Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học cho học sinh yếu kém môn hóa học(Ngày 17/05/2013 – 11:09:48)Chất lượng giáo dục luôn luôn là điều trăn trở đối với các nhà quản lý giáo dục nói chung cũng như đối với người giáo viên nói riêng. Trong thời gian qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều chủ trương, biện pháp tích cực để nâng cao chất lượng dạy và học. Đặc biệt là thực hiện các cuộc vận động lớn như : “Hai không”, “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương tự học và sáng tạo”, “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.Qua thực hiện các cuộc vận động này đã làm thay đổi khá nhiều về chất lượng giáo dục. Tuy có nhiều tiến bộ nhưng chất lượng thật sự của giáo dục hiện nay ở bậc THCS còn có một số tồn tại chưa giải quyết được. Yêu cầu đặt ra cho chúng ta là phải tìm những nguyên nhân yếu kém một cách chính xác, phải nhìn thẳng vào sự thật một cách khách quan.Từ đó bình tĩnh đưa ra những giải pháp tích cực sát với thực tế để từng bước nâng cao chất lượng.Trong những năm qua, một thực trạng là càng ngày tính đa dạng về trình độ học sinh trong các lớp càng tăng. Do đó, làm cách nào để có thể giúp cho học sinh khai thác tối đa bài giảng của thầy, nhất là đối với học sinh yếu. Ở các em có sự khác biệt về: khả năng tiếp thu bài, phong cách nhận thức,… so với những học sinh khác. Cần xem xét những học sinh này với những đặc điểm vốn có của các em để tìm ra những biện pháp nhằm dẫn dắt các em đạt đến kết quả tối đa, tránh cho các em bị rơi vào những khó khăn thường trực trong học tập. Đó chính là điều mà bản thân tôi muốn trao đổi, chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp để giúp đỡ đối tượng học sinh yếu.Để giải quyết vấn đề đó tôi xin nêu lên một số nguyên nhân và đề ra một số biện pháp nhằm khắc phục tình trạng trên như sau: I. NGUYÊN NHÂN:1. Từ học sinh:– Học sinh không hứng thú học tập bộ môn: Khác với các môn khác, môn Hóa học có nhiều khái niệm trừu tượng, do đó học sinh tiếp thu kiến thức ngày càng khó khăn và thiếu hụt.– Học sinh học yếu môn toán, lý khó có khả năng tiếp thu kiến thức môn Hóa học do đó sợ môn Hóa và không ham thích học Hóa. – Một số em lười học, thiếu sự chuẩn bị chu đáo dụng cụ học tập dẫn tới không nắm được các kĩ năng cần thiết trong việc học và vận dụng vào việc giải quyết các dạng bài tập Hóa học.– Một số em thiếu tìm tòi, sáng tạo trong học tập, không có sự phấn đấu vươn lên, có thói quen chờ đợi lười suy nghĩ hay dựa vào giáo viên, bạn bè hoặc xem lời giải sẵn trong sách giải một cách thụ động.2. Từ giáo viên:– Chưa thực sự quan tâm đến tất cả các đối tượng học sinh trong cả lớp mà chỉ chú trọng một số em học khá, giỏi; giáo viên chưa thật tâm lý, chưa động viên khéo léo kịp thời đối với những tiến bộ của học sinh dù nhỏ.– Chưa cân đối giữa việc truyền thụ kiến thức với rèn luyện kỹ năng thực hành Hóa học.– Không nắm chắc đối tượng dẫn tới đề quá cao hoặc quá thấp đối với học sinh.– Chưa tạo được không khí học tập thân thiện. Giáo viên chưa phối kết hợp tốt với giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh.– Phương pháp dạy học chậm đổi mới: Nhiều giáo viên chưa chú ý đến phương pháp dạy học đặc trưng của bộ môn: không có thí nghiệm trên lớp, bỏ giờ thực hành thí nghiệm, phương tiện dạy học nghèo nàn, lạc hậu.– Việc kiểm tra, đánh giá chưa nghiêm túc, chưa có tác dụng khích lệ học sinh trong học tập, thậm chí còn tạo điều kiện cho học sinh chây lười.– Chưa tổ chức được các buổi ngoại khóa, những hoạt động ngoài giờ lên lớp cho học sinh tham gia.3. Từ phụ huynh học sinh và xã hội:– Học sinh là con em nhân dân lao động, nghèo ít có điều kiện đầu tư việc học cho con cái.– Một số phụ huynh không quan tâm đến việc học của con em, khoán trắng việc học tập của con em họ cho nhà trường.– Sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin cùng với internet với các dịch vụ vui chơi, giải trí hấp dẫn đã lôi cuốn các em.II. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP:Từ những nguyên nhân trên tôi xin đề ra các biện pháp cụ thể như sau:1. Tạo động cơ, gây lòng
Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Học Sinh Đại Trà / TOP 6 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 4/2023 # Top View
Bạn đang xem chủ đề Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Học Sinh Đại Trà được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Học Sinh Đại Trà hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Tham Luận Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Đại Trà
Chất lượng giáo dục là chất lượng sản phẩm của giáo dục. Mà sản phẩm của giáo dục và đào tạo lại chính là học sinh. Nói cụ thể thì chất lượng của giáo dục là đào tạo ra các thế hệ học sinh vừa phải có đư ợ c các kiến thức kỹ năng cơ bản, có các chuẩn mực về thái độ sau một quá trình học.
* Để làm tốt công tác này cần phải phối hợp chặt chẻ của tất cả các bộ phận chức năng.
Với Tổ chuyên môn
TCM có trách nhiệm xây dựng kế hoạch hoạt động của tổ theo sự hướng dẫn, chỉ đạo của BGH nhà trường; thường xuyên giám sát, kiểm tra GV việc giảng dạy thực hiện đúng quy định, hướng dẫn của Bộ GD&ĐT về chương trình, nội dung kế hoạch giảng dạy; tham gia chỉ đạo và trực tiếp giám sát GV làm tốt công tác phụ đạo học sinh yếu, kém; giám sát GV nghiêm túc thực hiện việc dạy thêm theo đúng quy định, theo nguyện vọng của phụ huynh và HS; tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng đại trà và giáo dục đạo đức xây dựng nếp sống mới cho HS, góp phần xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực.
TCM chỉ đạo các thành viên duy trì nghiêm túc kỷ cương nề nếp dự giờ đồng nghiệp, thực tập thao giảng, Khuyến kích GV tự làm đồ dùng dạy học, thường xuyên sử dụng công nghệ thông tin vào dạy học. thực hiện tốt quy định về đạo đức nhà giáo nhằm không ngừng nâng cao phẩm chất chính trị, trau dồi đạo đức nghề nghiệp, rèn luyện lối sống, tác phong, giữ gìn bảo vệ truyền thống nhà giáo.
TCM chỉ đạo thực hiện và động viên GV tích cực thực hiện đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng các giờ dạy hàng ngày; làm tốt công tác động viên, khích lệ GV tích cực tham gia phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt”, các đợt hội giảng do nhà trường phát động; chỉ đạo góp ý thiết kế bài dạy và rút kinh nghiệm cho đồng nghiệp trong các giờ hội giảng.
Với giáo viên bộ môn
GVBM xây dựng kế hoạch cá nhân trong nội dung chương trình môn mình giảng dạy đúng với quy định, hướng dẫn của Bộ GD&ĐT; thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn, đổi mới cách soạn bài, áp dụng tốt các phương tiện và phương pháp dạy học tích cực để từng bước nâng cao hiệu quả giờ dạy. Nâng cao chất lượng các giờ dạy bằng cách đổi mới phương pháp dạy học sao cho phù hợp với từng kiểu bài, từng lứa tuổi và từng đối tượng HS ở những lớp mình giảng dạy; thường xuyên bồi dưỡng năng lực chuyên môn nghiệp vụ qua các khóa học, lớp học chuyên môn của ngành hoặc tự học qua các tài liệu, qua các giờ dạy của đồng nghiệp, qua các tiết dạy của bản thân được đồng nghiệp rút kinh nghiệm hoặc tự rút kinh nghiệm.
GVBM chuẩn bị kỹ nội dung bài trước khi lên lớp, xác định đúng mục đích yêu cầu, trọng tâm của bài để khắc sâu kiến thức cơ bản, các kĩ năng cần thiết cho HS. Thường xuyên liên hệ với thực tế, ứng dụng CNTT vào các giờ dạy, kết hợp tốt các phương pháp dạy học để tăng tính hứng thú của học sinh, tạo sự phấn khởi và niềm yêu thích môn học. Với các tiết luyện tập cần có phương pháp giải phù hợp, định hướng với từng loại bài tập, xem kỹ các trường hợp có thể xảy ra ( tránh cách nghĩ chủ quan đơn giản chỉ chọn chữa bài khó bỏ qua bài dễ); hướng HS tìm ra các phương thức tổng quát, cách giải với từng kiểu đề bài giúp HS nắm vững lý thuyết, biết vận dụng vào thực hành và có hứng thú học tập.
GVBM cần nhớ từng đối tượng HS trong lớp mình giảng dạy, hiểu tâm lý, lực học từng em để có cách dạy, giao bài tập sao cho phù hợp. Trong bài giảng cần có cử chỉ, ánh mắt, giọng nói bộc lộ sự tự tin vào kiến thức, quan tâm đều đến tất cả các em tạo sức hút cho bài giảng và tạo được không khí học tập thân thiện, tích cực.
GVBM chủ động ôn tập cho HS trước các kỳ thi; cho HS tập luyện nhiều dạng bài bám sát với kiến thức cơ bản cũng như một phần nâng cao với đối tượng khá giỏi; cho HS nghiêm túc chấm điểm bài làm của mình hoặc chấm bài của bạn, dưới sự hướng dẫn của GV; cho HS đánh giá đúng thực chất lực học bản thân để tự rút ra kinh nghiệm và cố gắng trong những đợt kiểm tra, các kỳ thi.
GVBM nghiêm túc thực hiện việc ra đề, coi kiểm tra đến việc chấm, chữa bài cho HS; khi chấm chú ý chỉ ra những lỗi sai và hướng dẫn cho HS tự sửa từ các bài kiểm tra 15 phút, 1 tiết đến các bài thi định kỳ và kiểm tra học kỳ; không nên lấy điểm số làm áp lực với các em; tạo điều kiện thuận lợi để HS mạnh dạn thể hiện bản thân, sửa chữa nhược điểm; chấm và công bố điểm phải khách quan, công bằng tạo không khí thi đua trong học tập với HS.
GVBM luôn phối hợp tốt với giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh để trao đổi thông tin và có những phương pháp giáo dục hiệu quả; luôn biết động viên, khích lệ với những tiến bộ dù rất nhỏ của các em. Với những HS cá biệt phải động viên tâm tình gần gủi có cách hướng dẫn, uốn nắn các em kịp thời.
Đối với GV trẻ tuổi nghề còn ít phải tăng cương thường xuyên dự giờ đồng nghiệp để học hỏi kinh nghiệm.
Với giáo viên chủ nhiệm
GVCN làm tốt nhiệm vụ chủ nhiệm lớp .
Mỗi GVCN phải là một nhà tâm lý để hiểu, quan tâm, động viên, khích lệ kịp thời đối với những tiến bộ của HS trong lớp (từ những tiến bộ dù là nhỏ nhất); là một người bạn thực sự để HS chia sẻ những tâm sự; là một người thân luôn bên cạnh các em để có những lời khuyên giúp các em tháo gỡ và giải quyết những khó khăn, khúc mắc trong học tập cũng như trong cuộc sống. Từ đó sẽ tạo nên cơ sở nền tảng chất lượng giáo dục đại trà đi vào thực chất và bền vững.
GVCN hướng dẫn, khích lệ cho HS giúp đỡ bạn trong học tập; chỉ đạo HS học nhóm, cho HS chọn nhóm bạn, đôi bạn “cùng tiến” và phân công bạn có lực học khá giỏi giúp đỡ bạn yếu kém; luôn tạo không khí học tập vui vẻ, thân thiện, hiệu quả trong lớp.
GVCN áp dụng các tiết dạy hoạt động ngoài giờ lớp lớp để giáo dục đạo đức và dạy kỷ năng sống cho học sinh để khuyến khích học sinh tránh xa các tệ nạn xã hội. Đối với các học sinh hay trốn học đi đánh điện tử GVCN phải kết hợp với GVBM,TPTĐ, nhà trường,gia đình theo giỏi giờ giấc học buổi sáng và buổi chiều để kịp thời uốn nắn và ngăn chặn các em.
Với học sinh
HS thực hiện nhiệm vụ của học .
HS nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo chương trình, kế hoạch giáo dục của nhà trường; xác định rõ động cơ, mục đích học tập và luôn có ý thức phấn đấu; tiếp thu kiến thức tích cực; luôn tìm tòi, sáng tạo trong học tập; học tập chăm chỉ và yêu thích tất cả các môn học.
HS thực hiện nghiêm túc những quy định của GVBM về việc làm bài tập ở lớp và ở nhà; thực hiện những quy định về điểm kiểm tra miệng, các bài kiểm tra viết do GVMB yêu cầu; nghiêm túc thực hiện chống tiêu cực trong kiểm tra, thi cử do nhà trường đề ra để có được những kết quả kiểm tra thực chất.
Người viết Hoàng Thị Liên
Nâng Cao Chất Lượng Đại Trà Và Chất Lượng Mũi Nhọn.
Đa phần học sinh ta còn rất yếu nên việc đòi hỏi cao trong tất cả các môn gây khó khăn cho học sinh. Theo tôi chúng ta cần phải tập trung thật nhiều cho các môn cơ bản Nội dung dạy học ở trên lớp: Theo tôi cần tập trung nhiều các hoạt động nhằm đạt chuẩn cơ bản, các nội dung có đưa ra trong sách giáo khoa nhưng không có trong mục tiêu cần đạt của học sinh chúng ta cho học sinh tự đọc hoặc giới thiệu qua. Trong tiết học, giáo viên cần quan tâm đến việc tự làm của học sinh, chúng ta cần phải giành thời gian cho học sinh làm các hoạt động phù hợp với trình độ các em, khuyến khích các em trao đổi. Những môn học có bài tập, đặc biệt là các môn có các tiết tự chọn theo tôi nên quan tâm đến vấn đề là học sinh có tiếp thu được những gì ta đưa ra hay không, chúng ta không cần thiết phải đưa ra nhiều dạng bài tập. Việc học ở nhà của học sinh: Mỗi tiết giáo viên cần dành ra 2-3 phút để giao cho học sinh làm ở nhà những nội dung có trong mục tiêu, cần nêu những mục tiêu cần đạt. Đối với môn có bài tập thì cho học sinh một số bài tập theo chuẩn chương trình và có chế độ kiểm tra. Đối với giáo viên chủ nhiệm: Chúng ta cần phát động trong lớp mình phong trào giúp nhau học tập, phân công những em học được trực tiếp kèm cặp những em học yếu. Nên chỉ đích danh ai giúp ai, môn gì? Chúng ta nên tránh việc học sinh chữa bài tập, những người còn lại chép vào vì học sinh dễ mắc sai lầm.
Cuối cùng, kính chúc quý vị sức khoẻ, chúc hội nghị thành công tốt đẹp. Hy vọng một năm học mới nhiều thắng lợi mới.
Tham Luận Về Việc Nâng Cao Chất Lượng Đại Trà
Giáo viên là những người được đạo tạo để giáo dục con người, giáo dục để học sinh trở thành những người có đầy đủ Trí – Đức- Thể – Mỹ. Vì vậy, bản thân mỗi nhà giáo phải là tấm gương cho học sinh noi theo. Đã chọn nghề giáo thì bản thân phải giữ cho mình một tâm hồn trong sáng, một tấm lòng tận tụy, một tình cảm nhân hậu, vị tha, một đức tính kiên nhẫn, bình tĩnh và có một trí tuệ minh mẫn. Qua 6 năm thực hiện đổi mới giáo dục, chất lượng dạy học ở trường THCS Nguyễn Văn Cừ có nhiều chuyển biến tích cực và vững chắc hơn nhiều so với trước đây. Đặc biệt hai năm trở lại đây chúng ta hưởng ứng và thực hiện cuộc vận động ” hai không” với bốn nội dung lại càng đặt ra thách thức mới đối với nhà giáo dục. Việc dạy thật, học thật, kiểm tra đánh giá theo chuẩn của Bộ giáo dục đào tạo đòi hỏi BGH đến GV cần phải nỗ lực hơn nữa để thực hiện tốt cuộc vận động đó nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục. Tuy nhiên, trong những năm qua, bên cạnh những kết quả khả quan đó vẫn còn tồn tại một bộ phận khá lớn những học sinh yếu kém, ảnh hưởng tương đối lớn đến kết quả chung của toàn trường nói riêng và của ngành giáo dục nói chung. Vậy thực trạng của vấn đề là gì? Nguyên nhân của thực trạng trên từ đâu? Giải pháp giải quyết thực trạng như thế nào?Chúng tôi xin góp một số ý kiến nhỏ, nhằm góp phần nâng cao chất lượng đại trà của học sinh.
– Học sinh chưa tự giác học, chưa có động cơ học tập. – Khả năng phân tích tổng hợp, so sánh còn hạn chế, chưa mạnh dạn trong học tập do hiểu chưa sâu, nắm kiến thức chưa chắc, thiếu tự tin. – Học sinh lười suy nghĩ, còn trông chờ thầy cô giải giúp, trình độ tư duy, vốn kiến thức cơ bản lớp dưới còn hạn chế. – Khả năng chú ý và tập trung vào bài giảng của giáo viên không bền. – Khả năng học tập của HS rất khác nhau, cùng một độ tuổi về trình độ chung các em có thể chênh nhau 3 lớp, riêng về toán có thể chênh nhau 7 lớp. – Mỗi em có một khả năng nỗi trội riêng nhưng các em chưa biết phát huy khả năng của mình. – Đọc chậm, viết chậm, viết sai. – Không biết làm tính, yếu các kỹ năng tính toán cơ bản, cần thiết (cộng, trừ, nhân, chia). – Học vẹt, không có khả năng vận dụng kiến thức. – Mức độ chuyên cần của một số HS chưa cao.
II. Nguyên nhân: Bằng thực tế kinh nghiệm dạy học, bằng những trao đổi chân thành với đồng nghiệp thì chúng tôi đưa ra một số nguyên nhân cơ bản sau:
– Một số giáo viên chưa hiểu đúng về đổi mới phương pháp dạy học. – Giáo viên ít chịu nghiên cứu, học hỏi, tìm tòi để có những cách dạy hiệu quả mang lại chất lượng thiết thực.
Phương pháp giảng dạy chưa phù hợp, năng lực tổ chức giờ học theo nhóm đối tượng còn hạn chế. – Chưa động viên tuyên dương kịp thời khi HS có một biểu hiện tích cực hay sáng tạo dù là rất nhỏ. – Chưa quan tâm đến tất cả HS trong lớp, GV chỉ chú trọng vào các em HS khá, giỏi và coi đây là chất lượng chung của lớp.
* Về phía học sinh: Học sinh là người học, là người lĩnh hội những tri thức thì nguyên nhân học sinh yếu kém có thể kể đến là do cá nhân học sinh trong đó có thể kể đến một số nguyên nhân sau:
– HS lười học: Tôi nhận thấy rằng đa số các học sinh yếu kém là những học sinh cá biệt, không chịu chuyên tâm vào việc học, về nhà không chuẩn bị bài, cứ đến giờ học thì cặp sách đến trường, nhiều khi học sinh còn không biết ngày đó học môn gì… Một bộ phận học sinh không xác định được mục đích của việc học, học chỉ để có điều kiện đi chơi…Theo sách giáo khoa hiện hành thì để dễ dàng tiếp thu bài, nhanh chóng lĩnh hội được tri thức thì người học phải biết tự tìm tòi, tự khám phá, có như thế thì khi vào lớp mới nhanh chóng tiếp thu và hiểu bài một cách sâu sắc được. Tuy nhiên, phần lớn học sinh hiện nay đều không nhận thức được điều đó. Học sinh chỉ đợi đến khi lên lớp, nghe giáo viên giảng bài rồi ghi vào những nội dung đã học rồi về về nhà lấy tập ra “học vẹt” mà không hiểu được nội dung đó nói lên điều gì.
+ Bên cạnh đó, việc giáo dục ý thức học tập của học sinh cũng phụ thuộc rất lớn vào giáo viên chủ nhiệm, giáo viên chủ nhiệm là người gần gủi với học sinh, phải tìm hiểu đối từng đối tượng học sinh, thường xuyên theo dõi các em về cả học lực và hạnh kiểm để kịp thời giáo dục, uốn nắn học sinh của mình. – GVBM đã sắp xếp thời gian ngoài giờ chính khóa để rèn luyện cho học sinh kỷ năng làm bài tập, nhất là những bộ môn công cụ.
IV/Kết quả thực hiện trong thời gian qua: Bằng những giải pháp trên, trong những năm trở lại đây chất lượng đại trà của trường ta được nâng lên một cách rỏ rệt. Điều đó thể hiện cụ thể qua thống kê học lực của những năm gần đây:
Chất lượng đại trà của các bộ môn của tổ Anh – Lý phụ trách cũng được nâng lên đáng kể, nhất là 2 năm trở lại đây, cụ thể như sau: – Tiếng anh:
V. Giải pháp thực hiện trong thời gian tới:
– Tiếp tục thực hiện những giải pháp đã thực hiện trong những năm trước đây một cách triệt để, có so sánh, đánh giá, rút kinh nghiệm sau mỗi học kỳ, mỗi năm học…
– Mỗi giáo viên phải tự xác định mục tiêu cho bản thân mình là vừa dạy vừa dỗ, lấy đó làm tiêu chí để đặt mình vào học sinh, lắng nghe và thấu hiểu, dần dần hướng các em đi theo con đường đúng đắn mà chúng ta đã vạch ra cho các em. Có như vậy lòng yêu trường, mến lớp, kính trọng thầy cô và lòng ham học ở các em sẽ được nâng cao.
– Trước đây mỗi lần đến khi thi cử giáo viên mới tải xuống cho học sinh một khối lượng các câu hỏi ôn tập rất dài và nhiều môn cùng lúc, làm cho học sinh thật sự không có đủ thời gian để ôn tập. Do đó, các tổ nhóm chuyên môn cần xác định nội dung trọng tâm của từng khối, đưa ra nội dung ôn tập và triển khai ngay đầu năm học, trên cơ sở đó lồng ghép trong các giờ dạy để cho các em tiếp xúc dần các nội dung ôn tập.
– Nếu có điều kiện các tổ nhóm cần xác định đối tượng học sinh yếu kém, tổ chức dạy chuyên đề những vấn đề cơ bản nhất cho các đối tượng đó (một học kỳ khoảng 2 lần).
– Trước đây lớp nào giáo viên bộ môn có học sinh yếu phải tự dạy phụ đạo, nếu làm như vậy thì đôi lúc phản tác dụng vì nhiều giáo viên chưa thực sự nhiệt tình, thiếu lòng nhiệt huyết, làm cho kết quả phụ đạo không thực chất, đến khi kiểm tra học kì kết quả rất thấp, nhất là các môn phòng giáo dục ra đề. Vậy chúng ta cần phối hợp với phụ huynh, nêu rỏ tình trạng thức tế của con em, sau đó đề xuất phương án dạy trên 6 buổi, có thu phí bồi dưỡng cho giáo viên dạy, đồng thời có sự ràng buộc giữa nhà trường và cha mẹ học sinh.
V. Kiến nghị, đề xuất: – Kiến nghị các cấp lãnh đạo có phương án kiểm soát các dịch vụ internet trên địa bàn, hạn chế sự sa đà của học sinh vào các trò chơi vô bổ. – Cần tổ chức họp liên đới giữa các bộ môn công cụ 1 tháng/ lần, trên cơ sở xác định được lượng học sinh yếu của từng môn, từ đó có phương án giúp đỡ các em kịp thời.
Tổng hợp các bài viết thuộc chủ đề Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Học Sinh Đại Trà xem nhiều nhất, được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!