Giải Pháp Đổi Mới Quản Lý Tài Chính Công Ở Việt Nam / Top 11 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Giải Pháp Quản Lý Tài Chính Công Hiệu Quả

Cập nhật lúc 20:15, Thứ tư, 18/11/2015

– Ngày 18/11, tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị khu vực châu Á chương trình chia sẻ tri thức (KSP) của Hàn Quốc với Việt Nam năm 2015 cải cách quản lý tài chính công ở các nước châu Á do Viện Chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), Viện phát triển Hàn Quốc tổ chức.

Đại biểu các nước tham dự hội nghị (Ảnh: A.N)

Theo chúng tôi Dae-Hee, nguyên Bộ trưởng Điều phối chính sách của Hàn Quốc, hội nghị tập trung vào những cách thức xây dựng một hệ thống quản lý tài chính công vững mạnh và hiệu quả, vốn được xác định là một trong những vấn đề chủ yếu đối với các quốc gia đối tác của Chương trình chia sẻ tri thức (KSP) tại châu Á. Bên cạnh đó, những lần thử không mang lại hiệu quả của Hàn Quốc đã mang lại những hàm ý chính sách thực tế cho các quốc gia đối tác đang gặp phải những vấn đề tương tự.

Chia sẻ kinh nghiệm trong quản lý tài chính công của Hàn Quốc, chúng tôi Dae-Hee cũng cho biết, chính sách tài khóa đóng vai trò quan trọng, thể hiện trên các khía cạnh đầu tư công hiệu quả, bảo đảm sự vững mạnh về tình hình tài khóa và liên tục tiến hành các cải cách cần thiết.

TS.Yoon Dae-Hee cũng đưa ra ví dụ Hàn Quốc đang tiến hành các biện pháp đổi mới tài chính như hệ thống đánh giá hiệu quả hoạt động và hệ thống kế toán và ngân sách điện tử. Các biện pháp quản lý đầu tư hiệu quả và minh bạch cũng được thực hiện để nâng cao hiệu quả tài khóa.

Bà Tô Quỳnh Thảo – Phó Trưởng Phòng, Cục Quản lý Công sản, Bộ Tài chính chia sẻ, nguồn lực tài chính công bao gồm ngân sách Nhà nước và tài sản công. Trong đó, tài sản công lại bao gồm: đất đai; tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư quản lý.

Để quản lý tài chính công, tài sản công một cách hiệu quả, Chính phủ đã đưa ra những chính sách khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai; chính sách khai thác nguồn lực tài chính từ sắp xếp lại, xử lý nhà đất thuộc sở hữu Nà nước và khai thác nguồn lực tài chính từ kết cấu hạ tầng. Các hệ thống, chính sách này tương đối đầy đủ nhưng còn phức tạp, thiếu đồng bộ và thiếu tính ổn định, dẫn đến nguồn lực lớn nhưng chưa được khai thác tốt, hệ thống công cụ tài chính được hình thành nhưng chưa đủ mạnh, còn bị hạn chế về năng lực, kết quả hoạt động dẫn đến kết quả thu tài chính cũng như vai trò điều tiết, kiểm soát thị trường còn hạn chế.

Một Số Giải Pháp Thực Hiện Đổi Mới Chính Sách Trợ Giúp Xã Hội Ở Việt Nam

Trong giai đoạn 2016-2020, Bộ Lao động – TBXH đã trình ban hành hàng trăm văn bản, đồng thời đang nghiên cứu, xây dựng 11 dự thảo văn bản (Nghị định về công tác xã hội, Nghị định thay thế Nghị định 136, sửa đổi Luật Người cao tuổi, 07 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt các chương trình, đề án cho giai đoạn 2021-2020 và 01 Thông tư).

Cùng với việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, chương trình đề án của Bộ, Chính phủ và Quốc hội, các địa phương cũng đã chủ động trong xây dựng ban hành văn bản, kế hoạch hướng dẫn triển khai thực hiện, bổ sung quy định chế độ chính sách, giải pháp đặc thù của địa phương, vừa bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và đầy đủ của hệ thống chính sách, vừa bảo đảm tính toàn diện trong tổ chức thực hiện chính sách bảo trợ xã hội.

Các đại biểu chủ trì Hội thảo “Định hướng đổi mới chính sách trợ giúp xã hội và ứng dụng công nghệ thông tin”

Thực hiện chính sách trợ giúp đột xuất, trong những năm qua thời tiết, thiên tai diễn biến phức tạp; bão, lũ lụt, hạn hán, lốc, xâm nhập mặn… đã và đang gây thiệt hại lớn đến đời sống dân sinh của người dân trên khắp cả nước. Để bảo đảm đời sống cho người dân, Bộ Lao động – TBXH đã trình Chính phủ ban hành Nghị định 136/2013/NĐ-CP, trong đó quy định chi tiết về đối tượng, chế độ chính sách và trách nhiệm tổ chức thực hiện. Hàng năm, ban hành văn bản hướng dẫn, nhắc nhở các địa phương bảo đảm nguồn lực để chủ động cứu trợ kịp thời cho người dân. Thường xuyên kiểm tra tình hình thiệt hại và công tác khắc phục hậu quả sau thiên tai. Các địa phương đã chủ động rà soát, thống kê tình hình thiệt hại do ảnh hưởng của mưa, bão, thiên tai…; chủ động huy động nguồn lực hỗ trợ kịp thời cho người dân có nhu cầu.

Giai đoạn 2016 – 2020, Chính phủ đã hỗ trợ 167.749 tấn gạo cứu đói cho gần 9,5 triệu lượt khẩu (riêng năm 2019 hỗ trợ 18.850 tấn cho 1,2 triệu lượt khẩu) và mỗi năm hàng nghìn tỷ đồng khắc phục hậu quả thiên tai. Từ 2017-2020, các địa phương cũng đã vận động và huy động 9.268 tỷ đồng hỗ trợ người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn nhân dịp tết nguyên đán. Công tác trợ giúp đột xuất đã được triển khai tương đối tốt, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, bảo đảm các nguyên tắc bốn tại chỗ và các yêu cầu kịp thời, công khai, minh bạch, không để người dân cần cứu trợ mà không nhận được hỗ trợ. Kết quả này đã được Đảng, Nhà nước đánh giá cao và đã được đưa vào 10 sự kiện nổi bật của ngành Lao động -TBXH năm 2018.

Đối với chính sách trợgiúp xã hội thường xuyên, triển khai thực hiện Nghị định 136, Bộ đã ban hành Thông tư quy định chi tiết và các văn bản hướng dẫn các địa phương tháo gỡ khó khăn vướng mắc; Bộ cũng như các địa phương đã tổ chức tập huấn cho đội ngũ cán bộ cấp tỉnh, huyện, xã; thực hiện các hoạt động tuyên truyền nâng cao nhận thức… Nhờ đó, các chế độ chính sách đã được triển khai kịp thời, hiện cả nước đang thực hiện trợ cấp xã hội cho gần 3,2 triệu đối tượng với tổng kinh phí trên 17 ngàn tỷ đồng. Thực hiện Quyết định 488/QĐ- TTg về đổi mới và phát triển hệ thống chính sách trợ giúp xã hội, đã có 11 tỉnh, thành phố quyết định mở rộng đối tượng hưởng chính sách, nâng mức chuẩn trợ cấp xã hội. Công tác chi trả chính sách đã chuyển sang cơ quan Bưu điện, tạo điều kiện cho địa phương tập trung cán bộ cho công tác quản lý, kiểm tra giám sát.

Bên cạnh đó, cả nước có 1,8 triệu người cao tuổi hưởng trợ cấp xã hội thường xuyên tại cộng đồng, khoảng 10.000 người cao tuổi đang được chăm sóc tại các cơ sở trợ giúp xã hội, 95% người cao tuổi có thẻ BHYT, hơn 1 triệu người cao tuổi được chúc thọ, mừng thọ hàng năm. Đến nay đã cấp giấy chứng nhận khuyết tật cho gần 3 triệu người, thực hiện trợ cấp xã hội cho 1 triệu người khuyết tật. Đề án 32 đã hỗ trợ hoàn thiện kế hoạch đào tạo công tác xã hội hệ cử nhân ở 55 trường đại học, cao đẳng và 21 cơ sở dạy nghề có đào tạo chuyên ngành công tác xã hội; hàng năm chỉ tiêu tuyển sinh khoảng 3.000 người. Thực hiện Nghị định số 103 và Quyết định số 565, cả nước đã thành lập và củng cố hoạt động của 425 cơ sở trợ giúp xã hội (191 cơ sở công lập và 234 cơ sở ngoài công lập), đáp ứng nhu cầu trợ giúp xã hội cho 30% đối tượng. Tổng số cán bộ, nhân viên công tác xã hội hiện đang làm việc tại các cơ sở trợ giúp xã hội và mạng lưới tại cấp xã khoảng 35.000 người. Mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, lao động và dạy nghề, hoạt động thể dục thể thao, văn hóa và chăm sóc, nuôi dưỡng đối tượng.

Giai đoạn vừa qua, Bộ Lao động – TBXH đã hướng dẫn các địa phương về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các mô hình trung tâm, hỗ trợ kinh phí nâng cấp, sửa chữa, cải tạo và mua sắm trang thiết bị cho khoảng 100 cơ sở trợ giúp xã hội. Nhiều mô hình trung tâm vận hành hiệu quả như: Quảng Ninh, Đà Nẵng, Bến Tre, Long An, Thanh Hóa, Hồ Chí Minh, Thái Nguyên… Các địa phương từng bước chuyển đổi hệ thống các cơ sở bảo trợ xã hội sang hoạt động theo mô hình cung cấp dịch vụ công tác xã hội.

Thực hiện xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về an sinh xã hội,Bộ Lao động – TBXH đã ban hành kế hoạch chi tiết xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về an sinh xã hội; ban hành thông tư quy định về việc xây dựng, quản lý, cập nhật, khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu trợ giúp xã hội, người khuyết tật và giảm nghèo; thí điểm đăng ký cấp giấy xác nhận khuyết tật, giải quyết chính sách trợ giúp xã hội và chi trả chính sách bằng phương thức điện tử tại Cao Bằng, Quảng Ninh và Vĩnh Phúc. Qua thí điểm cho thấy, hệ thống đăng ký giải quyết chính sách đã giúp cho đối tượng thuận lợi hơn trong tiếp cận chính sách. Việc xác định đối tượng hưởng, quản lý, theo dõi chi trả, tổng hợp báo cáo cũng rất thuận lợi và chính xác.

Nhìn chung, trong 5 năm qua, các chỉ tiêu Chính phủ, Bộ giao về lĩnh vực bảo trợ xã hội đã được thực hiện thành công như: Đảm bảo tiến độ, chất lượng xây dựng văn bản, đề án theo chương trình công tác của Chính phủ, Bộ; Rà soát, nghiên cứu, điều chỉnh bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách. Bảo đảm 100% người dân bị thiệt hại do thiên tai, lũ lụt, thiếu đói được trợ giúp đột xuất kịp thời, không để người dân nào bị đói; Hướng dẫn các địa phương chủ động phòng chống, khắc phục hậu quả do thiên tai. Bảo đảm 90% người cao tuổi, người khuyết tật có hoàn cảnh khó khăn được trợ giúp xã hội, chăm sóc và phục hồi chức năng. 100% đối tượng bảo trợ xã hội đủ điều kiện được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng.

Với việc thực hiện đồng bộ các chính sách, đối tượng bảo trợ xã hội đã được tiếp cận tốt hơn các nguồn lực kinh tế và các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục, nước sạch, trợ giúp pháp lý. Qua đó, số lượng đối tượng có hoàn cảnh khó khăn được hưởng trợ cấp xã hội ngày càng tăng; các cá nhân, gia đình bị thiệt hại bởi thiên tai, lũ lụt được hỗ trợ kịp thời. Đến nay, mức độ bao phủ của chính sách trợ giúp xã hội đã tăng lên.

Tặng quà hỗ trợ người dân ổn định cuộc sống

Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số khó khăn, hạn chế như: Mặc dù nhận thức về công tác bảo trợ xã hội đã được nâng lên, nhưng ở nhiều nơi vẫn còn tư tưởng coi trợ giúp xã hội là làm nhân đạo, chưa thấy được trợ giúp xã hội là đầu tư… điều này đã tạo ra những rào cản trong tổ chức thực hiện chính sách. Tác động biến đổi khí hậu, dịch bệnh, già hóa dân số, di cư, công nghệ, hợp tác quốc tế… đang là những nguyên nhân làm tăng nhu cầu trợ giúp xã hội. Hệ thống trợ giúp xã hội hiện nay chưa toàn diện, tính linh hoạt thấp, chưa kịp thời điều chỉnh theo tình hình mới. Mức chính sách còn thấp, chưa phù hợp; một số địa phương chưa bố trí đủ kinh phí để thực hiện chính sách, đề án; một số chính sách đối với người cao tuổi, người khuyết tật chưa được quan tâm thực hiện đầy đủ. Cơ sở vật chất tại các cơ sở trợ giúp còn thiếu, chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, nhất là trang thiết bị y tế phục hồi chức năng cho người khuyết tật, thiếu các dịch vụ trị liệu tâm lý. Công tác xã hội hóa trong trợ giúp xã hội còn bất cập, nhất là cơ chế khuyến khích về miễn giảm thuế, thuê đất, cấp đất, khung giá dịch vụ để khu vực tư nhân đầu tư xây dựng cơ sở chăm sóc đối tượng bảo trợ xã hội.

Phương hướng, nhiệm vụ giai đoạn 2021-2025

Giai đoạn 2021 – 2025 được dự báo là do các nguyên nhân khách quan, chủ quan nhu cầu trợ giúp xã hội tiếp tục tăng. Đồng thời quá trình cải cách thể chế, cải cách kinh tế, những tác động của các yếu tố công nghệ, hợp tác quốc tế… là các yếu tố tác động, đỏi hỏi cần đổi mới toàn diện, sâu sắc lĩnh vực bảo trợ xã hội.

Mục tiêu tổng quát là tiếp tục nâng cao đời sống của các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn; tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách trợ giúp xã hội nhằm từng bước mở rộng diện bao phủ chính sách, đổi mới cơ chế quản lý, huy động nguồn lực cho thực thi chính sách; tăng cường nâng cao nhận thức, năng lực tổ chức thực hiện; đổi mới quy trình xác định đối tượng; giảm bớt trình tự, thủ tục, hồ sơ và thời gian ra quyết định chính sách, cải cách thủ tục hành chính trong thực hiện chính sách; ứng dụng công nghệ thông tin trong đăng ký, xét duyệt và chi trả chính sách cho đối tượng thụ hưởng; tăng cường hệ thống giám sát, đánh giá.

Mục tiêu cụ thể là: Đảm bảo tiến độ, chất lượng xây dựng văn bản, đề án theo chương trình công tác của Chính phủ, Bộ; rà soát, nghiên cứu, điều chỉnh bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách. Bảo đảm 100% người dân bị thiệt hại do thiên tai, lũ lụt, thiếu đói được trợ giúp đột xuất kịp thời, không người dân nào bị đói; hướng dẫn các địa phương chủ động phòng chống, khắc phục hậu quả do thiên tai. Bảo đảm 90% người khuyết tật có hoàn cảnh khó khăn được trợ giúp, chăm sóc và phục hồi chức năng kịp thời; bảo đảm 90% người cao tuổi có hoàn cảnh khó khăn được trợ giúp, phụng dưỡng, chăm sóc kịp thời; 100% đối tượng trợ giúp xã hội đủ điều kiện được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng; bảo đảm cơ bản các đối tượng nhận trợ cấp xã hội bằng phương thức điện tử.

1. Trình Chính phủ, Quốc hội Luật sửa đổi Luật Người cao tuổi, Luật Người khuyết tật, Nghị định thay thế Nghị định 136, Nghị định thay thế Nghị định 103, ban hành Nghị định Công tác xã hội; Nghị định xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về an sinh xã hội; các quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình hành động quốc gia đối với người cao tuổi giai đoạn 2021-2030, Đề án phát triển y tế lao động xã hội đến năm 2025, tầm nhìn đến 2030, Đề án phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2021 – 2030, Đề án trợ giúp xã hội và phục hồi chức năng cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng giai đoạn 2021-2030, Đề án chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn giai đoạn 2021-2030, Đề án quy hoạch phát triển mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội giai đoạn 2021-2030, Chương trình trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2021-2030 và các văn bản hướng dẫn thực hiện.

2. Thực hiện tốt công tác chỉ đạo phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, nắm chắc tình hình thiệt hại; bảo đảm ổn định đời sống nhân dân khi có thiên tai xảy ra; chủ động rà soát tình thiệt hại thiên tai để có giải pháp hỗ trợ kịp thời; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực hiện trợ giúp đột xuất ở địa phương. Đảm bảo 100% người dân gặp khó khăn do hậu quả của thiên tai, hỏa hoạn, hoặc các lý do bất khả kháng khác được hỗ trợ các điều kiện sống tối thiểu về lương thực, thực phẩm, nhà ở, đất ở, công cụ sản xuất, dạy nghề, giới thiệu việc làm…

3. Thực hiện Đề án đổi mới, phát triển trợ giúp xã hội đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030; nghiên cứu, đề xuất nâng mức trợ cấp xã hội hàng tháng, mở rộng trợ giúp xã hội nhằm đáp ứng bao phủ toàn bộ người cân có nhu cầu; xây dựng hệ thống đăng ký hưởng chính sách và chi trả điện tử; theo dõi, tổng hợp tình hình thực hiện trợ giúp xã hội tại cộng đồng.

4.Tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành, tổ chức và địa phương tăng cường tuyên truyền, tổ chức thực hiện tốt các quy định của Luật Người cao tuổi; Luật Người khuyết tật; đánh giá, tổng kết Chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi, Đề án trợ giúp người khuyết tật, trên cơ sở xây dựng chương trình, đề án giai đoạn 2021-2030.

5. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về công tác xã hội; ban hành quy định khung giá dịch vụ trợ giúp xã hội; áp dụng ngạch, bậc lương, phụ cấp ưu đãi theo nghề và chế độ phụ cấp đặc thù khác đối với công chức, viên chức công tác xã hội; xây dựng và ban hành tiêu chuẩn nghiệp vụ viên chức, nhân viên công tác xã hội tại cơ sở công tác xã hội; đầu tư xây mới, sửa chữa và cải tạo cơ sở vật chất sở trợ giúp xã hội; đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức, nhân viên làm việc ở trung tâm, xã, huyện, tỉnh….

Ban hành tiêu chuẩn chăm sóc, phục hồi chức năng cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí; ban hành chương trình, tài liệu đào tạo chăm sóc sức khỏe tâm thần; tài liệu mô hình kiểm soát trầm cảm tại cộng đồng; tài liệu kỹ thuật và hướng dẫn mô hình cơ sở phòng và trị liệu rối nhiễu tâm trí…

6. Xây dựng và thực hiện quy hoạch, phát triển mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội, bảo đảm đủ điều kiện trợ giúp cho các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn.

7. Ban hành khung pháp lý về cơ sở dữ liệu quốc gia về an sinh xã hội; đánh giá, mở rộng phạm vi thí điểm, nhân rộng mô hình tiến tới cấp số, thẻ an sinh xã hội điện tử cho người dân trên toàn quốc.

8. Tăng cường hướng dẫn công tác chăm sóc sức khỏe, chỉnh hình và phục hồi chức năng, triển khai các nhiệm vụ lĩnh vực y tế lao động xã hội.

9. Đẩy mạnh công tác truyền thông, tuyên truyền; cải cách thủ tục hành chính; tăng cường kiểm tra, giám sát, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực trợ giúp xã hội./.

Tiến sỹ Nguyễn Văn Hồi, Cục trưởng Cục Bảo trợ xã hội Nguyễn Thị Quỳnh Anh, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

Hàm Ý Chính Sách Cho Giải Pháp Quản Lý Nợ Công Của Việt Nam

Nguyên tắc cơ bản của quản lý nợ công bền vững đó là nợ công ngày hôm nay phải được trả bằng thặng dư ngân sách ngày mai. Nhưng thực tế tại Việt Nam, thâm hụt ngân sách đã trở thành kinh niên và mức thâm hụt đã vượt xa ngưỡng “báo động đỏ” 5% theo thông lệ quốc tế, đe dọa đến tính bền vững của nợ công.

Nợ công được đo bằng tỷ lệ phần trăm so với tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Nhưng, nếu chỉ xét chỉ tiêu tỷ lệ nợ công/GDP để xác định mức độ an toàn là chưa đủ và chưa phản ánh đúng thực chất vấn đề. Khi xem xét nợ công, quy mô nợ công trên GDP phải được phân tích kỹ cùng với những tiêu chí như: giới hạn nợ, cơ cấu nợ công, tỷ trọng các loại nợ, cơ cấu lãi suất, thời gian trả nợ… Cụ thể: Thứ nhất, giới hạn nợ công không được vượt quá 50% – 60% GDP hoặc không vượt quá 150% kim ngạch xuất khẩu; Thứ hai, dịch vụ trả nợ công không vượt quá 15% kim ngạch xuất khẩu và không vượt quá 10% chi ngân sách; Thứ ba, để đánh giá mức nợ công an toàn và bền vững thì cần phải xem xét toàn diện trong mối liên hệ với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như: Tỷ lệ thâm hụt ngân sách, năng suất lao động tổng hợp, tốc độ tăng trưởng GDP, hiệu quả sử dụng vốn (ICOR) của nền kinh tế… và tỷ lệ nợ công tính trên GDP không phải là vấn đề, mà quan trọng là khả năng trả nợ của quốc gia như thế nào.

Mặc dù tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam vẫn được đánh giá là an toàn nhưng cơ cấu nợ công đang ẩn chứa nhiều rủi ro. Trong tình trạng lạm phát toàn cầu đang gia tăng, nguy cơ bùng nổ một cuộc chiến về tiền tệ trên thế giới thì quản lý nợ công thế nào cho hiệu quả là vấn đề đáng quan tâm hàng đầu tại Việt Nam.

2/ Giải pháp cho vấn đề nợ công của Việt Nam a) Luật Quản lý nợ công Việt Nam

Luật Quản lý nợ công Việt Nam (được ban hành năm 2009 và có hiệu lực vào đầu năm 2010) đưa ra nguyên tắc quản lý nợ công là: Nhà nước quản lý thống nhất, toàn diện nợ công từ việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay đến việc trả nợ để đảm bảo hai mục tiêu cơ bản: Một là, đảm bảo khả năng trả nợ của đơn vị sử dụng vốn vay, đảm bảo cán cân thanh toán vĩ mô và an ninh tài chính quốc gia; Hai là, đạt được những mục tiêu của quá trình sử dụng vốn. Quản lý nợ công một cách chặt chẽ còn có ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị và xã hội.

Mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích chung. Nợ công được huy động và sử dụng không phải để thỏa mãn những lợi ích riêng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào, mà vì lợi ích chung của đất nước. Xuất phát từ bản chất của Nhà nước là thiết chế để phục vụ lợi ích chung của xã hội, Nhà nước là của dân, do dân và vì dân nên đương nhiên các khoản nợ công được quyết định phải dựa trên lợi ích của nhân dân, mà cụ thể là để phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và phải coi đó là điều kiện quan trọng nhất.

Quản lý nợ công là quá trình thiết lập và thực hiện một chiến lược quản lý nhằm đáp ứng nhu cầu vốn; tối thiểu hóa chi phí vay trong thời gian trung, dài hạn phù hợp, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của thị trường nợ trong nước. Vì vậy, vấn đề cấp bách nhất mà các chính phủ phải đối mặt đó là phải cải cách thể chế quản lý chính sách nợ công cả về chuyên môn kỹ thuật và vận dụng kinh nghiệm quản lý để quản lý nợ nước ngoài một cách thành thạo và minh bạch.

Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế, nợ công đã đóng góp nhất định đến công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Nợ nước ngoài dưới hình thức ODA ngày một tăng, góp phần lấp vào lỗ hổng thiếu hụt giữa tiết kiệm và đầu tư; thiếu hụt của cán cân thanh toán quốc tế. Nợ công tạo ra nguồn vốn đầu tư ổn định để Chính phủ thực hiện các chương trình đầu tư công, chương trình phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, chi phí quản lý nợ công của Việt Nam không phải là nhỏ do những yếu kém thuộc về cấu trúc và thể chế quản lý nợ công. Quản lý nợ công hiệu quả cần phải nhìn nhận và đánh giá theo các tiêu chí phù hợp với mục tiêu quản lý với thông lệ quốc tế để qua đó hướng tới hoàn thiện thể chế, chiến lược, chính sách trong quản lý nợ công nhằm tối đa hóa lợi ích và giảm thiểu chi phí nợ công, góp phần tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Luật Quản lý nợ công là cơ sở pháp lý quan trọng để tiến tới một chiến lược quản lý nợ công hoàn chỉnh. Quản lý nợ công Việt Nam dựa trên 4 công cụ chính:

Một là, chiến lược dài hạn về nợ công. Căn cứ để xây dựng chiến lược dài hạn về nợ công là kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm và 10 năm, các kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng lãnh thổ cũng như các nghị quyết, quyết định về chủ trương huy động, sử dụng vốn vay và quản lý nợ của Đảng và Chính phủ…

Hai là, chương trình quản lý nợ trung hạn, gồm các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp về huy động, sử dụng vốn vay, trả nợ và cơ chế, chính sách, tổ chức quản lý nợ trong giai đoạn 3 năm liền kề để thực hiện chi tiêu an toàn về nợ đã được Quốc hội xác định trong mục tiêu, định hướng huy động, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công.

Ba là, kế hoạch vay, trả nợ chi tiết hàng năm của Chính phủ, gồm: Kế hoạch vay trong nước (gồm huy động vốn ngân sách nhà nước và kế hoạch huy động vốn cho đầu tư phát triển); Kế hoạch vay nước ngoài, được thực hiện thông qua các hình thức huy động, gồm vay ODA, vay ưu đãi, vay thương mại và được chi tiết theo chủ nợ nước ngoài; Kế hoạch trả nợ, được chi tiết theo chủ nợ, có phân định trả nợ gốc và trả nợ lãi, trả nợ trong nước và trả nợ nước ngoài;

Bốn là, các chỉ tiêu an toàn và giám sát nợ công. Các chỉ tiêu giám sát nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia bao gồm: nợ công so với tổng sản phẩm quốc dân (GDP), nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP, nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia so với tổng kim ngạch xuất khẩu, nợ Chính phủ so với GDP…

Việc quản lý nợ công hiệu quả sẽ giúp mục đích vay vốn đạt được với chi phí thấp nhất, đồng thời đảm bảo khả năng trả nợ đúng hạn.

TH: T.Giang – SCDRC

Những Giải Pháp Đổi Mới Công Tác Quản Lý Giáo Dục

Chất lượng giáo dục phụ thuộc vào 4 yếu tố, đó là: Đội ngũ, cơ sở vật chất, đầu vào và công tác quản lý

Chất lượng giáo dục phụ thuộc vào 4 yếu tố, đó là: Đội ngũ, cơ sở vật chất, đầu vào và công tác quản lý; trong đó công tác quản lý giữ vai trò quan trọng vì trong điều kiện đội ngũ, cơ sở vật chất, đầu vào như nhau, nơi đâu quản lý tốt thì nơi đó có chất lượng tốt hơn. Vì vậy, đổi mới quản lý giáo dục phải bắt đầu từ các cơ sở giáo dục.

Đồng chí: Nguyễn Thị Hiền- Trưởng phòng GD&ĐT Kỳ Sơn trao giải nhất cho Đồng chí Nguyễn Thị Cúc Hiệu trưởng trường Mầm Non Hoa Phượng

Tuy nhiên, đổi mới như thế nào để có hiệu quả? Như chúng ta đã biết, quản lý nhà trường là quản lý theo mục tiêu chất lượng, tức là phải làm cho chương trình, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục phù hợp với các đối tượng học sinh cụ thể, các điều kiện học tập cụ thể. Điều này, một mặt đòi hỏi hiệu trưởng phải có kế hoạch tổ chức thực hiện chương trình, mặt khác chỉ đạo tổ chức thực hiện tất cả các hoạt động giáo dục trong nhà trường, điều kiện cơ sở vật chất, ứng dụng CNTT, công tác đào tạo, bồi dưỡng… tức là triển khai đồng bộ các giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.

Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi xin phép chỉ đề cập đến một vài lý thuyết cơ bản về giải pháp đổi mới công tác quản lý nhà trường trong giai đoạn hiện nay.

Quản lý theo chuẩn

Chuẩn là hệ thống các yêu cầu cơ bản đối với cá nhân, đơn vị về một số nội dung nào đó nhằm đáp ứng hay thực hiện một nhiệm vụ nào đó. Hiện nay trong nhà trường chúng ta quản lý theo các chuẩn: Trường đạt chuẩn quốc gia; chuẩn nghề nghiệp giáo viên ; chuẩn hiệu trưởng, chuẩn phó hiệu trưởng; chuẩn kiến thức kĩ năng cơ bản của chương trình; chuẩn đánh giá, xếp loại học sinh; tiêu chí đánh giá trường học thân thiện, học sinh tích cực… Các chuẩn hiện hành có tác dụng định hướng trong phấn đấu rèn luyện của bản thân hiệu trưởng và giáo viên, trong công tác xây dựng đội ngũ, trong điều hành các hoạt động của nhà trường. Vì vậy trong công tác quản lý, dựa vào các yêu cầu của chuẩn và điều kiện thực tế của đơn vị. Hiệu trưởng cần lập kế hoạch ngắn hạn, dài hạn, xác định ta đang ở vị trí nào, xây dựng lộ trình thực hiện… thì chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả hoạt động cao với thời gian tối thiểu…

Đổi mới phương pháp dạy học

Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp giảng dạy ( của giáo viên) và phương pháp học tập (của học sinh) đều lấy học sinh làm trung tâm. Nhà trường cần có nhiều hình thức bồi dưỡng cho giáo viên về đổi mới phương pháp giảng dạy thông qua hội thảo chuyên đề, sinh hoạt tổ chuyên môn ở huyện, ở cụm, ở trường… và đặc biệt là việc chuẩn bị lên lớp như soạn giáo án…

Chia sẻ quyền lực

Trong quản lý giáo dục cần tránh đi sâu vào công tác hành chính, sự vụ, càng không nhằm quản lý con người mà quan trọng là quản lý công việc, quản lý kế hoạch (của trường, của tổ). Chỉ có quản lý công việc thì người làm việc mới tự chủ, sáng tạo và mang lại hiệu quả thực sự, còn quản lý con người thì họ sẽ làm việc chỉ với mục đích đối phó.

Đổi mới công tác thi đua- khen thưởng

Nhà trường cần đổi mới công tác thi đua- khen thưởng, đảm bảo tính khoa học, công bằng, công khai từ khâu xây dựng các tiêu chí, triển khai thực hiện đến việc kiểm tra đánh giá. Kiên quyết khắc phục bệnh thành tích, hình thức. Gắn liền việc khen và thưởng một cách hợp lý và xứng đáng, sao cho phong trào thi đua thực sự trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy mọi người đoàn kết, cùng nhau phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Cải tiến hội họp