Đ.H/Sức khỏe Cộng Đồng
Kiểm toán là gì? Kiểm toán Việt Nam có chức năng gì? Mỗi quốc gia hay mỗi nhóm nghiên cứu đều có định nghĩa, chức năng về kiểm toán.
Kiểm toán là gì? Kiểm toán Việt Nam có chức năng gì?
Kiểm toán là gì?Kiểm toán là gì? Kiểm toán bắt nguồn từ thuật ngữ “Audit” trong tiếng Latin. Nhưng điều thú vị là từ “Audit” của tiếng Latin lại có nghĩa là người nghe (one who hears).
Vào khoảng thế kỷ thứ III trước công nguyên, chính quyền La Mã đã tuyển dụng các quan chức để kiểm tra độc lập về tình hình tài chính và nghe thuyết trình của họ về kết quả kiểm tra này.
Từ đó cho đến nay, “Audit” đã trở thành một từ phổ biến để chỉ công việc kiểm tra và bày tỏ ý kiến đối với các báo cáo tài chính.
Có rất nhiều định nghĩa về kiểm toán, mỗi quốc gia hay mỗi nhóm nghiên cứu đều có định nghĩa riêng. Theo đó, các chuyên gia giáo dục và đào tạo kiểm toán ở Cộng hoà Pháp định nghĩa rằng:
“Kiểm toán là việc nghiên cứu và kiểm tra các tài khoản hàng năm của một tổ chức do một người độc lập, đủ danh nghĩa gọi là kiểm toán viên tiến hành để khẳng định rằng những tài khoản đó phản ánh đúng đắn tình hình tài chính thực tế, không che giấu sự gian lận và chúng được trình bày theo mẫu chính thức của luật định”.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, phạm vi của kiểm toán rất rộng, bao gồm các lĩnh vực khác nhau như:
– Kiểm toán về thông tin
– Kiểm toán hiệu quả
– Kiểm toán tính quy tắc
– Kiểm toán hiệu năng….
Trải qua một quá trình phát triển lâu dài của nghề kiểm toán, chúng ta có thể hiểu ngắn gọn định nghĩa kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động tài chính của các doanh nghiệp, bằng hệ thống phương pháp kĩ thuật riêng của kiểm toán, do các kiểm toán viên có trình độ nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực.
Đối tượng của kiểm toán trước hết là các tài liệu kế toán. Nhưng công việc xác minh tính trung thực, đúng đắn của các báo cáo tài chính là để hướng tới tất cả các đơn vị, cá nhân quan tâm đến tình hình tài chính của một công ty, tổ chức nào đó.
Chẳng hạn, các cơ quan Nhà nước cần thông tin trung thực để hoạch định chính sách kinh tế phù hợp, các nhà đầu tư cần tài liệu tin cậy để sử dụng đồng tiền của mình đúng mục đích. Người lao động, khách hàng, nhà cung cấp cần hiểu thực chất về kinh doanh và tài chính, chế độ tiền lương của công ty mình để làm việc. Những người quan tâm này lại không có nghiệp vụ về tài chính, kế toán. Và chỉ nhân viên kiểm toán mới có thể giúp được họ.
Kiểm toán là gì? Kiểm toán Việt Nam có chức năng gì?Từ bản chất của kiểm toán như trên, chúng ta có thể thấy được kiểm toán có hai chức năng cơ bản đó là: chức năng xác minh và chức năng bày tỏ ý kiến.
Chức năng xác minh nhằm khẳng định mức độ trung thực của tài liệu, tính pháp lý của việc thực hiện các nghiệp vụ hay việc lập các bảng khai tài chính. Đây là chức năng cơ bản gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của hoạt động kiểm toán.
Ngay trong khái niệm về chức năng xác minh, chúng ta có thể thấy rõ chức năng xác minh là nhằm khẳng định ở hai khía cạnh: mức độ trung thực của tài liệu, và tính pháp ý của việc thực hiện các nghiệp vụ hay việc lập các bảng khai tài chính. Do đó, chức năng xác minh được thể hiện ở hai mặt: Tính trung thực của các con số
Thực chất là việc kiểm toán viên đi xem xét để đi đến khẳng định xem các con số biểu hiện bằng tiền trên các bảng khai tài chính, trong từng nghiệp vụ cụ thể có được kế toán phản ánh và trình bày một cách chính xác hay không.
Ví dụ: Số dư tiền mặt trên Bảng cân đối kế toán của đơn vị trình bày tại thời điểm cuối năm là 100 triệu, kiểm toán viên sẽ hướng vào việc xác minh xem số tiền của đơn vị thực tế có đúng là 100 triệu hay không, tức là hướng việc xác minh vào tính trung thực của các con số.
Tính hợp thức của các biểu mẫu phản ánh tình hình tài chính: Thực chất mục đích hoạt động của kế toán là cung cấp thông tin về tình hình tài chính của đơn vị cho các đối tượng quan tâm. Do đó, các thông tin này không những phải được trình bày một cách trung thực, chính xác mà còn phải được trình bày theo cách mà người đọc có thể hiểu được. Chính vì vậy, các chuẩn mực về kế toán, các thông tư, nghị định hướng dẫn thi hành chế độ kế toán đã quy định và hướng dẫn các biểu mẫu phản ánh tình hình tài chính và nhiệm vụ của người làmkế toán là phải tuân thủ theo các quy định pháp lý này. Vì thế, chức năng xác minh của kiểm toán là cũng nhằm hướng tới yêu cầu này.
Chức năng xác minh ngoài việc hướng tới 6 mục tiêu kiểm toán như kiểm toán tài chính còn hướng tới xác minh mục tiêu về tính phê chuẩn của các nghiệp vụ, các nghiệp vụ kinh tế phát sinh phải có căn cứ hợp lý và phải đượcphê chuẩn.
Ví dụ: Khi mua sắm TSCĐ phải được sự phê duyệt của giám đốc. Trong nhiều trườnghợp đặc biệt, với số tiền lớn thì còn cần phải có sự phê duyệt của các cấp cao hơn trênTổng Công ty.
Chức năng bày tỏ ý kiến: Sau quá trình thực hiện chức năng xác minh, kiểm toán viên thu được các bằng chứng kiểm toán và làm cơ sở cho việc đưa ra ý kiến nhận xét về đối tượng được kiểm toán.
Chức năng bày tỏ ý kiến được hiểu là việc đưa ra kết luận về chất lượng thông tin và cả pháp lý, tư vấn qua xác minh. Sau khi kiểm toán viên đã thực hiện chức năng xác minh về tính trung thực của tài liệu (hay độ tin cậy của các thông tin kế toán) và tính pháp lý của việc thực hiện các nghiệp vụ hay việc lập các báo cáo tài chính, kiểm toán viên sẽ đưa ra kết luận của mình về các vấn đề đã được xác minh.
Ngoài ra, trong quá trình kiểm toán, nếu phát hiện những điểm yếu trong quá trình quản lý nói chung và trong công tác tài chính kế toán nói riêng thì kiểm toán viên có thể đưa ra ý kiến dưới dạng tư vấn. Hình thức đưa kết luận như thế nào cũng có sự khác nhau giữa các khách thể kiểm toán và giữa cácnước khác nhau.
Tùy theo từng lĩnh vực, chức năng bày tỏ ý kiến được thể hiện khác nhau: Ở khu vực công cộng, chức năng bày tỏ ý kiến được thể hiện dưới hai hình thức: Bày tỏ ý kiến dưới hình thức phán xử như một quan toà.
Kiểm toán thực hiện kiểm tra các tài liệu, tình hình quản lý của các tổ chức, cá nhân có sử dụng ngân sách nhà nước để xác minh tính chính xác và hợp lệ của tài liệu thu, chi trong đơn vị đó. Đồng thời, khi có sai phạm xảy ra, kiểm toán có quyền ra quyết định xửlý như một quan toà thông qua các phánquyết của mình.
Theo hình thức này, khi đã có quyết định thì bắt buộc phải điều chỉnh theo ý kiến kết luận của kiểm toán viên, nếu không sẽ bị xử phạt theo hình thức phán quyết của toà án.
Ở Việt Nam, cơ quan kiểm toán nhà nước áp dụng theo hình thức thứ hai, tức là sau khi thực hiện kiểm toán, kiểm toán nhà nước sẽ đưa ý kiến tư vấn cho đơn vị điều chỉnh chứ không cưỡng bức thi hành. Việc điều chỉnh hay không là tùy thuộc đơn vị, nếu đơn vị không điều chỉnh, Cơ quan Kiểm toán nhà nước không có quyền trực tiếp xử phạt mà chỉ có thể đệ trình lên các cấp có thẩm quyền để xử phạt.
Ở khu vực kinh doanh hoặc các dự án ngoài ngân sách nhà nước Chức năng bày tỏ ý kiến được thực hiện chủ yếu dưới hình thức tư vấn. Đây là việc kiểm toán viên đưa ra các ý kiến tư vấn cho doanh nghiệp được kiểm toán về các vấn đề mà họ quan tâm.
Khác với khu vực công, chức năng bày tỏ ý kiến của kiểm toán có thể thực hiện dưới hai hình thức: phán quyết như một quan toà hoặc tư vấn -điều đó tùy thuộc vào từng loại hình kiểm toán và từng điều kiện các quốc gia thì ở khu vực kinh doanh hoặc các dự án ngoài ngân sách nhà nước, kiểm toán không có quyền phán quyết như một toà án mà chỉ có một hình thức duy nhất là tư vấn.
Ngày nay, ngoài việc tư vấn trong lĩnh vực tài chính kế toán về các vấn đề kiểm toán viên phát hiện trong quá trình kiểm toán, các công ty kiểm toán còn phát triển chức năng tư vấn này sang nhiều lĩnh vực chuyên sâu hơn như: tư vấn thuế, tư vấn đầu tư, tư vấn xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ…
Hầu hết các công ty kiểm toán đều có bộ phận riêng chuyên chịu trách nhiệm về mảng tư vấn, bộ phận này gồm các nhân viên được đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực nào đó. Ví dụ: được đào tạo chuyên sâu về thuế sẽ đảm nhận chức năng tư vấn thuế… Và thực tế, dịch vụ tư vấn đã chiếm một tỷ lệ doanh thu khá lớn trong các công ty kiểm toán.
Như vậy, chúng ta thấy, chức năng bày tỏ ý kiến chính là việc đưa ra kết luận của kiểm toán viên về chất lượng thông tin, tính pháp lý và tư vấn qua xác minh. Sản phẩm của việc bày tỏ ý kiến về chất lượng thông tin được thể hiện trên “Báo cáo kiểm toán” và sản phẩm của việc đưa ra ý kiến tư vấn thể hiện trên “Thư quản lý”.