Giải Pháp Lạm Phát Năm 2016 / Top 9 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 4/2023 # Top View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Lạm Phát 6 Tháng Đầu Năm 2022 Và Dự Báo

Nhiều chuyên gia nhận định, dù mức lạm phát 6 tháng đầu năm 2016 còn thấp và cách khá xa mục tiêu kiểm soát, nhưng đây vẫn là một biến số khó lường và đòi hỏi sự thận trọng trong điều hành.

Diễn biến lạm phát 6 tháng đầu năm 2016

Tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm đạt 5,52%. Tốc độ tăng trưởng năm nay tuy cao hơn tốc độ tăng chung của cùng kỳ các năm từ 2012 – 2014 (lần lượt là 4,93%; 4,9%; 5,22%) nhưng có dấu hiệu chững lại so với tốc độ tăng 6,28% trong 6 tháng đầu năm 2015. Tốc độ tăng trưởng 6 tháng đầu năm thấp, đặt ra thách thức lớn trong việc đạt mục tiêu tăng trưởng cả năm 2016 là 6,7%.

Theo Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cả nước tháng 6/2016 tăng 0,46% so với tháng trước, tăng 2,35% so với tháng 12/2015 và tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước. CPI bình quân 6 tháng đầu năm 2016 tăng 1,72% so với cùng kỳ năm 2015.

Lạm phát cơ bản theo thước đo CPI (sau khi loại trừ lương thực – thực phẩm tươi sống; năng lượng và mặt hàng do Nhà nước quản lý bao gồm dịch vụ y tế và dịch vụ giáo dục) tháng 6/2016 tăng 0,13% so với tháng trước, tăng 1,88% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 6 tháng đầu năm 2016 so cùng kỳ năm 2015 tăng 1,8%.

Như vậy, bình quân 6 tháng đầu năm 2016 so với cùng kỳ năm trước, tốc độ tăng lạm phát cơ bản (+1,8%) tương đối sát so với tốc độ tăng của lạm phát chung (+1,72%), qua đó cho thấy, chính sách tiền tệ vẫn đang được điều hành ổn định, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. CPI bình quân 6 tháng đầu năm 2016 tuy có mức tăng cao hơn so với bình quân 6 tháng đầu năm 2015 (+0,86%) nhưng vẫn thấp hơn cùng kỳ các năm trước (năm 2014 tăng 4,77%, năm 2013 tăng 6,73%, năm 2012 tăng 12,2%).

Mức tăng CPI trong 6 tháng đầu năm 2016 chủ yếu do tác động của việc điều chỉnh giá dịch vụ công (y tế, giáo dục) theo lộ trình thị trường, biến động tăng của giá nguyên nhiên, vật liệu, lương thực, thực phẩm và việc điều chỉnh tăng tiền lương tối thiểu vùng và lương cơ sở.

Giá dịch vụ khám chữa bệnh bảo hiểm được điều chỉnh tăng theo quy định tại Thông tư liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC ngày 29/10/2015 và giá dịch vụ giáo dục được điều chỉnh tăng theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 2/10/2015 của Chính phủ cũng đã có những tác động đến CPI trong 6 tháng đầu năm 2016. Giá dịch vụ y tế hiện đã thực hiện bước 1, theo đó mức giá khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế gồm chi phí trực tiếp và phụ cấp đặc thù thực hiện từ 1/3/2016 đẩy giá các mặt hàng dịch vụ y tế tăng 23,12%, góp phần làm cho CPI 6 tháng đầu năm tăng khoảng 0,86% so cùng kỳ năm trước. Thực hiện lộ trình tăng học phí theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP, một số tỉnh đã tăng học phí các cấp học làm cho chỉ số giá nhóm dịch vụ giáo dục 6 tháng đầu năm tăng 4,47% so cùng kỳ năm trước, góp phần làm cho CPI 6 tháng đầu năm tăng khoảng 0,22% so cùng kỳ năm trước.

Mức lương tối thiểu vùng áp dụng cho người lao động ở các doanh nghiệp tăng từ ngày 1/1/2016 (Tính trung bình, mức lương tối thiểu vùng năm 2016 cao hơn mức lương tối thiểu vùng năm 2015 khoảng 250.000-400.000 đồng/tháng) và lương cơ sở tăng từ ngày 1/5/2016 (tăng 60.000đ) nên giá một số loại dịch vụ như: dịch vụ sửa chữa đồ dùng gia đình, dịch vụ bảo dưỡng nhà ở, dịch vụ điện, nước; dịch vụ thuê người giúp việc gia đình… có mức tăng giá từ 1%-2,5% so với cùng kỳ năm trước.

Nguồn: Tổng Cục Thống kê, Cục Quản lý Giá Bộ Tài chính.

Trong 6 tháng đầu năm 2016, các dịp Tết Nguyên đán, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, kỳ lễ 30/4 và 1/5 đều được kéo dài nên nhu cầu mua sắm, vui chơi giải trí tăng cao, giá các mặt hàng lương thực, thực phẩm đều tăng. Bên cạnh đó, việc thương lái thu mua thịt lợn xuất sang Trung Quốc cùng với khô hạn ở miền Trung và Tây Nguyên, xâm nhập mặn tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long trong tháng 4, tháng 5 cũng đã ảnh hưởng đến giá lương thực, thực phẩm trong nước.

Theo đó, bình quân 6 tháng đầu năm, chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,03% so với cùng kỳ năm 2015, góp phần vào mức tăng chung của CPI khoảng 0,71%; chỉ số giá nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,37% so với cùng kỳ năm 2015, góp phần vào mức tăng chung của CPI khoảng 0,08%; chỉ số giá nhóm may mặc tăng 2,47% so với cùng kỳ năm 2015, góp phần vào mức tăng chung của CPI khoảng 0,15%; chỉ số giá nhóm du lịch trọn gói tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước.

Một nguyên nhân khác cũng khiến CPI tăng là giá xăng dầu, khí ga tăng trong quý II theo xu hướng biến động tăng trên thị trường thế giới. Ngoài ra, do thời tiết nắng nóng nên nhu cầu dùng điện tăng, làm cho chỉ số giá điện sinh hoạt tăng 1,27%, góp phần làm CPI cả nước tăng khoảng 0,03%.

Hình 1: Diễn biến CPI và lạm phát cơ bản 6 tháng đầu năm 2016 (%)

Công tác điều hành trong 6 tháng đầu năm

Trong 6 tháng đầu năm 2016, mặc dù thị trường hàng hóa chịu tác động của nhiều yếu tố bất lợi (cả chủ quan và khách quan) như: thời tiết, khí hậu, môi trường, giá hàng hóa thế giới, việc thực hiện lộ trình giá thị trường của hàng hóa trong nước… Tuy nhiên, công tác điều hành của Chính phủ, các bộ, ngành địa phương khá sát sao nên thị trường vẫn khá bình ổn, các vấn đề phát sinh được các cấp, ngành, địa phương phối hợp xử lý kịp thời, hiệu quả.

Các ngành, các cấp đã và đang tích cực triển khai thực hiện nhiều giải pháp như:

– Bộ Tài chính đã tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, tổ chức các đoàn công tác liên ngành kiểm tra tình hình triển khai thực hiện công tác quản lý bình ổn giá tại một số địa phương. Về quản lý giá xăng dầu, Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Công Thương điều hành kinh doanh xăng dầu phù hợp tình hình thị trường thế giới và trong nước góp phần thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát.

– Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã điều hành lãi suất và tỷ giá linh hoạt phù hợp với tình hình kinh tế vĩ mô. Ngày 31/12/2015, NHNN Việt Nam đã ban hành Quyết định số 2730/QĐ-NHNN có hiệu lực từ ngày 4/1/2016 về việc công bố tỷ giá trung tâm của VND với USD và biên độ giao dịch là +/-3%, theo đó tỷ giá trung tâm được điều chỉnh hàng ngày, bám sát diễn biến cung cầu ngoại tệ trong nước và quốc tế, tỷ giá trung tâm biến động có tăng, có giảm. Với cách thức điều hành tỷ giá mới, sau 6 tháng, tỷ giá VND/USD trên thị trường thấp hơn nhiều so với mặt bằng tỷ giá cuối năm 2015 và khá ổn định.

Dự báo CPI năm 2016 và giải pháp kiểm soát giá cả những tháng cuối năm

Thực tế những năm qua cho thấy, mức lạm phát cả năm ở nước ta luôn cao hơn so với 6 tháng đầu năm. Theo thống kê, đặc biệt là trong những năm gần đây, CPI dù không còn biến động theo chu kỳ (những tháng sau tết âm lịch tăng thấp, quý 2 và 3 không tăng và từ tháng 9 tới cuối năm tăng cao), nhưng hầu như chỉ số CPI 6 tháng cuối năm đều tăng và chưa bao giờ CPI cả năm lại thấp hơn CPI 6 tháng đầu năm.

Lạm phát tiềm ẩn khả năng diễn biến bất thường, vì từ nay đến cuối năm 2016 có nhiều yếu tố dự báo sẽ gây áp lực lên CPI, đặc biệt có thể sẽ có những diễn biến phức tạp đến từ nhiều yếu tố ngoại sinh như thị trường thế giới và biến đổi khí hậu (gây xáo trộn trên thị trường lương thực), việc nước Anh rời khỏi EU… và nội sinh như khả năng kiểm soát cung tiền của NHNN và biến động của tổng cầu. Nếu tình hình bất lợi, sẽ không loại trừ việc lạm phát năm 2016 vượt qua mức mục tiêu 5% của Chính phủ.

Báo cáo của Tạp chí The Economist về tình hình Việt Nam 2016 cũng đã đưa ra nhận xét: Áp lực lạm phát ở Việt Nam vẫn ẩn chứa trong năm nay. Giá cả sẽ tăng với tốc độ nhanh hơn một chút. Áp lực lạm phát từ phía cầu cũng sẽ mạnh hơn. Dù vậy, Economist cho rằng, mức tăng của lạm phát từ nay đến 2018 sẽ ở mức độ vừa phải, không tăng sốc như giai đoạn 2011-2015.

Hình 2: Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng CPI và GDP (%)

Để kiềm chế lạm phát dưới 5%, Chính phủ đã xây dựng những kịch bản khác nhau. Theo đó, các bộ, ngành, địa phương tiếp tục theo dõi sát diễn biến cung, cầu, giá cả thị trường trong nước và quốc tế, làm tốt công tác phân tích, dự báo thông tin thị trường.Các bộ, ngành, địa phương tiếp tục thực hiện có hiệu quả các giải pháp đề ra trong Nghị quyết 19/NQ-CP ngày 12/3/2015 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 về hỗ trợ phát triển doanh nghiệp của Chính phủ.

Ngoài ra, Chính phủ tiếp tục triển khai các biện pháp phù hợp nhằm hạn chế tác động của tình trạng ô nhiễm hiện nay ở khu vực miền Trung đến hoạt động du lịch; cũng như hạn chế tác động tiêu cực đến thu hút khách du lịch quốc tế. Bộ Tài chính tiếp tục thực hiện nghiêm kỷ luật tài chính, tăng cường thu nợ đọng thuế và triển khai thu kịp thời phần bán vốn cổ phần của Nhà nước ở một số doanh nghiệp… Bộ Công Thương tăng cường công tác chống buôn lậu; gian lận thương mại; cần phối hợp với các hiệp hội ngành hàng nhằm tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy xuất khẩu đối với một số mặt hàng chủ lực mà kim ngạch đang có xu thế giảm thấp so với cùng kỳ năm trước (như: sản phẩm dệt may, đồ gỗ, sản phẩm điện tử).

NHNN tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ theo hướng ổn định kinh tế vĩ mô; phối hợp với Bộ Tài chính trong phát hành trái phiếu Chính phủ nhằm duy trì mặt bằng lãi suất ổn định. Phấn đấu giảm lãi suất cho vay trung và dài hạn nhằm hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.

Các bộ, ngành, địa phương cần tăng cường thanh, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật Giá, thuế, phí, đặc biệt đối với những hàng hóa dịch vụ tiêu dùng thiết yếu; Xử lý nghiêm khắc hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật và công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng; Giám sát chặt chẽ kê khai giá của các doanh nghiệp đối với mặt hàng bình ổn giá, mặt hàng kê khai giá; Kiểm soát chặt chẽ giá hàng hóa dịch vụ do Nhà nước định giá, hàng hóa dịch vụ mua sắm từ nguồn ngân sách nhà nước, hàng hóa dịch vụ công ích, dịch vụ sự nghiệp công.

Trong trường hợp điều chỉnh giá phải xây dựng phương án, lộ trình điều chỉnh trên cơ sở đánh giá kỹ tác động của việc điều chỉnh giá, tránh điều chỉnh giá vào cùng một thời điểm, để tránh tác động của việc điều chỉnh giá tới mặt bằng giá.

1. Các báo cáo thống kê, Tổng cục Thống kê năm 2015, 6 tháng 2016; 2. Kỷ yếu hội thảo: “Diễn biến giá cả, thị trường ở Việt Nam 6 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2016”; 3. http://www.mof.gov.vn/; 4. http://www.gso.gov.vn/; 5. http://qlg.mof.gov.vn/portal/page/.

Lạm Phát Năm 2008: Dự Báo Và Giải Pháp?

Mục tiêu do Quốc hội đề ra cho năm 2008 là tốc độ tăng giá tiêu dùng (dưới 8,5-9%) thấp hơn tốc độ tăng GDP (8,5-9%). Tuy nhiên, các chuyên gia đã dự đoán, nếu không có những giải pháp quyết liệt, thì tốc độ tăng giá tiêu dùng năm nay sẽ không đạt được mục tiêu, thậm chí không kém tốc độ tăng của năm trước (12,63%).

Những yếu tố tăng giá

Những yếu tố tác động làm cho giá tiêu dùng năm nay tiếp tục tăng cao có nhiều, trong đó có một số nhóm yếu tố quan trọng.

Trước hết phải kể đến những yếu tố về phía cầu (lạm phát do cầu kéo). Cầu nói ở đây là cầu của người tiêu dùng và nhu cầu tăng trưởng kinh tế. Nhu cầu tiêu dùng năm 2008 tăng mạnh do nhiều tác động. Dân số tăng khoảng 1,2%, tức là vẫn tăng trên 1 triệu người (đưa dân số trung bình năm 2008 lên trên 86,2 triệu người). Mức tiêu dùng thông qua mua bán trên thị trường (thể hiện ở tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng) năm trước tăng 23,3%, nếu loại trừ yếu tố tăng giá bình quân năm (8,3%) thì vẫn còn tăng 13,9%. Đây là tốc độ tăng rất cao (cao gấp 1,64 lần tốc độ tăng GDP theo giá so sánh), một phần do mức tiêu dùng tăng cao và tỷ lệ tiêu dùng thông qua mua bán trên thị trường tăng nhanh.

Tăng trưởng kinh tế cao cũng đòi hỏi một lượng vốn đầu tư cao. Tỷ lệ giữa vốn đầu tư so với GDP năm trước đã lên đến 40,4%, mục tiêu năm nay còn đưa lên đến 42% để nhằm đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn (9% so với 8,48%). Khi vốn đầu tư đưa ra nhiều hơn thì sức ép lạm phát cũng tăng lên. Chẳng thế mà tăng trưởng kinh tế và lạm phát thường song song với nhau, nhưng có điều là ngược chiều nhau (tăng trưởng cao thường kéo lạm phát lên, lạm phát lên cũng đẩy tăng trưởng cao lên). Vì thế, các nước thường dùng công cụ lãi suất để tác động đến tăng trưởng và lạm phát: khi tăng trưởng kinh tế có dấu hiệu suy thoái thì cắt giảm lãi suất (lãi suất giảm thì tiền ra nhiều, tiêu dùng gia tăng); khi lạm phát tăng thì nâng lãi suất lên (lãi suất lên thì tiền ra ít).

Nhu cầu cao lên cộng hưởng với lượng tiền ra lớn sẽ làm cho cầu tăng kép. Lượng tiền từ ngân hàng ra lưu thông lớn thời gian qua có hai vấn đề đáng lưu ý. Một, lượng tiền đưa ra trong các năm trước quá lớn và hiện còn nằm ở lưu thông. Tốc độ tăng cung tiền M2 (bao gồm tổng tiền mặt và tiền gửi ngân hàng), tính chung ba năm qua đã lên đến 122,44% (năm 2005 tăng 23,34%, năm 2006 tăng 33,59%, năm 2007 ước tăng 35%), cao gấp gần 4,5 lần tốc độ tăng 27,25% của GDP tính theo giá so sánh trong thời gian tương ứng và các hệ số này cũng cao gấp đôi các nước trong khu vực. Cung tiền tăng cao gấp tới 4,5 lần sản xuất thì lạm phát cao là khó tránh khỏi, không những trong năm trước mà cả trong năm nay. Động thái này nếu vẫn tiếp tục thì lạm phát sẽ không giảm mà còn tăng. Hai, một lượng tiền lớn lên đến hàng trăm ngàn tỉ đồng đã được dồn dập đưa ra trong vòng 6-7 tháng đầu năm để mua đô la nhằm tăng dự trữ quốc tế và tránh cho đồng Việt Nam lên giá so với đô la nhưng việc hút tiền chậm chạp, đã tạo sức ép cho lạm phát về hai mặt.

Một mặt, do tình trạng đô la hóa ở Việt Nam vốn khá cao, việc khắc phục lại rất chậm, nên một phần của lượng ngoại tệ có từ trước và mới vào trong năm có tác dụng thanh toán trực tiếp. Mặt khác, để tránh cho tiền đồng khỏi lên giá, tác động không tốt đến xuất nhập khẩu và nhập siêu, Nhà nước sẽ lại đưa một lượng tiền lớn ra mua ngoại tệ, trong khi các biện pháp “trung hòa” sẽ chậm hơn và đạt hiệu quả thấp hơn do sự hấp dẫn của lãi suất phát hành trái phiếu yếu, sẽ lặp lại tình trạng có phiên đấu thấu trái phiếu không có người tham dự.

Năm 2008, lượng ngoại tệ vào nước ta từ các nguồn sẽ đạt kỷ lục mới, bởi lượng vốn ký kết, cam kết trong năm trước lớn nhưng giải ngân vẫn còn ít sẽ được giải ngân trong năm nay và năm nay có thể ký kết, cam kết còn cao hơn.

Áp lực lạm phát do chi phí đẩy năm trước đã khá cao, năm nay vẫn tiếp tục tăng làm cho chi phí đầu vào gia tăng, đó là do mặt bằng giá thế giới tăng. Mặt bằng giá thế giới tăng thể hiện ở hai mặt. Một mặt, do bản thân giá cả hàng hóa, dịch vụ tính bằng đô la tăng do giá đô la tiếp tục giảm giá không chỉ so với các đồng tiền mạnh (euro, bảng Anh, yen Nhật, fran Thụy Sĩ, đô la Canada…) mà còn giảm giá so với đồng nội tệ của nhiều nước khác, nhất là những nước và vùng lãnh thổ mà nước ta nhập siêu lớn (như Trung Quốc, Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Thái Lan, Malaysia…).

Lạm phát do chi phí đẩy năm nay sẽ còn cao hơn mọi năm do thị trường. Điều này có nghĩa là một số loại hàng hóa, dịch vụ năm trước được kiềm chế tăng giá thì năm nay sẽ tăng lên, tạo thành mặt bằng giá mới. Sự tăng giá của những hàng hóa, dịch vụ này (nhất là giá dầu, điện, than, học phí, viện phí…) bản thân nó đã làm tăng mặt bằng giá do chiếm tỷ trọng lớn trong chi tiêu cho đời sống, mà còn tác động dây chuyền đến hầu hết giá của những hàng hóa, dịch vụ khác.

Giải pháp đồng bộ

Để kiềm chế lạm phát không tăng cao hơn năm trước và không cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP, các biện pháp năm nay cần được đưa ra sớm, đúng, đồng bộ, đủ liều lượng và phải được thực hiện nghiêm.

Các giải pháp cũng tập trung vào việc bảo đảm cân đối cung – cầu, cân đối tiền – hàng.

Trước hết nói về hàng. Ngoài các biện pháp tăng trưởng kinh tế nói chung, cần tập trung vào các loại hàng hóa – dịch vụ hiện trong nước sản xuất chưa đủ, giá còn cao, nhất là thực phẩm, lương thực, vật liệu xây dựng, một số nguyên phụ liệu.

Năm nay là năm thứ hai sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), việc cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu theo cam kết sẽ được mở rộng ra nhiều loại hàng hóa, dịch vụ, nên việc nhập khẩu sẽ gia tăng, vừa có tác động giảm chi phí đầu vào, vừa có tác động tăng cung để cân đối tiền – hàng.

Tuy nhiên, nếu không có sự kiểm tra, thanh tra chặt chẽ, thường xuyên, thì lợi ích đó sẽ không đến tay người tiêu dùng, do bị “rơi rụng” ở các khâu nhập khẩu, phân phối, trong khi ngân sách nhà nước lại bị giảm thu, nhập siêu gia tăng, ảnh hưởng tới sản xuất ở trong nước. Doanh nghiệp tìm mọi cách giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành, giá bán sản phẩm. Nhà nước cải cách thủ tục hành chính, giảm chi phí xã hội cho doanh nghiệp.

Về mặt tiền tệ – tín dụng, cần khắc phục các hạn chế, bất cập trong năm trước để dự báo đúng, dự báo sớm, tránh bị động, lúng túng, chậm trễ. Trong đó có một số biện pháp đáng lưu ý.

Một, tỷ lệ dự trữ bắt buộc năm trước đã tăng gấp đôi lên 10%, đầu năm nay tăng thêm 1%, nhưng vẫn còn thấp hơn tỷ lệ 13,4% sau năm lần tăng trong năm 2007 của Trung Quốc. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế 9% thì tốc độ tăng M2 chỉ nên vào khoảng trên dưới 20%; có thể còn phải tăng thấp hơn hoặc phải hút mạnh tiền vào hơn nữa để hạ bớt tốc độ tăng đã quá cao trong các năm trước. Nói cách khác, cần phải tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 1-2 điểm phần trăm nữa để hãm tiền ra. Thời gian qua có nhiều ngân hàng thương mại kêu ca về tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng đến lợi nhuận và tính thanh khoản của họ, nhưng thực tế ngân hàng nào cũng lãi lớn, về trước mục tiêu kế hoạch; còn tiền lương của nhân viên khối ngân hàng cổ phần không chỉ vượt xa ngân hàng quốc doanh mà còn đang hút chất xám từ các ngân hàng nước ngoài.

Hai, để thu hút lượng ngoại tệ đang chảy mạnh vào nước ta và lượng ngoại tệ trên thị trường, Chính phủ cho phép các tập đoàn, doanh nghiệp lớn, có uy tín, có nhu cầu ngoại tệ nhập khẩu phát hành trái phiếu ngoại tệ trong nước. Có thể áp dụng giải pháp cho phép doanh nghiệp bán cổ phần bằng ngoại tệ. Đây là giải pháp có tác dụng về nhiều mặt. Vừa có thể tiếp tục thu hút được ngoại tệ đã, đang và sẽ vào nước ta phục vụ yêu cầu đầu tư tăng trưởng. Vừa thu hút được lượng ngoại tệ đang trôi nổi trên thị trường. Vừa không phải đưa một lượng lớn tiền đồng ra mua ngoại tệ tạo ra sức ép lạm phát.

Ba, nâng lãi suất huy động để hút tiền từ lưu thông về, đặc biệt là các ngân hàng thương mại quốc doanh hiện đang có lãi suất thấp hơn tốc độ tăng giá tiêu dùng, làm cho lãi suất thực bị âm. Phát hành trái phiếu cũng phải có lãi suất hấp dẫn.

Bốn, có cơ chế giám sát chặt chẽ việc tăng trưởng tín dụng ra thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản để tránh rủi ro do sự nóng lạnh bất thường của các thị trường này.

Năm, chấp nhận sự lên giá của tiền đồng. Một mặt do đô la giảm giá mạnh trên thị trường thế giới, kể cả các đồng nội tệ của các nước khu vực. Việc giảm giá 0,03% trong năm 2007 của tỷ giá VND/USD là quá nhỏ. Mặt khác, 1 đô la tại Việt Nam có giá sức mua tương đương với 3,4 đô la tại Mỹ. Ngoài ra, trong điều kiện Việt Nam còn nhập siêu lớn, nợ nước ngoài còn cao thì tỷ giá tăng là bất lợi.

Triển Khai 6 Giải Pháp Kiểm Soát Lạm Phát Các Tháng Cuối Năm 2022

PV: Thưa ông, những nhân tố nào được coi là gây áp lực tăng giá trong những tháng còn lại của năm 2018?

Ông Nguyễn Anh Tuấn: Áp lực tăng giá chủ yếu đến tư âcác nhân tố thị trường như biến động tăng của giá một số nguyên nhiên vật liệu trên thị trường thế giới như giá xăng dầu; biến động tăng của giá lương thực, thực phẩm trong nước; rủi ro từ thiên tai, bão lũ diễn biến phức tạp làm tăng giá cục bộ các mặt hàng thiết yếu tại các địa phương bị ảnh hưởng; việc điều chỉnh giá một số mặt hàng do Nhà nước định giá. Ngoài ra còn chịu áp lực từ việc nâng lãi suất đồng USD của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ ảnh hưởng nhất định đến lãi suất và tỷ giá trong nước…

PV: Vậy yếu tố giảm áp lực lên mặt bằng giá là gì, thưa ông?

Ông Nguyễn Anh Tuấn: Như tôi đã nói ở trên, áp lực tăng giá chủ yếu đến từcác nhân tố thị trường. Trong thực tế, vẫn có nhiều yếu tố làm giảm áp lực lên mặt bằng giá như: Trong một vài tháng tới, nhu cầu tiêu thụ trong nước đối với thực phẩm tươi sống dự báo ổn định và thường giảm vào mùa hè, giá thuốc chữa bệnh phấn đấu tiếp tục giảm theo kế hoạch đấu thầu thuốc tập trung, giá một số dịch vụ khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế giảm từ ngày 15-7-2018 dự kiến tác động làm giảm CPI khoảng 0,35%; giá cước kết nối thoại giữa các mạng di động giảm 20%, lạm phát cơ bản ở mức thấp…

Cùng với đó, các bộ, ngành, địa phương đã nỗ lực chủ động điều hành giá cả thị trường và thực hiện các biện pháp kiểm soát lạm phát hiệu quả. Chính phủ đã thể hiện quyết tâm trong việc kiểm soát CPI bình quân dưới mức 4% như Quốc hội đã giao để bảo đảm cân đối kinh tế và hỗ trợ cho tăng trưởng, không để xảy ra lạm phát kỳ vọng.

PV: Trong thời gian tới, Bộ Tài chính có những giải pháp gì để tham mưu với Chính phủ trong việc điều hành giá?

Ông Nguyễn Anh Tuấn, Cục trưởng Cục Quản lý Giá.

Ông Nguyễn Anh Tuấn: Bộ Tài chính sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành địa phương trong thực hiện chủ trương của Chính phủ đối với công tác kiểm soát lạm phát, với 6 nhiệm vụ cơ bản sau:

Thứ nhất, tiếp tục theo dõi sát diễn biến giá cả thị trường các mặt hàng thiết yếu để kịp thời đề xuất các giải pháp bảo đảm cân đối cung cầu nhằm bình ổn giá cả thị trường nhất là đối với các mặt hàng giá thị trường có xu hướng tăng cao trong thời gian gần đây như xăng dầu, lương thực, thịt lợn…

Thứ ba, đối với việc thực hiện lộ trình thị trường một số mặt hàng quan trọng, thiết yếu: Bộ Tài chính tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, Tổng cục Thống kê để tính toán mức độ và thời điểm điều chỉnh phù hợp giúp kiểm soát mặt bằng giá chung, hạn chế tác động chi phí đẩy đến sản xuất, tiêu dùng và đời sống của người dân. Đối với giá dịch vụ y tế, việc kết cấu thêm các chi phí vào trong giá theo lộ trình phụ thuộc vào dư địa lạm phát trong những tháng còn lại của năm.

Thứ tư, trong việc điều hành giá xăng dầu, tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương sử dụng hợp lý quỹ bình ổn giá với liều lượng thích hợp để kiềm chế việc tăng giá, chủ động có kịch bản ứng phó nếu giá xăng dầu tăng cao để tạo dư địa thuận lợi cho việc kiểm soát mặt bằng giá cả năm.

Thứ năm, đối với một số mặt hàng nông sản đang tiếp tục có xu hướng tăng trong thời gian tới, tiếp tục phối hợp với Bộ NN&PTNT trong công tác nắm bắt tình hình thị trường, cung cầu các mặt hàng lương thực, thực phẩm nhằm đưa ra các dự báo, tính toán kịch bản điều hành giá cho từng giai đoạn để kịp thời đề xuất các biện pháp bình ổn thị trường phù hợp.

Kiểm Soát Lạm Phát, Tiếp Tục Ổn Định Kinh Tế Vĩ Mô Để Duy Trì Đà Tăng Trưởng Năm 2022

Nền kinh tế Việt Nam bước vào năm 2016 với bước đà ổn định và phát triển tích cực của năm 2015. Về cơ bản, nền kinh tế thế giới năm 2016 sẽ có những dấu hiệu tích cực hơn và có những tác động thuận lợi, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế Việt Nam. Bên cạnh đó, với các hiệp định thương mại của Việt Nam trong năm 2016 sẽ phát huy hiệu quả, tạo ra được những cải thiện mạnh mẽ trong môi trường sản xuất kinh doanh cũng như thu hút đầu tư. Thị trường tài chính, thị trường ngoại hối tương đối ổn định trong quý I và những chính sách tiền tệ tích cực, linh hoạt đã dần phát huy hiệu quả trong điều hành chính sách. Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam vẫn phải đối mặt với một số thách thức như tình hình kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, thời tiết đang là trở ngại lớn trong sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản và việc kiểm soát lạm phát đang gặp nhiều thách thứ

PGS., TS. Đào Văn Hùng   1. Kinh tế thế giới quý I vẫn còn nhiều bất ổn Tình hình kinh thế giới quý I/2016 vẫn cho thấy nhiều bất ổn khi tốc độ tăng trưởng kinh tế của Mỹ và khu vực châu Âu vẫn chưa bền vững; kinh tế Trung Quốc, Nhật Bản và các nền kinh tế đang nổi vẫn đang trong giai đoạn khó khăn, trong khi tình hình sản xuất, thương mại chưa có nhiều cải thiện. Triển vọng tích cực về kinh tế là “không rõ ràng”. Theo Bộ Thương mại Mỹ (24/03/2016), GDP quý IV/2015 của Mỹ tăng 1,4%, cao hơn gấp đôi so với con số ước tính trước đó (0,7%) và đạt tốc độ tăng trưởng GDP cả năm 2015 là 2,4%. Tuy nhiên, trong năm 2016, tình hình sản xuất của Mỹ không ổn định, sau khi chỉ số PMI tăng lên mức 52,4 điểm vào tháng 1/2016 và giảm xuống 51,3 điểm vào tháng 2/2016. Đồng thời, chỉ số giá sản xuất (PPI) đối với cầu cuối cùng cũng tăng 0,1% trong tháng 1/2016 sau đó giảm tiếp 0,2% trong tháng 2/2016. Tình hình tế của khu vực châu Âu quý I/2016 vẫn chưa thấy được nhiều tín hiệu khả quan. Sản lượng của khu vực kinh tế châu Âu đã tiếp tục suy giảm trong những tháng đầu năm 2016 và chỉ số PMI đạt mức 53,6 điểm trong tháng 1/2016 và giảm xuống còn 53 điểm trong tháng 2/2016. Tình hình kinh tế Nhật Bản quý I/2016 vẫn cho thấy sự thiếu ổn định với nguyên nhân chính là do tiêu dùng cá nhân yếu và một phần do sự suy giảm tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc. Cụ thể, tiêu dùng cá nhân giảm là do tổng tiền lương tăng thấp với mức tăng chỉ 1%. Chỉ số PMI tháng 1/2016 đạt 52,3 điểm và giảm xuống còn 50,1 điểm vào tháng 2/2016. Bên cạnh đó, Nhật Bản vẫn đang phải đối mặt với rủi ro về tỷ giá khi giá trị đồng USD giảm đã làm cho đồng Yên tăng lên 6%, điều này sẽ gây trở ngại tiêu cực cho nền kinh tế Nhật Bản. Tình hình kinh tế Trung Quốc quý I/2016 cho thấy nhiều dấu hiệu không khả quan. Cụ thể, xuất khẩu trong tháng 1 và 2/2016 (tính theo USD) giảm 11,2% và 25,4 % so với cùng kỳ năm trước và nhập khẩu giảm 18,8% và 13,8% so với cùng kỳ năm trước,  điều này đã làm cho thương mại thặng dư lên tới 95,9 tỷ USD. Xuất khẩu sụt giảm cho thấy đợt phá giá nhân dân tệ (NDT) hồi tháng 8/2015 vẫn chưa thể nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Trung Quốc. Bên cạnh đó, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc tháng 2/2016 đã giảm xuống còn khoảng 3 nghìn tỷ USD, theo thông cáo của Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBOC). Các nền kinh tế đang nổi đang có dấu hiệu suy giảm tăng trưởng trong quý I/2016. Tại Nga, chỉ số PMI trong 2 tháng đầu năm 2016 liên tục suy giảm dưới 50 điểm, các đơn hàng xuất khẩu giảm mạnh và áp lực về giá tăng cao. Tại Ấn Độ, chỉ số PMI chỉ đạt 51,1 điểm trong tháng 2/2016, tuy nhiên, đã có những dấu hiệu tích cực trong sản xuất và các đơn đặt hàng. Tại Braxin, chỉ số PMI luôn dưới 50 điểm, ngành sản xuất suy giảm, và thất nghiệp gia tăng. Trong quý I/2016, tại cuộc họp ngày 16/3, Ủy ban Thị trường mở Liên bang (FOMC) trực thuộc FED đã quyết định giữ nguyên mức mục tiêu cho lãi suất cơ bản trong khoảng 0,25 – 0,5%, đồng thời dự kiến FED sẽ chỉ nâng lãi suất 2 lần từ nay đến cuối năm 2016, mỗi lần tăng 0,25% thay vì dự kiến tăng 4 lần trong năm 2016 (mỗi lần 0,25%) như trước đây. Đây là một quyết định quan trọng đối với định hướng chính sách của Mỹ cũng như của các nước trên thế giới. Sự mất giá liên tục của đồng USD trong những tháng đầu năm 2016 đã gây ra những trở ngại và áp lực tỷ giá đối với các nước trên thế giới. Điều này có thể sẽ dẫn tới sự phá giá đồng tiền của nhiều nước trên thế giới. Trong tháng 1/2016, giá cả hàng hoá cơ bản giảm 0,8% do sự sụt giảm của giá dầu và giá kim loại. Tuy nhiên, sang tháng 2/2016, giá hàng hoá thế giới tăng trở lại ở mức 2%, đầy là lần tăng đầu tiên trong 9 tháng qua.   2. Kinh tế vĩ mô quý I ở Việt Nam mặc dù ổn định nhưng vẫn chứa đựng bất ổn, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng năm 2016 2.1. Tăng trưởng kinh tế đạt thấp Theo số liệu của GSO, tăng trưởng quý I/2015 đạt 5,46% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức 6,12% của quý I/2015. Nguyên nhân chính là do sự giảm sút của tiêu dùng, tiêu dùng cuối cùng chỉ tăng 6,87% so với cùng kỳ năm 2015, thấp hơn rất nhiều so quý I/2015 là 8,67%. Xét theo phía cung, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản suy giảm và tốc độ tăng khu vực công nghiệp và xây dựng sụt giảm. Cụ thể, tăng trưởng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm (-) 1,23% và công nghiệp và xây dựng  chỉ tăng 6,72% so với cùng kỳ năm trước. Khu vực dịch vụ tăng  ứng 6,13% so với cùng kỳ năm trước,cao hơn con số 5,68% của quý I/2015. (Hình 1)

Hình 1: Tăng trưởng kinh tế quý I qua các năm. (Nguồn: GSO)

2.2. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tiếp tục đà tăng thấp, nhưng nếu không được kiểm soát tốt vẫn có thể vượt quá mục tiêu dưới 5% năm 2016 CPI tháng 2 tăng 0,42% so với tháng trước, dẫn đến 2 tháng đầu năm chỉ số CPI tăng 0,42% so với tháng 12 năm trước. Nguyên nhân CPI tăng cao là do sức tiêu thụ và mua sắm hàng hoá của người dân trong dịp Lễ Tết đầu năm 2016, điều này dẫn đến giá cả của nhóm hàng hoá như nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,12% so với tháng 12 năm trước. CPI tháng 3/2016 tăng 0,57% so với tháng trước, chủ yếu là do tác động tăng giá của nhóm hàng hóa dịch vụ y tế và giáo dục. Cụ thể, nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 24,34%, trong đó, dịch vụ y tế tăng 32,9%. Giá giáo dục tăng 0,66% là do sự điều chỉnh tăng giá của 06 tỉnh, thành phố theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính phủ. Như vậy, tính chung 03 tháng đầu năm, CPI đã tăng 0,99% so với tháng 12, tăng 1,69% so với cùng kỳ năm trước và CPI bình quân quý I/2016 tăng 1,25% so với bình quân cùng kỳ năm 2015. 2.3. Xuất nhập khẩu tăng chậm Xuất khẩu tăng chậm: Tính chung 3 tháng đầu năm, tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước đạt 37,9 tỷ USD, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 27,1 tỷ, tăng 5,8%. Có thể thấy, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu quý I/2016 tăng thấp nếu so với con số tăng trưởng cùng kỳ của các năm trước đó (38,71% năm 2011; 24,48% năm 2012; 17,52% năm 2013, 14,27% năm 2014 và 6,94% năm 2015). Nhập khẩu tiếp tục giảm, 3 tháng đầu năm kim ngạch hàng hóa nhập khẩu toàn nền kinh tế ước đạt 37,1 tỷ USD, giảm 4,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực có vốn nước ngoài nhập khẩu 22,2 tỷ USD, giảm 5,7% so với cùng kỳ năm trước và chiếm tới 61,35% tổng kim ngạch nhập khẩu; khu vực trong nước nhập khẩu 13,34 tỷ USD, giảm 11,9% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 36,65% tổng kim ngạch nhập khẩu. Như vậy, tính riêng quý I/2016, cán cân thương mại hàng hóa thặng dư 776 triệu, trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu là 4,05 tỷ USD và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 4,83 tỷ USD. Con số xuất siêu của quý là không bền vững, nguyên nhân chính là do xuất khẩu và nhập khẩu đều giảm, trong đó chủ yếu là do nhập khẩu giảm sâu. Bên cạnh đó, con số xuất siêu này phụ thuộc chủ yếu vào xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. (Hình 2) Hình 2: Xuất nhập khẩu và cán cân thương mại hàng hóa qua các quý. (Nguồn: GSO)

2.4. Đầu tư vẫn duy trì tăng trưởng ở mức khá, nhưng đầu tư công tăng nhanh, nợ chính phủ cao, ngân sách nhà nước tiếp tục khó khăn – Vốn đầu tư tăng, nhưng chủ yếu là do nguồn vốn đầu tư nước ngoài tăng So với cùng kỳ năm 2015, vốn đầu tư thực hiện đã tăng 1 điểm % từ 9,7% của năm 2015 lên thành 10,7% năm 2016, song sự tăng lên của nguồn vốn này chủ yếu là do tăng vốn đầu tư thực hiện của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cụ thể, vốn đầu tư thực hiện khu vực nhà nước tăng 7,8% (năm 2015 là 7,7%), vốn đầu tư thực hiện khu vực ngoài Nhà nước tăng 11,5% (năm 2015 là 11,4%) và vốn đầu tư thực hiện của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 13,5% (năm 2015 là 10,2%). – Đầu tư công tăng nhanh Toàn bộ chi đầu tư đều phải dựa vào nguồn vay nợ của Chính phủ, làm tăng áp lực nợ công và áp lực trả nợ. Nợ Chính phủ đến cuối năm 2015 là 50,3% GDP.  – Đầu tư từ ngân sách Nhà nước Với những chính sách của Chính phủ trong năm 2016 về định hướng về những nhiệm vụ, giải pháp thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2016 nói chung và lĩnh vực đầu tư nói riêng nhằm huy động nguồn lực đầu tư trong xã hội và đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân vốn ngân sách nhà nước. Theo đó, vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 273,6 nghìn tỷ đồng, tăng 10,7% so với cùng kỳ năm trước và bằng 32,2% GDP. Đây là mức tăng vốn tương đối cao trong bối cảnh kinh tế quý I đạt thấp. Đối với vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước trong quý I ước đạt 42,4 nghìn tỷ đồng chiếm 43,8% tổng vốn khu vực nhà nước, trong đó vốn do Trung ương quản lý đạt 9,3 nghìn tỷ đồng, vốn do địa phương quản lý đạt 33,1 nghìn tỷ đồng. Tổng thu ngân sách nhà nước không đủ đảm bảo nguồn chi thường xuyên và trả nợ. Cụ thể, tính đến thời điểm 15/03/2016, tổng thu ngân sách ước đạt 182,4 nghìn tỷ đồng thấp hơn mức 187,6 nghìn tỷ đồng của chi phát triển sự nghiệp kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể (155,7 nghìn tỷ đồng) và chi trả nợ và viện trợ (31,9 nghìn tỷ đồng). – Đầu tư trực tiếp nước ngoài Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện quý I ước đạt 3,5 tỷ USD, tăng 14,8% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chính của sự tăng lên mạnh mẽ này là do sự cải thiện đáng kể của môi trường đầu tư. Tuy nhiên, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu đi vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Cụ thể, ngành này thu hút lượng vốn đăng ký khoảng 2908 triệu USD và chiếm khoảng 72,2% tổng vốn đăng ký. Nếu xét theo đối tác đầu tư, các đối tác đầu tư lớn vào Việt Nam như Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 513,5 triệu USD, chiếm 18,7% tổng vốn đăng ký cấp mới (năm 2015 khoảng 314,2 triệu USD, chiếm 25,8%). Như vậy, tổng vốn đăng ký vào Việt Nam đã tăng mạnh và đầu tư nước ngoài đang dần chuyển vào Việt Nam nhiều hơn. 2.5. Tiêu dùng đang có xu hướng giảm Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ quý I/2016 ước đạt 859,6 nghìn tỷ đồng, tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước và nếu loại trừ yếu tố giá chỉ tăng 7,9%, thấp hơn rất nhiều so với con số tăng 9,2% của cùng kỳ năm 2015. Xét theo ngành hàng: Lương thực, thực phẩm tăng 13,2%; may mặc tăng 10,5%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 9,7%; phương tiện đi lại tăng 8,3%; vật phẩm văn hoá, giáo dục tăng 0,1%. 2.6. Thị trường ngoại hối ổn định, tăng trưởng tín dụng khả quan Tỷ giá bán tại nhiều NHTM phổ biến ở mức USD/VND = 22.325 – 22.340 VND/USD trong hơn 1 tháng gần đây, giảm 1% (tương đương mức giảm 200 đồng/1USD) so với thời điểm cuối năm 2015. Nguyên nhân là do: Thứ nhất, nguồn cung ngoại tệ là tương đối dồi dào do các nguồn như FDI, kiều hối tăng mạnh và Việt Nam xuất siêu trong quý I. Thứ hai, với các chính sách hạ lãi suất USD và áp dụng cơ chế điều hành tỷ giá trung tâm khiến diễn biến tỷ giá không quá căng thẳng như thời điểm cuối năm 2015. Tính đến thời điểm 31/03/106, theo Thông tư 24/2015/TT-NHNN ngày 8/12/2015  của Ngân hàng Nhà nước quy định cho vay bằng ngoại tệ của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng vay là người cư trú kể từ ngày 31/3/2016, các NHTM sẽ chấm dứt cho vay bằng ngoại tệ và chuyển sang mua bán Đôla Mỹ (USD) thuần túy. Đã có rất nhiều lo ngại của các doanh nghiệp và các cá nhân về việc khó khăn trong tiếp cận nguồn tín dụng USD. Tuy nhiên, trong Thông tư có quy định rõ cho từng đối tượng và đã tạo ra bước ngoặt quan trọng trong điều hành chính sách nhằm hạn chế được những đối tượng “trục lợi” từ việc hưởng chênh lệch lãi suất. Như vậy, Thông tư này có thể là điểm sáng trong việc điều hành tỷ giá trong thời gian tới. Tính đến thời điểm 21/03/2016, tổng phương tiện thanh toán tăng 3,08% so với tháng 12/2015, cao hơn mức tăng 2,09% của cùng kỳ năm trước. Tăng trưởng tín dụng tăng 1,54% so với tháng 12/2015, cao hơn mức tăng 1,25% của cùng kỳ năm 2015. Thêm vào đó, huy động vốn tăng 2,26% so với thời điểm cuối năm 2015 và cao hơn rất nhiều so với con số 0,94% của cùng kỳ năm 2015. 2.7. Mặt bằng lãi suất huy động tăng nhẹ, lãi suất cho vay khó có thể giảm trong thời gian tới Những tháng đầu năm 2016, lãi suất huy động tại các NHTM có dấu hiệu tăng nhẹ. Cụ thể, lãi suất huy động các kỳ hạn ngắn dưới 6 tháng được duy trì ở mức 4 – 5,5%/năm; với kỳ hạn từ 6 – 12 tháng, lãi suất huy động từ 5,4 – 6,8%/năm; kỳ hạn từ 12 tháng trở lên lãi suất từ 6 – 8%/năm. Trong khi đó, mặt bằng lãi suất cho vay hầu như không có biến động so với cuối năm 2015. Lãi suất cho vay các lĩnh vực ưu tiên phổ biến ở mức 6% – 7%/năm đối với ngắn hạn và 9 – 10%/năm đối với trung và dài hạn. Lãi suất cho vay các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường ở mức 6,8% – 9%/năm đối với ngắn hạn; 9,3 – 11%/năm đối với trung và dài hạn. Các yếu tố khiến lãi suất huy động tăng nhẹ bao gồm: (1) Lạm phát tăng cao hơn so với cùng kỳ năm 2015, mặc dù vẫn ở mức tương đối thấp; (2) những lo ngại về rủi ro tỷ giá và sự mất giá của đồng VND; (3) dự thảo sửa đổi Thông tư 36 theo hướng thắt chặt hơn quy định về tỷ lệ vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn cũng khiến các NHTM gia tăng lãi suất huy động trung và dài hạn để đảm bảo an toàn hệ thống. Lãi suất huy động tăng, thêm vào đó, các NHTM phải tiếp tục trích lập dự phòng rủi ro cho các khoản nợ xấu trước đây, nên lãi suất cho vay khó có thể giảm trong năm 2016.  2.8. Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư sửa đổi đã tạo môi trường thông thoáng hơn cho thành lập cũng như kinh doanh của các doanh nghiệp Doanh nghiệp thành lập mới tăng mạnh về số vốn đăng ký. Tính đến hết tháng 3 năm 2016, cả nước có thêm 23767 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với số vốn đăng ký là 186 tỷ đồng, tăng 24,8% về số doanh nghiệp và tăng 67,2% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ. Điều này cho thấy nhiều nhà đầu tư đang có xu hướng đầu tư trở lại, khi nền kinh tế đã đạt được những dấu hiệu tích cực trong năm 2015. Tuy nhiên, số doanh nghiệp tạm ngừng và doanh nghiệp giải thể vẫn tăng lên so với cùng kỳ năm trước Số doanh nghiệp ngừng hoạt động trong quý I là 20044 doanh nghiệp, tăng 23,9% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2015 có 16175 doanh nghiệp, tăng 14,2% so với cùng kỳ năm trước nữa). Trong đó, có 8026 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động có thời hạn và 12018 doanh nghiệp ngừng hoạt động có đăng ký. Các doanh nghiệp khó khăn phải tạm ngừng hoạt động hoặc phá sản chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ chiếm hơn 90% số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động và giải thể. Nguyên nhân chính là do khả năng thích ứng và khả năng cạnh tranh còn thấp. Thêm vào đó, sự khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn đã dẫn đến những trở ngại trong đầu tư và hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy, Chính phủ cần phải có những giải pháp phù hợp hơn đối với các loại hình doanh nghiệp này để duy trì và thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh. Số doanh nghiệp tạm ngừng quay trở lại hoạt động tăng mạnh. Số doanh nghiệp ngừng hoạt động quay trở lại hoạt động trong quý I năm nay là 9376 doanh nghiệp, tăng 84,1% so với cùng kỳ năm trước, và cao hơn rất nhiều con số 5094 (tăng 10,2% so với cùng kỳ năm 2014) của quý I/2015. Điều này cho thấy các giải pháp của Chính phủ nhằm tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh đã phát huy tác dụng.     Các doanh nghiệp lạc quan hơn về tình hình sản xuất kinh doanh Với kết quả điều tra về xu hướng kinh doanh của GSO cho thấy có tới gần 73% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý I/2016 là ổn định và khả quan hơn, trong khi đó, chỉ có khoảng 27% đánh giá tình hình khó khăn hơn. Bên cạnh đó, có 89% doanh nghiệp đánh giá xu hướng ổn định và tốt hơn trong quý II/2016 với với sự tăng lên của sản xuất, khối lượng xuất khẩu, các đơn đặt hàng và sự ổn định của chi phí sản xuất, giá cả và tồn kho sản phẩm. 3. Dự báo tốc độ tăng trưởng năm 2016 và một số giải pháp duy trì đà tăng trưởng 3.1. Triển vọng kinh tế thế giới Tăng trưởng kinh tế thế giới có thể tăng chậm trong năm 2016, OECD dự báo tăng trưởng 3,3% (thấp hơn mức dự báo trước đó, 3,6%) nguyên nhân chính là do nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục suy giảm. Theo đó, các nền kinh tế phát triển như Mỹ sẽ tiếp tục khả quan, Nhật Bản có thể đạt mức tăng trưởng 1%. Trong khi đó, nền kinh tế Trung Quốc vẫn có thể tiếp tục suy giảm khi phải đối mặt với những khó khăn như sự suy giảm của xuất nhập khẩu và dự trự ngoại hối. 3.2. Cho dù tăng trưởng quí I thấp, nhưng Việt Nam vẫn có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế   Từ thực trạng kinh tế quý I cho thấy, trong năm 2016, Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức và khó khăn để duy trì tốc độ tăng trưởng tích cực của năm 2015 như: Thứ nhất, tiêu dùng đang có xu hướng tăng chậm và không đạt được như kỳ vọng của năm 2015. Cụ thể, có thể thấy được tốc độ tăng tiêu dùng cuối cùng của quý I/2016 (ước đạt 6,87%) giảm gần 2 điểm % so với cùng kỳ năm 2015 (8,67%). Thứ hai, thời tiết diễn biến bất thường sẽ tác động tiêu cực tới sản xuất nông nghiệp và giá lương thực trên thị trường. Cụ thể, giá trị sản xuất nông nghiệp gặp khó khắn do khí hậu khắc nghiệt làm hạn chế việc sản xuất hoa màu và tình trạng nước mặn xâm nhập ở Đồng bằng sông Cửu Long, làm giảm năng suất lúa. Bên cạnh đó, thời tiết khó khăn và ô nhiễm nguồn nước cũng có ảnh hưởng mạnh tới nuôi trồng thủy sản. Thứ ba, đồng USD dự báo tiếp tục lên giá khi FED tuyên bố sẽ tăng lãi suất 2 lần từ nay đến cuối năm 2016, điều này sẽ có ảnh hưởng tiêu cực tới thương mại thế giới. Thứ tư, việc kiểm soát lạm phát còn nhiều thách thức khi giá dầu thế giới diễn biến phức tạp theo chiều hướng tăng trở lại và việc tăng giá các hàng hóa dịch vụ công (y tế, giáo dục). Trên cơ sở đó, bài viết này đưa ra hai kịch bản dự báo kinh tế cho năm 2016 như sau: (Hình 3)

Kịch bản thứ nhất (kịch bản cao): Kịch bản này được dự báo khi Chính phủ có nhiều chính sách nhằm cải thiện mạnh mẽ nhằm tăng tiêu dùng của nền kinh tế. Bên cạnh đó, với hàng loạt các hiệp định thương mại sẽ phát huy tối đa hiệu quả trong năm 2016 và những dấu hiệu tác động tích cực từ bên ngoài tới nền kinh tế Việt Nam. Do đó, mặc dù kết quả tăng trưởng quí I thấp, nhưng vẫn có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng 6,8% vào cuối năm và lạm phát vẫn có thể duy trì vào khoảng 3,17%. Kịch bản thứ hai (kịch bản thấp): Kịch bản này được đưa ra khi tiêu dùng trong nước không có nhiều cải thiện và các hiệp định thương mại còn gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, những khó khăn từ thiên tai, dịch bệnh và những khó khăn từ bên ngoài tác động tới nền kinh tế Việt Nam. Với kịch bản này, tăng trưởng của Việt Nam năm 2016 chỉ đạt khoảng 6,35% và lạm phát ở khoảng 2,56%. 3.3. Một số giải pháp cho nền kinh tế trong năm 2016 Để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2016, trong thời gian tới, cần phải thực hiện một số giải pháp sau đây: Thứ nhất, kiểm soát chặt chẽ lạm phát, xây dựng cơ chế phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa, giảm gánh nặng tăng tổng cầu lên chính sách tiền tệ và hạn chế dần sự lấn át của chính sách tài khóa lên chính sách tiền tệ. Mặc dù mức tăng CPI quí I còn thấp, nhưng áp lực tăng giá sản phẩm, dịch vụ công theo cơ chế thị trường còn rất lớn. Mặt khác, giá dầu có dấu hiệu hồi phục sẽ tác động nhiều đến CPI. Vì vậy, Chính phủ cần tiếp tục kiểm soát chặt chẽ tổng cầu đề duy trì lạm phát ở mức thấp tạo đà cho tăng trưởng.  Thứ hai, giảm chi phí hoạt động NHTM để từ đó, tạo cơ sở cho giảm lãi suất tiền vay qua việc giảm trích lập dự phòng rủi ro nợ xấu bằng cách cho các NHTM chuyển nợ xấu thành vốn góp doanh nghiệp như kinh nghiệm xử lý của Trung Quốc trong thời gian gần đây. Thứ ba, duy trì kỷ luật tài khóa, giảm chi tiêu thường xuyên bằng cách giao tự chủ tài chính cho các đơn vị hành chính sự nghiệp công, chuyển một số hoạt động hành chính và dịch công sang khu vực tư nhân đảm nhiệm. Thứ tư, kiểm soát chặt chẽ đầu tư công, cắt giảm dự án  đầu tư công hiệu quả thấp, chỉ tập trung đầu tư vào các dự án trọng điểm có sức lan tỏa và xây dựng tiêu chí rõ ràng, công khai cho việc lựa chọn các dự án này. Sử dụng đồng bộ các giải pháp nêu trên lạm phát sẽ được kiểm soát, kinh tế vĩ mô sẽ ổn định và tăng trưởng kinh tế vẫn có thể đạt được từ 6,35 đến 6,70% như dự báo.   TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Báo cáo tình hình kinh tễ xã hội các tháng và quý của Tổng cục Thống kê. 2. Website Tổng cục Hải quan. 3. Website Tổng cục Thống kê. 4. Website Ngân hàng Nhà nước. 5. Website Cục Ðầu tư nước ngoài.   (Tạp chí Ngân hàng số 8, tháng 4/2016)