học tập.

*Chính quyền địa phương phải có kế hoạch bố trí dân cư hợp lý để tạo điều kiện cho các em đi học gần.Đồng thời có chính sách đãi ngộ đối với những hộ gia đình nghèo, đông con và gặp khó khăn về kinh tế.

Công đoàn nhà trường xây dựng quỹ khuyến học, quỹ tình thương, quỹ hỗ trợ những học sinh có điều kiện khó khăn về vật chất và tinh thần để các em đi học đầy đủ.

Giải pháp quan trọng nhất là Nhà trường,Gia đình và xã hội phải phối hợp chặt chẻ với nhau,để cùng nhau giúp đỡ về mọi mặt,tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ tiếp tục đến trường.Giảm tỷ lệ học sinh bỏ học hàng năm.

+ Phối hợp chặt chẽ với nhà trường, gia đình và xã hội.

+ Nắm bắt tình hình cụ thể về các gia đình có học sinh đi học. Các gia đình có đông con; những gia đình có hoàn cảnh khó khăn…

+ Các tổ chức, đoàn thể ở chính quyền địa phương, hội cha mẹ học sinh. Các tổ chức chính trị xã hội ở trong nhà trường; các giáo viên chủ nhiệm.

+ Tìm hiểu về các lí do mà các em thường bỏ học nữa chừng.

Đề Tài Một Số Biện Pháp Duy Trì Sĩ Số Học Sinh Lớp 5

Là giáo viên làm công tác chủ nhiệm ở tiểu học thì bất cứ ai cũng mong muốn lớp mình phụ trách không có học sinh bỏ học. Nhưng thực tế thì không phải giáo viên nào, trường nào cũng đảm bảo được công tác duy trì sĩ số 100% khi trường đó ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Trước khi tôi thực hiện đề tài này, cũng có những đồng nghiệp đã nghiên cứu và ứng dụng trong công tác nhưng hiệu quả chưa cao. Có thể do nhiều yếu tố chủ quan, khách quan mang lại. Tôi cũng có học hỏi và vận dụng nhưng kết quả không như mong muốn. Từ đó, tôi nghiền ngẫm và quyết định tìm hiểu mọi biện pháp để thu hút các em đến lớp, đến trường đảm bảo công tác duy trì sĩ số. Khi nghiên cứu đề tài này tôi cũng phần nào dựa trên một số biện pháp mà đồng nghiệp của mình đã nghiên cứu trước đó nhưng có phần cải biến cho phù hợp với đối tượng học sinh, hoàn cảnh gia đình và thời đại,

Trường Tiểu học Lê Hồng Phong có tất cả 3 điểm trường. Điểm trường nơi tôi làm công tác chủ nhiệm là buôn Eana với đại đa số dân cư là người dân tộc thiểu số. Hằng năm vẫn xảy ra tình trạng học sinh bỏ học. Các giáo viên và nhà trường cũng tìm mọi cách để những học sinh đó trở lại trường nhưng cũng chỉ được một thời gian sau đó lại nghỉ (Ví dụ: Em Y Hoàng bỏ học năm học 2014 – 2015). Bên cạnh đó, lớp học mà tôi phụ trách cũng gặp phải những khó khăn nhất định:

Văn hóa, lối sống khác nhiều so với những gì thực tế học tập từ sách vở. Kết quả học tập chưa cao. Một số em điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, bố mẹ mải đi làm thuê kiếm sống không quan tâm đến việc học tập của con, phó mặc hết cho nhà trường và thầy cô giáo. Lớp có một em bố mẹ bỏ nhau, bố và mẹ không nuôi nên em ở với bà ngoại. Vì thế, việc học tập phần nào bị lơ đễnh. Có 3 em bố mẹ đi làm ăn nơi xa, các em sống với ông bà. Có 1 em ham chơi, bị bạn bè xấu lôi kéo vào các trò game online thành nghiện. Một số em nhà ở xa trường học, đường sá đi lại khó khăn. Phần lớn học sinh rất thụ động, kĩ năng sống chưa được chú trọng, kĩ năng giao tiếp chưa tốt, kĩ năng giữ vệ sinh cá nhân, vệ sinh trường lớp, ý thức bảo vệ của công và ý thức kỉ luật khi tham gia hoạt động tập thể, đặc biệt là tính tự giác, tích cực học tập, hạn chế. Với những thực trạng trên, để duy trì sĩ số học sinh ở lớp chủ nhiệm, đặc biệt là học sinh ở khối lớp 5có nhiều học sinh dân tộc thểu số là một nhiệm vụ bắt buộc đối với cá nhân tôi. Việc duy trì sĩ số học sinh nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, không bắt buộc theo một khuôn mẫu nào cả nên tôi vừa học, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm. 3. Nội dung và hình thức của giải pháp: a. Mục tiêu của giải pháp: Mục tiêu chủ yếu và quan trọng nhất của giải pháp, biện pháp duy trì sĩ số học sinh là tạo cho các em niềm vui khi đến trường. Từ đó, các em có cơ hội tiếp thu bài một cách đầy đủ nhất, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện về mặt kiến thức, năng lực và phẩm chất của học sinh trong quả trình dạy học một cách chủ động, dễ dàng và chắc chắn. Việc phổ biến và đề ra nội quy ngay từ đầu năm học giúp các em định hướng được nhiệm vụ của bản thân trong năm học. Quan tâm, giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn trong học tập, thoát khỏi sự tự ti, mặc cảm và học sinh có hoàn cảnh khó khăn thì sẽ các em vững tin vào bản thân hơn. Qua đó thêm yêu trường lớp, thầy cô và bạn bè. Phối hợp chặt chẽ với các giáo viên bộ môn, giáo viên dạy thay và Tổng phụ trách Đội giúp giáo viên nắm bắt kịp thời, chính xác tình hình học tập, rèn luyện và cả những thay đổi bất thường mỗi học sinh trong lớp. Từ đó có hướng điều chỉnh phù hợp trong dạy học và giáo dục. Tận dụng tối đa sự tác động của môi trường xã hội tạo mối liên hệ gắn kết giữa nhà trường - gia đình - cộng đồng để giáo dục học sinh phát triển một cách toàn iện nhất. Tổ chức tốt tiết sinh hoạt tập thể - sinh hoạt lớp, tạo môi trường giáo dục tốt giúp các em hứng khởi hơn trong học tập, gắn bó học sinh với học sinh; học sinh với giáo viên; học sinh với trường lớp, b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp Thứ Nhất: Phổ biến nội quy ngay từ đầu năm tới học sinh - phụ huynh Tổ chức học nội quy lớp ngay tuần đầu của năm học. Quy định rõ: học sinh phải đi học đều và đúng giờ, nghỉ học phải có lí do và được cha mẹ xin phép. Tổ chức họp phụ huynh học sinh đầu năm, thông báo cho phụ huynh biết về quy định và nhờ phụ huynh hàng ngày theo dõi, nhắc nhở. Học sinh đến trường đều tự mình đánh dấu vào Bảng theo dõi "Ngày em đến lớp". Gọi điện thoại liên lạc trực tiếp với phụ huynh đối với những trường hợp học sinh tự ý bỏ học. (Tôi đã nắm được 20/25 số điện thoại của phụ huynh học sinh trong lớp). 5 em (Y Sa Muel Niê, H Nang Êban, Y Truyền Byã, Y Khuyến Byã, Y Huy Byã) không có vì bố mẹ không dùng điện thoại nên phải đến tận nhà tìm hiểu nguyên nhân và trao đổi cách khắc phục. Chính nhờ thế mà những học sinh ở lớp tôi chủ nhiệm chỉ nghỉ học 1 ngày không phép thì đến hôm sau đi học lại bình thường, nên năm 2015-2016 lớp tôi chủ nhiệm không có hiện tượng học sinh bỏ học giữa chừng. Thứ hai: Giúp học sinh khắc phục khó khăn trong học tập: Giáo viên hướng dẫn học sinh gặp khó khăn trong tính toán về cách nhận dạng kiến thức, củng cố kiến thức bằng cách ôn luyện theo mỗi ngày. Quan tâm đặc biệt đến các em, hướng dẫn những học sinh khá, giỏi cùng học với các em. Hoặc trực tiếp cùng gia đình phối hợp hướng dẫn các em học ở nhà, ở trường. Đồng thời động viên, tuyên dương kịp thời những em có tiến bộ rõ nét, khuyến khích các em có sự phấn đấu cao hơn, cụ thể: + Em Phạm Tuấn Vũ hỗ trợ em Y Sa Muel Niê. + Em Phạm Văn Huy hỗ trợ em Y Huy byã. + Em Nguyễn Thị Minh hỗ trợ em Vũ Quang Tiến Do vậy, kết quả học tập của những đôi bạn cùng tiến trên có sự tiến bộ rõ rệt. Thứ ba: Giúp học sinh thoát khỏi sự tự ti, mặc cảm: Lúc này vai trò của giáo viên hết sức quan trọng đối với tâm hồn trẻ. Người thầy có thể là cha mẹ hoặc là người bạn và sự điều này giúp cho các em vượt qua khó khăn. Chính vì vậy, mỗi người thầy là người tương tác với các em trong việc học tập, sinh hoạt và cốt yếu là luôn cân bằng giữa tư cách là người giữ kỷ cương, là người bạn tâm tình mỗi khi các em cần sự giúp đỡ. Do vậy, mỗi lời hỏi thăm, mỗi cử chỉ chăm sóc của cô thầy sẽ giúp các em thoát khỏi mọi tự ti, mặc cảm. Có em Vũ Quang Tiến chuyển từ trường khác về lớp 5E từ đầu năm học 2015-2016. Lúc mới về em luôn mặc cảm bởi hoàn cảnh nhà nghèo, nói cà lăm và lại làm quen với mô hình trường học mới (VNEN), bởi nơi em theo học trước đó là chương trình hiện hành, lực học của em cũng không được tốt lắm. Tôi đã luôn quan tâm đến em, hướng dẫn em hòa nhập với mô hình học mới, bạn mới,. Tôi hỏi han em giống như một người mẹ, người chị, người bạn. Tiếp xúc nhiều với cô, với các bạn em dần quen và trở nên mạnh dạn hơn. Có những giờ học Tiến trở nên xuất chúng khiến nhiều bạn ngạc nhiên với câu trả lời khá hoàn hảo và sáng tạo của mình. Những lúc đó tôi đã tuyên dương khích lệ tinh thần của em. Tiến cảm thấy rất phấn khởi và thêm yêu trường lớp, thầy cô giáo và các bạn mới. Từ đó đến nay, Tiến đã mạnh dạn và tự tin hơn nhiều, em luôn đi học đều và đúng giờ. Có khi bị ốm, bố mẹ điện thoại xin phép cô giáo rồi nhưng Tiến cũng chỉ nghỉ một buổi đi khám bệnh, buổi chiều vẫn lên lớp học. Thứ tư: Quan tâm đến học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn: Rà soát, nắm bắt những học sinh có hoàn cảnh nghèo, gia cảnh khó khăn đăng kí cho các em được nhận dụng cụ, sách vở, quần áo do Nhà trường và Liên đội và các tổ chức từ thiện hỗ trợ ngay từ đầu năm. Mua sẵn bút chì, thước, ruột bút kim, để trong cặp. Khi các em cần thì đã có ngay để dùng. Kêu gọi các học sinh trong lớp dành tặng bạn một số quần áo cũ và tranh thủ sự hỗ trợ từ một số giáo viên, phụ huynh có khả năng để trang bị thêm những dụng cụ còn lại cho những em có hoàn cảnh khó khăn để các em được yên tâm đến trường, không phải mặc cảm vì nhà nghèo, thiếu thốn. (Ví dụ: Trong lớp, có em Trần Văn Tài theo bố đi câu mực ở biển Nghệ An, mẹ mải mê chơi cờ bạc nên Tài đã đến lớp tập trung muộn hơn các bạn. Khi đến lớp, không có một loại sách vở, dụng cụ học tập nào. Tôi đã liên lạc và gặp mặt mẹ Tài để trao đổi tìm cách giúp em. Mẹ Tài sẽ phải mua sắm vở và đồ dùng học tập cho em còn tôi thì xin với Nhà trường tạo điều kiện cho em mượn một bộ sách hướng dẫn học. Được sự giúp đỡ của Ban Giám hiệu và sự phối hợp của phụ huynh, Tài đã có đầy đủ các loại sách vở và dụng cụ học tập cần thiết khi đến lớp). Thứ năm: Phối hợp chặt chẽ với các giáo viên bộ môn, giáo viên dạy thay và Tổng phụ trách Đội: Trường Tiểu học lê Hồng Phong chúng tôi thực hiện dạy 9 buổi/tuần. Giáo viên làm công tác chủ nhiệm thực hiện dạy 23 tiết/tuần. Như vậy, với những số tiết còn lại là giáo viên chuyên và giáo viên dạy thay. Vì vậy nếu không có sự phối hợp chặt chẽ giữa các giáo viên chuyên, giáo viên dạy thay với Tổng phụ trách Đội và giáo viên chủ nhiệm để duy trì tốt sĩ số thì việc học sinh nghỉ học, bỏ tiết là điều khó tránh khỏi. Đầu năm học 2015-2016, lớp 5E tôi dạy có mấy trường hợp (Nguyễn Văn Đức, Y Khuyến Byã, Y Huy Byã, Y Sa muel Niê,) cứ đến tiết chuyên (Tiếng Anh, Tin học, Đạo đức, Kĩ Thuật,) là nghỉ học, bỏ tiết hoặc tùy tiện đổi chỗ trong lớp. Những buổi sau đến lớp, nghe học sinh trong lớp và giáo viên bộ môn phản ánh lại tôi thấy khá bức xúc. Tôi liền trao đổi với các giáo viên chuyên cùng phối hợp để chấn chỉnh kịp thời những điều đó. Tiếp đến, tôi gắn trực tiếp sơ đồ chỗ ngồi, những lưu ý của học sinh mà giáo viên cần giúp đỡ trên bàn giáo viên để các giáo viên đến dạy đều nắm rõ được tên và vị trí của từng em. Về lớp, tôi nhắc nhở và phân tích để các em thấy được tầm quan trọng của việc đi học đều, học đúng, học đủ các môn học và hoạt động giáo dục. Sau đó, tình trạng này đã chấm dứt hoàn toàn. Tất cả học sinh đều tự giác, tích cực trong các tiết học, môn học và các em đều thể hiện lòng tôn kính của mình với thầy cô.( Em Nguyễn Văn Đức sau đó có sự tiến bộ rõ rệt về nhiều mặt: đi học chuyên cần, học tập tốt, chấp hành tốt các quy định của lớp, của trường,Em còn được các thầy cô nhận xét, khen ngợi nhiều hơn trong vở.) Và tôi cũng không còn nghe thấy các thầy cô phàn nàn về học sinh của lớp mình nữa mà thay vào đó là những lời khen: Lớp học ngoan, chăm chỉ; các em rất lễ phép, tích cực trong học tập và hoạt động giáo dục. Thứ sáu: Tận dụng tối đa sự tác động của môi trường xã hội: Có nhiều học sinh bộc phát nhân cách của mình một cách nhanh chóng mà bề ngoài khó nhận biết. Ở trường, việc học tập của các em có dấu hiệu của một sự khủng hoảng như: học không vào, trốn học, không hài lòng với sự nhắc nhở của thầy cô, nhất là sự nổi lên rầm rộ của phong trào chơi game đang diễn ra phổ biến. Ở nhà, các em làm cho cha mẹ phải trăn trở, lo lắng và không nghe lời dạy dỗ của cha mẹ, hay lơ đễnh không thèm để ý bất cứ chuyện gì cả. Đối với những trường hợp trên, giáo viên cần linh động các biện pháp giải quyết, bảo đảm mối quan hệ gắn bó giữa gia đình, nhà trường, tăng cường biện pháp thuyết phục mà không chê trách, răn đe, trách phạt. Để hướng các em hòa nhập cùng tập thể lớp, có thể phân công các em đảm trách một nhiệm vụ nào đó trong lớp hay ghi tên, động viên các em tham gia vào đội tuyển của các môn thể thao hay các phong trào khác trong hoạt động của lớp học, của nhà trường. Từ đó, sự say mê trong nhiệm vụ mới, được sự tin yêu của bạn bè, được sự thương mến của thầy, cô sẽ giúp em vượt qua mọi thị hiếu do môi trường tác động. Cụ thể, trong lớp tôi có em Nguyễn Văn Đức ở thôn Tân Lập. Nhà nghèo, đông anh em, bố ham rượu chè, mẹ suốt ngày đi làm thuê kiếm tiên nuôi cả nhà. Ngay cả các khoản đóng góp theo quy định của trường, của lớp gia đình cũng không có để nộp. Bản thân em Đức lại thích chơi game nên việc em nghỉ học không có lí do diễn ra liên tục trong một thời gian dài khiến tôi khá vất vả. Khi đến lớp, cô giáo hỏi lí do thì em không khi nào nói thật. Tôi đã tìm hiểu qua các giáo viên chủ nhiệm trước, các giáo viên chuyên,Tiếp theo, tôi đến nhà và gặp được mẹ của em Đức. Tôi và mẹ của Đức phối hợp với nhau để giúp Đức đi học chuyên cần hơn. Hôm nào Đức nghỉ học là tôi điện thoại báo cho phụ huynh, một lúc sau thấy Đức đã lên lớp. Hỏi ra mới biết mẹ đã tìm Đức từ quán internet. Có lần khác, Đức nghỉ học, tôi điện thoại cho mẹ em nhưng mẹ lại đang đi làm thuê cho người ta ở nơi xa thế là tôi chạy ra các quán internet để tìm em vào giờ giải lao. Những ngày sau đó, dường như Đức cũng phần nào cảm thấy có lỗi nên không nghỉ học nhưng thái độ hợp tác trên lớp có vẻ miễn cưỡng không thật sự thoải mái. Cuối buổi học, tôi gặp riêng Đức hỏi chuyện, phân tích cho em thấy những cái được cái mất của việc nghỉ học, Những buổi học trên lớp, tôi luôn quan tâm đến Đức một cách tự nhiên, hài hòa. Giao cho em phụ trách vị trí Phó ban Thư viện của lớp. Khi đảm nhận trọng trách này, em sẽ có cơ hội tiếp cận nhiều hơn với các tài liệu có trong thư viện của lớp mà không phải qua khâu trung gian. Các bạn khác muốn mượn tài liệu phải thông qua em, như vậy em thấy được mình cũng có vai trò quan trọng đối với tập thể mà cố gắng. Càng ngày, em càng muốn chứng tỏ khả năng của mình với các bạn nên không còn nghĩ đến chuyện nghỉ học nữa. Cũng có những buổi em nghỉ học nhưng đều có lí do chính đáng do người lớn xin phép. Những buổi học sau lên lớp, em rất tích cực học hỏi bạn về bài đã học hôm trước để theo cho kịp các bạn. Việc đưa được Đức đến lớp đều là thành công lớn nhất trong ngần ấy năm dạy học của tôi. Ngạc nhiên hơn nữa là cuối năm học, Đức đã hoàn thành khá tốt các bài kiểm tra, đặc biệt là môn Tiếng Việt đạt 8 điểm. Các khoản đóng góp tôi cũng xin với nhà trường miễn hết cho em. Các khoản của lớp, bản thân tôi hỗ trợ cho em phần nào còn nữa là sự hỗ trợ của cả tập thể lớp. Mặt khác, đối với những em có mặc cảm do có sự khác biệt về thành phần dân tộc (Kinh, Ê-đê ) hoặc do chưa thích nghi với môi trường như: chuyển trường, lưu ban thì lúc này vai trò của giáo viên rất quan trọng. Giáo viên sẽ lồng ghép giáo dục khi dạy một số bài Địa lí lớp 4, bài Dân cư nước ta (Địa lí lớp 5) . Giáo viên cũng có thể kể câu chuyện "Kinh và Ba na đều là anh em" để hướng tới sự đoàn kết là một. Bên cạnh đó, những cử chỉ, giọng nói của giáo viên tạo nên sự gần gũi giữa hai mối quan hệ là rất cần thiết. Một cái xoa đầu, một lời hỏi thăm là bản thân giáo viên đã tạo cho học sinh một sự tin tưởng, dễ gần. Lòng cảm mến của học sinh đối với giáo viên, giúp các em xóa đi những mặc cảm, tự ti để hòa nhập với tập thể tốt hơn và ý định chán nản, bỏ học, nghỉ học sẽ dễ dàng xóa đi trong đầu óc non nớt của các em. Có các em: Y Sa Muel Niê, Y Huy Byã, H Nang Êban, những ngày đầu nhận lớp, thấy các em có vẻ rụt rè. Tôi âm thầm theo dõi và tìm hiểu nguyên nhân thì được biết hoàn cảnh của các em ấy khá phức tạp. Y Huy có bố mẹ đã li dị, em ấy ở với bà ngoại và dì ruột đang học THCS. Y Sa Muel, bố mẹ đi làm ở Thành phố Hồ Chí Minh, em ở với bà ngoại. H Nang gia đình thuộc hộ nghèo, em còn thường xuyên bị chảy mồ hôi ở tay và chân, Học lực của 3 em đều ở mức yếu (qua bài kiểm tra khảo sát đầu năm). Thỉnh thoảng các em ấy lại nghỉ học mà không có lí do. Tôi đã trò chuyện riêng với từng em, hỏi han về mọi chuyện và động viên các em. Bên cạnh đó tôi cũng gặp trực tiếp dì của Y Huy, mẹ của H Nang cùng tìm biện pháp giúp các em tiến bộ. Riêng với Y Sa muel, tôi đến nhà nhưng đều không gặp được bà của em (gia đình không ai dùng điện thoại). Tôi đã nhờ đến Hội phụ huynh của lớp, nhờ phụ huynh của những học sinh gần nhà giúp đỡ. Trên lớp, tôi phân các học sinh khá giỏi giúp đỡ các em. Cho các em tham gia vào đội quản Sao, hướng dẫn các học sinh lớp 1, 2 xếp hàng tập thể dục đầu giờ (có sự hướng dẫn của GVCN). Cả ba thấy mình có uy với các em nên khá mạnh dạn khi làm nhiệm vụ được giao. Các em hồ hởi nói về những em nhỏ mà mình phụ trách. Những ngày sau đó, các em rất nhớ nhiệm vụ của mình. Biết được vai trò của mình như thế nào nên các em đều rất cố gắng. Khi có cơ hội là tôi đưa ra những lời khen với các em. Các em cảm thấy được quan tâm, tin tưởng nên việc nghỉ học không lí do đã hoàn toàn không còn. Và việc học tập của các em cũng có sự tiến bộ rõ rệt. Cuối năm, cả ba em đều hoàn thành chương trình. Thứ bảy: Tổ chức tốt tiết sinh hoạt tập thể - sinh hoạt lớp Phối hợp với Đội thiếu niên tổ chức các buổi sinh hoạt ngoài giờ lên lớp vui tươi, sinh động, hấp dẫn để các em thấy gần gũi hơn với mọi người. Tuyên dương, khen thưởng kịp thời những cá nhân, nhóm đạt duy trì sĩ số suốt cả tuần để làm gương cho lớp và khen những em có tiến bộ về mặt học tập để các em thấy nhiệm vụ học tập của mình và mỗi ngày đến trường thật sự là một ngày vui. Đối với những mặt học sinh còn hạn chế, nhắc nhở nhẹ nhàng kèm theo hướng dẫn, uốn nắn cho các em để tuần sau các em thực hiện tốt hơn. Ngoài ra, cần nêu gương các anh, chị học sinh những năm trước dù đầu năm còn yếu kém nhưng nhờ sự kiên trì, cố gắng đến cuối năm cũng đã đạt loại Khá, Giỏi để củng cố lòng tin nơi các em. Mời cha mẹ học sinh tham gia vào tiết sinh hoạt lớp để nắm bắt được tình hình học tập và rèn luyện của con em mình. Ví dụ: Trong năm học, tôi có tổ chức tiết sinh hoạt tập thể theo nhu cầu của đông đảo học sinh trong lớp. Thay vì múa hát, tìm hiểu lịch sử, tôi tổ chức thi đấu một số nội dung thể thao theo sở thích của các em như nhảy dây, đá cầu, cầu lông,. Các em rất hào hứng và luôn mong muốn được cô tổ chức như thế nên ngoài việc hăng say học tập thì các em cũng tích cực rèn luyện ở lớp, ở nhà. Từ đó, một số em quên hắn những trò chơi vô bổ và ham đến trường hơn. Thứ tám: Tạo môi trường giáo dục tốt Cùng học sinh trang trí lớp học, các góc học tập thật sinh động., khuyến khích lấy ý tưởng của các em. Mỗi ngày bước vào lớp, tôi đều quan sát cả lớp. Thấy các em có mặt đầy đủ là lòng tôi rất vui. Nhất là những hôm thời tiết khắc nghiệt như: mưa, gió, Những hôm ấy, tôi cho lớp hoan nghênh bằng một tràng pháo tay để động viên khích lệ tinh thần các em. Trong giờ dạy, tôi đầu tư soạn giảng phân hóa theo đối tượng học sinh sao cho phù hợp với trình độ mọi học sinh trong lớp - nhất là những em học yếu nhằm kích thích học sinh hứng thú học tập, tiếp thu bài nhanh hơn. Lồng ghép những câu chuyện thực tế mang tính giáo dục vào các tiết dạy để tạo hứng thú cho các em trong mỗi giờ học. Tôi cũng thật sự hòa nhập cùng các em trong giờ dạy hoạt động ngoại khoá hay trò chơi của đố vui qua hình thức Giải ô chữ trong các tiết Ôn tập Với trường lớp khang trang như hiện nay, đội ngũ giáo viên nhiệt tình, sự quan tâm của Ban Giám hiệu, sân chơi rộng rãi thoáng mát, "lớp học như là nhà" đó là một thuận lợi rất lớn để xây dựng môi trường học tập tốt cho học sinh vui chơi, học tập. Phải tùy hoàn cảnh cụ thể, tạo khung cảnh giáo dục tốt làm cho học sinh ngồi trong lớp học thấy vui tươi, thích thú và được bày tỏ ý kiến của mình với bạn, với cô, không nặng nề, sợ sệt. Luôn cùng nhau chăm sóc, lao động, làm vệ sinh, trang trí trường lớp. Giờ ra chơi, tôi tổ chức hướng dẫn các em vui chơi tập thể, đọc sách báo trong thư viện của lớp của trường để tạo sự gắn bó thương yêu trong học sinh và sự gần gũi thân mật giữa học sinh với giáo viên nhà trường.Trong những năm qua, bằng hình thức này tôi đã tạo cho các em sự vui thích, tìm tòi tham gia tích cực cho phong trào của lớp, của trường, của huyện tổ chức. Ngoài ra: để ngăn ngừa, khắc phục và phát huy sự thành công của nghệ thuật thuyết phục học sinh trở lại trường lớp sau khi nghỉ, bỏ học thì bản thân giáo viên cần kết hợp chặt chẽ nhiều mặt khác như: Lập kế hoạch giáo dục cá nhân để cung cấp kiến thức, phát triển năng lực và hạn chế tối đa những khó khăn của học sinh như đã nêu, giúp các em hòa nhập một cách tốt nhất với các bạn. Bố trí chỗ ngồi thuận lợi, quan tâm và dành nhiều thời gian trò chuyện tiếp xúc với các em. Đồng thời, luôn tạo ra các tình huống mà từng học sinh đều có thể thệ hiện mình trong đó, còn giáo viên thì cổ vũ, khuyến khích mọi thành công của các em dù là những thành công rất nhỏ nhất. Phối hợp với Đội Thiếu niên, Công đoàn trong nhà trường để có sự hỗ trợ và thường xuyên trao đổi với phụ huynh về kế hoạch giáo dục, thuyết phục các em. Động viên các em tham gia vào các câu lạc bộ văn nghệ, thể thao của lớp, của trường để tạo sự thích thú cho các em . Hợp tác với Ban tự quản lớp lập ra "Đôi bạn cùng tiến" và đề ra những hình thức thi đua khen thưởng để khích lệ tinh thần học tập của các em. c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp: Mỗi biện pháp có chức năng, vai trò riêng nhưng giữa chúng có m