Giải Pháp Phát Triển Ngành Dịch Vụ / Top 6 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Đẩy Mạnh Phát Triển Ngành Dịch Vụ

Để ngành dịch vụ phát triển nhanh và bền vững, mới đây, UBND tỉnh Khánh Hòa có kế hoạch cơ cấu lại ngành này. Trong đó, các mục tiêu, nhiệm vụ và tổ chức thực hiện được vạch ra khá rõ ràng nhằm gắn dịch vụ với phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn.

Cơ cấu lại theo hướng hiện đại

Kế hoạch thực hiện cơ cấu lại ngành dịch vụ mà UBND tỉnh ban hành được xem là khung nhiệm vụ của các sở, ban, ngành và địa phương trong thực hiện mục tiêu phát triển ngành dịch vụ và phát triển kinh tế của tỉnh đến năm 2025. Trong đó, yêu cầu phát triển ngành dịch vụ nhanh, hiệu quả và bền vững, đảm bảo các dịch vụ cơ bản phục vụ cho phát triển kinh tế – xã hội, hướng tới hình thành cơ cấu kinh tế hiện đại, đảm bảo khai thác tốt các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế. UBND tỉnh xác định cơ cấu lại ngành này phải có trọng tâm, trọng điểm, khả thi và tác động mạnh, kịp thời trên thực tiễn. Khu vực doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân là lực lượng quan trọng trong thực hiện quá trình cơ cấu lại ngành dịch vụ. Ngoài ra, việc cơ cấu phải tiếp cận với trình độ hiện đại, đảm bảo hội nhập quốc tế và khu vực; lồng ghép việc thực hiện các cam kết quốc tế về dịch vụ với kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2045.

Logistics và vận tải được xem là lĩnh vực có nhiều lợi thế của tỉnh.

Mục tiêu của kế hoạch là tập trung nguồn lực phát triển một số lĩnh vực dịch vụ tiềm năng, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao như: tài chính, ngân hàng, logistics và vận tải, công nghệ thông tin và truyền thông, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, y tế, du lịch…; thực hiện các chính sách phát triển ngành, tạo khuôn khổ chính sách đồng bộ hướng vào việc xây dựng ngành dịch vụ chất lượng, hiệu quả và cạnh tranh; xây dựng cơ sở hạ tầng của khu vực dịch vụ thông qua việc tập trung phát triển các lĩnh vực dịch vụ có thế mạnh. Trong tương lai, ngành dịch vụ phải được chuyển dịch cơ cấu theo hướng nâng cao tỷ trọng về ứng dụng công nghệ cao, công nghệ thông tin để tác động lan tỏa tới các lĩnh vực khác.

Các mục tiêu cụ thể

Theo UBND tỉnh, kế hoạch cơ cấu lại ngành dịch vụ phải đảm bảo tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ giai đoạn 2016 – 2020 đạt khoảng 6,6 đến 7,1%; tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GRDP (tổng sản phẩm trên địa bàn) chiếm 42% vào năm 2020. Giai đoạn 2021 – 2025, tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ đạt khoảng 7,5%; tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GRDP khoảng 44% vào năm 2025.

UBND tỉnh cũng đề ra mục tiêu đối với từng lĩnh vực cụ thể để phấn đấu. Trong đó, lĩnh vực tài chính – ngân hàng, huy động vốn có mục tiêu tăng bình quân 10%/năm; dư nợ tăng bình quân 14%/năm; tỷ lệ nợ xấu dưới 3% (không bao gồm các ngân hàng thương mại yếu kém đã được Chính phủ phê duyệt phương án xử lý). Đặc biệt, đẩy mạnh phát triển thanh toán không dùng tiền mặt, tối ưu hóa mạng lưới ATM và POS. Với lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông, đến năm 2025, tốc độ tăng trưởng bình quân phải đạt từ 5 đến 7%/năm; phủ sóng thông tin di động 100% khu vực dân cư trên địa bàn tỉnh.

Trong kế hoạch, UBND tỉnh đặc biệt chú trọng đến lĩnh vực đào tạo lao động. Theo đánh giá, đến năm 2020, giáo dục nghề nghiệp đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo; bình quân hàng năm đào tạo nghề cho khoảng 26.500 người; trình độ trung cấp, cao đẳng chiếm khoảng 25 – 30%, khoảng 10 -15% được đào tạo theo các ngành, nghề trọng điểm và hơn 70% người có việc làm sau đào tạo. Để lĩnh vực này đáp ứng được nhu cầu phát triển, UBND tỉnh đặt mục tiêu đến năm 2025, bình quân hàng năm đào tạo nghề nghiệp cho khoảng 28.500 người, ít nhất 85% người học có việc làm hoặc có năng suất, thu nhập cao hơn sau đào tạo… Hết năm 2020, tỷ trọng lao động các ngành dịch vụ qua đào tạo có chứng chỉ phải đạt khoảng 25%; tỷ trọng này được nâng lên khoảng 35% vào năm 2025.

Các lĩnh vực dịch vụ du lịch, logistics, thương mại cũng được đánh giá là những ngành có thế mạnh, cần có những mục tiêu để phát triển vượt bậc. Cụ thể, logistics và vận tải đặt mục tiêu có tốc độ tăng trưởng bình quân hơn 7%/năm; bước đầu xây dựng và hình thành dịch vụ logistic trên địa bàn tỉnh. Về phân phối, thương mại, đặt mục tiêu tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng giai đoạn 2021 – 2025 ước đạt khoảng 513.046 tỷ đồng; phát triển thương mại điện tử; xuất, nhập khẩu tăng trưởng bình quân 10%/năm. Trong lĩnh vực dịch vụ du lịch, phấn đấu đến năm 2025, toàn tỉnh thu hút được từ 9 đến 11 triệu lượt khách/năm; khách quốc tế đạt từ 4 đến 5 triệu lượt và 5 đến 6 triệu lượt khách du lịch nội địa. Đến năm 2025, phấn đấu có hơn 61.000 buồng lưu trú với 60 – 70% đạt chuẩn từ 3 đến 5 sao; tạo ra 254.000 việc làm, trong đó có 85.000 lao động trực tiếp.

Ông Trần Hòa Nam – Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư cho biết, kế hoạch cơ cấu lại ngành dịch vụ chính là cơ sở để các sở, ban, ngành và địa phương tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh; đồng thời hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp trên địa bàn. Sở Kế hoạch và Đầu tư được giao chủ trì phối hợp với các đơn vị rà soát, đơn giản hóa thủ tục, giảm chi phí và thời gian cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, sở phối hợp với các đơn vị, địa phương thực hiện các giải pháp thu hút tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư phát triển nền kinh tế, đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội thiết yếu; tập trung các nguồn lực để triển khai nhiệm vụ khoa học và công nghệ đối với các ngành dịch vụ tiềm năng của tỉnh; khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp nghiên cứu, ứng dụng và đổi mới công nghệ; thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, thương mại hóa kết quả nghiên cứu, ứng dụng và phát triển công nghệ; đặc biệt chú trọng các ngành dịch vụ ứng dụng công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo, công nghệ thông tin…

Đình Lâm  

Phát Triển Ngành Dịch Vụ: Cần Định Hướng Đúng, Giải Pháp Phù Hợp

(Báo Quảng Ngãi)- Ngành dịch vụ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất khi xảy ra đại dịch Covid-19. Nguyên nhân chính là do khách quan, nhưng vẫn có yếu tố chủ quan là khả năng thích ứng còn hạn chế. Trong giai đoạn mới, Quảng Ngãi đặt mục tiêu nâng cao chất lượng dịch vụ gắn với những định hướng đúng để có thể phát triển nhanh và bền vững.

Trong 5 năm qua, giá trị sản xuất ngành dịch vụ tăng bình quân 7,28%/năm. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đến năm 2020 ước đạt khoảng 60.000 tỷ đồng, tăng bình quân 10,3%/năm. Nhiều dịch vụ có mức tăng trưởng khá, như: Vận tải, bưu chính, viễn thông; tài chính, ngân hàng.  

Nhiều nhà đầu tư hiện đã triển khai dự án kinh doanh dịch vụ cảng biển tại cảng nước sâu Dung Quất. Ảnh: PV

Đặc biệt là dịch vụ phân phối, thương mại phát triển mạnh; hệ thống chợ truyền thống được đầu tư, nâng cấp. Một số siêu thị, trung tâm thương mại hiện đại được đầu tư, đi vào hoạt động, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Dịch vụ cảng biển bước đầu đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp của tỉnh. Tuy nhiên, tỉnh cũng thừa nhận rằng dịch vụ phát triển chưa tương xứng với tiềm năng; quy hoạch chưa đồng bộ, thiếu liên kết. Dịch vụ vận tải biển chưa hiện đại, sức cạnh tranh hàng hóa qua cảng thấp.

Giai đoạn 2020 – 2025, Quảng Ngãi đặt mục tiêu giá trị sản xuất ngành dịch vụ tăng bình quân 7,5%/năm; đến năm 2025, tỷ trọng khu vực dịch vụ chiếm khoảng 29 – 30% GRDP. Theo đó, tỉnh sẽ tập trung phát triển đa dạng các ngành dịch vụ, nhất là những ngành có hàm lượng tri thức, công nghệ, giá trị gia tăng cao. Tiếp tục tạo môi trường đầu tư thật sự thông thoáng, hấp dẫn để khuyến khích, thu hút đầu tư, phát triển nhanh các ngành dịch vụ. Hình thành và phát triển dịch vụ logistics trên cơ sở phát huy lợi thế của cảng biển nước sâu Dung Quất. Phát triển mạnh dịch vụ thông tin và truyền thông; mở rộng phát triển dịch vụ phân phối; đầu tư phát triển mới các trung tâm thương mại, cửa hàng tiện lợi, siêu thị mini ở các khu đô thị. Hiện đại hóa và mở rộng dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và hỗ trợ kinh doanh.

 

Phó trưởng Ban Quản lý KKT Dung Quất và các KCN tỉnh Đàm Minh Lễ: “Tập trung thu hút đầu tư phát triển dịch vụ cảng biển, logistics”

Giai đoạn 2016 – 2020, thu hút đầu tư của KKT Dung Quất và các KCN Quảng Ngãi dự kiến khoảng 6,6 tỷ USD, đạt 184% so với chỉ tiêu được giao. Trong đó, thu hút nhiều dự án thuộc lĩnh vực dịch vụ, đặc biệt là khai thác cảng tối đa công suất, hiệu quả cao, góp phần tạo ra sự phát triển vượt bậc của KKT Dung Quất. Giai đoạn 2021 – 2025, KKT Dung Quất và các KCN Quảng Ngãi khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực, trong đó có dịch vụ cảng biển, logistics.

Theo đó, tỉnh sẽ rà soát quy hoạch chi tiết cảng Dung Quất, xây dựng và tổ chức khai thác đồng bộ các cảng biển tổng hợp, cảng chuyên dùng gắn với các dịch vụ hỗ trợ; đầu tư xây dựng, hình thành tuyến container trung chuyển quốc tế tại KKT Dung Quất. Quy hoạch các ngành dịch vụ vận tải biển; phát triển mạnh các ngành dịch vụ biển gắn với cảng biển nước sâu Dung Quất như: Đại lý tàu biển, hoa tiêu, lai dắt; vận tải hàng hóa, dịch vụ cung cấp vật tư, thiết bị hàng hải, thông tin liên lạc trên biển… Đồng thời, quy hoạch một quỹ đất thích hợp gần cảng Dung Quất để xây dựng trung tâm phân phối hàng hóa, dịch vụ hậu cần cảng, đảm bảo thuận lợi nhất và kết nối thuận tiện với mạng lưới giao thông quốc gia; kêu gọi các nhà đầu tư có tiềm lực để thực hiện đầu tư đồng bộ nhằm xây dựng trung tâm logistics hiện đại tại KKT Dung Quất, đáp ứng yêu cầu phát triển của Quảng Ngãi và Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.

 

Phó Giám đốc Sở GTVT Võ Phiến: “Đa dạng loại hình, nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải”

Những năm gần đây, dịch vụ vận tải phát triển nhanh; bình quân doanh thu tăng 14,5%/năm, lượng khách tăng11,1%/năm, lượng hàng hóa vận chuyển tăng 12,3%/năm. Các tuyến xe buýt được mở đến tất cả các huyện, thị xã. Các phương thức vận tải tăng nhanh về số lượng, nhất là vận tải đường bộ. Phương tiện vận tải gia tăng đột biến, hiện toàn tỉnh có đến gần 20.000 xe ô tô con, gần 1.000 xe khách, hơn 12.500 xe tải; tàu thủy vận tải hành khách nội địa 24 chiếc… Doanh thu từ dịch vụ vận tải hành khách rất lớn, giải quyết lao động cho hàng ngàn lao động tại địa phương. Tuy nhiên, từng lúc, từng nơi, hoạt động của loại hình dịch vụ này vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của nhân dân, chưa khai thác hết tiềm năng.

Hiện nay, ngành GTVT đang tập trung xây dựng phương hướng phát triển ngành dịch vụ, theo hướng chất lượng, cạnh tranh, tiện ích. Ngành sẽ tạo điều kiện tối đa cho tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp tham gia kinh doanh dịch vụ, nâng cao chất lượng cả giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt; tham mưu cho tỉnh về xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp, đảm bảo phát triển đúng định hướng, gia tăng giá trị cho người kinh doanh, song cũng mang lại tiện ích, an toàn thực sự cho người dân. Qua đại dịch Covid-19, dịch vụ vận tải đã bị ảnh hưởng khá nặng nề, khả năng khôi phục phải mất một thời gian dài, rất cần được tỉnh có cơ chế, chính sách quan tâm hỗ trợ.

 

Bí thư Huyện ủy Ba Tơ Đinh Ngọc Vỹ: “Phát triển dịch vụ phù hợp với tiềm năng, lợi thế”

Là huyện miền núi, nhưng là cửa ngõ kết nối với Tây Nguyên, nên Ba Tơ có những lợi thế nhất định so với các huyện miền núi khác. Nhiều năm qua, Ba Tơ cũng rất quan tâm đến phát triển dịch vụ, bước đầu hình thành một số trung tâm dịch vụ, thương mại. Tuy nhiên, sự phát triển cũng còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh.

Trong chiến lược phát triển những năm tiếp theo, Ba Tơ tiếp tục xác định chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Theo đó, huyện đang tập trung xây dựng hạ tầng, đặc biệt là chỉnh trang đô thị, từng bước thu hút đầu tư lĩnh vực dịch vụ. Huyện sẽ có chính sách ưu đãi trong thu hút đầu tư vào lĩnh vực này, đảm bảo hài hòa lợi ích nhiều phía.

Quyền Chủ tịch UBND huyện Sơn Tây Đinh Quang Ven: “Đầu tư đồng bộ để thúc đẩy dịch vụ phát triển”

Nhiều năm nay, Sơn Tây luôn đặt ra mục tiêu từng bước phát triển dịch vụ, nhưng thực tế kết quả đạt được không cao. Nguyên nhân chính là do địa hình phức tạp, sông suối, đồi núi chia cắt trong khi kết nối với các tỉnh, khu vực lân cận chưa thuận lợi. Dịch vụ hiện tại ở Sơn Tây chủ yếu là dịch vụ thương mại, buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa khu vực đồng bằng với huyện và ngược lại. Còn kết nối giao thương với các tỉnh lân cận như Quảng Nam, Kon Tum thì chưa, vì giao thông còn hạn chế. Dịch vụ vận tải cũng có gia tăng trong thời gian gần đây, song chủ yếu là phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân theo hình thức vận tải công cộng bằng xe buýt, mỗi ngày 4 lượt. Do địa hình hiểm trở, các loại hình dịch vụ vận tải khác cũng hầu như không hoạt động.

Định hướng phát triển dịch vụ của Sơn Tây trong những năm đến vẫn tập trung chủ yếu là dịch vụ thương mại và vận tải. Theo đó, huyện sẽ tập trung quy hoạch lại khu trung tâm huyện, đảm bảo thuận lợi cho trao đổi hàng hóa. Kêu gọi, tạo điều kiện thuận lợi cho tư nhân đầu tư thêm phương tiện để phát triển dịch vụ vận tải, kể cả vận tải hàng hóa. Muốn dịch vụ phát triển, Sơn Tây cần được quan tâm đầu tư phát triển đồng bộ về văn hóa, du lịch, tạo điểm nhấn, để thu hút khách tham quan, qua đó tạo đà phát triển các lĩnh vực dịch vụ ăn uống, vận tải, giải trí…

     

Thanh Nhị  

(thực hiện)

Luận Văn Biện Pháp Phát Triển Ngành Dịch Vụ Logistics Ở Vn

Cách đây vài thế kỷ, thuật ngữ Logistics đã được sử dụng trong quân đội và được hoàng đế Napoleon nhắc đến trong câu nói nổi tiếng “Kẻ nghiệp dư bàn về chiến thuật, người chuyên nghiệp bàn về logistics”. Ngày nay, thuật ngữ logistics được sử dụng trong lĩnh vực kinh tế như một ngành mang lại nhiều nguồn lợi to lớn không những cho các doanh nghiệp mà cho cả nền kinh tế quốc dân. Dịch vụ logistics là ngành dịch vụ xuyên suốt quá trình sản xuất, phân phối lưu thông hàng hoá, dịch vụ trong nền kinh tế. Đây là một công cụ hữu hiệu hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thương trường.Với vai trò rất quan trọng và tác dụng to lớn của nó mà ngày nay trên thế giới dịch vụ logistics đã trở nên phổ biến và rất phát triển, được các doanh nghiệp coi là một thứ vũ khí cạnh tranh mới hỗ trợ tích cực cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đạt hiệu quả cao. Trong vài thập niên trở lại đây, dịch vụ logistics đã phát triển nhanh chóng và mang lại những kết quả rất tốt đẹp ở nhiều nước trên thế giới, điển hình như: Hà Lan, Thuỵ Điển, Đan Mạch, Mỹ. Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, sự gia tăng của hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư, dịch vụ logistics tại Việt Nam đang có bước phát triển mạnh mẽ và là một trong những ngành có tiềm năng phát triển rất lớn.Tỷ trọng dịch vụ logistics chiếm khoảng 15% trong kim ngạch xuất khẩu. Trong mười năm tới, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ước đạt 200 tỉ USD/năm và do đó tiềm năng phát triển dịch vụ logistics ở Việt Nam là rất lớn.Gia nhập WTO, bước vào sân chơi toàn cầu, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics sẽ có cơ hội phát triển nhanh. Tuy nhiên cũng sẽ có những khó khăn, thách thức bởi hiện nay quy mô của phần lớn các doanh nghiệp logistics Việt Nam còn nhỏ, tiềm lực tài chính yếu nguồn nhân lực cũng hạn chế nhiều mặt, thiếu kinh nghiệm thương trường.đồng thời theo cam kết gia nhập WTO, các công ty 100% vốn nước ngoài sẽ được phép hoạt động tại Việt Nam.Vì vậy, trong thời gian tới trong ngành dịch vụ logistics ở nước ta sẽ hứa hẹn sự cạnh tranh rất gay gắt. Thấy rằng đây là một vấn đề còn khá mới ở Việt Nam và có tiềm năng phát triển lớn trong thời gian tới đồng thời được sự hướng dẫn tận tình của GS-TS Đặng Đình Đào nên trong đề án môn kinh tế thương mại em chọn đề tài: “Biện pháp phát triển ngành dịch vụ logistics ở Việt Nam” Việc nghiên cứu về các dịch vụ logistics ở Việt Nam sẽ giúp em trang bị thêm kiến thức về lĩnh vực này, nắm được các vấn đề cơ bản về dịch vụ logistics cũng như thấy được sự phát triển của dịch vụ này ở Việt Nam như thế nào.Từ đó có thể đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển dịch vụ logistics ở Việt Nam. Nội dung của bản đề án bao gồm 3 chương: Chương I: Những vấn đề lí luận cơ bản về các dịch vụ logistics. Chương II: Thực trạng phát triển dịch vụ logistics ở Việt Nam. Chương III: Phương hướng và một số biện pháp phát triển ngành dịch vụ logistics ở Việt Nam trong thời gian tới.

TÀI LIỆU LUẬN VĂN CÙNG DANH MỤC

TIN KHUYẾN MÃI

Thư viện tài liệu Phong Phú

Hỗ trợ download nhiều Website

Nạp thẻ & Download nhanh

Hỗ trợ nạp thẻ qua Momo & Zalo Pay

Nhận nhiều khuyến mãi

Khi đăng ký & nạp thẻ ngay Hôm Nay

NẠP THẺ NGAY

DANH MỤC TÀI LIỆU LUẬN VĂN

Giải Pháp Phát Triển Dịch Vụ Logistics Tại Tp. Đà Nẵng

TP. Đà Nẵng xác định phát triển dịch vụ logistics là một trong những lĩnh vực đặc biệt ưu tiên. Nguồn: internet

Cũng theo quan điểm của CSCMP, ở một số mức độ khác nhau, các chức năng của logistics cũng bao gồm việc tìm nguồn đầu vào, hoạch định sản xuất, đóng gói, dịch vụ khách hàng. Quản trị logistics là chức năng tổng hợp kết hợp và tối ưu hóa tất cả các hoạt động logistics cũng như phối hợp hoạt động logistics với các chức năng khác như marketing, kinh doanh, sản xuất, tài chính, công nghệ thông tin.

Thông thường, đối với phương pháp tính chi phí logistics, giá bán của hàng hóa (G) đến tay người tiêu dùng phải đảm bảo tối thiểu bù đắp các chi phí (C), theo công thức:

G ≥ C1 + C2 + C3 + C4 + C5 (1)

Trong đó:

C1: giá thành sản xuất ra hàng hóa.

C2: chi phí hoạt động marketing

C3: chi phí vận tải

C4: chi phí cơ hội vốn cho hàng tồn trữ

C5: chi phí bảo quản hàng hóa.

Chi phí logistics sẽ bao gồm: Clog = C3 + C4 + C5

Hiện nay, Việt Nam được đánh giá là thị trường đầy tiềm năng để phát triển dịch vụ logistics. Trong những năm qua, ngành vận tải Việt Nam đã có nhiều giải pháp cả từ phía Nhà nước lẫn doanh nghiệp (DN) để thúc đẩy ngành logistics phát triển. Về phía Nhà nước, đã tập trung đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật hiện đại, đồng bộ hơn, giảm phí, giảm thời gian thực hiện các chủ tục hành chính… Về phía DN, đã tập trung phát triển vận tải hàng hóa bằng container, đóng mới các phương tiện, thiết bị có sức chở lớn, tổ chức vận tải đa phương thức…

Tuy nhiên, dù được xác định là ngành có giá trị gia tăng cao, nhưng thực tế thì mức đóng góp của ngành này vào GDP còn rất khiêm tốn, chỉ từ khoảng 3% đến 4%. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu giải pháp để ngành logistics Việt Nam tiếp tục phát triển mạnh hơn, đặc biệt là làm sao cho đóng góp của ngành vào GDP càng tăng lên và chi phí của DN ngày càng giảm xuống là vấn đề cốt lõi cần được giải đáp trong thời gian tới.

Thực trạng ngành logistics tại TP. Đà Nẵng

Đà Nẵng nằm trên trục giao thông huyết mạch Bắc – Nam về cả đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không, là cửa ngõ giao thông quan trọng của cả miền Trung và Tây Nguyên. Địa phương này cũng là điểm cuối trên tuyến Hành lang kinh tế Đông – Tây đi qua các nước Myanma, Thái Lan, Lào, Việt Nam và là một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ lớn của khu vực miền Trung – Tây Nguyên.

Tính đến cuối năm 2018, TP. Đà Nẵng có khoảng 27.168 DN và chi nhánh, văn phòng đại diện đang hoạt động với tổng vốn đăng ký đạt 193,5 ngàn tỷ đồng; doanh thu bán lẻ hàng hóa khoảng 53.200 tỷ đồng; kim ngạch xuất khẩu hàng hóa khoảng 1,655 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu khoảng 1,425 tỷ USD. Ngành Giao thông vận tải đáp ứng nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hóa của người dân và DN với doanh thu vận tải đạt khoảng 12.855 tỷ đồng… Thực trạng ngành logistics tại TP. Đà Nẵng trong thời gian qua có thể đánh giá qua một số nội dung sau:

Thứ nhất, về hạ tầng phục vụ phát triển logistics

Trong thời gian qua, với những nỗ lực đầu tư về hạ tầng và tập trung phát triển logistics của TP. Đà Nẵng, các loại hình trung tâm logistics với quy mô đa dạng đang dần phát triển và nâng cấp theo hướng mở rộng về quy mô và hiện đại về trang thiết bị và công nghệ. Đáng chú ý, trong năm 2018, Dự án cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi đã thông xe toàn tuyến và đi vào khai thác không chỉ góp phần hoàn thiện tuyến đường bộ cao tốc Bắc – Nam, mà còn đánh thức tiềm năng, thúc đẩy liên kết giao thương, kết nối các khu công nghiệp, nghỉ dưỡng dọc tuyến và có ý nghĩa đặc biệt với phát triển của khu vực miền Trung – Tây Nguyên. Ngoài ra, tuyến cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi còn góp phần phân luồng giao thông rất hiệu quả để kết nối vận chuyển quốc tế trong khu vực tam giác kinh tế Việt Nam – Lào – Campuchia qua Hành lang kinh tế Đông – Tây đến các cảng biển miền Trung Việt Nam. Từ đó, trở thành động lực thúc đẩy ngành dịch vụ logistics của TP. Đà Nẵng phát triển nhanh hơn.

Tuy nhiên, phát triển trung tâm logistics tại Đà Nẵng vẫn còn khá nhiều hạn chế, bất cập so với nhu cầu thực tiễn phát triển, cụ thể là: Chưa hình thành trung tâm logistics cấp quốc gia cũng như quốc tế đủ tầm vóc, quy mô để đảm nhiệm vai trò dẫn dắt thị trường và hội tụ DN; Phát triển trung tâm logistics hiện tại chủ yếu là nỗ lực tự thân của khối DN trong khi vai trò của Nhà nước trong định hướng, hỗ trợ và quản lý phát triển trung tâm logistics hạng I và II chưa rõ ràng; Năng lực cung ứng dịch vụ, năng lực cạnh tranh và năng lực kết nối logistics giữa TP. Đà Nẵng với các quốc gia trong khu vực và thế giới còn nhiều hạn chế…

Bên cạnh đó, giống như nhiều tỉnh thành khác trong cả nước, hiện nay chi phí vận tải đường bộ còn ở mức cao, chưa tối ưu hóa hoạt động kinh doanh của DN vận tải. Chẳng hạn, theo số liệu từ DN vận tải, trong chi phí vận tải đường bộ, xăng dầu chiếm khoảng 30-35%, phí cầu đường (BOT) bình quân chiếm khoảng 10-15% (tùy theo từng DN vận tải và khu vực vận tải). Như vậy, cần có nghiên cứu, đánh giá tổng thể toàn diện hơn, xét tới các yếu tố lợi ích do BOT đem lại như chất lượng vận tải cao hơn (tốc độ vận chuyển), giảm chi phí khai thác phương tiện… từ đó có định hướng để các DN tận dụng khai thác, tiết giảm chi phí logistics.

Hiện nay, phần lớn hệ thống kho bãi của các DN cổ phần, tư nhân và liên doanh dành cho cung cấp dịch vụ logistics có quy mô nhỏ, đặc biệt, diện tích kho chứa mới chỉ có khoảng 5,1 ha. Công ty cổ phần Cảng Đà Nẵng là DN có hệ thống hạ tầng kho bãi lớn nhất trên địa bàn thành phố với hơn 280.000m2 tại Cảng Tiên Sa; 200.000m2 tại Trung tâm dịch vụ Logistics Hoà Vang. Như vậy, DN này chiếm thị phần lớn của thị trường dịch vụ logistics của địa phương. Tuy nhiên, so với cầu thị trường và dự báo đến năm 2020 về lĩnh vực này cho thấy, hệ thống kho bãi và dịch vụ logistics của TP. Đà Nẵng vẫn còn thiếu, chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu sản xuất, dự trữ của địa phương và vùng lân cận, mà chưa đáp ứng được nhu cầu vận tải hàng hóa quốc tế ngày một gia tăng qua khu vực Đà Nẵng.

Thứ hai, về dịch vụ hải quan

Hoạt động quản lý, kiểm tra chuyên ngành tuy đã có những bước cải thiện nhưng còn chậm, làm cho thứ bậc cạnh tranh của TP. Đà Nẵng bị sụt giảm. Thực tế cho thấy, rào cản trong quản lý chuyên ngành, nhất là thủ tục kiểm dịch động vật, kiểm tra chất lượng là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới kéo dài thời gian thông quan. Ngoài ra, hiện nay, đại lý hải quan vẫn chưa được phép thay mặt chủ hàng (các DN xuất nhập khẩu) tham gia vào kiểm tra chuyên ngành. Nhiều DN không lựa chọn phương tiện vận tải đường sắt, hàng không vì phải qua nhiều thủ tục phức tạp và tốn thời gian thông quan, chi phí cao. Do vậy, khi xuất nhập khẩu, phương tiện vận tải biển vẫn là ưu tiên, từ đó làm hạn chế năng lực hoạt động của các phương tiện vận tải khác…

Thứ tư, về hợp tác vùng, liên vùng, hợp tác quốc tế

Vùng duyên hải miền Trung có diện tích là 49.400 km2, chiếm gần 14,9% diện tích tự nhiên của cả nước bao gồm 09 tỉnh, thành phố, trong đó có 5 địa phương thuộc vùng kinh tế trọng điểm miền Trung (Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định) và 4 địa phương thuộc Nam Trung Bộ (Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận). Về kết cấu hạ tầng, toàn vùng có 6 khu kinh tế, tập trung chủ yếu vào các ngành sản xuất vật liệu xây dựng, du lịch, lọc hóa dầu; 1 khu công nghệ cao; 37 khu công nghiệp (trong đó có 22 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động, diện tích đất đã cho thuê là 5.588 ha, đạt tỷ lệ lấp đầy 42%); 6 cảng hàng không (trong đó có 04 cảng hàng không quốc tế là Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh); 13 cảng biển (trong đó có 07 cảng biển loại I); 14 quốc lộ, đường sắt Bắc Nam, phân bổ khá đều giữa các địa phương, nối liền các đô thị, cơ bản đảm bảo kết nối thông suốt giữa các tỉnh trong Vùng. Tuy nhiên, đến nay, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông kết nối giữa các trục quốc lộ, giữa các điểm nút giao thông với các địa phương trong các tỉnh này vẫn còn hạn chế, dễ bị xuống cấp, chia cắt khi gặp phải bão lũ, giảm khả năng tăng trưởng bao trùm…, từ đó hạn chế tiềm năng phát triển của ngành dịch vụ logistics của TP. Đà Nẵng nói riêng và Vùng duyên hải miền Trung nói riêng.

Thứ năm, về nguồn nhân lực

Trong hoạt động của logistics DN, nguồn nhân lực được chia thành 4 cấp bao gồm: (1) Cấp quản trị gồm các nhà lãnh đạo cấp cao như: giám đốc, phó giám đốc logistics; (2) Cấp quản lý và chuyên gia là các nhà lãnh đạo cấp trung như: trưởng phòng logistics; (3) Cấp điều phối và giám sát như tổ trưởng tổ vận chuyển, chuyên viên hoạch định lộ trình vận tải…; (4) Cấp nhân viên – Kỹ thuật như lái xe, đóng gói hàng, điều kiển xe nâng…

Thực tế hoạt động của ngành dịch vụ logistics tại TP. Đà Nẵng cho thấy, chất lượng đội ngũ nhân viên cung cấp dịch vụ cũng cần phải được xem xét và cải thiện. Hiện nay, giao hàng chặng cuối đem lại khá nhiều giá trị gia tăng cho DN, khiến nhân viên giao hàng lại trở thành nhân tố quan trọng tiếp xúc trực tiếp với khách hàng và quyết định sự hài lòng của khách hàng về chất lượng dịch vụ. Do vậy, nhiều ý kiến cho rằng, các DN logistics cần phải đề cao việc đào tạo kỹ năng mềm cho nhân viên giao hàng, từ đó giúp cải thiện chất lượng dịch vụ của DN. Bên cạnh đó, đội ngũ tư vấn lập kế hoạch, tư vấn vận hành chuỗi cung ứng, chuyên gia logistics và quản trị chuỗi cung ứng cũng cần phải được đầu tư cả về số lượng và chất lượng vì hiện nay đội ngũ này cũng không đáp ứng đủ nhu cầu thị trường…

Ngoài ra, quy mô đào tạo nguồn nhân lực hiện chưa đáp ứng được nhu cầu nhân lực logistics của các DN tại TP. Đà Nẵng. Phần lớn DN phải tự đào tạo, bồi dưỡng nhân lực logistics thông qua thực tế công việc. Tại TP. Đà Nẵng cũng như khu vực miền Trung – Tây Nguyên hiện vẫn chưa có trường đại học đào tạo nguồn nhân lực riêng cho ngành logistics, chủ yếu lồng ghép vào các ngành như: ngoại thương, quan hệ quốc tế… nên nguồn nhân lực có chất lượng để phục vụ cho ngành còn rất hạn chế cả về số lượng lẫn chất lượng.

Định hướng phát triển dịch vụ logistics tại TP. Đà Nẵng

Đà Nẵng đặt mục tiêu trở thành trung tâm logistics của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, trong đó chú trọng tận dụng các ưu thế của địa phương để phát triển được hệ thống cơ sở hạ tầng logistics đồng bộ, liên thông, đủ năng lực đáp ứng nhu cầu dịch chuyển, xử lý dòng hàng hóa phát sinh của Thành phố, của các tỉnh lân cận và một phần luồng hàng hóa trên hành lang kinh tế Đông – Tây. Cùng với mục tiêu tổng thể đó, TP. Đà Nẵng cũng đưa ra các mục tiêu cụ thể như:

Một là, phát triển các trung tâm logistics cấp vùng, địa phương và chuyên dụng bảo đảm cung cấp các dịch vụ logistics đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất trong nước, xuất nhập khẩu của TP. Đà Nẵng và khu vực miền Trung, Tây Nguyên; các trung tâm này có khả năng cung cấp một số dịch vụ logistics cạnh tranh cho luồng hàng hóa quốc tế trung chuyển trên hành lang kinh tế Đông – Tây ra vào cảng biển Đà Nẵng.

Hai là, dự kiến đến năm 2020, các trung tâm logistics tại địa bàn TP. Đà Nẵng đáp ứng được khoảng 25% về lượng xử lý logistics cho luồng hàng hóa qua cảng biển, đến năm 2025 là 30%, đến năm 2030 là 35%; đến năm 2045 là 55%. Đối với luồng hàng hóa qua cảng hàng không tương ứng là 10%, 15%, 20% và 40%. Đối với luồng hàng hóa đường sắt: năm 2030 là 20% và 2045 là 40%.

Ba là, phát triển các trung tâm logistics đô thị đáp ứng nhu cầu thu mua, phân phối bán buôn các loại hàng hóa tiêu dùng phục vụ nhu cầu đời sống hàng ngày của người dân Thành phố và khu vực lân cận.

Bốn là, đảm bảo kết nối giao thông đồng bộ giữa cảng biển, cảng hàng không với các đầu mối vận tải hàng hóa, với các trung tâm logistics các loại một cách thông suốt, tạo điều kiện cho luồng hàng hóa trên các tuyến vận tải đa phương thức dịch chuyển được dễ dàng, nhanh chóng với một mức chi phí vận tải và chi phí dịch vụ logistics cạnh tranh trong khu vực và quốc tế.

Cùng với các nội dung trên, TP. Đà Nẵng cũng đề ra các mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn như sau:

– Trong giai đoạn từ nay đến năm 2020, sẽ hoàn thành các quy hoạch phát triển ngành dịch vụ logistics và ban hành các chính sách thúc đẩy phát triển ngành logistics, tạo môi trường tốt cho phát triển ngành logistics.

– Trong giai đoạn từ 2021-2030, xóa bỏ các “nút thắt cổ chai” về cơ sở hạ tầng logistics, sơ bộ xây dựng nền tảng phát triển logistics hiện đại, phát triển mạnh mẽ logistics 3PL, phát triển ngành logistics trở thành một trong các ngành có tỷ trọng GDP đáng kế của thành phố, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, viễn thông hiện đại và thương mại điện tử vào cung cấp dịch vụ logistics;

Trong giai đoạn từ 2031-2045, hoàn thành xây dưng hệ thống logistics hiện đại có cấu trúc rõ ràng, cơ sở hoàn chỉnh và chức năng hoàn thiện, hoàn thành phân phối tài nguyên hợp lý, xây dựng TP. Đà Nẵng thành một thành phố có trung tâm logistics cấp I quốc gia và cấp II của vùng.

Đề xuất giải pháp

Đà Nẵng hiện đang xây dựng và triển khai Đề án xây dựng thành phố thông minh, do đó các giải pháp hỗ trợ, mục tiêu của các chính sách nhằm phát triển dịch vụ logistics phải gắn liền với quá trình triển khai thực hiện Đề án này. Trong bối cảnh đó, để thúc đẩy ngành dịch vụ logistics phát triển, nâng sức cạnh tranh cho Thành phố, trong thời gian tới, TP. Đà Nẵng tập trung giải quyết một số vấn đề sau:

– Đường bộ: Lập Quy hoạch kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ TP. Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 cho phù hợp với tình hình mới, đồng bộ với việc điều chỉnh quy hoạch chung TP. Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045. Xây dựng Dự án Điều tra, khảo sát và xây dựng phương án phân luồng tổ chức giao thông khu vực trung tâm thành phố, trong đó xây dựng mô hình tính toán, đánh giá, phân tích mạng lưới giao thông đô thị trên toàn Thành phố hoặc khu vực, làm cơ sở quy hoạch các trục đường chính, phân bố lại luồng giao thông, cân đối tổng thể mạng lưới giao thông và lộ trình tổ chức giao thông, phân luồng xe, lộ trình đầu tư các trục giao thông, kể cả giao thông trên cao và giao thông ngầm.

– Đường hàng không: Triển khai thủ tục để đầu tư mở rộng Cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng – xây dựng Nhà ga T3. Về lâu dài, cần nghiên cứu xây dựng Đề án xây dựng mô hình đô thị sân bay tại khu vực Sân bay quốc tế Đà Nẵng.

– Đường thủy: Hiện nay, Chính phủ đã phê duyệt dự án và bố trí một phần vốn để xây dựng Cảng Liên Chiểu để di dời Cảng Tiên Sa vì hiện nay Cảng Tiên Sa khó có thể mở rộng và nâng công suất, đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa trong tương lai, bên cạnh đó TP. Đà Nẵng cần có một cảng để phục vụ nhu cầu phát triển du lịch. Tuy nhiên, trước khi triển khai xây dựng Cảng Liên Chiểu, cần triển khai tính toán, đánh giá một cách thận trọng, khoa học vì khu vực Liên Chiểu được ưu tiên phát triển dịch vụ du lịch…

– Đường sắt: Cần thực hiện di dời ga đường sắt ra khỏi khu vực nội thị, lồng ghép dự án này vào dự án đầu tư tuyến đường sắt cao tốc Bắc Nam. Khi xây dựng nhà ga mới, cần phải quy hoạch quỹ đất để xây dựng các trung tâm logistics gần khu vực ga, các trung tâm này để có thể được sử dụng chung cho đường bộ, đường thủy và đường hàng không.

Bên cạnh đó, cần phải quan tâm đến việc mở các chương trình đào tạo, bồi dưỡng trung và ngắn hạn trong nước cũng như quốc tế với kế hoạch hợp tác đào tạo với các chuyên gia hoặc tổ chức nước ngoài tại các quốc gia có dịch vụ logistics phát triển mạnh và hiệu quả để đáp ứng nhu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.

Thứ ba, về đầu tư công, khuyến khích, thu hút đầu tư ngoài ngân sách.

Khuyến khích, hỗ trợ các DN vận tải tự nâng cao chất lượng phương tiện – dịch vụ, củng cố và phát triển thương hiệu, từng bước hình thành các DN có đội xe lớn, tập đoàn vận tải có trụ sở chính đặt trên địa bàn Thành phố. Triển khai thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển cơ sở hạ tầng ngành dịch vụ logistics, trong đó tập trung nghiên cứu đề xuất đầu tư các khu logistics chuyên nghiệp như: Khu logistics Hòa Nhơn (Công ty TNHH MTV Cảng Đà Nẵng), Khu logistics trong Khu công nghệ cao (Ban quản lý Khu công nghệ cao thành phố), Khu logistics tại khu vực phía tây Cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng (Cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng) và phát triển mạng lưới giao thông kết nối Trung tâm logistics. Nghiên cứu đầu tư tuyến kết nối giao thông hướng Đông – Tây qua Sân bay quốc tế Đà Nẵng và nâng cấp, mở rộng cơ sở hạ tầng để tăng khả năng khai thác của Cảng Hàng không quốc tế Đà Nẵng.

Đẩy nhanh tiến độ các công trình như: Mở rộng hầm lánh nạn Hải Vân, Xây dựng đường Hồ Chí Minh đoạn La Sơn – Túy Loan (giai đoạn 2); nút giao thông Túy Loan trên đường cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi; Tuyến đường vành đai phía Tây (đoạn từ Quốc lộ 14B đến đường Hồ Chí Minh)… Tiếp tục phối hợp đề xuất các Bộ, ngành Trung ương ưu tiên đầu tư, nâng cấp mở rộng tuyến QL14B, 14G, 14D nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội trên hành lang kinh tế Đông Tây…

Bên cạnh đó, nghiên cứu và thực hiện mục tiêu ưu tiên xây dựng tuyến đường ven biển xuyên suốt toàn vùng. Đây là tuyến đường chiến lược về phát triển kinh tế và an ninh quốc phòng, gắn với việc quy hoạch xây dựng các đô thị ven biển, hình thành “mặt tiền” của đất nước. Để thực hiện nhiệm vụ này, trong thời gian nhanh nhất, đề nghị Chính phủ xem xét phân bố tỷ lệ “vốn mồi”, còn chủ yếu huy động bằng “cơ chế”, trong đó có chính sách khai thác quỹ đất đô thị. Cần nghiên cứu chính sách đất đai và thuế đặc biệt ưu đãi để phát triển các đô thị trong các khu kinh tế ven biển, có thể nghiên cứu một số chính sách phù hợp sẽ áp dụng trong các đặc khu hành chính – kinh tế.

Thứ tư, về hợp tác phát triển vùng.

Triển khai thực hiện Đề án liên kết phát triển mạng lưới hạ tầng giao thông vận tải giữa Đà Nẵng và các địa phương vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Xây dựng trục kinh tế biển thống nhất với 10 tỉnh, thành phố là vùng kinh tế trọng điểm của quốc gia. Cụ thể, tiến hành điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội vùng kinh tế trọng điểm miền Trung thời kỳ 2021-2030, đồng thời rà soát lại, xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội các tỉnh duyên hải miền Trung phù hợp với không gian kinh tế Vùng. Trên cơ sở đó, mở rộng vùng kinh tế trọng điểm miền Trung thêm 05 tỉnh: Quảng Trị, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận để thống nhất liên kết vùng 10 tỉnh, thành phố vùng duyên hải miền Trung và gắn Ban Điều phối vùng duyên hải miền Trung với Hội đồng đồng Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung phát triển thành trục kinh tế biển thống nhất, gắn kết chặt chẽ với Tây Nguyên và Bắc Trung Bộ.

Rà soát quy hoạch chiến lược hệ thống hạ tầng của Vùng, làm rõ theo chức năng, không chồng chéo, không xung đột lợi ích, nhất là không dàn trải đầu tư kém hiệu quả, phân tán nguồn lực về: cảng biển, đường giao thông, sân bay của Vùng. Xây dựng cơ chế phối hợp Vùng trong việc đầu tư sân bay, cảng biển và giao thông kết nối nhằm tránh phân tán nguồn lực (kể cả kêu gọi đầu tư tư nhân) và thiếu gắn kết giữa cảng biển với hệ thống tổ chức logistics, các khu công nghiệp trong Vùng.

1. Thủ tướng Chính phủ (2018), Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg về việc ban hành hệ thống ngành kinh tế Việt Nam; 2. Bộ Công Thương (2017, 2018), Báo cáo logistics Việt Nam; 3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019), Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam; 4. Tổng cục Thống kê (2019), Kết quả sơ bộ Tổng điều tra dân số và nhà ở; 5. UBND TP. Đà Nẵng (2018), Quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng logistics TP. Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; 6. Vũ Văn Hiền (2019), Đổi mới tư duy về hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí Cộng sản; 7. Hai Nam Vu (2019), The strategic development in logistics in Vietnam. European Journal Engineering Research and Science; 8. PwC (2016), The future of the logistics industry, https://www.pwc.com/gx/en/transportation-logistics/pdf/the-future-of-the-logistics-industry.pdf.