Chức Năng Văn Học Thiếu Nhi / Top 10 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Phauthuatthankinh.edu.vn

‘Văn Học Thiếu Nhi’ Và Một Vài Ghi Chú Bên Lề

Hãy chú ý tới từ “cho”. Động từ ngoại động “cho” khiến cả cụm từ “Văn học cho thiếu nhi” mang cái nghĩa xác định rằng: tác phẩm văn học này hướng về phía đối tượng tiếp nhận là thiếu nhi. Nó cần thiết phải phù hợp với tâm lý lứa tuổi và trình độ nhận thức, trình độ thẩm mỹ của thiếu nhi. Nó có thể giúp thiếu nhi giải trí, nhưng tốt hơn cả thì nó nên nêu ra trước bạn đọc nhỏ tuổi một vài bài học đáng giá nào đó về đời sống, về luân lý, v.v… Tóm lại nó phải mang chức năng của một công cụ giáo dục: Giáo dục bạn đọc nhỏ tuổi trở thành những “con người tốt”. Nếu cách hiểu là như vậy thì ở đây chúng ta sẽ có vài điểm cần phải suy nghĩ:

Thứ nhất, về phía đối tượng tiếp nhận (thiếu nhi) điều quan trọng là được đọc tác phẩm văn học thực sự có giá trị, chứ không phải là đọc tác phẩm phù hợp với lứa tuổi của mình. (Theo logic, hoàn toàn có quyền đặt ra một câu hỏi: Có “Văn học cho thiếu nhi”, chẳng lẽ lại không có “Văn học cho người cao tuổi”?). Xin nói ngay rằng nhiều thế hệ bạn đọc Việt Nam khi còn ở tuổi thiếu nhi đã say mê với Tam quốc diễn nghĩa, Thủy hử, Ba người lính ngự lâm, Những người khốn khổ, Chiến tranh và hòa bình, v.v… thậm chí cả Gatsby vĩ đại, Âm thanh và cuồng nộ, Buồn nôn, Người xa lạ hay Trăm năm cô đơn họ cũng không từ. Toàn những tác phẩm quá đỗi… người lớn! Và rồi… chẳng có gì bất lợi xảy ra hết, ngoài việc nhờ đọc những tác phẩm ấy mà họ càng trở nên là những độc giả lý tưởng của văn chương thứ thiệt. Rõ ràng, các nhà “thiếu nhi học” của chúng ta đã lo xa một cách rất không cần thiết khi nghĩ rằng nhận thức và tâm hồn của thiếu nhi sẽ trở nên méo mó nếu phải đọc những tác phẩm văn học không phù hợp với lứa tuổi. Họ quên, hoặc không biết đến ảnh hưởng cực kỳ quan trọng của cái đọc đầu đời! Đọc, đó là cả một quá trình lâu dài. Theo thời gian, bằng sự lớn dần về nhận thức và sự chín dần trong trải nghiệm, người đọc sẽ phát hiện thêm những điều mới mẻ từ một tác phẩm cũ. Khả năng tái khám phá của người đọc, có lẽ đó chính là một trong những bí mật về sự tồn tại lâu dài của tác phẩm văn học.

Thứ hai, về phía người sáng tác, hẳn nhiều người còn nhớ câu nói nổi tiếng của ông trùm “Tiểu thuyết mới”, Alain Rob Grillet: “Nhà văn sẽ là kẻ suy đồi nếu khi viết mà hắn còn để ý tới độc giả”. Phán quyết này nói trúng cái cần phải thuộc về bản chất của sáng tạo nhà văn, đó là sự đốt cháy hết mình của chủ thể trong ngọn lửa mà chính tay anh ta nhóm lên, từ ý chí và niềm say mê của cá nhân mình. Khi ấy thì đương nhiên độc giả, bất kể là nam phụ lão ấu, là quý tộc hay tiện dân, là ông giáo sư đại học hay anh tẩm quất nơi góc chợ, đều biến mất, chỉ còn lại trơ trụi người viết với thế giới hư cấu của anh ta. Trên thực tế, khi nhiều năm rồi dư luận không ngớt lên tiếng than phiền về chất lượng của “Văn học cho thiếu nhi” ở Việt Nam, rằng nó đa phần là những tác phẩm thiếu sức hấp dẫn, nhạt phẩm chất tưởng tượng, đã vậy lại thường lên giọng dạy dỗ trẻ em theo một cách đầy tinh thần áp đặt, khô khan, giáo điều – tuồng như trẻ em là đối tượng chỉ đáng để xoa đầu – thì một trong những nguyên nhân chủ yếu là đây: Người ta mải “săn đón” thiếu nhi, người ta tự tin rằng đã là độc giả thiếu nhi ắt sẽ cần cái A thích cái B, và người ta nhào vào “phục vụ” thiếu nhi bằng thứ ý chí luận người lớn đầy quyết liệt ấy. Kết quả chỉ là sự ra đời của một kiểu sản phẩm văn học mà chẳng ai đủ can đảm bảo rằng hay, trẻ em thì lại càng không! Thật ra câu chuyện này không có gì bất ngờ. Càng chăm chăm vào những mục đích “cho” hoặc “phục vụ” bao nhiêu, những thứ văn chương vụ lợi càng ở xa mục đích của chúng bấy nhiêu. Ai đó có thể phản đối lập luận này bằng cách liệt kê hằng hà sa số những ví dụ về tác phẩm “Văn học cho thiếu nhi” thành công trên thế giới: Trên sa mạc và trong rừng thẳm, Không gia đình, Những cuộc phiêu lưu của Huck Finn và Tom Sawyer, Hoàng tử bé, Những đứa trẻ phố Arabat, Koschya lùn, Carson trên mái nhà, v.v…, hay ở Việt Nam: Dế mèn phiêu lưu ký (Tô Hoài), Chú bé có tài mở khóa (Nguyễn Quang Thân), Tuổi thơ dữ dội (Phùng Quán), Đội thiếu niên du kích Đình Bảng (Xuân Sách), Đất rừng phương Nam (Đoàn Giỏi), Đợi mặt trời (Phạm Ngọc Tiến), Cho xin một vé đi tuổi thơ (Nguyễn Nhật Ánh), v.v… Cũng đúng. Nhưng có lẽ phải chú ý, các tác giả trên chưa chắc đã định viết chỉ “cho thiếu nhi”. Nói cho chính xác hơn, trước hết, họ viết cho tuổi thơ đã một đi không trở lại của mình. Họ viết bằng niềm hoài nhớ thiên đường đã mất… Điều đó lý giải tại sao, những tác phẩm văn học được mặc định là “cho thiếu nhi” ấy, lại là những tác phẩm mà, xem ra, người lớn còn thích đọc hơn cả thiếu nhi! (Đến đây, người viết bài này không sao cưỡng được ý muốn mở cái ngoặc đơn đặng nêu một sự ngạc nhiên của mình. Không biết từ bao giờ và tại sao, lại phổ biến một quan điểm – chưa từng được luận chứng cho cẩn thận – gán cái mác “Văn học cho thiếu nhi” vào những truyện viết về loài vật và những truyện mang màu sắc cổ tích? Dế mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài đâu chỉ là truyện về loài vật, và những bài học từ nó thì nhiều người lớn cũng còn phải học mãi, chứ chẳng riêng gì thiếu nhi. Còn như Chiếc âu vàng của Hoffmann hoặc các truyện cổ tích của nhà văn Đan Mạch Andersen, thì chắc chắn rồi, từ hàng trăm năm nay, đó là những tác phẩm khiến giới nghiên cứu văn học trên toàn thế giới phải đổ biết bao mực xuống giấy để tìm hiểu mà còn chưa xong, huống hồ thiếu nhi!).

Khi khái niệm “Văn học cho thiếu nhi”, một cách thực tế, đã bộc lộ ra nhiều bất cập đến thế, cần thiết phải dịch chuyển sự quan tâm từ nó sang những khái niệm khác, khả dụng hơn. Khả dụng hơn theo nghĩa là có sự nhận thức về nó hợp lý hơn, để từ đó hình thành chiến lược đầu tư thích đáng hơn, hiệu quả hơn. Chúng ta hãy thử nghĩ đến “Văn học về thiếu nhi” xem sao.

“Văn học về thiếu nhi”, rất dễ hiểu, là khái niệm xác định thiếu nhi như là đối tượng của sự nhận thức, khám phá, phân tích, suy ngẫm và mô tả của nhà văn. Trên phương diện này, có thể hiểu nôm na rằng thiếu nhi là một “đề tài”, tương đương với những “đề tài” đã trở nên quá đỗi quen thuộc của văn học: Chiến tranh và người lính, nông thôn và cuộc sống của người nông dân, đô thị và thị dân, bất công xã hội và đấu tranh giai cấp, v.v… Ở phần trên bài viết này, người viết đã nhắc đến một số tác phẩm văn học, của cả nước ngoài và Việt Nam, được cho là những tác phẩm “Văn học cho thiếu nhi” thành công, nhưng thực ra thì tuyệt đại đa số trong đó phải được nhìn nhận như những ví dụ về sự thành công của tác phẩm “Văn học về thiếu nhi”. Hướng về thiếu nhi, lấy thiếu nhi làm đối tượng của sự phản ánh văn học, mỗi tác phẩm dựng lên một thế giới sinh động, mang đến cho người đọc – người đọc nói chung – một trải nghiệm nghệ thuật và một chiều kích nhân sinh đặc thù. Hoặc, nó cho người đọc cùng nhân vật thiếu nhi dấn bước vào những cuộc phiêu lưu kỳ thú, tận hưởng cảm giác xứ lạ, đối mặt với những thách thức hiểm nghèo, và rồi từ đó tự phát hiện ra những nguồn sức mạnh còn chưa được biết đến trong bản thân mình. Hoặc, nó tái hiện những cảnh đời trẻ em đa dạng trong những bối cảnh xã hội khác nhau, trộn lẫn sự khắc nghiệt của thực tế với sự bay bổng của ước mơ, làm bật lên những phẩm chất tốt đẹp của con người trên nền màu xám xịt của nỗi tuyệt vọng. Hoặc, như những tác phẩm hiện thực chủ nghĩa mẫu mực nhất, nó đi từ sự mô tả số phận bi kịch của những nhân vật thiếu nhi đến lời tố cáo đanh thép những bất công trong đời sống xã hội… Tóm lại, khi đã thoát khỏi – thậm chí là không cần quan tâm đến – những yêu cầu của việc viết “cho thiếu nhi”, phải “phù hợp với lứa tuổi thiếu nhi” mang đầy tính ý chí luận, người viết chắc chắn sẽ có nhiều tự do hơn và dễ bề thành công hơn khi sáng tác tác phẩm “Văn học về thiếu nhi”.

Rất cần thiết phải nhấn mạnh điều này khi trong việc phát động các cuộc sáng tác văn học thiếu nhi hiện nay – kèm theo nó là sự đầu tư khá tốn kém về thời gian, công sức, tiền bạc cho các khâu chấm giải, trao giải, in ấn và phát hành tác phẩm – yêu cầu viết “Văn học cho thiếu nhi” vẫn luôn được đặt ra ráo riết. Bất chấp hiện tượng phổ biến là: Trước khi tác phẩm “Văn học cho thiếu nhi” đến được với thiếu nhi, nó buộc phải thuyết phục được bộ lọc và hầu bao của các bậc cha mẹ cái đã, nói cách khác, trước hết nó phải là “Văn học cho người lớn”! Vậy, nên là “Văn học cho thiếu nhi” hay “Văn học về thiếu nhi”? Câu hỏi này, thiết nghĩ, không chỉ là câu hỏi với các nhà văn, mà còn là câu hỏi với các nhà xuất bản, với những người làm sách lọc lõi trong thị trường của hoạt động đọc văn học.

Những Yếu Tố Làm Nên Sức Hấp Dẫn Của Văn Học Thiếu Nhi

Văn học thiếu nhi (VHTN) nằm trong sáng tác văn học nói chung nên cũng mang đầy đủ những đặc điểm của sáng tác nghệ thuật ngôn từ. Nó thực hiện các chức năng chung của văn học. Bên cạnh đó, VHTN cũng có những chức năng riêng mang tính đặc thù do đối tượng phục vụ chủ yếu của nó là thiếu nhi. Và chính những chức năng mang tính đặc thù đó là những yếu tố cơ bản làm nên sức hấp dẫn của mảng văn học này.

Khi viết bài thơ này, Phan Thị Vàng Anh mới 7 tuổi. Sự hồn nhiên, ngây thơ của trẻ nhỏ được thể hiện ở ngay chính nội dung bài thơ và hình ảnh của nhân vật chính trong câu chuyện. Bài thơ kể lại việc chú Mèo con đi học giữa “trời nắng chang chang”. Đi học nhưng chú lại chẳng mang theo thứ gì ngoài “một cái bút chì” và “một mẩu bánh mì con con”. Đem bút chì, không mang theo sách vở gì thì làm sao học đây? Đi học mà lại mang theo bánh mì chắc có lẽ để ăn khi đói bụng! Sự sơ sài trong việc chuẩn bị đồ dùng học tập và sự chu đáo chuẩn bị đồ ăn phòng khi đói hết sức ngây thơ, hồn nhiên này chỉ có thể có ở trẻ nhỏ. Điều này sẽ ít, thậm chí là khó xảy ra ở người lớn song ở trẻ lại là điều rất dễ gặp. Nếu điều này xảy ra ở người lớn sẽ thành chuyện đáng chê trách song đối với trẻ nhỏ thì lại rất bình thường và có nét ngộ nghĩnh, đáng yêu riêng. Hay trong bài thơ Ngủ rồi, nhà thơ Phạm Hổ đã viết: Gà mẹ hỏi gà con: – Đã ngủ chưa thế hả? Cả đàn gà nhao nhao: – Ngủ cả rồi đấy ạ! Bài thơ là cuộc đối thoại giữa gà mẹ và đàn gà con. Nghe gà mẹ hỏi, cả bọn nhao nhao trả lời: “Ngủ cả rồi đấy ạ!”. Ngủ rồi thế mà vẫn nghe được mẹ hỏi, vẫn trả lời được… Đàn gà con ngây thơ nghĩ rằng, trả lời “Ngủ cả rồi đấy ạ!” là sự khẳng định về sự thật, và gà mẹ sẽ tin vào sự thật đó… Nhưng chúng không biết rằng chính sự khẳng định chắc nịch đó đã phủ định lại thực tế chưa ngủ của chúng. Có thể nói, đây là kiểu tư duy chỉ có ở trẻ nhỏ. Kiểu tư duy này sẽ biến mọi thứ không lôgic sẽ trở thành hoàn toàn lôgic trong thế giới trẻ thơ và làm nên nét đáng yêu của trẻ nhỏ cũng như sức hấp dẫn của VHTN.

2. Cùng với đặc điểm về tính hồn nhiên, ngây thơ như đã nói ở trên, đặc điểm về tính giàu hình ảnh, vần điệu và nhạc điệu cũng là yếu tố không thể thiếu làm nên cái hay, cái đẹp và sức cuốn hút của VHTN. Trong thơ viết cho người lớn, nhiều khi vần không phải là yếu tố quan trọng nhất. Song thơ viết cho trẻ em thì vần và cách gieo vần thật phù hợp luôn là yếu tố không thể thiếu. Hơn nữa, trong các tác phẩm thơ viết cho trẻ em, gieo vần là yếu tố quan trọng tạo nên nhạc điệu cho các câu thơ. Như trong bài thơ Hạt gạo làng ta, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã sử dụng cách gieo toàn vần bằng cuối các câu thơ như: “ta – sa”, “thầy – đầy – cay” đã tạo nên giai điệu êm ái, ngọt ngào cho các câu thơ; gợi được sự xúc động, thái độ trân trọng, yêu quý đối với hạt gạo quê hương. Bởi những hạt gạo ấy được kết tinh từ những hương vị ngọt ngào, giá trị văn hóa của quê hương…“Hạt gạo làng ta Có vị phù sa Của sông Kinh Thầy Có hương sen thơm Trong hồ nước đầy Có lời mẹ hát Ngọt bùi đắng cay…” Hay ở bài thơ Mời vào của Võ Quảng, cách gieo vần giữa các từ “đó – thỏ”, “tai – nai”, chữ “Thỏ”, “Nai” được lặp lại ở hai câu thơ liền nhau cùng với sự kết hợp của các thanh trắc, thanh bằngđã giúp bài thơ trở nên giàu nhạc tính:“- Cốc, cốc, cốc! – Ai gọi đó? – Tôi là Thỏ – Nếu là Thỏ Cho xem tai – Cốc, cốc, cốc! – Ai gọi đó? – Tôi là Nai – Thật là Nai Cho xem gạc” Để gây ấn tượng ngay từ ban đầu cũng như để lại dấu ấn lâu dài đối với trẻ nhỏ, VHTN cần phải giàu hình ảnh. Hơn nữa, hình ảnh lại phải cụ thể, sinh động, nhiều màu sắc, đáng yêu và gần gũi với cuộc sống của trẻ… Để có được đặc điểm này, VHTN thường sử dụng các từ tượng hình, tượng thanh, các động từ, tính từ miêu tả, tính từ chỉ màu sắc. Bởi những loại từ này có khả năng tạo nên sắc thái cụ thể, tác động trực tiếp vào giác quan của trẻ; kích thích và khơi gợi trí tưởng tượng, sự sáng tạo của trẻ. Từ đó trẻ có thể dễ cảm nhận, dễ hiểu và dễ rung động trước các hình ảnh, nội dung, tư tưởng của tác phẩm.

Trong bài thơ Hoa kết trái (Thu Hà), trẻ có thể hình dung được đặc điểm rất riêng, rất đặc trưng, không thể lẫn lộn của mỗi loài hoa bởi những động từ chỉ trạng thái (rung rinh) và các tính từ miêu tả màu sắc (tim tím, vàng vàng, chói chang, trắng tinh), tính từ miêu tả đặc điểm hình dáng (nho nhỏ, xinh xinh):“Hoa cà tim tímHoa mướp vàng vàngHoa lựu chói changĐỏ như đốm lửaHoa vừng nho nhỏHoa đỗ xinh xinhHoa mận trắng tinhRung rinh trước gió…” Hay trong đoạn văn sau, nhà văn Tô Hoài đã miêu tả khung cảnh hết sức trữ tình với những hình ảnh rất đặc trưng, rất riêng của mùa thu. Bức tranh vào thu đó đã thực sự chạm được vào cảm xúc của người đọc. Yếu tố làm nên sức lay động lòng người của bức tranh đó chính là sự xuất hiện của các hình ảnh hết sức cụ thể và sinh động. Đó là nước mùa thu trong vắt, là hòn cuội trắng tinh, là hình ảnh của các con vật : Gọng Vó đen sạm, gầy và cao, nghênh cặp chân gọng vó…, những ả Cua Kềnh mắt lồi, tình tứ và âu yếm, đàn Săn Sắt và cá Thầu Dầu lăng xăng. Tất cả các hình ảnh đó đều hiện lên rõ mồn một bởi các tính từ, động từ miêu tả:

“Mùa thu mới chớm nhưng nước đã trong vắt. Trông thấy cả hòn cuội trắng tinh nằm dưới đáy. Nhìn hai bên ven sông, phong cảnh đổi thay đủ điều ngoạn mục. Cỏ cây và những làng gần, núi xa luôn luôn mới. Những anh Gọng Vó đen sạm, gầy và cao, nghênh cặp chân gọng vó đứng trên bãi lầy nhìn theo hai tôi, ra lối bái phục. Những ả Cua Kềnh cũng giương đôi mắt lồi, tình tứ và âu yếm, ngó theo hai tôi với muôn vẻ quý mến. Đàn Săn Sắt và cá Thầu Dầu thoáng gặp đâu cũng lăng xăng cố bơi theo bè hai tôi hoan nghênh váng cả mặt nước.” (Tô Hoài – Dế Mèn phiêu lưu ký)

3. Cùng với các yếu tố trên, yếu tố truyện trong thơ và yếu tố thơ trong truyện là đặc điểm không thể thiếu để làm nên sự thú vị của VHTN. Bởi lẽ, ngoài những truyện thơ như Mèo đi câu cá, Nàng tiên ốc, Bồ câu và ngan…, ở mỗi bài thơ ngắn viết cho thiếu nhi, người đọc dễ dàng gặp ở đó một câu chuyện kể về một sự kiện hay hiện tượng nào đó. Yếu tố truyện trong thơ giúp trẻ có thể dễ dàng nắm bắt được nội dung từ đó liên hệ, phát hiện và cảm nhận được những vẻ đẹp của thiên nhiên, những điều thú vị của cuộc sống…được gửi gắm trong tác phẩm; hình thành được những cảm xúc đẹp và nhân văn cho trẻ. Trong bài thơ Dán hoa tặng mẹ của Khải Minh, người đọc có thể gặp ở đó câu chuyện một em bé sau khi dán được bông hoa, được cô dặn mang về làm quà tặng mẹ nhân dịp 8/3. Cô bé làm theo lời cô dạy. Món quà đó của bé đã thực sự đem lại niềm vui, sự xúc động cho mẹ:Em dán được cái hoaCô cho mang về nhàNói rằng: Con tặng mẹQuà ngày 8 tháng 3!Xoa đầu con mẹ bảo– Con dán đẹp thế à?Mẹ cảm ơn cô giáo,Dạy con mẹ tặng hoa. Nếu yếu tố truyện trong thơ giúp trẻ có thể dễ dàng nắm bắt được nội dung, phát hiện và cảm nhận được những vẻ đẹp của thiên nhiên, những điều thú vị của cuộc sống, hình thành được những cảm xúc đẹp và nhân văn thì yếu tố thơ trong truyện lại là yếu tố quan trọng tạo nên sức lôi cuốn, hấp dẫn đối với trẻ. Bởi chất thơ là cái đẹp luôn khiến lòng người xúc động. Có thể nói, mỗi tác phẩm truyện thiếu nhi thường chứa đựng một bài học nhẹ nhàng, sâu sắc. Và “Chất thơ của truyện sẽ làm cho những bài học ấy không bị khô khan hay cứng nhắc. Những truyện như: Giọng hót chim sơn ca, Hoa Mào gà, Giọt nước Tí Xíu, Chú Đỗ con, Bồ Nông có hiếu, Cây gạo… không khác gì những bài thơ ca ngợi cuộc sống, ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên và ca ngợi những tình cảm cao đẹp của con người. Cùng với chất thơ bay bổng, ý nghĩa của câu chuyện có thể sẽ còn theo các em mãi trong cuộc sống” (Lã Thị Bắc Lý, Văn học thiếu nhi và giáo dục trẻ em lứa tuổi mầm non, 2015, NXB Đại học Sư phạm).

4. Trong cuộc sống, muốn trẻ thích điều gì đó thì phải làm sao để trẻ không chán cái đó. Văn học cũng vậy. Nếu để trẻ chán thì các bé sẽ không còn muốn đọc, không còn muốn nghe nữa. Bởi thông thường ở trẻ, khả năng tập trung chưa cao, tính kiên trì hạn chế, cái gì khó và quá khó sẽ khiến trẻ ngại và chán. Vì vậy VHTN có một đặc trưng và cũng là một trong những yếu tố làm nên sự lôi cuốn đối với trẻ. Đó là sự ngắn gọn, rõ ràng. Tác phẩm ngắn sẽ giúp trẻ dễ nhớ, dễ thuộc; rõ ràng sẽ giúp trẻ dễ đọc và dễ hiểu. Chỉ những bài thơ, câu chuyện dễ nhớ, dễ đọc, dễ thuộc, dễ hiểu thì trẻ mới thích và thích được lâu. Vì vậy, ngắn gọn, rõ ràng cũng là một trong những yếu tố góp phần làm nên sự gắn bó, yêu mến của trẻ đối với VHTN.

Tính “ngắn gọn” trong thơ viết cho thiếu nhi được hiểu là có dung lượng ngắn, số từ trong câu cũng ngắn. Dạng phổ biến trong thơ viết cho trẻ em thường là thơ 3 chữ, 4 chữ, 5 chữ, thơ lục bát. Kết cấu thơ thường giống với đồng dao – thể loại văn học dân gian giàu nhịp điệu, dễ đọc, dễ nhớ, dễ thuộc…“Hay nói ầm ĩ Là con vịt bầu Hay hỏi đâu đâu Là con chó vện Hay chăng dây điện Là con nhện con Ăn no quay tròn Là cối xay lúa…” (Trần Đăng Khoa – Kể cho bé nghe) Ở văn xuôi, tính “ngắn gọn” được thể hiện ở cách sử dụng câu đơn, ngắn, ít khi dùng câu phức; nhan đề truyện cụ thể (thường là tên nhân vật hoặc câu hỏi có tính chất định hướng hoặc đúc kết ý nghĩa giáo dục)…: Ba cô gái, Chú Dê đen, Ai đáng khen nhiều hơn, Thi hát… Tính “rõ ràng” trong các tác phẩm VHTN được thể hiện ở cách dùng từ ngữ và miêu tả. Từ ngữ thường là các từ mang nghĩa đen; cách miêu tả thường trực tiếp, cụ thể, dễ hiểu. Ví dụ:

“Bọn trẻ con làng Đo Đo không đo ngày tháng theo thời tiết tự nhiên. Chúng chả bao giờ gọi tên bốn mùa theo cách thông thường. Một năm của bọn chúng có tới sáu mùa: Mùa giấy kính, mùa nắp keng, mùa cọng dừa, mùa bao thuốc lá, mùa thả diều, mùa chong chóng. Mùa giấy kính thường trùng với mùa xuân. Những ngày tết bọn trẻ con trong làng được ăn mứt, hạt dưa, bánh thuẫn, bánh in… Bánh in hình vuông, gói bằng giấy kính màu. Màu xanh, màu đỏ, màu cam, màu vàng, màu nõn chuối… Ăn xong, bọn trẻ giữ lại tờ giấy kính, chốc chốc đưa lên mắt để nhìn cảnh vật khi thì màu hồng lúc thì màu xanh để sung sướng tận hưởng cảm giác mới lạ…”. (Nguyễn Nhật Ánh – Ngồi khóc trên cây)

5. Nói đến các yếu tố làm nên sức hấp dẫn của VHTN chúng ta không thể không nói đến những bài học nhân văn nhẹ nhàng và sâu lắng mà bộ phận văn học này đem lại. Có thể nói, mỗi câu chuyện, bài thơ viết cho thiếu nhi đều chứa đựng trong nó một bài học quý giá. Chẳng hạn, trẻ được giáo dục phải biết xin lỗi khi có lỗi – dù đó là lỗi cố ý hay vô tình:Vịt con vội vã đi đâuDẫm phải chân của Gà Nâu bên hè.Vịt nhớ xin lỗi bạn nghe!Chớ đừng lặng lẽ bỏ đi, bạn buồn. (Nguyễn Thị Thảo – Xin lỗi) Hay không bắt nạt bạn yếu hơn vì đó là tính xấu:“Bắt nạt là xấu lắmĐừng bắt nạt, bạn ơiBất cứ ai trên đờiĐều không cần bắt nạtTại sao không học hát? Nhảy hip hop cho hay?Thử kẻ yếu làm gìSao không trêu mù tạt?” (Nguyễn Thế Hoàng Linh – Bắt nạt)

Cũng là nói với trẻ rằng đây là điều hay, kia là lẽ phải; nên làm thế này, không nên làm thế kia, song VHTN không thể hiện theo kiểu áp đặt, giáo điều, khô khan mà thông qua nội dung câu chuyện, hoặc cách suy nghĩ cũng như hành động của các nhân vật trong tác phẩm một cách đầy tự nhiên, nhẹ nhàng và sâu lắng. Tuy nhiên, chỉ những nhà văn, nhà thơ viết cho thiếu nhi đích thực, thật sự tài năng, biết đặt mình vào vị trí của trẻ thơ, hiểu sâu sắc suy nghĩ, tâm lý của trẻ thơ mới có thể khéo léo xen lồng ý nghĩa giáo dục vào trong tác phẩm một cách tinh tế, không khiên cưỡng. Với những tác giả này, cái đích đầu tiên và quan trọng nhất trong mỗi sáng tác phải là tính thẩm mĩ. Đó là phải tạo ra được hình ảnh đẹp, sinh động; cách diễn đạt hay, trong sáng; ngôn từ giản dị, gần gũi với trẻ… Điều đó khiến trẻ thích thú. Từ sự thích thú với thơ, truyện, trẻ sẽ ngấm một cách tự nhiên với những bài học giáo dục trong tác phẩm và học theo, làm theo những gì tốt đẹp; tránh xa những suy nghĩ, hành vi hoặc việc làm không nên…

Hà Thị Kim Yến

Đề Tài: Hoạt Động Văn Hóa Của Nhà Văn Hoá Thanh Thiếu Nhi, Hot

, ZALO 0932091562 at BÁO GIÁ DV VIẾT BÀI TẠI: chúng tôi

Published on

Download luận văn thạc sĩ ngành quản lí văn hóa với đề tài: Nghiên cứu thực trạng công tác quản lý các hoạt động văn hóa của Nhà văn hoá thanh thiếu nhi Đắk Lắk, cho các bạn làm luận văn tham khảo

1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGHỆ THUẬT TW LƢƠNG THỊ VÂN QUẢN LÝ CÁC HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA CỦA NHÀ VĂN HÓA THANH THIẾU NHI ĐẮK LẮK, TỈNH ĐẮK LẮK TỐM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA Khóa 1 Tây Nguyên (2015 – 2017) Hà Nội, 2017

2. CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƢỢC HOÀN THÀNH TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƢƠNG Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Phương Thảo Phản biện 1: PGS. TS Trịnh Thị Minh Đức Trường Đại học Văn hóa Hà nội Phản biện 2: TS. Đỗ Quang Minh Trường ĐHSP Nghệ thuật Trung ương Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ tại trường ĐHSP Nghệ thuật Trung ương. Vào hồi:10 giờ 00 ngày 05 tháng 1 năm 2018 Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện trường ĐHSP Nghệ thuật Trung ương

4. 5 Nhìn chung, tất cả các công trình nói trên mặc dù khá đa dạng nhưng chưa có đề tài nào nghiên cứu sâu về Nhà văn hóa thanh thiếu nhi Đắk Lắk một cách có hệ thống vào vấn đề các hoạt động của Nhà văn hóa. Tuy nhiên chúng là những tư liệu quý giá giúp tôi thực hiện luận văn này. 3. Mục đích và nhiệm vụ 3.1. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu các vấn đề mang tính lý luận, thực tiễn và nghiên cứu thực trạng công tác quản lý các hoạt động văn hóa của Nhà văn hoá thanh thiếu nhi Đắk Lắk. Trên cơ sở đó đề xuất giải pháp tích cực nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động văn hóa tại đơn vị. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu – Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động văn hóa của tại Nhà văn hóa thanh thiếu nhi Đắk Lắk – Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý hoạt động văn hóa của Nhà văn hóa thanh thiếu nhi Đắk Lắk trong những năm gần đây. – Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng quản lý hoạt động văn hóa của đơn vị trong giai đoạn hiện nay 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác quản lý các hoạt động văn hóa của Nhà văn hóa thanh thiếu nhi Đắk Lắk. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về không gian: tại Nhà văn hóa thanh thiếu nhi Đắk Lắk, Tỉnh Đắk Lắk. Về thời gian : Tập trung nghiên cứu vấn đề trong giai đoạn từ năm 2010 – 2015. Tuy nhiên để có cái nhìn xuyên suốt, tạo nền tảng cho sự

5. 6 phân tích chuyên sâu hơn, đề tài cũng đề cập tới quãng thời gian trước năm 2010 và sau năm 2015. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu – Phương pháp phân tích tài liệu để giải quyết thỏa đáng các yêu cầu đặt ra của luận văn. – Phương pháp điền dã : tiến hành khảo sát thực địa, thu thập thông tin, tư liệu bằng cách quan sát, chụp hình để tìm hiểu thực trạng và các hoạt động văn hóa của thanh thiếu nhi tại Nhà văn hóa thanh thiếu nhi Đắk Lắk. 6. Những đóng góp của luận văn Đề tài góp phần làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn về công tác quản lý hoạt động văn hóa của Nhà văn hóa thanh thiếu nhi Đắk Lắk Đề xuất giải pháp nhằm đẩy mạnh các hoạt động văn hóa tại Nhà văn hóa thanh thiếu nhi Đắk Lắk trong thời gian tới. Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu khác. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần Mở đầu, phần kết luận, luận văn gồm 3 chương, 38 tài liệu tham khảo và phần phụ lục. Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA VÀ TỔNG QUAN VỀ NHÀ VĂN HÓA THANH THIẾU NHI ĐẮK LẮK 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Khái niệm về thiết chế và thiết chế văn hóa 1.1.1.1. Thiết chế Thiết chế được trích dẫn theo tác giả Nguyễn Hữu Thức và theo từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 4. 1.1.1.2. Thiết chế văn hóa Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 4 thiết chế văn hóa là chỉnh

6. 7 thể văn hóa hội tụ đầy đủ các yếu tố: cơ sở vật chất, bộ máy tổ chức, nhân sự, quy chế hoạt động, nguồn kinh phí, chỉ riêng ngôi nhà hoặc công trình văn hóa chưa đủ để gọi là thiết chế văn hóa. 1.1.2. Thiết chế hội Theo Từ điển Bách khoa toàn thư (tập 4 ) Thiết chế xã hội hình thành, tồn tại và phát triển là do nó đáp ứng được các nhu cầu của xã hội. Đa số xã hội bao giờ cũng có những nhu cầu cơ bản, mà việc thỏa mãn có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại của bản thân xã hội. 1.1.3. Nhà văn hóa Trích dẫn theo tác giả Nguyễn Hữu Thức trong tập tài liệu giảng dạy môn Quản lý thiết chế văn hóa. 1.1.3.1. Đặc điểm của Nhà văn hoá * Nhà văn hóa là một thiết chế văn hóa tổng hợp * Thiết chế đa chức năng- sử dụng thời gian tự do * Nhà văn hóa hoạt động theo phương thức xã hội hóa, phát huy tích cực của quần chúng * Thiết chế hoạt động thuộc loại hình sự nghiệp có thu 1.1.3.2. Chức năng của Nhà văn hóa * Chức năng giáo dục: Nhà văn hóa có chức năng giáo dục toàn diện ( trí – đức – thể mĩ ) trên tinh thần tự nguyện tham gia của quần chúng nhân dân vào các hoạt động để góp phần nâng cao hiểu biết của quần chúng trên mọi lĩnh vực. *Chức năng giao tiếp Giao tiếp là các mối quan hệ giao lưu ứng xử thông quan việc tiếp xúc giữa con người với con người. Khi đến sinh hoạt định kỳ cũng như tham gia các hoạt động của nhà văn hóa quần chúng có cơ hội gặp gỡ, giao lưu, tiếp xúc nhiều người đối tượng khác nhau.

7. 8 *Chức năng phát triển khả năng sáng tạo của nhân dân. Sáng tạo là tìm ra cái mới và không lệ thuộc vào cái đã có, sáng tạo bắt nguồn từ hiện thực của cuộc sống, qua các quá trình tư duy phối hợp biến đổi để hình thành cái mới. Qua các hoạt động của nhà văn hóa quần chúng có cơ hội thể hiện, nhà văn hóa sẽ tạo điều kiện để mỗi cá nhân có thể phát huy khả năng của mình. * Chức năng đáp ứng, nhu cầu vui chơi, giải trí Thường xuyên theo dõi, cập nhật quá trình phát triển của hệ thống thiết chế Nhà văn hóa nói chung và Nhà văn hóa thanh thiếu nhi Đắk Lắk nói riêng, các điểm vui chơi giải trí cho thiếu nhi do Đoàn, Hội, Đội quản lý. * Chức năng kinh tế Văn hóa và kinh tế có mối quan hệ biện chứng với nhau, văn hóa có ảnh hưởng tới kinh tế vì nó là chiến lược, mục tiêu để phục vụ lợi ích cho con người, không ngừng nâng cao chất lượng đời sống. Để đạt được mục tiêu đó, cần phải có sự phát triển chiều cao về kinh tế, gắn kinh tế với phát triển văn hóa. 1.1.3.3. Nhiệm vụ của Nhà văn hóa Nhà văn hóa có nhiệm vụ tổ chức các hoạt động tại chỗ như : Tuyên truyền, thông tin, cổ động, sinh hoạt Clb, Đội nhóm, tổ chức biểu diễn nghệ thuật, các lớp năng khiếu… Tổ chức các hoạt động sưu tầm, nghiên cứu bao gồm nghiên cứu nhu cầu, sở thích, thời gian nhàn rỗi. 1.1.4. Quản lý văn hóa Khái niệm Quản lý văn hóa được trích dẫn theo các tác giả Hồng Giang- Bùi Hoài Sơn cuốn sách Quản lý Văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế. Và tập tài liệu giảng dạy môn Quản lý thiết

8. 9 chế văn hóa của tác giả Nguyễn Hữu Thức. 1.1.5. Quản lý hoạt động văn hóa Được trích dẫn theo khái niệm của tác giả Phan Văn Tú trong cuốn sách Đại cương về khoa học quản lý. 1.1.6. Vai trò của hệ thống thiết chế văn hóa trong đời sống Nhà văn hoá là nơi quần chúng được phổ biến kiến thức chính trị, nâng cao tri thức, tham gia các hoạt độngvăn hoá văn nghệ, hưởng thụ những giá trị đã có do con người sáng tạo nên, bồi dưỡng năng khiếu, sở trường, được nghỉ ngơi, giải trí trong thời gian nhàn rỗi, giao lưu kết nối cộng đồng. Đó cũng chính là nhiệm vụ phát huy chức năng giáo dục của văn hóa góp phần xây dựng còn người Việt Nam phát triển toàn diện. Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam khóa XII đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng và phát triển văn hóa con người Việt Nam, nhấn mạnh công tác chỉ đạo đối với lĩnh vực văn hóa. Hệ thống thiết chế văn hóa không thể thiếu trong đời sống và xã hội, giữ vai trò nòng cốt trong các hoạt động tuyên truyền phục vụ nhiệm vụ chính trị, xã hội mà còn đáp ứng được nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ văn hóa của lực lượng quần chúng. Như vậy, việc xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa là yêu cầu thiết thực, xây dựng chiến lược, tầm nhìn cho tương lai và hoạch định kế hoạch trong những năm tới để quyết tâm thực hiện. 1.2. Tổng quan về Nhà văn hóa Thanh Thiếu Nhi Đắk Lắk 1.2.1. Khái quát về Tỉnh Đắk Lắk Đắk Lắk là tỉnh có nhiều dân tộc cùng chung sống, mỗi dân tộc có những nét đẹp văn hoá riêng. Đặc biệt là văn hoá truyền thống của các dân tộc Ê đê, M’nông, Gia rai…với những lễ hội cồng chiêng, đâm trâu, đua voi mùa xuân; kiến trúc nhà sàn, nhà Rông, các nhạc cụ lâu đời nổi tiếng như

9. 10 các bộ cồng chiêng, đàn đá, đàn T’rưng; các bản trường ca Tây Nguyên…là những sản phẩm văn hoá vật thể và phi vật thể quý giá, trong đó “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” đã được tổ chức UNESCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Tất cả các truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc tạo nên sự đa dạng, phong phú về văn hóa của Đắk Lắk. 1.2.2. Nhà văn hóa thanh thiếu nhi Đắk Lắk Nhà văn hóa thanh thiếu nhi Đắk Lắk là đơn vị trực thuộc Ban thường vụ Tỉnh Đoàn Đắk Lắk, thực hiện chức năng tuyên truyền, tham gia, xây dựng và tổ chức các chương trình do Tỉnh Đoàn đề ra. Là trung tâm văn hóa rất bổ ích, đáp ứng được nhu cầu hưởng thụ văn hóa và nâng cao văn hóa, từ những ngày đầu xây dựng Nhà văn hóa thanh thiếu nhi với rất nhiều khó khăn. Từ chỗ cơ sở vật chất còn thiếu thốn, đội ngũ cán bộ, giáo viên thiếu, không thu hút được các em đến tham gia hoạt động cho đến nay đã trở thành địa chỉ tin cậy để các em tham gia theo sở thích và nhu cầu của cá nhân mình. Mặc dù còn gặp rất nhiều khó khăn về mọi mặt như cơ sở vật chất, kinh phí, con người, nhưng đội ngũ cán bộ, viên chức, giáo viên, cộng tác viên của đơn vị đã không ngừng nỗ lực phát huy mọi thế mạnh, nguồn lực, sức trẻ và lòng nhiệt tình sôi nổi… Đây là nơi diễn ra những hoạt động nòng cốt của Nhà văn hóa thanh thiếu nhi Đắk Lắk và cũng chính từ đây các em đã được đào tạo, rèn luyện và trưởng thành nhanh chóng. Rất nhiều thành tích các em đã giành được qua các kỳ liên hoan, hội thi, hội diễn từ cấp tỉnh đến cấp khu vực và toàn quốc. Với những thành tích đã đạt được trong những năm qua sẽ là những bước đệm vững chắc giúp Nhà văn hóa thanh thiếu nhi Đắk Lắk vững

11. 12 2.2. Công tác triển khai, tổ chức thực hiện và ban hành các văn bản pháp lý 2.2.1. Triển khai các văn bản pháp lý Là đơn vị thuộc Tỉnh Đoàn tỉnh Đắk Lắk, nhà văn hóa có trách nhiệm tiếp nhận các văn bản chỉ đạo, phân công nhiệm vụ của Tỉnh và Tỉnh đoàn, văn bản đề nghị phối hợp của các ngành, thành phố, các doanh nghiệp trong tổ chức hoạt động văn hóa – thể thao, tuyên truyền… đặc biệt là các dịp lễ, Tết, kỉ niệm các sự kiện chính trị… Thông thường có các văn bản chỉ đạo từ Trung ương Đoàn, Hội đồng Đội Trung ương; Tỉnh ủy, UBND, Tỉnh Đoàn Đắk Lắk. 2.2.2. Công tác ban hành các văn bản quản lý và hướng dẫn thực hiện Các phòng, Khoa, Ban, Tổ triển khai thực hiện theo văn bản phân công nhiệm vụ, cụ thể hóa bằng các kế hoạch cho từng hoạt động. Nội dung luôn được đầu tư nghiên cứu để đa dạng, phong phú khác với hoạt động trong các nhà trường phổ thông. Nhà văn hóa thanh thiếu nhi tỉnh Đắk Lắk tiếp tục nhân rộng nhiều mô hình giáo dục mới, thông qua các hoạt động văn hóa của đơn vị, qua đó góp phần nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm, khơi dậy tinh thần xung kích, cống hiến của tuổi trẻ đối với sự nghiệp đổi mới của tỉnh nhà, của đất nước. 2.3. Các hoạt động quản lý của Nhà văn hóa thanh thiếu nhi Đắk Lắk 2.3.1. Tuyên truyền, giáo dục tư tưởng chính trị Một trong những hoạt động quan trọng của Nhà văn hóa thanh thiếu nhi là thông qua những hoạt động chính trị xã hội để tập hợp giáo dục thanh thiếu nhi về tư tưởng, đạo đức, lối sống, truyền thống cách mạng của Đảng, Bác Hồ và của dân tộc. 2.3.2. Phương pháp Đoàn – Hội – Đội

12. 13 Trong những năm qua, công tác hướng dẫn phương pháp Đoàn – Hội – Đội tại Nhà văn hóa luôn được quan tâm chú trọng bằng nhiều hình thức, phương pháp khác nhau. Nhà văn hóa thanh thiếu nhi cán bộ chuyên môn trẻ, năng động sáng tạo, nhiệt tình, trách nhiệm, có những cách làm mới, phù hợp với mọi lứa tuổi khi đến tham gia vào các chương trình. 2.3.3. Câu lạc bộ Câu lạc bộ tại nhà văn hóa thanh thiếu nhi Đắk Lắk là nơi sinh hoạt văn hóa của đối tượng thanh thiếu nhi, nên hoạt động của Câu lạc bộ phải đảm bảo nội dung chính là giáo dục đạo đức lối sống, vui chơi giải trí lành mạnh, hoàn thiện nhân cách cho lứa tuổi thanh thiếu nhi 2.3.4. Thể dục thể thao, vui chơi giải trí Hoạt động thể dục thể thao không chỉ nhằm mục đích tăng cường thể chất, mà còn rèn luyện những phẩm chất tinh thần dũng cảm, bền bỉ, sự hoạt bát, tinh thần tập thể, ý chí đồng đội. Nhà văn hóa thanh thiếu nhi tỉnh Đắk Lắk đã duy trì tốt hoạt động của khu vui chơi miễn phí dành cho thanh thiếu nhi thu hút đông đảo các em đến vui chơi giải trí. 2.3.5. Tuyên truyền cổ động Trong công tác tuyên truyền cổ động, triển lãm là hình thức giáo dục trực quan sinh động mà sâu sắc, các tổ đội thông tin tuyên truyền cổ động là lực lượng xung kích có thể đem tiếng nói của Đảng và Nhà nước để chuyển tải thông tin kết hợp với tuyên truyền miệng. 2.3.6. Văn hóa, nghệ thuật Văn hóa nghệ thuật là một trong những hoạt động đặc trưng, thế mạnh của Nhà văn hóa thanh thiếu nhi, để làm tốt vấn đề này nhà văn hóa đã tập trung vào việc nâng cao chất lượng hoạt động các Clb, Đội, nhóm,

13. 14 thường xuyên đổi mới nội dung chương trình sinh hoạt hàng tuần, tháng, quý, tạo điều kiện để các em được tham gia sinh hoạt năng khiếu theo khả năng, sở thích. 2.3.7. Bồi dưỡng, phát hiện năng khiếu Nhà văn hóa thanh thiếu Đắk Lắk thực hiện nhiệm vụ chủ yếu thiên về tổ chức tốt các hoạt động giáo dục, phát hiện năng khiếu, bồi dưỡng nhân tài. 2.3.8. Các hoạt động hội, nhân đạo từ thiện Trong những năm gần đây các hoạt động xã hội, nhân đạo, từ thiện tiếp tục được tổ chức rộng khắp và đã trở thành hoạt động có tính thường xuyên. 2.4. Đánh giá kết quả quản lý hoạt động văn hóa của Nhà văn hoá thanh thiếu nhi Đắk Lắk 2.4.1. Thành tựu Thành quả của công cuộc đổi mới đất nước đã tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của thiếu niên cũng là tạo điều kiện thuận lợi về các điều kiện cơ sở vật chất, con người gia đình, tổ chức Đoàn, Đội, xã hội, đẩy mạnh các hoạt động bồi dưỡng năng khiếu cho thiếu nhi. 2.4.2. Hạn chế Hiện nay các văn bản pháp luật về thiết chế văn hóa còn thiếu đồng bộ, và tính thực tiễn chính sách khuyến khích và định hướng đầu tư xã hội cho phát triển thiết chế còn thiếu và chưa rõ. Cần nâng cao nhận thức về vai trò quan trọng của văn hóa trong cộng đồng người dân. Việc huy động vốn các nguồn vốn xã hội đầu tư cho văn hóa còn hạn chế do chưa phát huy được vai trò của cộng đồng từ đoàn thể, người dân.

15. 16 thanh thiếu nhi được tham gia học tập, vui chơi giải trí, bồi dưỡng và phát triển năng khiếu, nuôi dưỡng ước mơ. 3.1.2. Nhiệm vụ Thường xuyên tổ chức các hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học, hướng nghiệp, vui chơi giải trí và các hình thức câu lạc bộ theo sở thích và ứng nhu cầu được bồi dưỡng năng khiếu, rèn luyện sức khỏe, thể chất, thẩm m , đáp ứng yêu cầu hợp lý của đông đảo lực lượng thanh thiếu nhi. Sử dụng và phát huy mọi năng lực, điều kiện của Nhà văn hóa thanh thiếu nhi và mọi nguồn khả năng khác để tổ chức các hoạt động phục vụ cho công tác giáo dục thanh thiếu nhi một cách thực tiễn. Tổ chức một số hoạt động , sự kiện khác theo yêu cầu của cấp trên giao phó. 3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng quản lý hoạt động văn hóa của Nhà văn hóa thanh thiếu nhi Đắk Lắk 3.2.1. Nâng cao nhận thức Nhận thức là một chức năng đầu tiên trong bất cứ các hoạt động văn hóa, văn hóa là tổng hợp các nhận thức hiểu biết thế giới xung quanh và phát huy tính hiệu quả trong các hoạt động văn hóa. Với nhận thức và tư duy hiện đại phải thay đổi nội dung công việc một cách triệt để, tăng hàm lượng tri thức, chất xám cho từng công việc, từng nội dung cụ thể, trên tinh thần kế thừa và phát huy các giá trị đã có, nhưng không lặp lại cái cũ đã làm một cách máy móc, mà phải sắp xếp có khoa học, hiệu quả hơn cái cũ đã làm trong điều kiện và hoàn cảnh cho phép thực thi. Để nâng cao công tác quản lý cũng như nhận thức về vai trò của hoạt động nhà văn hóa thông qua những hoạt động này thúc đẩy sự hoàn thiện nhân cách, lối sống lành mạnh của các em thiếu nhi trên địa bàn.

16. 17 Với nhiều cách thức được thực hiện một cách đồng bộ sẽ tác động đến tâm lý, nhận thức của các em một cách có hiệu quả. Và góp phần hạn chế những mặt tiêu cực, phát huy những mặt tích cực để công tác quản lý Nhà văn hóa thực sự có hiệu quả, đem lại lợi ích thiết thực cho cộng đồng. 3.2.2. Cơ chế, chính sách Về cơ chế, cần có sự đổi mới trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, công tác quản lý hoạt động Nhà văn hóa thanh thiếu nhi để có được những thay đổi cơ bản, toàn diện nhằm đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn hóa nghệ thuật của thiếu nhi trên địa bàn tỉnh. Ưu tiên khuyến khích đầu tư và chính sách ưu đãi cho những lĩnh vực then chốt, có vai trò quan trọng trong việc định hướng chính trị, tư tưởng, đạo đức, thẩm m và giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đối với những hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, hình thức dễ bị lợi dụng, dễ nảy sinh tiêu cực nên cần quy hoạch, quản lý chặt chẽ, quy định các điều kiện tiên quyết để đảm bảo sự phát triển đúng theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Đổi mới cơ chế và đầu tư toàn diện cho Nhà văn hóa để phát huy sự nghiệp văn hóa của tỉnh, đáp ứng, thúc đẩy nhu cầu tham gia và thưởng thức văn hóa của người dân. Tiếp tục nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực văn hóa của tỉnh, trong đó chú trọng phát huy thế mạnh của các thiết chế văn hóa, trong đó có Nhà văn hóa thanh thiếu nhi Tỉnh Đắk Lắk 3.2.3. Tăng cường nguồn nhân lực đào tạo và sử dụng cán bộ Đảng và Nhà nước đã quan tâm đến công tác đào tạo nguồn nhân lực cho thiết chế văn hóa, đó là những lực lượng nòng cốt góp phần xây dựng các hoạt động văn hóa phát triển và đạt hiệu quả tối ưu nhất. Chính sách sử dụng nguồn nhân lực cần được quan tâm một cách hợp lý, tạo động lực cho nguồn nhân lực phát huy được tính năng động, sáng

17. 18 tạo, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, quản lý. Đáp ứng được những nhu cầu của quần chúng nhân dân để phát triển sự nghiệp trong lĩnh vực văn hóa. 3.2.4. Đầu tư kinh phí và cơ sở vật chất kỹ thuật cho Nhà văn hóa Nhà văn hóa thanh thiếu nhi đã sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất được giao, đáp ứng được nhu cầu phục vụ tổ chức các sự kiện của tỉnh, của đoàn và của cơ quan, đơn vị. Trong thời gian qua để sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất của cơ quan, phục vụ tốt hơn cho các hoạt động, cán bộ Nhà văn hóa thanh thiếu nhi đã tự nghiên cứu, học hỏi k thuật, sáng tạo, linh hoạt trong chuyên môn nhằm tăng nguồn thu và phục vụ tốt hoạt động chính trị được giao. Nhà văn hóa thanh thiếu nhi Đắk Lắk đặc thù thường xuyên tổ chức và phục vụ các hoạt động mang tính chính trị, các hoạt động mang tính phong trào và các hoạt động mang tính sự kiện, đặc biệt trong những năm qua được sự quan tâm của tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh và thường trực tỉnh đoàn cần bố trí hệ thống âm thanh và dàn sân khấu với công suất lớn, hiện đại hơn để phục vụ các hoạt động. 3.2.5. Đẩy mạnh hoạt động hội hóa trên lĩnh vực văn hóa nghệ thuật Xã hội hóa là đa dạng các hình thức hoạt động trong các lĩnh vực văn hóa xã hội. Bên cạnh việc củng cố các tổ chức của Nhà nước, phải phát triển rộng rãi các hình thức hoạt động được tiến hành trong khuôn khổ chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, mở rộng các hoạt động để em thiếu nhi được tham gia một cách chủ động và bình bằng trong các hoạt động. Trong hoàn cảnh hiện nay Nhà văn hóa tăng cường xã hội hóa các loại hình nghiệp vụ, để tổ chức hoạt động văn hóa cần phát huy các thiết chế văn hóa cổ truyền. Tận dụng sự đóng góp công sức, tiền của tập thể, đơn vị cá nhân để phát triển sự nghiệp văn hóa, kể cả văn hóa tư nhân.

18. 19 Đảng và Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng thời huy động tiềm năng, nguồn lực của mọi lực lượng, mọi tầng lớp xã hội cùng tham gia, sáng tạo và cung cấp, phổ biến tạo điều kiện để các hoạt động này phát triển một cách hiệu quả nhất . 3.2.6. Tăng cường kiểm tra, giám sát Ban lãnh đạo Nhà văn hóa thanh thiếu nhi Đắk Lắk cần thường xuyên kiểm tra, theo dõi, đánh giá kết quả hoạt động của từng bộ phận. Đồng thời cũng cần có những đợt khảo sát, lấy ý kiến của thanh thiếu nhi tham gia, cũng như lấy ý kiến về những hoạt động mà phụ huynh mong muốn để có cái nhìn toàn diện, nhằm có những giải pháp điều chỉnh kịp thời, tránh để việc tổ chức những hoạt động hình thức, không hữu ích. Thông qua hoạt động này để đánh giá, rút kinh nghiệm định kỳ và có khen thưởng kịp thời với những cá nhân có thành tích xuất sắc. Việc kiểm tra, giám sát các hoạt động văn hóa cần được thực hiện thường xuyên, rõ ràng và minh bạch để đảm bảo sự vận hành của các hoạt động văn hóa được diễn ra đúng tiến độ và đạt kết quả hiệu quả nhất. 3.3. Các kiến nghị Để thực hiện tốt vai trò quản lý các hoạt động văn hóa nhằm xây dựng, củng cố về mặt hệ thống thiết chế nhà văn hóa thanh thiếu nhi tác giả xin đưa ra một số kiến nghị sau : Đối với Trung ương, Nhà nước cần tạo được một hành lang pháp lý đầy đủ có hệ thống từ Trung ương xuống địa phương trong công tác đầu tư xây dựng, quản lý và sử dụng các cơ sở vui chơi, giải trí cho trẻ em. Trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế, xã hội của cả nước nói chung và của Đắk Lắk nói riêng đa phần chưa tính đến quy hoạch cơ sở văn hóa vui chơi, giải trí cho trẻ em.

19. 20 Đối với Tỉnh, giao cho Nhà văn hóa thanh thiếu nhi tỉnh Đắk Lắk được chủ động tổ chức thi tuyển cán bộ viên chức để tuyển chọn những cán bộ có năng lực chuyên môn đáp ứng được yêu cầu công việc thực tế của đơn vị. Tăng cường việc cử cán bộ tham gia các lớp tập huấn để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn do Trung ương tổ chức. Mạnh dạn trong việc thực hiện các phương án xã hội hóa tổ chức các hoạt động về Văn hóa nghệ thuật và thể dục thể thao. Tăng cường tổ chức các hoạt động ngoại khóa cho các em đến tham gia sinh hoạt và học tập tại Nhà văn hóa Thanh thiếu nhi. Tiểu kết Xây dựng và hoàn thiệt thiết chế quản lý văn hóa có vai trò quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả quản lý. Sự thống nhất giữa các quan điểm, đường lối, chủ trương, chiến lược phát triển của lĩnh vực văn hóa, xây dựng và hoàn thiện các thiết chế văn hóa gắn với việc đẩy mạnh cải cách hành chính theo xu hướng hiện đại, năng động và hiệu quả. Đây là việc có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả của hoạt động văn hóa của Nhà văn hóa thanh thiếu nhi Đắk Lắk hiện nay. Qua quá trình tiến hành xây dựng đề tài và khảo sát hoạt động thực tế tại Nhà văn hóa thanh thiếu nhi Đắk Lắk học viên đã đề xuất 6 nhóm giải pháp đồng bộ trong công tác quản lý các hoạt động văn hóa nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của Nhà văn hóa thanh thiếu nhi để tạo nên những thuận lợi tốt nhất cho hoạt động văn hóa dành cho các em thiếu nhi. Do đó việc nghiên cứu tìm ra một mô hình tổ chức và nội dung hoạt động phù hợp, hiệu quả cho nhà văn hóa thanh thiếu nhi Đắk Lắk càng trở nên thực sự cần thiết

20. 21 KẾT LUẬN Tóm lại, Nhà văn hóa thanh thiếu nhi Đắk Lắk là một thiết chế có vai trò quan trọng việc giáo dục ngoài nhà trường cho các em thiếu nhi, góp phần không nhỏ cho việc xây dựng, nuôi dưỡng thế hệ tương lai của tỉnh Đắk Lắk. Đáp ứng nhu cầu sáng tạo, học tập, trao đổi, hưởng thụ, hoạt động văn hóa, luyện tập thể dục thể thao của các em thiếu nhi. Xây dựng cơ sở vật chất của hệ thống nhà văn hóa tạo điều kiện thuận lợi để thanh thiếu nhi Đắk Lắk thường xuyên đến sinh hoạt, trao đổi thông tin, rèn luyện thân thể để có sức khỏe học tập thắt chặt thêm tình đoàn kết giữa bạn bè. Những điều này sẽ không có được nếu hệ thống nhà văn hóa thiếu thốn, lạc hậu, yếu kém. Thiết chế nhà văn hóa giữ vai trò nòng cốt trong tổ chức các hoạt động tuyên truyền giáo dục tư tưởng chính trị , công cụ trực tiếp và đắc lực của Tỉnh Đoàn, Sở, Ban, ngành của Tỉnh Đắk Lắk thực hiện các nhiệm vụ giáo dục chính trị. Các quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước có đến được với thiếu nhi hay không một phần quan trọng là nhờ ở hệ thống thiết chế văn hóa thanh thiếu nhi này. Đây cũng là nơi để hoàn thiện nhân cách với hoạt động giáo dục ngoài nhà trường đối với các em thiếu nhi tránh những luận điểm sai trái, chống phá cách mạng, chống phá Đảng và Nhà nước… trong tình hình Đắk Lắk vẫn phải cảnh giác, đấu tranh với âm mưu “chống phá Nhà nước” của các thế lực thù địch mà thực tế đã từng xảy ra tại địa bàn Tỉnh. Cần xây dựng và hoàn thiện các thiết chế văn hóa, trong đó có hệ thống Nhà văn hóa thanh thiếu nhi là góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã đề ra. Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và

21. 22 phát triển văn hóa, con người Việt nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Bản sắc văn hóa này chỉ có thể hiện hữu, phát triển mạnh mẽ và trường tồn trong điều kiện thiết chế văn hóa đầy đủ, vững mạnh, hoạt động hiệu quả. Vai trò của hệ thống nhà văn hóa không thể không kể đến sự cần thiết, tầm quan trọng của công tác quản lý hoạt động văn hóa. Công tác quản lý phải được tiến hành trên tinh thần dân chủ, xã hội hóa, lấy tư tưởng m học Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam làm kim chỉ nam. Lực lượng cán bộ, cơ quan quản lý hoạt động nhà văn hóa giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có k năng, có đạo đức sẽ giúp định hướng và tổ chức các hoạt động văn hóa một cách sáng tạo, hiệu quả; đồng thời, đề xuất các cơ quan cấp trên giúp đỡ, tạo điều kiện phát huy tốt vai trò của các công trình thiết chế văn hóa trên phạm vi cả nước. Thiết chế Nhà văn hóa luôn được nhấn mạnh là một phần không thể thiếu trong hệ thống các thiết chế văn hóa, nó giữ vai trò quan trong trọng việc nâng cao tri thức, thỏa mãn nhu cầu của nhân dân. Tuy nhiên, công tác quản lý khai thác thiết chế này vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế thể hiện qua các tình trạng đang còn tồn tại. Trong bối cảnh hiện nay chúng ta đã, đang và sẽ thực hiện công cuộc đổi mới đồng bộ và toàn diện, đối với văn hóa vừa là nhân tố tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,vừa góp phần thay đổi cách nghĩ, cách làm, cách sáng tạo. Trong quá trình giao lưu văn hóa, chúng ta cần mạnh dạn tiếp thu, hòa nhập nhưng không hòa tan đi bản sắc của dân tộc mình. Để hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của hệ thống thiết chế nhà văn hóa nhằm thoả mãn nhu cầu vui chơi, giải trí của thiếu nhi trong thời kỳ mới

22. 23 đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tại cơ sở. Các cấp quản lý phải chú trọng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tổ chức quản lý nhà văn hóa, quan tâm đầu tư kinh phí xây dựng, tổ chức hoạt động, trong đó có sự đầu tư của Nhà nước và các Sở, Ban ngành quan tâm, tạo điều kiện, sự đóng góp của doanh nghiệp trên địa bàn Tỉnh, cần quy hoạch, đào tạo và sử dụng tốt đội ngũ cán bộ; hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, quy chế đối với hoạt động Nhà văn hóa. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện, khắc phục những sai lệch, tiêu cực, có biện pháp giải quyết hợp lý và động viên, khen thưởng kịp thời đối với những cá nhân, tập thể có thành tích tốt trong công tác văn hóa. Việc nghiên cứu tìm ra một mô hình tổ chức và nội dung hoạt động phù hợp, hiệu quả cho nhà văn hóa thanh thiếu nhi Đắk Lắk càng trở nên thực sự cần thiết. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về văn hóa và nhiệm vụ phát triển văn hóa gắn liền với phát triển kinh tế, ổn định chính trị, an sinh xã hội, phát huy hiệu quả của các thiết chế Nhà văn hóa, góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho đối tượng đặc biệt thiếu nhi nói riêng và của nhân dân trên địa bàn Tỉnh Đắk Lắk nói chung.

Khai Giảng Khóa Học Đào Tạo Liên Tục Phục Hồi Chức Năng Nhi Khoa

Sáng ngày 03/7/2017, Bệnh viện Phục hồi chức năng tổ chức khai giảng khoá đào tạo liên tục về phục hồi chức năng Nhi Khoa cho gần 20 học viên là cán bộ của các bệnh viện đa khoa, chuyên khoa và trung tâm Y tế quận, huyện, trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Thực hiện nhiệm vụ xây dựng phát triển và củng cố kiên thức chuyên ngành cho mạng lưới PHCN trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đào tạo bác sĩ, kỹ thuật viên và điều dưỡng chuyên khoa phục hồi chức năng, nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công tác PHCN trên địa bàn thành phố. Ngày 3 tháng 7 năm 2017 Bệnh viện phục hồi chức năng kết hợp với bộ môn Phục hồi chức năng trường Đại học Y Hà Nội tổ chức khai giảng khóa đào tạo liên tục chuyên ngành Phục hồi chức năng Nhi khoa cho 20 học viên là cán bộ các bệnh viện đa khoa, chuyên khoa và trung tâm Y tế Quận/Huyện của Hà Nội.

Phát biểu khai giảng tại khoá học, chúng tôi Phạm Văn Minh, Giám đốc bệnh viện Phục hồi chức năng, Trưởng bộ môn Phục hồi chức năng Trường Đại học Y Hà Nội đã khẳng định vai trò và tầm quan trọng của điều trị Phục hồi chức năng trong các bệnh viện nói chung và Phục hồi chức năng Nhi Khoa nói riêng. Đồng thời nhấn mạnh tới hiệu quả của việc gắn kết chặt chẽ phục hồi chức năng và công tác phòng bệnh, điều trị bệnh, chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân tại các cơ sở mạng lưới và cộng đồng. chúng tôi Phạm Văn Minh mong muốn sau khóa đào tạo này, các học viên sẽ được trang bị, bổ sung đầy đủ kiến thức Phục hồi chức năng Nhi khoa, phát hiện sớm can thiệp sớm trẻ chậm phát triển tinh thần, trẻ tự kỷ, trẻ bại não, tiếp cận được các phương pháp can thiệp điều trị phục hồi chức năng cho trẻ khuyết tật, đặc biệt là kỹ thuật phục hồi chức năng rối loạn nuốt ở trẻ bại não.

Kết thúc khoá học, các học viên sẽ được Bệnh viện Phục hồi chức năng cấp chứng chỉ đào tạo liên tục về Phục hồi chức năng Nhi