Khái niệm và phân loại
1)Khái niệm: Các vấn đề xã hội là các ưu khuyết điểm còn tồn tại, những hạn chế trong các lĩnh vực của đời sống, kinh tế, xã hội. Trong đó những hạn chế trong các vấn đề xã hội mang tính cấp bách và cần được giải quyết. 2)Phân loại: bao gồm các lĩnh vực +dân số, lao động và việc làm +giáo dục, y tế, an sinh xã hội +đạo đức và văn hóa +an ninh, an toàn xã hội II)Hiện Trạng các vấn đề xã hội ở nước ta Tích cực Kết quả là sự nghiệp đổi mới toàn diện ở Việt Nam hơn 20 năm qua đã đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng về nhiều mặt, mà ở đây chỉ tập trung trình bày những thành tựu về phát triển xã hội, thể hiện ở những điểm chủ yếu sau: – Cùng với sự biến đổi của cơ cấu xã hội (mà cốt lõi là cơ cấu các giai tầng xã hội), tính năng động xã hội của mọi tầng lớp dân cư được phát huy, đời sống của đại đa số người dân trong nước được cải thiện. Ở thời kỳ trước đổi mới, do chủ trương đẩy mạnh cải tạo tất cả các thành phần kinh tế gọi là phi xã hội chủ nghĩa để nhanh chóng xây dựng một nền kinh tế “thuần nhất” dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức quốc doanh và tập thể,kéo theo sự ra đời của một cơ cấu xã hội giản đơn, gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể và tầng lớp trí thức xuất thân từ công nông (gọi tắt là “hai giai, một tầng”). Khi chuyển sang thời kỳ đổi mới, cùng với quá trình phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng bước phát triển kinh tế tri thức đi đôi với xây dựng xã hội học tập, thì cơ cấu các giai tầng xã hội đã biến đổi theo hướng ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Cơ cấu đó giờ đây không còn bị bó hẹp trong khuôn khổ “hai giai, một tầng” nữa mà bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, tầng lớp tiểu thương, tiểu chủ, tầng lớp chủ doanh nghiệp tư nhân, tầng lớp những người lao động tự do… Ngay trong từng giai tầng xã hội cũng diễn ra sự phân tầng về nghề nghiệp, trình độ học vấn, chuyên môn và thu nhập. Có cả những nhóm vượt trội và những nhóm yếu thế. Chính tính năng động xã hội ấy dường như là một “phép lạ” đã có tác dụng nhanh chóng đẩy lùi tình trạng suy thoái, trì trệ ở thời kỳ bao cấp trước đây và thổi luồng sinh khí mới
làm chuyển biến rõ rệt tình hình sản xuất và đời sống ở cả thành thị và nông thôn. Theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê, đã có khoảng 80 – 85% gia đình tự đánh giá có mức sống khá lên so với trước. Tổng sản phẩm quốc nội tính bình quân đầu người đã tăng từ 200 USD năm 1990 lên 835 USD năm 2007. – Kết quả phát triển kinh tế những năm qua đã cho phép Nhà nước huy động được thêm các nguồn lực để tăng đầu tư cho phát triển xã hội. So với khuyến nghị của Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển xã hội họp ở Copenhagen, Đan Mạch (tháng 3-1995), mỗi nước nên dành 20% ngân sách hàng năm cho việc giải quyết những vấn đề xã hội, thì từ 1996 đến nay, trung bình mỗi năm Chính phủ Việt Nam đã dành tới 24 – 26% ngân sách Nhà nước để chi cho các chương trình dân số – kế hoạch hóa gia đình, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, xây dựng các công trình hạ tầng thiết yếu ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, phát triển giáo dục, phát triển y tế, xây dựng mạng lưới an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phòng chống các tệ nạn xã hội… – Người lao động ngày càng có ý thức chủ động tạo ra việc làm cho mình và cho người khác. Từ chỗ bao cấp toàn bộ trong giải quyết việc làm, Nhà nước đã chuyển trọng tâm sang xây dựng pháp luật (Bộ Luật Lao động 1994), tạo lập cơ chế, chính sách nhằm hướng dẫn và hỗ trợ các thành phần kinh tếphát triển sản xuất kinh doanh, tạo thêm nhiều việc làm mới. Từ năm 1991 đến năm 2000,trung bình mỗi năm cả nước đã giải quyết cho khoảng 1 – 1,2 triệu người có công ăn việc làm; từ 2001 đến 2005, con số đó tăng lên 1,4 – 1,5 triệu người. Ngoài ra, mỗi năm Việt Nam còn đưa khoảng 70.000 người đi xuất khẩu lao động tại một số nước trong khu vực và trên thế giới. Để hội nhập với thế giới về chính sách lao động, trong những năm qua Việt Nam đã lần lượt ký kết và thực hiện các văn bản pháp lý quốc tế quan trọng về quyền lao động như: xóa bỏ lao động cưỡng bức, xóa bỏ phân biệt trong tuyển dụng và nghề nghiệp, xóa bỏ hình thức lao động trẻ em.
mở ra ở tất cả các tỉnh miền núi và các huyện vùng cao. Năm 2000, cả nước đạt chuẩn quốc gia về xóa nạn mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Tính đến cuối năm 2007, có trên 40 tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Tỷ lệ người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ đã tăng từ 85% cuối những năm 1980 lên trên 90% năm 2005. Từ năm 2001 đến nay, trung bình hàng năm quy mô đào tạo nghề cho người lao động tăng 10%, quy mô đào tạo cao đẳng, đại học tăng 7,4%. Những sinh viên nghèo được Ngân hàng chính sách xã hội cho vay tiền với lãi suất ưu đãi để theo học. – Chương trình mục tiêu quốc gia về dân số – kế hoạch hóa gia đình thời kỳ 19912000 được thực hiện tốt đã đưa tỷ lệ tăng dân số giảm từ 2,1% xuống 1,36%. Với thành tích này, Việt Nam đã được Liên hợp quốc tặng giải thưởng về công tác dân số. Sau đó, do chủ quan thỏa mãn, tỷ lệ tăng dân số đã nhích lên 1,44% vào năm 2004. Mấy năm gần đây, tỷ lệ tăng dân số giao động giữa 1,15% và 1,17%. – Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Các chỉ số sức khỏe cộng đồng được nâng lên. Áp dụng các tiêu chí của UNICEF, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm từ 42% năm 1995 xuống còn 25% năm 2005. Trong cùng thời gian, tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 1 tuổi giảm tương ứng từ 68‰ xuống còn 18‰ trẻ em đẻ sống. Công tác tiêm chủng mở rộng được thực hiện: các bệnh bại liệt, thiếu vitamin A, uốn ván sơ sinh cơ bản được thanh toán. Tính đến năm 2005, các bệnh bướu cổ, sốt rét ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã giảm 60% so với năm 1995. Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 73,7 tuổi năm 2005. HẠN CHẾ – Những năm gần đây tốc độ giảm nghèo có xu hướng chậm lại, tình trạng tái nghèo có xu hướng gia tăng, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
vùng thường bị thiên tai, dịch bệnh, và từ cuối năm 2007 đến nay lại chịu tác động mạnh bởi suy thoái kinh tế trên thế giới và lạm phát tăng cao ở trong nước. Tính theo chuẩn quốc tế, đến cuối năm 2007, tỷ lệ nghèo chung của cả nước còn khoảng 18%, tương đương 15 – 16 triệu người trong tổng số trên 85 triệu dân. Khoảng cách thu nhập giữa nhóm 20% giàu nhất và nhóm 20% nghèo nhất trong tổng số dân cư đã tăng từ 4,43 lần năm 1992-1993 lên 8,14 lần năm 2006. Như vậy, xóa đói giảm nghèo, giúp cho người nghèo vươn lên trung bình và khá giả vẫn còn là một thách thức lớn đối với triển vọng phát triển xã hội của Việt Nam. – Mặc dù tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị đã giảm từ 8 – 9% vào đầu những năm 1990 xuống còn trên 5% năm 2007, nhưng từ đầu năm 2008 đến nay lại đang có xu hướng gia tăng do nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất kinh doanh, giảm bớt việc làm để đối phó với lạm phát và giá cả leo thang. Đặc biệt, trong nông thôn nạn thiếu việc làm khá nghiêm trọng. Tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng trong độ tuổi ở nông thôn hiện nay chỉ đạt khoảng 80%. Nếu quy đổi 20% thời gian còn lại theo mức 250 ngày lao động/người/năm thì tương đương 3 – 4 triệu người không có việc làm, trong đó hầu hết là những lao động giản đơn, chưa được đào tạo nghề. Những năm gần đây, việc thu hồi đất đai để xây dựng khu công nghiệp, mở rộng đô thị… được thực hiện một cách ồ ạt ở không ít địa phương đã khiến cho một bộ phận nông dân bị mất đất canh tác mà không được đền bù thỏa đáng, không được hỗ trợ đào tạo để chuyển sang các nghề phi nông nghiệp, nên lại càng làm tăng thêm tỷ lệ thiếu việc làm và thất nghiệp ở nông thôn. – Trong lĩnh vực giáo dục, nội dung chương trình giảng dạy và học tập vừa quá tải vừa lạc hậu; cơ cấu ngành nghề đào tạo thiếu cân đối, phương pháp dạy và học cũ kỹ, chất lượng nguồn nhân lực được đào tạo ra nói chung còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Còn tồn tại một sự chênh lệch khá rõ về điều kiện học tập, cơ sở trường lớp giữa thành thị và nông thôn, miền xuôi và miền núi. Tỷ lệ học sinh,
sinh viên là con em các gia đình nghèo đi học đúng tuổi và học lên các cấp học cao đang có xu hướng giảm dần. – Trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân, mạng lưới y tế tuy được mở rộng, nhưng trang bị còn thiếu thốn, phân bố chưa hợp lý, chưa thuận tiện cho dân. Cơ chế chính sách bảo hiểm y tế, thu viện phí và khám chữa bệnh cho người nghèo còn nhiều bất cập. Ước tính mỗi năm có hàng vạn người nghèo phải vay lãi, bán gia cầm, gia súc hoặc tài sản cố định để trả viện phí. Vì thế, đối với người nghèo bị bệnh, nhất là các bệnh nặng đòi hỏi dịch vụ y tế chất lượng cao, là một rủi ro có thể đẩy họ vào bần cùng. – Bên cạnh đó, nhiều vấn đề xã hội nhức nhối do mặt trái của kinh tế thị trường đẻ ra, đặc biệt khi vai trò quản lý của Nhà nước còn yếu, khi việc thực thi kỷ cương phép nước chưa nghiêm, là tệ tham nhũng, buôn lậu, kể cả buôn bán phụ nữ và trẻ em9, và những tệ nạn xã hội khác như bạo lực gia đình, ma túy, mại dâm, kéo theo sự lây lan của bệnh HIV/AIDS… vẫn đang diễn biến phức tạp ở nhiều nơi.
III) Quá trình đổi mới nhận thức và chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội của Đảng 1) Quá trình đổi mới nhận thức về giải quyết các vấn đề xã hội Đại hội VI( 12/ 1986), lần đầu tiên Đảng ta nâng các vấn đề xã hội lên tầm chính sách xã hội, đặt rõ tầm quan trọng của chính sách xã hội đối với chính sách kinh tế và chính sách ở các lĩnh vực khác. Đây là sự đổi mới tư duy về giải quyết các vấn đề xã hội được đặt
–
–
trong tổng thể đường lối phát triển của đất nước, đặc biệt là giải quyết mối quan hệ giữa các chính sách kinh tế và các chính sách xã hội. Đại hội cho rằng: trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt dộng kinh tế. Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế ở chỗ đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người . Phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, đồng thời thực hiện tốt các chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Đại hội VIII( 6/1996) chủ trương hệ thống chính sách xã hội phải được hoạch định theo những quan điểm sau: Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công băng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lí tư liệu sản xuất cũng như ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình. Thực hiện nhiều hình thức phân phối. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo. Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa. Đại hội IX( 4/ 2001) chủ trương các chính sách xã hội phải hướng vào phát triển và làm lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất LĐXH, thực hiện bình đẳng trong các QHXH, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp.
Đại hội X (4/ 2006) chủ trương phải kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, từng địa phương. Hội nghị trung ương 4 khóa X( 1/ 2007) nhấn mạnh phải giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình thực thi các cam kết với WTO. Xây dựng cơ chế đánh giá và cảnh báo định kì về tác động của việc gia nhập WTO đối với các lĩnh vực xã hội để có các biện pháp xử lí chủ động, đúng đắn, kịp thời 2.Quan điểm về giải quyết các vấn đề xã hội trong thời kỳ đổi mới Giải quyết tốt các vấn đề xã hội là một trong những chủ trương, giải pháp lớn nhằm phát triển kinh tế – xã hội của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới. Những vấn đề xã hội Đảng ta quan tâm bao gồm các lĩnh vực liên quan đến sự phát triển của con người và xã hội như: dân số và nguồn nhân lực, lao động và việc làm, giáo dục và y tế, đạo đức và văn hoá, những đảm bảo về an ninh và an toàn xã hội của đời sống cá nhân và cộng đồng. Trên cơ sở khái quát những thành tựu và hạn chế của 20 năm đổi mới, trong đó có thành tựu và hạn chế của việc xây dựng và phát triển các vấn đề xã hội, Đại hội X của Đảng khẳng định quan điểm: Một là, kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội, trên bình diện cả nước cũng như từng lĩnh vực, địa phương. Sự kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội được xác định ở tất cả các cấp, các ngành không chỉ ở Trung ương mà từng ngành, từng địa phương, tạo thành sự thống nhất trong chính sách kinh tế và chính sách xã hội của địa phương, ngành và cơ sở. Sự kết hợp này bảo đảm tính đồng bộ, công bằng và bình đẳng cho mọi người dân, mọi vùng miền, khắc phục tình trạng phân hoá, bất bình đẳng do các khuyết tật của cơ chế thị trường và những phát sinh do nền kinh tế trong quá trình chuyển đổi gây ra.
con người HDI trong suốt quá trình phát triển và trong từng chính sách kinh tế- xã hội. 3. Chủ trương về giải quyết các vấn đề xã hội Từ thực tiễn xây dựng đất nước trong những năm qua, nhằm từng bước thực hiện quan điểm của Đảng để xây dựng và phát triển các vấn đề xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng ta cần đồng thời triển khai thực hiện các chủ trương và giải pháp lớn như sau: Trước hết là khuyến khích mọi người dân làm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu quả các chính sách xoá đói giảm nghèo. Với nội dung này, trong những năm tới cần thực hiện các yêu cầu là tạo điều kiện và cơ hội tiếp cận bình đẳng nguồn lực phát triển, hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản, vươn lên xoá đói giảm nghèo bền vững ở các vùng, khắc phục tình trạng bao cấp dàn đều, tư tưởng ỷ lại, phấn đấu không còn hộ đói, giảm mạnh hộ nghèo, tăng nhanh hộ giàu, từng bước xây dựng gia đình cộng đồng và xã hội phồn vinh. Tạo được động lực làm giàu trong đông đảo các tầng lớp dân cư, khuyến khích những người đã thoát nghèo mạnh dạn vươn lên làm giàu và giúp những người khác sớm thoát khỏi hộ nghèo. Xây dựng chương trình xoá đói giảm nghèo sát với điều kiện cụ thể của từng địa phương, dành nguồn ưu tiên hỗ trợ các vùng xa, khó khăn, có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số. Giảm dần chênh lệch về phát triển kinh tế và đời sống của nhân dân giữa các vùng, miền và các tầng lớp dân cư. Thứ hai, xây dựng hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng dịch vụ công cộng thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân về giáo dục và đào tạo, tạo việc làm, chăm sóc sức khoẻ, văn hoá thông tin, thể dục thể thao. Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng; phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân. Đa dạng hoá các loại hình cứu trợ xã hội, tạo việc
làm, đẩy mạnh xuất khẩu lao động, hướng tới xuất khẩu lao động trình độ cao; Tiếp tục đổi mới chính sách tiền lương; Phân phối thu nhập xã hội công bằng, hợp lý để tạo được động lực phát triển mạnh, góp phần phòng chống tiêu cực, tệ nạn xã hội; Tăng nguồn lực đầu tư của nhà nước để phát triển các lĩnh vực xã hội và thực hiện các mục tiêu xã hội, đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá, coi đây là một chính sách có tính chiến lược, nhằm huy động mọi nguồn lực, trí tuệ của các thành phần kinh tế, của các tổ chức xã hội, của mọi người. Thứ ba, phát triển hệ thống y tế công bằng và hiệu quả, bảo đảm mọi người dân được chăm sóc và nâng cao sức khoẻ. Củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, hệ thống các chính sách bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân. Đổi mới cơ chế khám, chữa bệnh. Nhà nước tăng đầu tư, nâng cao mức và chất lượng chăm sóc sức khoẻ cơ bản cho toàn dân, quan tâm nhiều hơn nữa cho các đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số và vùng sâu, vùng xa, hộ nghèo. Chú trọng phát triển các dịch vụ y tế công nghệ cao, khuyến khích phát triển đa dạng, các dịch vụ y tế ngoài công lập. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế. Thứ tư, xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khoẻ, tầm vóc con người Việt Nam, tăng tuổi thọ và cải thiện chất lượng giống nòi. Cụ thể, phát triển mạnh thể dục thể thao với phương châm kết hợp tốt thể thao phong trào và thể thao thành tích cao, dân tộc và hiện đại, chú trọng phát triển thể dục thể thao trường học, nâng cao chất lượng phong trào thể dục thể thao quần chúng. Có chính sách và cơ chế cần thiết để phát hiện, bồi dưỡng và phát triển tài năng thể thao phù hợp với điều kiện và tố chất người Việt Nam, đưa nền thể thao nước ta tới vị trí cao của khu vực, từng bước tiếp cận với châu lục và quốc tế ở những bộ môn thể thao mà Việt Nam có ưu thế. Nghiên cứu xây dựng và tuyên truyền hướng dẫn chế độ dinh dưỡng trong cơ cấu bữa ăn phù hợp với lứa tuổi.. Đẩy mạnh phong trào xã hội chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ
em, tạo điều kiện cho trẻ em được sống trong môi trường an toàn, lành mạnh, phát triển hài hoà về trí tuệ, đạo đức, giảm nhanh tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng. Đẩy mạnh công tác bảo vệ giống nòi, bảo vệ sức khoẻ nhân dân, thực hiện các giải pháp mạnh mẽ, kiên trì và có hiệu quả để phòng chống HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội. Thứ năm, thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình. Cụ thể là giảm tốc độ dân số. Tiếp tục duy trì kế hoạch giảm sinh, phấn đấu sớm đạt mục tiêu mức sinh quy định, đảm bảo quy mô và cơ cấu dân số hợp lý. Nâng cao chất lượng dân số. Phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, thích ứng với những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lạnh mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách của con người, bảo tồn nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thứ sáu, chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội. Cụ thể là thực hiện tốt chính sách xã hội đối với người có công, gia đình thương binh liệt sỹ như vấn đề nhà ở, khám chữa bệnh và điều dưỡng phục vụ sức khoẻ, các chính sách ưu tiên trong giáo dục, vấn đề trợ cấp cho những người có công với cách mạng. Vận động toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đối với các lão thành cách mạng, người có công với nước, người được hưởng chính sách xã hội. Chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của người già. Giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam, người tàn tật, trẻ mồ côi. Thứ bảy, đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng, cụ thể là phát triển về quy mô gắn với chất lượng và hiệu quả các dịch vụ công cộng, nâng cao chất lượng quản lý nhà nước, đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị công lập và huy động mạnh
mọi nguồn lực của xã hội. Nhà nước tiếp tục tăng nguồn lực, đầu tư tập trung cơ sở vật chất- kỹ thuật để nâng cao phúc lợi chung cho toàn xã hội… Quan tâm vùng sâu, vùng xa, vùng nghèo, vùng đồng bảo dân tộc thiểu số. Từng bước chuyển các cơ sở công lập dịch vụ công cộng đang hoạt động theo cơ chế sự nghiệp mang nặng tính hành chính bao cấp sang cơ chế tự chủ, không bao cấp tràn lan và không vì mục tiêu lợi nhuận. Công khai mức phí tại các cơ sở dịch vụ công lập và ngoài công lập. Thúc đẩy các cơ sở công lập và ngoài công lập về dịch vụ công cộng cả về quy mô và chất lượng. Các vấn đề xã hội có vị trí và vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội. Qua hơn 20 năm đổi mới, nhận thức mới của Đảng ta về những vấn đề xã hội thể hiện ở hệ thống quan điểm, giải pháp về xây dựng và phát triển các vấn đề xã hội, trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Quán triệt để vận dụng quan điểm, giải pháp trên vào thực tiễn là yêu cầu quan trọng hiện nay để đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trở thành hiện thực. IV) Đánh giá việc thực hiện đường lối của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội -Ưu điểm: +tính năng động, tích cực, chủ động trong việc giải quyết những vấn đề xã hội của bản thân, gia đình, của các tầng lớp dân cư được nâng cao rõ rệt +thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội
+Nhà nước và các tầng lớp nhân dân đã nhận thức rõ hơn mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội +đã ý thức rõ sự phân hóa giàu nghèo và có nhiều biện pháp để tạo điều kiện khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu hợp pháp đồng thời tích cực xóa đói giảm nghèo, cứu trợ xã hội +đã hình thành một cơ cấu xã hội mới với nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp dân cư cùng chung mục tiêu xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc – Hạn chế : + GD ĐT còn những hạn chế, yếu kém kéo dài, gây bức xúc trong xã hội nhưng chưa được tăng cường trong lãnh đạo, giải quyết kịp thời. + Áp lực gia tăng dân số vẫn còn lớn, chất lượng dân số thấp gây cản trở lớn đối với việc phát triển kinh tế xã hội và hội nhập KTQT. Vấn đề việc làm vẫn rất bức xúc và nan giải + Phân hóa giàu – nghèo và bất công xã hội tiếp tục tăng + Mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân còn thấp, chênh lệch lớn giữa các vùng, các tầng lớp dân cư + Tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp, gây thiệt hại lớn về kinh tế và an sinh xã hội + Ô nhiễm môi trường tiếp tục tăng, tài nguyên thiên nhiên bị tàn phá & khai thác bừa bãi + Hệ thống GD, y tế lạc hậu, xuống cấp, nhiều bất cập, an sinh xã hội chưa được bảo đảm – Nguyên nhân: + Tăng trưởng kinh tế vẫn tách rời mục tiêu xã hội. Nguồn lực dành cho việc giải quyết vấn đề xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu.
+ Quản lý xã hội còn nhiều yếu kém, không theo kịp sự phát triển kinh tế – xã hội. -giải pháp: +khuyến khích người dân làm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu quả các chính sách xóa đói giảm nghèo +xây dựng hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng dịch vụ công cộng thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân về giáo dục và đào tạo, tạo việc làm, chăm sóc sức khỏe, văn hóa – thông tin, thể dục thể thao. +phát triển hệ thống y tế công bằng hiệu quả, bảo đảm mọi người dân được chăm sóc và nâng cao sức khỏe +xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam, tăng tuổi thọ và cải thiện chất lượng giống nòi +thực hiện tốt các chính sách dân số KHH GĐ, giảm tốc độ tăng dân số +chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội, nhất là đối với các gia đình thương binh liệt sỹ, người có công với cách mạng về nhà ở, y tế, giáo dục… +đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng V)Liên hệ HS SV + Các vấn đề xã hội tồn tại trong giới học sinh, sinh viên. –
Nghiện ngập: Rượu bia, thuốc lá: Game online: Và còn nhiều những tệ nạn xã hội khác.
+ Sinh viên hiện nay cần phải làm gì để giải quyết các vấn đề xã hội. –
Sống, học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại. Nâng cao nhận thức, hiểu biết cá nhân về các vấn đề xã hội. Tuyền truyền, phòng chống các tệ nạn xã hội. Tích cực đóng góp, cống hiến sức trẻ cho sự phát triển bền vững của nước nhà.