Để Giải Quyết Việc Làm Cần Phải Có Giải Pháp Gì / Top 8 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Cần Có Những Giải Pháp Cụ Thể Để Giải Quyết Việc Làm

(GLO)- Những năm qua, công tác giải quyết việc làm của tỉnh ta đã đạt được những kết quả khả quan. Hàng năm, bình quân toàn tỉnh giải quyết việc làm mới cho khoảng 24.000 lao động bước vào độ tuổi lao động. Tuy nhiên, thực tế con số này chưa đánh giá thực chất tình hình lao động được giải quyết việc làm mới hàng năm của tỉnh.

Giải quyết việc làm là biện pháp hướng vào đối tượng thất nghiệp, thiếu việc làm nhằm tạo việc làm cho người lao động. Trên thực tế, tỷ lệ lao động thất nghiệp trên địa bàn tỉnh đã giảm từ 4,7% (năm 2003) xuống còn 2,7% (năm 2014). Số lao động được tạo việc làm hàng năm luôn tăng: nếu năm 2003 toàn tỉnh mới giải quyết việc làm cho lao động bước vào độ tuổi lao động là 17.000 người thì đến cuối năm 2014 số lao động được giải quyết việc làm mới là 24.000 người. Hiện nay, tỷ lệ lao động không có việc làm rất thấp. Bên cạnh đó, trình độ lao động bước vào độ tuổi lao động ngày càng được nâng cao, nhờ đó thu nhập ngày công của người lao động cũng được nâng cao.

Ảnh: Đinh Yến

Có việc làm và tăng thu nhập sẽ giúp người lao động có khả năng đáp ứng những nhu cầu chính đáng về vật chất và tinh thần, giúp người lao động tiếp cận được với cơ sở y tế, giáo dục với chất lượng tốt, nâng cao vị thế trong xã hội, hòa nhập với môi trường xung quanh. Tuy nhiên, những năm qua, thống kê số người lao động bước vào độ tuổi lao động được giải quyết việc làm mới chỉ mang tính chung chung chưa sát thực tế, bởi khó có thể đánh giá con số chính xác lao động hàng tháng và hàng năm được giải quyết việc làm mới là bao nhiêu, chúng ta chỉ có thể đánh giá con số cụ thể lao động thất nghiệp, vì số lao động thất nghiệp hiện nay đang được Nhà nước hỗ trợ chi trả tiền trợ cấp thất nghiệp. “Vì việc đánh giá số lao động được giải quyết việc làm hàng năm có lẽ là chưa đúng với thực tế, do đó, trong Dự thảo văn kiện trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV không còn đề cập đến chỉ tiêu giải quyết việc làm hàng năm”-ông Đinh Xuân Lịch-Trưởng phòng Lao động Việc làm-Sở Lao động-Thương binh và Xã hội cho biết.

Trong thời gian tới, ngành Lao động-Thương binh và Xã hội xác định công tác giải quyết việc làm là một trong 10 nhóm nhiệm vụ chính. Tuy nhiên, để công tác này đi vào thực chất, tỉnh cần tiếp tục có những cơ chế chính sách phù hợp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người lao động gắn với quy hoạch kinh tế-xã hội, các chương trình phát triển kinh tế, ngành nghề và định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng địa phương.

Cụ thể, mục tiêu từ nay đến năm 2020, toàn tỉnh vẫn cần tiếp tục phấn đấu bình quân mỗi năm giải quyết việc làm mới cho trên 24.000 lao động bước vào độ tuổi lao động. Để thực hiện đạt mục tiêu, ông Lê Văn Thành-Phó Giám đốc Sở Lao động-Thương binh và Xã hội, đề xuất: Giải pháp quan trọng nhất cần tập trung thời gian tới là tiếp tục đẩy mạnh đào tạo nghề, phát triển thị trường lao động cạnh tranh và chất lượng cao. Vì chất lượng lao động là một trong những điều kiện để có thể cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Chất lượng lao động thể hiện ở nhiều khía cạnh: thể lực, trí lực, trình độ chuyên môn kỹ thuật và người lao động cũng cần phải hiểu pháp luật, tinh thần chấp hành kỷ luật, văn hóa ứng xử trong công việc mang tính chuyên nghiệp cao. Chất lượng nguồn nhân lực có vai trò quan trọng nhằm giúp người lao động có khả năng nắm bắt được cơ hội việc làm, đáp ứng yêu cầu công việc và ảnh hưởng đến thu nhập của người lao động.

Đi đôi với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thì việc phát triển mạng lưới dạy nghề gắn với nâng cao chất lượng dạy nghề, giải quyết việc làm và thực hiện xã hội hóa công tác dạy nghề cũng rất quan trọng. Theo đó, tỉnh cần phát huy hơn nữa hiệu quả sàn giao dịch việc làm và các phiên giao dịch việc làm lưu động để tạo cầu nối giữa người lao động và người sử dụng lao động. Tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu lao động, tập trung một số nước truyền thống, như: Malaysia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Lào và Campuchia. Bên cạnh đó cần nâng cao hiệu quả giải quyết việc làm thông qua vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm. Ban hành những chính sách khuyến khích xã hội hóa trong hoạt động giải quyết việc làm cho người lao động và tích cực đẩy mạnh việc xã hội hóa công tác đào tạo nghề đối với các đối tượng, như: thanh niên, lao động nông thôn, phụ nữ, lao động có điều kiện khó khăn.

Chính Sách Giải Quyết Việc Làm

a) Thực trạng lao động và ý nghĩa giải quyết việc làm

Trong quá trình đổi mới, vấn đề việc làm ở nước ta đã từng bước được giải quyết. Trong 5 năm (2006 – 2010), Việt Nam đã giải quyết việc làm cho trên 8 triệu lao động, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm còn dưới 4,5%, hộ nghèo giảm còn 9,5%.

Tuy nhiên, vấn đề việc làm ở nước ta hiện nay còn nhiều bất cập. Chi tiêu giải quyết việc làm đặt ra hàng năm 1,7 triệu lao động, nếu mỗi năm khoảng 1,1 – 1,2 triệu người vào độ tuổi lao động, để bảo đảm đủ nhu cầu việc làm thì số lao động mất việc hàng năm khoảng 500 – 600 ngàn người, chiếm 30% – 37% tổng số lao động được giải quyết việc làm. số lao động giải quyết việc làm hàng năm càng lớn thì số mất việc làm càng lớn.

Số doanh nghiệp trên đầu dân số còn thấp; do kinh tế khó khăn đang bị phá sản hàng loạt nên khả năng tạo việc làm và thu hút lao động rất hạn chế. Chính sách tiền lương, thu nhập chưa động viên được người lao động gắn bó với công việc. Quản lý nhà nước với thị trường lao động, việc làm chưa chặt chẽ, những tranh chấp lao động diễn ra phức tạp; cơ cấu lao động chưa phù hợp với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế.

Tỷ lệ lao động qua đào tạo và đào tạo nghề thấp, kỹ năng tay nghề, thể lực còn yếu, kỷ luật lao động, tác phong làm việc công nghiệp chưa cao. Người lao động thất nghiệp, thiếu việc làm, nhất là trong nông nghiệp còn đông. Chất lượng nguồn lực lao động nước ta còn thấp; di chuyển lao động tự phát từ nông thôn ra thành thị, vào các khu công nghiệp tập trung và ra nước ngoài kéo theo nhiều vấn đề xã hội như “chảy máu chất xám”, buôn bán phụ nữ, trẻ em..

Cơ cấu ngành nghề đào tạo chuyên môn kỹ thuật chưa đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế. Hệ thống giao dịch trên thị trường lao động yếu kém, chưa phát triển. Năng lực cạnh tranh sản phẩm, cạnh tranh doanh nghiệp, cạnh tranh kinh tế quốc tế của Việt Nam còn yếu.

b) Nội dung chính sách giải quyết việc làm

Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đề ra mục tiêu: “Giải quyết việc làm cho 8 triệu lao động… Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2%/năm, tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt 55%… Phát triển đa dạng các ngành, nghề để tạo nhiều việc làm và thu nhập; khuyến khích tạo thuận lợi để người lao động học tập nâng cao trình độ lao động, tay nghề; đồng thời có cơ chế chính sách phát triển, trọng dụng nhân tài”

Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế thị trường lao động, tạo khung pháp lý phù hợp, bảo đảm đối xử bình đẳng giữa người sử dụng lao động và người lao động. Thực hiện đúng các luật về lao động, tiền lương tối thiểu, bảo hiểm lao động, xuất khẩu lao động, pháp lệnh đình công… Người lao động được quyền hưởng lương đúng với số lượng và chất lượng lao động họ đã bỏ ra, phải được bảo đảm về chỗ ở và những điều kiện môi trường lao động, an sinh khác theo đúng luật pháp.

Ba là, phát triển mạnh khu vực dân doanh, trước hết là phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ để nhanh tạo ra việc làm và khả năng thu hút lao động vào sản xuất; phấn đấu đạt tỷ lệ trên 200 người dân có một doanh nghiệp; phát triển kinh tế trang trại, hợp tác xã trong nông nghiệp, đặc biệt coi trọng phát triển kinh tế dịch vụ, công nghiệp chế biến nông sản, khôi phục và phát triển các làng nghề thủ công mỹ nghệ sản xuất sản phẩm cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, tạo điều kiện thúc đẩy thị trường lao động trong nông nghiệp và thị trường xuất khẩu lao động ngày càng phát triển cao hom nữa.

Bốn là, Nhà nước cùng các doanh nghiệp quan tâm đào tạo công nhân có trình độ cao, trình độ lành nghề, trình độ văn hoá đối với lao động trẻ, khoẻ, nhất là ở khu vực nông thôn để cung ứng cho các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, khu du lịch, dịch vụ và xuất khẩu lao động.

Năm là, mở rộng và phát triển thị trường lao động ngoài nước khi thế mạnh của lao động nước ta về số lượng đông và trẻ. Tập trung đào tạo ngoại ngữ, pháp luật cho lao động xuất khẩu, nhất là thanh niên nông thôn để tạo điều kiện cho họ tiếp cận được với thị trường lao động của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là với những nước có trình độ phát triển cao và đang có nhu cầu thu hút lao động.

Sáu là, mở rộng và nâng cấp hệ thống dạy nghề cho người lao động ở 3 cấp trình độ (sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề), cần mở rộng đào tạo và đào tạo lại số lao động nước ta để có cơ cấu hợp lý ở 3 trình độ như trên. Trong đào tạo và đào tạo lại cần chuyển sang đào tạo theo định hướng đào tạo gắn với sử dụng, gắn với nhu cầu của sản xuất; tạo khả năng cung cấp lao động có chất lượng cao về tay nghề và sức khoẻ tốt, có kỹ thuật, tác phong công nghiệp, có văn hoá… cho thị trường trong nước và ngoài nước.

Bảy là, đa dạng hoá các loại hình thị trường, các lớp dạy nghề của Nhà nước, của tư nhân và quốc tế; áp dụng cơ chế thị trường trong dạy nghề, dần dần hình thành thị trường dạy nghề phù hợp với pháp luật. Thực hiện quy hoạch đầu tư tập trung hệ thống dạy nghề, kỹ thuật thực hành qua lao động trực tiếp; đặc biệt là xây dựng các trường dạy nghề trọng điểm quốc gia. Đối với tỉnh, thành phố phải có trường dạy nghề; các quận và huyện cần có các trung tâm dạy nghề; cổ phần hoá các cơ sở dạy nghề công lập, phát triển cơ sở dạy nghề ngoài công lập để giảm chi phí ngân sách cho Nhà nước.

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động quốc gia và nối mạng trước hết ở các vùng kinh tế trọng điểm, các thành phố lớn, các khu vực công nghiệp tập trung, cả xuất khẩu lao động để giúp người lao động tìm kiếm việc làm được thuận lợi nhất.

c) Công dân với chính sách dân số và việc làm

Công dân là người lao động có nghĩa vụ chấp hành chính sách dân số, giải quyết việc làm và pháp luật về lao động. Động viên người thân trong gia đình và những người khác cùng chấp hành, đấu tranh chống hành vi vi phạm chính sách dân số và giải quyết việc làm, tích cực tham gia phong trào “tương thân, tương ái”, “đền ơn đáp nghĩa”, đóng góp đáng kể vào việc nâng cao an sinh xã hội.

Mỗi công dân có các quyền được cung cấp thông tin về dân số; được cung cấp các dịch vụ dân số có chất lượng, thuận tiện, an toàn và được giữ bí mật theo quy định cùa pháp luật; được lựa chọn các biện pháp chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình và nâng cao chất lượng dân số; lựa chọn nơi cư trú phù hợp với quy định của pháp luật.

Mỗi công dân có các nghĩa vụ thực hiện kế hoạch hoá gia đình; xây dựng quy mô gia đình ít con, no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững; thực hiện các biện pháp phù hợp để nâng cao thể chất, trí tuệ, tinh thần của bản thân và các thành viên trong gia đình.

Mỗi công dân có quyền lao động là quyền của tự do được sử dụng sức lao động của mình trong việc tìm kiếm và lựa chọn việc làm và làm việc cho bất kỳ ai, bất cứ nơi nào mà pháp luật không cấm. Mọi công dân bình đẳng trong thực hiện quyền lao động; có quyền tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp phù hợp với khả năng, điều kiện, sở thích của mình không phân biệt đối xử. Công dân bình đẳng trong thực hiện quyền lao động.

Mỗi công dân cần có ý chí, tích cực học tập, lao động vươn lên nắm bắt khoa học kỹ thuật tiên tiến, định hướng nghề nghiệp đúng; tích cực và chủ động tìm việc làm, tăng thu nhập bản thân và gia đình, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, thúc đẩy đất nước phát triển.

Dân số và giải quyết việc làm là vấn đề lớn, phức tạp, sống động theo cơ chế thị trường, cần có hệ thống chính sách, biện pháp đồng bộ để giải quyết hiệu quả vấn đề này. Các cơ quan, tổ chức và mọi công dân cần nhận thức và thực hiện tích cực chủ trương, chính sách dân số, giải quyết việc làm, góp phần ổn định xã hội, tăng trường bền vững.

Đồng Bộ Giải Pháp Giải Quyết Việc Làm Cho Người Lao Động

Nâng cao hiệu quả tư vấn, giới thiệu việc làm

Số liệu thống kê từ Cục Việc làm (Bộ LĐ-TB&XH), năm 2017, cả nước có hơn 1.639 lao động được tạo việc làm (bằng 102,48% kế hoạch năm 2017), trong đó, số lao động được tạo việc làm trong nước khoảng 1.505.000 người. Bên cạnh việc đẩy mạnh giải quyết việc làm trong nước, năm 2017 cũng được xem là năm thành công đối với hoạt động đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, với trên 134,7 nghìn lao động (bằng 127,6% kế hoạch năm 2017), góp phần quan trọng trong việc xóa đói giảm nghèo và đem lại cơ hội lớn trong việc tiếp thu khoa học kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài.

Song song với phát triển kinh tế tạo việc làm, hoạt động cho vay vốn từ Quỹ Quốc gia về việc làm tiếp tục phát huy vai trò hỗ trợ tạo việc làm cho người lao động một cách hiệu quả. Ước năm 2017 thông qua Quỹ quốc gia về việc làm góp phần giải quyết việc làm cho khoảng 110.000 lao động, đạt 110% kế hoạch. Quỹ Quốc gia về việc làm đã tạo điều kiện cho lao động thanh niên, lao động nữ, lao động là người khuyết tật, lao động là người dân tộc, lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp có cơ hội vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho bản thân và cộng đồng.

Bà Lê Kim Dung, Cục trưởng Cục Việc làm cho biết, với vai trò là quản lý nhà nước về việc làm và thị trường lao động, năm 2017, Cục Việc làm đã tham mưu cho Bộ thường xuyên hướng dẫn các địa phương giám sát và điều tiết quan hệ cung – cầu lao động trên thị trường lao động, nâng cao năng lực hệ thống Trung tâm dịch vụ việc làm trong tư vấn, giới thiệu việc làm và thu thập thông tin thị trường lao động; nghiên cứu chuyển đổi mô hình quản lý hệ thống Trung tâm dịch vụ việc làm đáp ứng yêu cầu; từng bước hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động; thu thập, cập nhật, phân tích và xử lý thông tin thị trường lao động kịp thời, đầy đủ, chính xác; dự báo thị trường lao động trong ngắn hạn và dài hạn.

Công tác phân tích dự báo cũng đã có sự phát triển. Năm 2017, đã nghiên cứu, xây dựng các báo cáo chuyên đề về phát triển thị trường lao động phục vụ cho các hội nghị, hội thảo của Bộ, đặc biệt là những báo cáo phân tích và dự báo nhu cầu sử dụng lao động trong các loại hình doanh nghiệp phục vụ cho các hội nghị tuyển sinh học nghề của Bộ và Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp.

Hướng dẫn các địa phương cập nhật, phổ biến thông tin thị trường lao động, tổng hợp báo cáo tình hình thị trường lao động của vùng và địa phương, tăng cường kết nối cung – cầu lao động. Hệ thống các Trung tâm dịch vụ việc làm ngày càng phát huy được hiệu quả hoạt động, thông tin thị trường lao động được phổ biến rộng rãi đến người lao động với nhiều hình thức đa dạng; tổ chức các sàn giao dịch việc làm định kỳ và thường xuyên hơn, quy mô mở rộng hơn, hiệu quả kết nối cung – cầu lao động cao hơn, đặc biệt là ở các tỉnh, thành phố vùng kinh tế trọng điểm.

Thứ trưởng Doãn Mậu Diệp cho biết, nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả thực hiện dự án phát triển thị trường lao động và việc làm, góp phần thực hiện các mục tiêu đã đặt ra trong giai đoạn 2018-2020, năm 2018, Bộ LĐ-TB&XH sẽ tập trung thực hiện các giải pháp như: đầu tư nâng cao năng lực hệ thống Trung tâm dịch vụ việc làm; hỗ trợ phát triển thị trường lao động qua việc hỗ trợ các địa phương tổ chức các sàn giao dịch việc làm, tổ chức điều tra, khảo sát thị trường lao động phục vụ công tác quản lý và phân tích, dự báo thị trường lao động; Hỗ trợ lao động di cư từ nông thôn ra thành thị, các khu công nghiệp và lao động vùng biên; hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, phụ nữ nghèo nông thôn…

Bên cạnh đó, Bộ cũng tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp tập trung vào phát huy giá trị cốt lõi của chính sách này là tổ chức hệ thống thông tin thị trường lao động, hỗ trợ doanh nghiệp tránh sa thải và duy trì việc làm cho người lao động, đào tạo nâng cấp kỹ năng hoặc trang bị kỹ năng mới cho người lao động để thích ứng với những yêu cầu mới của vị trí việc làm trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang làm thay đổi cấu trúc của thị trường lao động; Nâng cao năng lực, tuyên truyền, kiểm tra, giám sát, đánh giá việc triển khai thực hiện các chương trình, dự án về việc làm.

Bên cạnh hỗ trợ giải quyết việc làm cho lao động, Bộ LĐ-TB&XH đẩy mạnh nâng cao chất lượng đào tạo nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu xã hội, gắn đào tạo nghề nghiệp với việc làm; xã hội hóa công tác dạy nghề, khuyến khích doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề cho người lao động.

Việc hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động, nâng cao chất lượng dự báo thị trường lao động trong ngắn hạn và dài hạn nhằm cung cấp các thông tin về cơ hội việc làm, chỗ việc làm trống, các khoá đào tạo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng giúp thanh niên, sinh viên lựa chọn và quyết định học nghề, lập nghiệp, tham gia thị trường lao động.

Mặt khác, hệ thống Trung tâm dịch vụ việc làm được nâng cao trong khâu tư vấn, giới thiệu việc làm và định hướng nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên; phối hợp hoạt động của Trung tâm với các cơ sở đào tạo, các doanh nghiệp; tổ chức các phiên giao dịch việc làm dành riêng cho thanh niên nông thôn, thanh niên sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an.

Đây là những giải pháp đồng bộ, then chốt giải quyết những vấn đề tồn tại về chất lượng đào tạo, trình độ, tay nghề của thanh niên, tạo việc làm, phát huy vai trò của lực lượng thanh niên trong phát triển kinh tế – xã hội.

Để giải quyết việc làm cho người lao động nói chung, thanh niên, sinh viên tốt nghiệp nói riêng đòi hỏi sự tham gia tích cực, chủ động của các ngành, các cấp và trực tiếp là các địa phương, trong đó việc đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng tại địa phương có ý nghĩa quyết định. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã và đang tập trung thực hiện những giải pháp sau:

– Tổ chức thực hiện đồng bộ và có hiệu quả Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo.

– Chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện Chương trình mục tiêu Giáo dục nghề nghiệp – Việc làm và An toàn lao động giai đoạn 2016-2020, tập trung vào các dự án đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp, dự án phát triển thị trường lao động và việc làm; Đề án hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025; hỗ trợ thanh niên lập nghiệp, khởi sự doanh nghiệp qua Quỹ quốc gia về việc làm và các nguồn tín dụng ưu đãi khác; nâng cao chất lượng, tăng số lượng lao động trẻ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

– Nâng cao năng lực dự báo nhu cầu lao động theo ngành, nghề làm cơ sở, định hướng đào tạo cho thanh niên; hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong thu thập, cập nhật và phổ biến thông tin thị trường lao động.

– Chỉ đạo đẩy mạnh đào tạo nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu xã hội, gắn đào tạo nghề nghiệp với việc làm; chú trọng xã hội hóa công tác dạy nghề, khuyến khích doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề; đổi mới nội dung, chương trình đào tạo và phương pháp giảng dạy nhằm đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp.

– Tăng cường tư vấn, giới thiệu việc làm, định hướng nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên, thanh niên thông qua hệ thống Trung tâm dịch vụ việc làm công; đa dạng hóa các hoạt động giao dịch việc làm; nâng tần suất, phạm vi các hoạt động các sàn giao dịch việc làm; xây dựng cơ sở dữ liệu việc tìm người – người tìm việc ứng dụng công nghệ thông tin.

– Tăng cường thông tin, tuyên truyền về các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về các chính sách hỗ trợ đào tạo nghề nghiệp, hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên.

Theo tổng hợp từ kết quả điều tra lao động việc làm quý IV/2016 của Tổng cục Thống kê, số thanh niên trong độ tuổi lao động là 24,3 triệu người, chiếm hơn 44% lực lượng lao động. Để “gỡ” sức ép giải quyết việc làm, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đưa ra những giải pháp đột phá tạo việc làm cho đối tượng thanh niên, đặc biệt là thanh niên vùng nông thôn, bộ đội, công an xuất ngũ.

Giải quyết việc làm cho người lao động là mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển có lực lượng lao động lớn như Việt Nam. Các chính sách kinh tế – xã luôn hướng tới mục tiêu việc làm cho người lao động, đặc biệt là thanh niên nông thôn, bộ đội, công an xuất ngũ. Bộ LĐ-TB&XH đặc biệt quan tâm việc giải quyết việc làm cho bộ đội xuất ngũ. Vì vậy, trong giai đoạn 2010-2016, trên 285 nghìn bộ đội xuất ngũ tham gia học nghề tại các cơ sở dạy nghề trong và ngoài quân đội (chiếm khoảng 40% số bộ đội xuất ngũ hàng năm), 70 – 80% bộ đội xuất ngũ sau khi học nghề đã có việc làm ổn định. Nhiều mô hình, cách làm hiệu quả trong giải quyết việc làm cho bộ đội, công an xuất ngũ như: tổ chức các phiên giao dịch việc làm dành riêng cho bộ đội xuất ngũ; phối hợp giữa các đơn vị quân đội, công an với chính quyền địa phương, các cơ sở đào tạo…

THÁI AN

Giải Quyết Việc Làm Cho Thanh Niên Nông Thôn

(QBĐT) – Mặc dù các hoạt động đào tạo, hướng nghiệp được triển khai thường xuyên, nhưng hiện nay việc giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn (TNNT)  vẫn còn  gặp nhiều khó khăn, bất cập. Cơ hội tìm việc của TNNT  khá hạn chế do trình độ học vấn cũng như hạn chế về tay nghề.

Thiếu việc làm… Trong một lần đi thực tế tại thôn Tân Sơn, xã Quảng Sơn (thị xã Ba Đồn), chúng tôi  thấy nhiều thanh niên đang bốc vác thuê cho những doanh nghiệp thu mua tràm, bạch đàn tại địa phương. Hỏi ra mới biết, thanh niên ở đây ngoài làm ruộng ra thì thu nhập chính của họ chủ yếu từ công việc khai thác bạch đàn thuê.

Ông Trần Văn Minh, Bí thư chi bộ thôn Tân Sơn, xã Quảng Sơn cho biết, đời sống của người dân trong thôn còn gặp nhiều khó khăn nên phần lớn thanh niên đều đi làm ăn xa. Một số thanh niên ở lại địa bàn thì không có việc làm ổn định, ruộng lúa ít không đủ để canh tác nên chủ yếu làm thuê… Huyện Lệ Thủy là một trong những  địa phương có tỉ lệ TNNT thất nghiệp hoặc không có việc làm ổn định khá cao. Anh Dương Văn Bình, Bí thư Huyện đoàn Lệ Thủy cho biết, hiện tại số TNNT trên địa bàn là 4.528 người.

Trong đó có 35-40% thanh niên không có việc làm, hoặc có việc làm nhưng không ổn định. Rất nhiều thanh niên đã bỏ quê vào miền Nam kiếm việc mưu sinh, số còn lại chủ yếu ở nhà làm nông nghiệp hoặc một số công việc thời vụ như thợ nề, làm công tại các xưởng mộc, cơ khí…

“Số thanh niên thiếu việc làm khá đông nên phải đi làm ăn xa. Và điều này cũng dẫn đến việc rất khó để tập hợp thanh niên cho một chương trình hay một kế hoạch nào đó”, anh Bình chia sẻ.

Cũng như Lệ Thủy, lực lượng TNNT trên địa bàn huyện Quảng Ninh cũng đang đối mặt với tình trạng thiếu việc làm, hoặc có việc làm nhưng bấp bênh, không ổn định. Anh Ngô Lê Duy, Phó Bí thư Huyện đoàn Quảng Ninh cho biết, hiện tại tổng số thanh niên trên địa bàn huyện là 22.400 người, số thanh niên tập hợp được là 12.936 người.

Trong đó có 30-40% thanh niên không có việc làm hoặc có việc làm nhưng chưa ổn định. Hiện tại, nhu cầu việc làm của thanh niên Quảng Ninh là rất lớn nhưng vì thiếu vốn, thiếu kiến thức ngành nghề nên quá trình tìm kiếm việc làm gặp rất nhiều khó khăn.

Nhiều công ty may trên địa bàn luôn trong tình trạng thiếu lao động, trong khi lực lượng TNNT thất nghiệp còn rất nhiều.

Đâu là nguyên nhân?

Theo thống kê của Tỉnh đoàn, tỉnh ta có 194.568 thanh niên trong độ tuổi, chiếm 30% dân số, lực lượng thanh niên đến độ tuổi lao động chiếm gần 42,3% lao động trong toàn tỉnh. Thanh niên trong độ tuổi lao động có việc làm chiếm 60-70%, thanh niên thiếu việc làm, việc làm không thường xuyên, thu nhập thấp chiếm 30-40%.

Anh Nguyễn Văn Sáu, Phó Bí thư Tỉnh đoàn cho biết, nguyên nhân dẫn đến tình trạng TNNT không có việc làm là do đa số TNNT còn nhiều hạn chế về kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp, tinh thần vươn lên chủ động lập nghiệp của họ cũng chưa cao, việc thu hút TNNT vào học các nghề nông nghiệp rất khó khăn, phần lớn TNNT đều có xu hướng ly hương để lập nghiệp. Trên địa bàn có rất ít các khu công nghiệp, khu thương mại nên thanh niên trong độ tuổi lao động khó có cơ hội tìm việc làm.

Mặt khác, nhiều thanh niên chưa xác định được năng lực bản thân cũng như nhu cầu thị trường lao động để lựa chọn hướng đi phù hợp. Thực tế cho thấy, nhiều sinh viên ra trường có bằng cấp, nhưng thiếu kiến thức thực tiễn về nghề, thiếu kỹ năng mềm, không đáp ứng được yêu cầu công việc.

Một bộ phận thanh niên ngại khó, ngại khổ; thiếu chủ động, nhạy bén, chưa chịu khó trau dồi tay nghề, rèn luyện bản thân. Thực tế này dẫn đến tình trạng nhiều thanh niên không thể kiếm được việc hoặc phải chuyển sang làm những công việc thời vụ, lao động phổ thông. Lý giải về tình trạng TNNT trên địa bàn thất nghiệp nhiều, anh Dương Văn Bình cho hay, thời gian qua, Huyện đoàn Lệ Thủy cũng đã phối hợp với các đơn vị tuyển dụng lao động mở nhiều hội nghị tư vấn, giới thiệu việc làm cho hằng trăm lượt thanh niên trên địa bàn.

Tuy nhiên, số lượng nộp hồ sơ đăng ký tham gia tuyển dụng đi xuất khẩu lao động tại các nước còn thấp. Phần lớn lao động tìm việc làm hiện nay có trình độ học vấn, chuyên môn cũng như kỹ thuật thấp, chủ yếu là lao động phổ thông nên xin vào các cơ quan, xí nghiệp rất khó khăn. Vì vậy, tỷ lệ thanh niên có được việc làm ổn định, thu nhập tốt, nhất là thanh niên ở các xã vùng sâu, vùng xa còn ít. Bàn về nguyên nhân dẫn đến việc TNNT thiếu việc làm, anh Ngô Lê Duy, Phó Bí thư Huyện đoàn Quảng Ninh cho rằng, công tác định hướng nghề nghiệp cho TNNT trên địa bàn chưa có hiệu quả dẫn đến tình trạng thừa thầy thiếu thợ.

Điển hình như Nhà máy May Quán Hàu (Công ty TNHH S&D) có nhu cầu tuyển dụng lao động rất nhiều, nhà máy luôn trong tình trạng thiếu công nhân may nhưng nguồn lao động vào đây làm việc lại rất ít, nhất là lực lượng thanh niên.

“Một phần là do lực lượng thanh niên không có tay nghề, cùng với tâm lý chờ đợi để xin được việc phù hợp với bằng cấp mình đã học nên dẫn đến tình trạng doanh nghiệp thì tuyển không ra lao động mà thanh niên trên địa bàn lại thất nghiệp, không có việc làm”, anh Duy nói.

Những năm qua, với nhiều cơ chế chính sách quan tâm, ưu đãi nhưng số lượng TNNT tham gia vào các lớp tư vấn, hướng nghiệp do Trung tâm Dịch vụ việc làm thanh niên tỉnh trực tiếp tổ chức tại các địa phương còn thấp. Mỗi năm, trung tâm phối hợp với các Huyện đoàn, Hội Nông dân thường xuyên mở các lớp dạy nghề cho hàng trăm lao động, chủ yếu là các nghề như: may, hàn, trồng trọt, chăn nuôi…

Bên cạnh những thanh niên có việc làm sau khi đào tạo thì một bộ phận không nhỏ vẫn chưa tìm được việc làm phù hợp, hoặc có việc làm nhưng chỉ mang tính thời vụ, nhiều thanh niên còn không sử dụng công việc mà mình đã được đào tạo.

Lan Chi

Bài 2: Cần nhiều giải pháp đồng bộ