Giải Pháp Thực Hiện Bảo Vệ Môi Trường / Top 15 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Quảng Ninh: Thực Hiện Nhiều Giải Pháp Bảo Vệ Môi Trường

Thực hiện Chỉ thị 25/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong những năm qua, Quảng Ninh đã thực hiện đồng loạt nhiều giải pháp để nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường. Ý thức chấp hành các quy định của pháp luật bảo vệ môi trường của các cơ sở, doanh nghiệp có nhiều chuyển biến tích cực. Các điểm nóng về môi trường đã được quan tâm giải quyết và được theo dõi giám sát chặt chẽ.

Theo đó, trong thời gian qua, Quảng Ninh cơ bản đã triển khai thực hiện nghiêm túc các nội dung theo chỉ đạo và đạt một số kết quả tích cực, công tác môi trường toàn tỉnh dần được kiểm soát, nhận thức của cộng đồng dân cư về bảo vệ môi trường ngày càng được nâng lên.

Cụ thể, tỉnh đã ban hành các quy chuẩn kỹ thuật môi trường của địa phương, trong đó tập trung vào các lĩnh vực có nguy cơ gây ô nhiễm cao và các đô thị đông dân cư, khu vực có hệ sinh thái nhạy cảm cần được bảo vệ.

Bên cạnh đó, Quảng Ninh cũng đã tập trung xử lý triệt để, di dời các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng ra khỏi khu dân cư, chuyển vào các khu công nghiệp, đồng thời yêu cầu tất cả các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung; buộc các đơn vị có quy mô xả lớn lắp đặt ngay các thiết bị kiểm soát, giám sát hoạt động xả thải theo quy định của pháp luật về truyền số liệu trực tiếp về Sở Tài nguyên và Môi trường.

Đến thời điểm hiện tại, Quảng Ninh đã hoàn thành xử lý 100% cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và trên địa bàn tỉnh không có cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng mới phát sinh; 5/5 KCN (KCN Cái Lân, KCN Hải Yên, KCN Đông Mai, KCN Việt Hưng, KCN Hải Hà- giai đoạn 1) hoạt động và đã đầu tư hệ thống xử lý nước thải tập trung. Quảng Ninh cũng đã lập kế hoạch và tổ chức thực hiện việc dừng tiếp nhận rác tại 3 bãi rác: Đèo Sen, Hà Khẩu, Quang Hanh, đồng thời thực hiện cải tạo phục hồi môi trường các bãi rác trên đảm vệ sinh theo đúng quy định.

Đối với Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) và Tổng Công ty Đông Bắc đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị trực thuộc có hoạt động sản xuất kinh doanh than trên địa bàn thường xuyên tổ chức tuần tra, kiểm soát, phát hiện xử lý kịp thời không để xảy ra hiện tượng khai thác, vận chuyển, chế biến, tiêu thụ than trái phép. Riêng ở tất cả các kho chế biến, khu vực sàng tuyển than đều được xây tường bao kiên cố, có hệ thống phun sương dập bụi, bê tông hóa toàn bộ nền kho, dùng bạt che phủ đảm bảo không thất thoát than khi có mưa to, trồng cây xanh cải tạo phục hồi môi trường để hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng của các hoạt động khai thác mỏ tới môi trường.

Hiện nay, Tổng Công ty Đông Bắc đang thực hiện công tác giải phóng mặt bằng khu vực xây dựng tuyến băng tải than tại xã Hồng Thái Tây (TX Đông Triều); cầu vượt quốc lộ 18 tại Cảng Km6 và Cảng Khe Dây (TP Cẩm Phả). Tập đoàn TKV đã hoàn thành đầu tư tất cả các tuyến băng tải vận chuyển ra cảng theo cam kết với tỉnh. Đồng thời đã hoàn thành xây dựng hệ thống cấp nước chống bụi khu vực bãi thải Nam Khe Tam – Đông Khe Sim và bãi thải Đông Cao Sơn.

Ngoài ra, ngành than đang tích cực hoàn thiện Đề án đảm bảo môi trường cấp bách ngành than giai đoạn 2016 – 2020, đẩy nhanh tiến độ cải tạo phục hồi môi trường các khu vực đã kết thúc khai thác, đổ thải…

Để tăng cường công tác quản lý và bảo vệ môi trường, UBND tỉnh Quảng Ninh đã chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường phối hợp với các cơ quan chuyên môn, UBND các địa phương thường xuyên kiểm tra việc chấp hành quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các dự án trong quá trình thi công xây dựng cũng như đi vào hoạt động.

Đặc biệt, Quảng Ninh đã phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường thanh kiểm tra Nhà nước về bảo vệ môi trường đối với một số cơ sở sản xuất, kinh doanh trên địa bàn tỉnh. Qua các đợt thanh tra, kiểm tra đã hướng dẫn doanh nghiệp hoàn thiện thủ tục hồ sơ sau thẩm định còn thiếu như lập kế hoạch quản lý môi trường; kế hoạch chạy vận hành thử nghiệm công trình xử lý môi trường; hồ sơ đề nghị kiểm tra, xác nhận việc đã hoàn thành các công trình xử lý môi trường; hồ sơ đề nghị kiểm tra xác nhận việc đã hoàn thành công trình bảo vệ môi trường phục vụ giai đoạn vận hành của dự án.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hiện tại Quảng Ninh vẫn còn tồn tại, vướng mắc như: Công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm trong việc quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu chưa được thường xuyên.

Lãnh đạo UBND tỉnh Quảng Ninh cho biết, để khắc phục những tồn tại nêu trên, thời gian tới, tỉnh Quảng Ninh sẽ tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đổi mới đến các tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp, nhân dân nhằm nâng cao nhận thức về công tác bảo vệ môi trường, qua đó có những hành động thiết thực để bảo vệ môi trường; lồng ghép nội dung ứng phó biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường vào các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội địa phương và quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực; phối hợp giữa các địa phương trong quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường; đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường, bố trí, quản lý và sử dụng nguồn kinh phí sự nghiệp môi trường đúng mục đích; đa dạng hóa các nguồn đầu tư; tăng cường hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường…

Tỉnh Quảng Ninh cũng kiến nghị với Bộ Tài nguyên và Môi trường sớm nghiên cứu, xây dựng, ban hành quy định về việc đốt, khởi động lò của các nhà máy nhiệt điện, nhà máy xi măng để hạn chế những tác động xấu đến môi trường và cảnh quan đô thị; ban hành quy định về ngưỡng chất thải nguy hại mới, đồng thời nghiên cứu, ban hành quy định và hướng dẫn thực hiện công tác bảo vệ môi trường đối với khu vực nông thôn.

Thực Hiện Pháp Luật Về Bảo Vệ Môi Trường Ở Việt Nam

Vấn đề bảo vệ môi trường (BVMT) đang được các quốc gia trên thế giới hết sức quan tâm và đặt ưu tiên hàng đầu trong hoạch định chính sách phát triển kinh tế, xã hội của mình. Bởi lẽ, môi trường là một điều kiện cốt tử bảo đảm cho sự phát triển bền vững của tất cả các quốc gia. Ngày nay sự quan tâm của các quốc gia trên thế giới không phải là khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên để tạo ra năng suất và sản lượng bằng mọi giá mà phải bảo đảm sự cân đối với việc duy trì, bảo vệ và nuôi dưỡng nguồn tài nguyên thiên nhiên cho các thế hệ mai sau. Trong xu thế ấy, Việt Nam cũng đang tiến hành hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi trường, cùng với việc nỗ lực tham gia các công ước quốc tế, cũng như tích cực nội luật hoá các cam kết quốc tế về BVMT nhằm BVMT hiệu quả hơn trước yêu cầu của phát triển bền vững.

1. Thực trạng thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường

Pháp luật nước ta quy định, có hai hình thức xử phạt hành vi vi phạm trong lĩnh vực BVMT là cảnh cáo và phạt tiền, trong đó mức quy định phạt tiền tối đa đối với một hành vi vi phạm là 70 triệu đồng. Ngoài ra, cá nhân, tổ chức vi phạm có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả: buộc thực hiện có thời hạn các biện pháp BVMT do cơ quan quản lý nhà nước về BVMT yêu cầu; buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường do hành vi vi phạm gây ra; buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hóa, vật phẩm gây ô nhiễm môi trường; buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây ô nhiễm môi trường.

Trong những năm gần đây, tình hình vi phạm pháp luật về môi trường diễn ra phổ biến trên nhiều lĩnh vực. Tội phạm môi trường đã làm suy giảm nguồn tài nguyên thiên nhiên, suy thoái môi trường sinh thái, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe cộng đồng và sự phát triển bền vững của đất nước. Một số lĩnh vực điển hình thường xuất hiện những vi phạm pháp luật về BVMT là:

– Lĩnh vực sản xuất, nhất là tại các khu công nghiệp, khu chế xuất: Lợi dụng chủ trương mở cửa, chính sách thu hút vốn đầu tư của Nhà nước và chính quyền các địa phương cùng với những sơ hở về pháp luật trong lĩnh vực BVMT của Việt Nam, nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước đã đầu tư các dự án sản xuất kinh doanh, nhưng không chú trọng việc xây dựng các hệ thống xử lý chất thải, coi đây là giải pháp giảm chi phí, tăng lợi nhuận. Cả nước có gần 200 khu công nghiệp, trong đó có đến 70% chưa xây dựng hệ thống xử lý chất thải (rắn và lỏng), nhất là các nhà máy, cơ sở sản xuất trong các khu công nghiệp đang trong giai đoạn hoàn thiện và các cơ sở nằm trên lưu vực sông. Đáng lo ngại là các doanh nghiệp tuy có hệ thống xử lý chất thải, nhưng luôn cố tình vi phạm, thủ đoạn tinh vi, lén lút để xả thải ra môi trường như xây dựng hệ thống bí mật, phức tạp, được ngụy trang bằng hệ thống đạt tiêu chuẩn nên rất khó phát hiện, như vụ Công ty Vedan Việt Nam, Công ty trách nhiệm hữu hạn Miwon, Công ty thuộc da Hào Dương, Công ty giấy Việt Trì…

– Lĩnh vực sản xuất làng nghề, nông nghiệp:Hiện cả nước có khoảng trên 2.790 làng nghề thuộc 7 nhóm ngành nghề[1] như: chế biến lương thực, thực phẩm, dược liệu; ươm tơ, dệt vải, đồ da; thủ công mỹ nghệ, thêu ren; sản xuất vật liệu xây dựng và các ngành nghề khác. Các làng nghề này cơ bản đã mang lại lợi ích kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân. Bên cạnh đó, sự phát triển các làng nghề cũng đặt môi trường trong tình trạng báo động. Chất thải từ hoạt động sản xuất của các làng nghề nhìn chung không được xử lý mà xả trực tiếp ra mương, rãnh, ao, ruộng lúa. Nhiên liệu sử dụng phổ biến là than, củi làm sản sinh các loại khí nhà kính như SO 2, CO 2, CO,, H 2S, NH 3, CH 4. Các chất thải độc hại khó phân hủy tại các làng nghề, đặc biệt là các làng nghề thuộc da, dệt nhuộm và tái chế kim loại, đã làm cho các chỉ tiêu BOD, COD, SS đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép nhiều lần, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và sức khỏe của nhân dân. Nguyên nhân là do hầu hết làng nghề đều có quy mô sản xuất nhỏ lẻ ở hộ gia đình, trình độ sản xuất thủ công theo kinh nghiệm, công nghệ sản xuất thô sơ, nên thường không quan tâm đến vấn đề xử lý chất thải. Trong khi đó, công tác quản lý môi trường ở nông thôn nói chung còn ít được quan tâm, chưa có giải pháp đồng bộ của chính quyền các cấp về quy hoạch và cải thiện môi trường làng nghề.

Đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp, những vi phạm phổ biến là trong quá trình nuôi trồng sử dụng tùy tiện, tràn lan các loại thuốc kháng sinh, thức ăn chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực vật đã gây nguy cơ tồn dư thuốc kháng sinh, thuốc bảo vệ thực vật trong thực phẩm. Việc xử lý chuồng trại, chất thải trong chăn nuôi chưa được chú ý, thường thải ra cống rãnh tự nhiên.

– Lĩnh vực nhập khẩu: Có tình trạng nhập khẩu trái phép chất thải vào nước ta dưới hình thức phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, kể cả thiết bị công nghệ lạc hậu dẫn đến nguy cơ biến nước ta thành bãi rác thải công nghiệp, với thủ đoạn rất tinh vi như “tạm nhập, tái xuất”, khi bị phát hiện thì khai là “gửi nhầm hàng” và xin được chuyển trả lại… Một số doanh nghiệp lợi dụng cơ chế kiểm hóa bằng xác suất (10% khối lượng hàng nhập), thậm chí móc nối với nhân viên hải quan, kiểm định, lấy mẫu trong các lô hàng đảm bảo yêu cầu chất lượng đã được chuẩn bị sẵn, từ đó dễ dàng được thông quan nhập rác vào nước ta. Nhiều doanh nghiệp biết có vi phạm nhưng vẫn cố tình đưa phế liệu rác về cảng, xin nộp phạt để thông quan, coi như “đã lỡ”. Đây là một trong những hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận cao vì doanh nghiệp “ăn hai mang”, vừa được tiền do các chủ nguồn chất thải chi trả để thu gom, vận chuyển, vừa được các cơ sở sản xuất trong nước mua lại để tái chế sử dụng. Hơn nữa, đây lại là một nguồn nguyên liệu sản xuất dồi dào, giá rẻ nên các doanh nghiệp, từ công ty vận tải, nhập khẩu cho đến các cơ sở tái chế bất chấp quy định của pháp luật, liên tục phạm pháp với quy mô và số lượng lớn. Trong 5 năm gần đây, đã có khoảng 4.000 container chứa ắc quy chì đã qua sử dụng, nhập vào Việt Nam qua các cửa khẩu quốc tế, vi phạm nghiêm trọng Công ước Basel, Luật BVMT và Quyết định số 155/1999/QĐ-TT ngày 16/4/1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý chất thải nguy hại.

Hoạt động nhập, phá dỡ tàu cũ ở Hải Phòng và một số tỉnh cũng đặt môi trường khu vực vào tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng. Các chất thải độc hại như: dầu mỡ, bụi xỉ chứa kim loại nặng, nước thải khó có thể khắc phục, nguy cơ gây ô nhiễm môi trường trên diện rộng. Điển hình như Công ty Huyndai Vinashin (Khánh Hòa) thải ra hàng trăm nghìn tấn hại xỉ (hạt NIX) và các loại chất thải độc hại khác. Kết quả phân tích mẫu đất tại khu vực có hạt xỉ đồng và nước thải cho thấy hàm lượng Asen vượt 23,5 lần giới hạn cho phép, hàm lượng chì gấp 21 lần so với mẫu đối chứng, thành phần kim loại nặng khác như đồng, cadimi cũng vượt tiêu chuẩn cho phép hàng chục lần.

– Lĩnh vực khai thác lâm sản, khoáng sản, nước ngầm, bảo vệ đa dạng sinh học: Thời gian qua, nạn chặt phá rừng ở nước ta vẫn đang diễn ra rất bức xúc, đặc biệt là tình trạng chặt phá các khu rừng nguyên sinh, khu bảo tồn thiên nhiên, rừng phòng hộ. Điển hình là vụ phá rừng Quốc gia Konkakinh, vụ chặt hạ 5.000 ha rừng phòng hộ huyện Phú Ninh (Quảng Nam). Ngay tại Hà Nội cũng diễn ra tình trạng xâm hại hệ thống cây xanh với việc chặt hạ hàng chục cây gỗ trắc, gỗ sưa gây bức xúc trong dư luận. Năm 2007, cả nước phát hiện 5.922 vụ vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng, đặc biệt là lợi dụng chính sách chuyển đổi “rừng nghèo”, xây dựng thủy điện, phát quang biên giới để khai thác rừng bừa bãi. Năm 2008 và những tháng đầu năm 2009 số vụ vi phạm pháp luật về bảo vệ rừng tuy giảm nhưng tính chất, mức độ ngày càng nghiêm trọng, nạn phá rừng kèm theo tình trạng chống người thi hành công vụ gây phức tạp tình hình an ninh trật tự ở nhiều địa phương như Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Bình… Tại các khu vực khai thác khoáng sản, do sử dụng hóa chất như thủy ngân, kim loại nặng, nên nguồn nước sinh hoạt, tưới tiêu bị ô nhiễm. Khai thác cát, sỏi bừa bãi cũng làm cho nhiều dòng sông bị xói lở, biến đổi dòng chảy. Các hiện tượng trên làm ảnh hưởng hệ sinh thái, gây phong hóa, rửa trôi, biến rừng thành đất trống đồi núi trọc, tiềm ẩn nguy cơ lũ quét cao. Nguồn nước ngầm bị khai thác bừa bãi, tràn lan. Hầu hết các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, nhất là các cơ sở không thuộc diện phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường (các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ) đều tự ý khoan giếng để khai thác và sử dụng nước mà không có giấy phép của cơ quan có thẩm quyền.

Tình trạng săn bắn, buôn bán, vận chuyển động vật hoang dã, quý hiếm diễn ra công khai ở nhiều nơi. Qua một số vụ việc do lực lượng cảnh sát môi trường điều tra, khám phá cho thấy vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này tiếp diễn phức tạp, nhất là buôn bán các loài động vật quý hiếm có lợi nhuận cao như hổ, tê tê. Các đường dây mua bán, vận chuyển động vật hoang dã qua biên giới thủ đoạn tinh vi, che giấu bằng nhiều hình thức, nhất là lợi dụng chính sách “tạm nhập, tái xuất”, như vụ Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Talu nhập trên 23 tấn tê tê che phủ bằng cá đông lạnh qua cảng Hải Phòng, vụ nhập khẩu 2800 kg rùa, rắn qua cửa khẩu Cầu Treo… Việc nuôi nhốt động vật hoang dã (có hoặc không có giấy phép) diễn ra tràn lan, công khai, khó kiểm soát.

Hoạt động khai thác có tính chất hủy hoại nguồn lợi thủy hải sản có biểu hiện phức tạp. Đã phát hiện tình trạng lợi dụng hoạt động đánh bắt thủy hải sản để khai thác trái phép các loài quý hiếm như rùa biển, san hô đen… Ở khu vực nông thôn hiện vẫn còn tình trạng sử dụng kích điện, chất nổ để đánh bắt cá trên các sông ngòi, kênh rạch nhỏ, dẫn đến tình trạng hủy diệt hàng loạt nhiều loài thủy sinh và gây ô nhiễm nguồn nước. Bên cạnh đó, môi trường sinh thái biển cũng đang có nguy cơ bị ô nhiễm do các hoạt động nuôi trồng thủy sản trên cát hoặc khu vực cửa sông, vận tải hàng hải, thăm dò dầu khí, thậm chí đã xảy ra việc một số doanh nghiệp hoạt động nạo vét luồng lạch, các tàu thuyền đưa hàng trăm tấn chất thải đổ ra biển (như vụ tàu Merci của Hoa Kỳ đổ 500 tấn chất thải ra biển Đà Nẵng).

– Lĩnh vực quản lý và xử lý chất thải:Tại các bệnh viện, lượng chất thải hàng ngày ra môi trường rất lớn, nhưng đến nay mới có khoảng trên 20% bệnh viện, cơ sở y tế có hệ thống xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn, hầu hết rác thải chưa được quản lý và xử lý chặt chẽ theo quy chế xử lý chất thải y tế. Nhiều loại rác thải y tế nguy hại như bệnh phẩm, vỏ chai, dây chuyền dịch, bơm kim tiêm đã qua sử dụng để lẫn lộn với rác thải thông thường. Nhân viên bệnh viện không nắm rõ quy trình thu gom, xử lý, thậm chí một số bệnh viện còn cho phép thu gom để bán cho cơ sở tái chế để “tận thu”. Điển hình, năm 2007 lực lượng Cảnh sát môi trường đã kiểm tra và phát hiện một số bệnh viện lớn ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh (như Bệnh viện K, Bạch Mai, Chợ Rẫy, Chấn thương chỉnh hình thành phố Hồ Chí Minh) đã vi phạm các quy định về quản lý, xử lý chất thải y tế, trong đó đã phát hiện hàng nghìn kg chất thải y tế nguy hại được các bệnh viện trên bán cho tư nhân bên ngoài, gồm dây chuyền dịch, bơm kim tiêm…(trong đó có nhiều loại còn dính máu và dịch truyền).

– Đối với rác thải công nghiệp, rất nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh nhằm giảm chi, đã xử lý rác thải tại chỗ bằng phương pháp đốt hoặc chôn lấp thông thường, hoặc thuê xe vận chuyển rác đi nơi khác đổ trái phép. Tập đoàn Điện lực còn lỏng lẻo trong việc quản lý dầu thải chứa chất đặc biệt nguy hại (PCB), dẫn đến tình trạng thu mua, tái chế trái phép chất thải nguy hại diễn ra tại nhiều địa phương. Nhiều tổ chức, cá nhân hành nghề thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải không thực hiện đúng quy định như sử dụng phương tiện không chuyên dụng, không phân loại chất thải sau khi thu gom, chôn lẫn rác thải nguy hại với rác thải thông thường… như vụ Công ty trách nhiệm hữu hạn Tân Đức Thảo (thành phố Hồ Chí Minh), Công ty trách nhiệm hữu hạn Song Tinh (Vĩnh Phúc), Công ty trách nhiệm hữu hạn Sông Xanh (Bà Rịa Vũng Tàu) chôn lấp hơn 4.600m 3 chất thải và cát nhiễm dầu. Hoạt động thu mua, vận chuyển và tái chế trái phép ắc quy chì vẫn diễn ra ở nhiều nơi, có vụ diễn ra với quy mô lớn như vụ doanh nghiệp tư nhân Hưng Nhung (Hưng Yên) vận chuyển trái phép 100 tấn ắc quy chì từ Nam ra Bắc…

– Rác sinh hoạt, phế thải xây dựng không tập kết đúng chỗ, đổ bừa bãi ở hai bên đường. Các bãi rác Phước Hiệp (thành phố Hồ Chí Minh), Như Quỳnh (Hưng Yên), Phù Chẩn (Bắc Ninh)… quá tải gây ô nhiễm nghiêm trọng. Thậm chí tại các bãi rác tập trung, rác thải sinh hoạt đổ lẫn với rác thải công nghiệp có chứa thành phần nguy hại, không được xử lý đúng quy trình, chủ yếu được chôn lấp hoặc thiêu đốt thông thường (không có lò thiêu chuyên dụng), nước thải rò rỉ từ các bãi rác, ngấm vào đất, nguồn nước ngầm, chảy ra đồng ruộng.

– Trong lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm, dịch bệnh: Liên tục phát hiện các vụ việc thực phẩm có chứa chất có hại cho sức khỏe con người như nước tương chứa chất 3-MCPD gây ung thư, bánh phở chứa phormol, thực phẩm chứa hàn the, sữa có chứa melamine, kẹo bột đá… Nhiều cơ sở sản xuất hoặc không chấp hành quy trình xử lý chế biến thực phẩm, nước uống, hoặc cố tình thêm các loại hóa chất và phụ gia bảo quản, đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe cộng đồng, như vụ sản xuất kẹo có chứa bột đá tại Hoài Đức (Hà Nội), vụ công ty Hanosa (Hà Nội) sản xuất rượu giả, rượu kém chất lượng… Tại các chợ đầu mối có tình trạng dùng hóa chất ngâm tẩm, tẩy rửa thực phẩm kém chất lượng, như vụ tẩy trắng mực quá hạn tại chợ đầu mối Long Biên, bán thịt lợn bệnh tại Đồng Nai… Hoạt động giết mổ gia súc, gia cầm tùy tiện, không rõ nguồn gốc, không được kiểm dịch thú y, các cơ sở giết mổ không đảm bảo vệ sinh theo quy định; gia súc, gia cầm bị bệnh chết không được chôn lấp hợp vệ sinh; thường xuyên có biểu hiện che giấu thông tin về dịch bệnh để tránh bị tịch thu tiêu hủy mà lén lút mang đi tiêu thụ. Phần lớn nhà hàng, quán ăn sử dụng nguyên liệu thực phẩm không rõ nguồn gốc hoặc không có kiểm định về chất lượng, thậm chí tận dụng các loại thực phẩm hỏng, quá hạn sử dụng; thêm các chất phụ gia, hóa chất nhằm kích thích khẩu vị; không có biện pháp bảo quản, che đậy hợp vệ sinh; người chế biến không có đầy đủ kiến thức về y khoa; chất thải không được xử lý đúng quy định. Những vi phạm trên là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng lây lan dịch bệnh và ngộ độc thực phẩm hàng loạt tại nhiều địa phương.

Tình trạng nhập lậu vào tiêu thụ trong nội địa các loại gia súc, gia cầm chưa được kiểm dịch từ Trung Quốc, Campuchia… diễn ra hết sức nhức nhối. Tính riêng trong năm 2008, Công an tỉnh Lạng Sơn bắt giữ 154 vụ buôn bán, vận chuyển trên 111 tấn gia cầm, 54.840 quả trứng. Ngoài ra, mỗi năm còn có hàng trăm tấn nội tạng động vật, chân gà… ngâm tẩm mầu, hóa chất được đưa trái phép vào nước ta, bán tại các chợ đầu mối và cung cấp chủ yếu cho các quán ăn, nhà hàng, là nguồn gây bệnh rất nguy hiểm cho một bộ phận lớn người tiêu dùng.

– Tình trạng trốn hoặc gian lận trong việc nộp phí BVMT diễn ra khá phổ biến ở các doanh nghiệp, các tổ chức, các cơ sở sản xuất kinh doanh và các bệnh viện. Nguyên nhân của tình trạng này là do cơ quan quản lý nhà nước chưa tuyên truyền rộng rãi, chưa có cơ chế thu, nộp phí BVMT rõ ràng, mặt khác đối với những trường hợp vi phạm chưa có chế tài xử phạt đủ mạnh để răn đe, phòng ngừa (vụ công ty Vedan truy thu trên 127 tỷ đồng, công ty cổ phần giấy Việt Trì truy thu trên 1 tỷ đồng…).

Việc BVMT không những được quy định trong Luật BVMT, mà còn được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật khác điều chỉnh các hoạt động của con người khi tác động vào thiên nhiên, ảnh hưởng đến môi trường sống.

Nhìn chung, cho đến nay hệ thống pháp luật về môi trường ở nước ta đã phát triển cả nội dung và hình thức, điều chỉnh tương đối đầy đủ các thành tố tạo nên môi trường. Hệ thống các tiêu chuẩn của môi trường cũng đã được ban hành làm cơ sở cho việc kiểm soát, đánh giá tác động môi trường. Các văn bản pháp luật được ban hành bước đầu đã tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý nhà nước về BVMT, nâng cao nhận thức của cơ quan nhà nước, tổ chức, công dân đối với vấn đề môi trường. Với tư cách là thành viên của Liên hợp quốc và Chương trình môi trường Liên hợp quốc, Việt Nam đã rất quan tâm đến việc hội nhập quốc tế trong lĩnh vực BVMT. Tính đến nay, nước ta đã tham gia 14 công ước, hiệp định quốc tế về môi trường; đẩy mạnh hợp tác song phương và đa phương với các nước trong và ngoài khu vực về BVMT.

Tuy nhiên, nhìn vào tổng thể hệ thống pháp luật của nước ta hiện nay, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy các quy định của pháp luật về BVMT còn rất nhiều bất cập và hạn chế trước yêu cầu của phát triển bền vững:

Một là, chưa có sự gắn kết chặt chẽ, hữu cơ giữa các quy định về phát triển kinh tế với các quy định về BVMT. Yếu tố môi trường chưa thực sự được coi trọng và tính đến nhiều trong quá trình xây dựng và ban hành luật như các vấn đề về thương mại, đầu tư và phát triển kinh tế bởi những đòi hỏi bức xúc về phát triển kinh tế. Hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật về kinh tế còn chưa tính đến chi phí môi trường trong sản xuất kinh doanh. Còn thiếu vắng những công cụ kinh tế nhằm BVMT như lệ phí môi trường, thuế môi trường, người gây ô nhiễm phải trả tiền… làm cho công tác BVMT không phát huy được sự kích thích từ góc độ kinh tế đối với những chủ thể sử dụng các thành phần môi trường cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, gây ảnh hưởng đến môi trường, sinh thái. Vì thế, có thể nói rằng hiện tại các chính sách, pháp luật về kinh tế chưa thực sự “thân môi trường”.

Hai là, các quy định của pháp luật về BVMT tương đối đầy đủ cả ở luật nội dung và hình thức nhưng chưa có một cơ chế pháp lý hữu hiệu trong việc kiểm soát các hoạt động tác động vào tự nhiên, ảnh hưởng đến môi trường, sinh thái, Các chế tài chưa thích hợp và chưa đủ mạnh để trừng trị và răn đe những hành vi vi phạm. Vì vậy, nghĩa vụ đánh giá tác động môi trường của các chủ thể tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hầu như còn hình thức. Các hoạt động gây ảnh hưởng đến môi trường, sinh thái như gây ô nhiễm nguồn nước, không khí, chặt phá rừng… vẫn tiếp tục diễn ra, không được ngăn chặn triệt để.

Ba là, những quy định về biện pháp xử lý vi phạm giữa các văn bản pháp luật về môi trường còn có những khoảng trống nên không có biện pháp xử lý thích hợp đối với chủ thể vi phạm. Cụ thể như, Điều 27 Luật Tài nguyên nước quy định cấm tổ chức, cá nhân gây nhiễm mặn nguồn nước. Nếu coi đây là hành vi gây ô nhiễm nguồn nước thì phải được xử phạt hành chính về hành vi gây ô nhiễm nguồn nước nói chung nhưng rất tiếc là Nghị định số 26/CP ngày 26/4/1996 của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực BVMT lại không quy định về vấn đề này. Vì vậy, mặc dù Điều 183 Bộ luật Hình sự năm 1999 có quy định về tội gây ô nhiễm nguồn nước nhưng khó có thể thực hiện trong thực tiễn được vì chưa bị xử lý vi phạm hành chính… Vì thế, hiệu quả của việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường còn thấp.

Bốn là, pháp luật về trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực BVMT còn quá chung chung, khó áp dụng. Mặc dù, các quy định về bồi thường thiệt hại của người có hành vi gây ô nhiễm môi trường đã được đề cập nhưng các quy định này chỉ dừng lại ở mức độ chung chung. Trách nhiệm chấm dứt hành vi vi phạm, khôi phục lại môi trường và bồi thường thiệt hại chỉ được quy định trong văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Còn đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường mới chỉ dừng lại ở quy định chung chung, mang tính nguyên tắc trong Luật BVMT, Bộ luật Dân sự, đến nay vẫn chưa được quy định cụ thể, hướng dẫn thực hiện. Ngay trong các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, đến nay cũng chưa có quy định nào hướng dẫn về các phương pháp xác định thiệt hại, xác định mức bồi thường.

Trước yêu cầu thực tế và thực hiện Chỉ thị số 29-CT/TW về việc đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 41-NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá IX) “Về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” việc thực hiện pháp luật BVMT phải đáp ứng các yêu cầu sau:

Hai là, xã hội hóa các hoạt động thực hiện pháp luật về BVMT bằng cách tăng cường sự tham gia của các tổ chức chính trị – xã hội, đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc tham gia quản lý, tổ chức thực hiện và giám sát công tác BVMT. Chính quyền các cấp cần phối hợp và hỗ trợ về mọi mặt để phát huy tối đa vai trò công tác xã hội, đa dạng hoá các hoạt động BVMT, có cơ chế khuyến khích mọi thành phần kinh tế thực hiện dịch vụ BVMT. Xây dựng mối quan hệ cộng tác giữa các tổ chức đảng – Nhà nước – Mặt trận, đoàn thể – doanh nghiệp. Nội dung của việc xã hội hóa công tác BVMT là huy động ở mức cao nhất sự tham gia của xã hội vào công tác BVMT; xác lập các cơ chế khuyến khích, các chế tài hành chính, hình sự và thực hiện một cách công bằng, hợp lý đối với tất cả các cơ sở nhà nước và tư nhân khi tham gia hoạt động BVMT; nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội trong công tác BVMT; đưa BVMT vào nội dung hoạt động của các khu dân cư và phát huy vai trò của các tổ chức này trong công tác BVMT;

Ba là, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực môi trường, đặc biệt là hợp tác quốc tế về pháp luật. Cần tìm cơ chế thích hợp để đẩy mạnh hơn nữa việc nội luật hoá các cam kết quốc tế về BVMT mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia và xác định rõ hiệu lực pháp lý của cam kết quốc tế đó. Đồng thời, cần phải xây dựng cơ chế bảo đảm thực thi hiệu quả các cam kết quốc tế đó tại Việt Nam. Mở rộng hợp tác quốc tế về môi trường trên tinh thần tôn trọng và thực hiện nghiêm túc các công ước quốc tế mà nước ta ký kết tham gia. Ưu tiên mở rộng quan hệ quốc tế về BVMT trong phạm vi khu vực dưới hình thức thiết lập các chương trình, dự án đa phương và song phương. Chú ý mở rộng mối quan hệ hợp tác đôi bên cùng có lợi;

Bốn là, tăng nguồn chi cho sự nghiệp BVMT. Từ năm 2006, ngân sách cho BVMT đã được bố trí thành một nguồn riêng (chi sự nghiệp môi trường) với quy mô không thấp hơn 1% tổng chi ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, nhằm giải quyết những vấn đề môi trường cấp thiết, cần phải tăng chi ngân sách. Tăng mức chi cho sự nghiệp BVMT cần phải cải thiện được chất lượng môi trường hướng đến một nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững, tăng thụ hưởng cho người dân./

Giải Pháp Bảo Vệ Môi Trường

KIẾN TRÚC SINH THÁI – GIẢI PHÁP BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG

Chúng ta có cần đến kiến trúc sinh thái không?

Kiến trúc sinh thái – giải pháp bảo vệ môi trường. Những năm gần đây, ô nhiễm môi trường trở thành một vấn đề cấp bách và nan giải trên toàn thế giới. Môi trường bị ô nhiễm ngày càng trầm trọng và ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của con người cũng như các loài động thực vật trên Trái Đất. Không khí, đất đai, nguồn nước “sạch” đang biến mất hàng ngày, hàng giờ. Vì thế, cần có một giải pháp để giải cứu hành tinh của chúng ta khỏi sự hủy diệt của ô nhiễm môi trường: là KIẾN TRÚC SINH THÁI. Theo nghiên cứu của Ủy Ban Hợp Tác Môi Trường (Commission for Environmental Cooperation): Tại những quốc gia phát triển, các tòa nhà chiếm 40% tổng năng lượng được sử dụng, 38% lượng CO2 thải ra và 60% rác thải sinh hoạt. Theo dự đoán, nếu ngành công nghiệp xây dựng vẫn duy trì như hiện nay, đến năm 2050 các tòa nhà sẽ chiếm 70% lượng CO2 thải ra. Một bức tranh tàn khốc của môi trường đã được thể hiện rất rõ ràng, vì thế, chúng ta cần kiến trúc sinh thái để thay đổi thế giới.

Định nghĩa về kiến trúc sinh thái

Kiến trúc sinh thái còn gọi là “kiến trúc xanh” hay “kiến trúc bền vững”. Trong suốt thời gian xây dựng – sử dụng – phá vỡ, một công trình kiến trúc sinh thái phải đáp ứng được các nguyên tắc sau:

Cộng sinh với môi trường tự nhiên

Sử dụng các vật liệu tái sinh

Tạo một môi trường trong lành, dễ chịu

Hoà nhập với môi trường nhân văn của lịch sử và khu vực

Ứng dụng các kỹ thuật mới tiết kiệm năng lượng

Bản chất của kiến trúc sinh thái là lấy môi trường làm trung tâm. Một nhà nghiên cứu sinh thái người Mỹ đã từng nói: “Cái hồn của công trình kiến trúc phải sinh trưởng một cách tự nhiên từ đất và đậu nhẹ nhàng lên cảnh quan”.

Lợi ích của kiến trúc sinh thái

Trách nhiệm của kiến trúc sinh thái không chỉ nghiên cứu về kiến trúc mà còn nghiên cứu môi trường xung quanh. Vì thế, kiến trúc sinh thái giúp giảm tối đa chất thải, hạn chế ô nhiễm môi trường, bảo vệ và tôn tạo tài nguyên thiên nhiên.

Về môi trường: Một không gian sống bền vững, trong lành, mát mẻ không thể chỉ dựa vào bê-tông, sắt, thép hay máy điều hòa nhiệt độ mà phải là từ cây xanh, từ thiên nhiên. Kiến trúc sinh thái giúp đem thiên nhiên vào đời sống con người, tạo lập một môi trường sống thông thoáng và bảo vệ sức khỏe cho các thành viên trong gia đình.

Về kinh tế: Kiến trúc sinh thái sử dụng các

Kiến trúc sinh thái sử dụng các vật liệu có thể tái tạo trong tự nhiên như tre, trúc, gỗ,… và các vật liệu tiết kiệm năng lượng… mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Về thẩm mỹ: Kiến trúc sinh thái giúp con người và thiên nhiên sống chan hòa và hỗ trợ lẫn nhau. Thiên nhiên góp phần làm đẹp

Kiến trúc sinh thái giúp con người và thiên nhiên sống chan hòa và hỗ trợ lẫn nhau. Thiên nhiên góp phần làm đẹp công trình kiến trúc , kiến trúc hòa quyện tôn lên nét đẹp hùng vĩ của thiên nhiên.

KTS. Ken Yeang đã từng nói về kiến trúc sinh thái rằng: “Kiến trúc sinh thái được phát triển không phải chỉ để bảo tồn những gì được để lại, mà phải bảo đảm sự tồn tại lâu dài của sinh quyển như một tổng thể”.

Xu hướng phát triển của kiến trúc sinh thái

Kiến trúc thích ứng khí hậu

Kiến trúc có hiệu quả về năng lượng

Khai thác, chắt lọc để sử dụng những tinh hoa của kiến trúc truyền thống dân tộc bản địa.

Kiến trúc sinh thái là một nhu cầu tất yếu của thời đại. Hãy ngưng ngay những hành động phá núi, phá rừng để lấy nhiên liệu, hãy thay đổi thói quen xấu ảnh hưởng đến môi trường, hãy suy nghĩ về tre nứa và các vật liệu tái tạo. Khi chúng ta thay đổi, hành tinh này sẽ thay đổi.

Giải Pháp Bảo Vệ Môi Trường Xanh

Bảo vệ môi trường như thế nào? Bài viết nghị luận xã hội nổi tiếng điểm cao nhất về bảo vệ môi trường văn mẫu. Những giải pháp hay giữ gìn môi trường. Môi trường ô nhiễm ảnh hưởng tới an sinh toàn cầu. Nghị luận trình bày vấn đề bảo vệ môi trường xanh sạch đẹp. Bảo vệ môi trường là hành động mang tính cấp thiết nhằm xây dựng môi trường sống an toàn, tránh xa những loại bệnh dịch gây nguy hại cho sức khỏe và tính mạng con người. Bài văn mẫu về giải pháp bảo vệ môi trường giúp chúng ta làm tốt đạt điểm số cao về nhận thức bảo vệ môi trường.

Một môi trường xanh luôn là niềm mong ước của tất cả mọi người, do con người xây dựng lên từ quá trình cải tạo và biến đổi thiên nhiên. Trong thực tế cho thấy, con người vô hình chung trực tiếp hoặc gián tiếp gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường, nguyên nhân hàng đầu gây ra bệnh ung thư hệ hô hấp hiện nay.

Ô nhiễm môi trường ngày càng có chiều hướng gia tăng trên diện rộng và mức độ ô nhiễm tăng cao. Những biện pháp bảo vệ môi trường sau đây giúp chúng ta có một môi trường xanh sạch đẹp cho mọi người.

Làm thế nào để nâng cao ý thức bảo vệ môi trường xanh – sạch – đẹp?

Ý thức bảo vệ môi trường xanh sạch đẹp là điều đầu tiên cần quan tâm đến trong quá trình bảo vệ môi trường. Con người trong quá trình khai phá, làm chủ thiên nhiên cũng là yếu tố tác động đến môi trường lớn nhất. Mặt khác, ý nghĩa của việc bảo vệ môi trường là bảo vệ các điều kiện sinh tồn tốt nhất cho chính con người và tất cả các loài sinh vật nói chung. Do đó nâng cao ý thức bảo vệ môi trường xanh sạch đẹp là thực sự quan trọng. Những biện pháp sau đây có thể nâng cao được ý thức bảo vệ môi trường.

Nghị luận xã hội bảo vệ môi trường xanh – Hoạt động giáo dục bảo vệ môi trường

Ý thức về môi trường xanh sạch đẹp cần một quá trình hình thành lâu dài. Trong đó nền tảng giáo dục bảo vệ môi trường xanh sạch đẹp là một hoạt động thiết yếu. Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cung cấp những kiến thức hữu ích để mọi người cùng tham gia bảo vệ môi trường. Các bài văn viết bảo vệ môi trường trong nhà trường cung cấp những hiểu biết về bảo vệ môi trường trong học sinh, những thế hệ sẽ làm chủ tương lai trái đất này. Giáo dục đem đến câu trả lời cho những câu hỏi: trách nhiệm của học sinh trong việc bảo vệ môi trường? những việc làm bảo vệ môi trường của học sinh? học sinh cần làm gì để bảo vệ môi trường?

Tuyên truyền bảo vệ môi trường trong cuộc sống, nghệ thuật

Hoạt động tuyên truyền bảo vệ môi trường là yếu tố quan trọng để nâng cao nhận thức, cung cấp hiểu biết về khái niệm môi trường xanh sạch đẹp? vì sao cần bảo vệ môi trường? làm thế nào để bảo vệ môi trường? một cách sâu rộng trong xã hội. Trong đó tuyên truyền qua hoạt động nghệ thuật như tranh bảo vệ môi trường xanh sạch đẹp, bài hát bảo vệ môi trường xanh có giá trị thiết thực và hữu ích.

Bài hát Bảo vệ môi trường xanh – sạch – đẹp

Bài hát bảo vệ môi trường sau đây giúp chúng ta cảm nhận được giá trị sức mạnh của nghệ thuật trong việc thúc đẩy ý thức giữ gìn môi trường sạch đẹp.

http://www.nhaccuatui.com/bai-hat/moi-truong-xanh-va.2dkwIgXRwvXg.html

Giải pháp bảo vệ xây dựng môi trường xanh – sạch – đẹp?

Làm thế nào để bảo vệ môi trường đòi hỏi những giải pháp thiết thực để bảo tồn chất lượng môi trường, nâng cao chất lượng môi trường qua những việc làm cụ thể. Nhằm làm thế nào để bảo vệ môi trường toàn diện, gồm: bảo vệ môi trường đất, bảo vệ môi trường biển, bảo vệ môi trường không khí. Như sau:

Vệ sinh sạch sẽ môi trường

Trong cuộc sống sinh hoạt và làm việc của con người. Vệ sinh môi trường đánh giá vào ý thức tự giác của mỗi cá nhân trong việc chấp hành quy định chung, đồng thời để bảo vệ sức khỏe cộng đồng.

Vệ sinh môi trường gắn liền với việc dọn dẹp nơi ở thường xuyên, không thải bừa bãi các chất có nguy cơ gây hại xuống môi trường nước, môi trường đất và môi trường không khí. Đề án thu gom rác thải vùng nông thôn cũng như các đề án giải pháp bảo vệ môi trường xanh sạch đẹp khác đã được thực hiện trong cả nước trong đó có nhiều địa phương đã thực hiện tốt, mang lại hiệu quả như Quảng Nam, Quảng Trị, Đà Nẵng…

Trồng cây gây rừng

Tình trạng khói bụi ngày càng gia tăng nên việc tăng cường trồng cây xanh trở thành hành động thật sự thiết thực và hữu ích. Thế nhưng thực tế như sự khai thác tràn lan tài nguyên thiên nhiên, biến đổi khí hậu khiến số lượng cây lim xanh trong rừng nguyên sinh ở Quảng Nam ngày càng khan hiếm.Chính quyền địa phương cần có phương án duy trì, bảo vệ những cánh rừng nguyên sinh cũng là bảo vệ môi trường sống chung của cộng đồng.

Hạn chế sử dụng túi nilon

Trong cuộc sống, mọi sinh hoạt đều sử dụng tới túi nilon như một vật dụng không thể thiếu. Nilon là chất rất khó phân hủy, khi ở trong môi trường đất hoặc nước sẽ cản trở quá trình phát triển của các sinh vật khác.

Trong sinh hoạt, việc sử dụng túi nilon trở thành một thói quen. Sử dụng túi nilon như vật dụng để đựng thực phẩm mà nhiều người không biết tới tính nguy hại.

Hãy sử dụng túi bằng vải, túi bằng giấy thay thế túi nilon để góp phần bảo vệ môi trường.

Tận dụng nguồn năng lượng mặt trời

Việc tận dụng năng lượng xanh tự nhiên cho hiệu suất sử dụng cao. Việc sử dụng năng lượng mặt trời để ứng dụng vào đời sống hoàn toàn hợp lý và làm giảm nguy cơ gây ô nhiễm môi trường.

Một môi trường xanh – sạch – đẹp đánh giá trình độ dân trí của con người, đồng thời phản ánh sự phát triển tiến bộ của nhân loại.

Phương Vũ