Chức Năng Phản Ánh Hiện Thực Của Văn Học / Top 7 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 4/2023 # Top View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Văn Học Phản Ánh Hiện Thực

Nghiên cứu – Phê bình – Trao đổi

Về vấn đề văn học phản ánh hiện thực là bài thứ hai trong Tuyển tập lý luận phê bình của ông Lê Ngọc Trà (viết tháng 3-1988). Có thể đó là một điểm nóng trong thời kỳ đầu đổi mới. Tuy vậy, hôm nay đọc lại có thể bình tĩnh nhận ra những điều chưa được thuyết phục trong các luận điểm ở bài.

Ông bắt đầu bằng nhận xét:

Từ mấy chục năm nay, không hiểu chính xác bắt đầu từ lúc nào, chúng ta luôn nghe nhắc đi nhắc lại mệnh đề: Văn học là sự phản ánh hiện thực, nhiệm vụ chủ yếu của văn học là phản ánh hiện thực, vinh dự lớn lao nhất của nhà văn là phản ánh cho được đời sống chiến đấu sản xuất của nhân dân.

Sau nhiều trang phân tích hệ quả và nguyên nhân của hiện tượng trên, ông bắt đầu trình bày quan niệm “đổi mới” của mình, tập trung vào hai luận điểm sau:

+ Văn học không đơn thuần là phản ánh hiện thực mà là sự nghiền ngẫm về hiện thực.

+ Văn học cần phải nói thật và nói sự thật (đầy đủ).

Rất tiếc ở cả hai luận điểm đều “có vấn đề” hoặc ở tính lôgích của luận điểm hoặc ở tính thực tiễn của nó.

Ở luận điểm thứ nhất, tính lôgích bị vi phạm. Ông Lê Ngọc Trà viết:

Trên bình diện lý luận văn nghệ (khác với bình diện lý luận phản ánh) văn học trước hết không phản ánh hiện thực mà là sự nghiền ngẫm về hiện thực (LXM nhấn mạnh). Tác phẩm nghệ thuật thể hiện cách nhìn của nhà văn về cuộc sống, sự khao khát công lý xã hội (…) Văn học chủ yếu không phải là ghi chép, mô tả hiện thực mà là hành động tự nhận thức của nhà văn (trg.31).

Sao có thể đối lập việc phản ánh hiện thực với việc “nghiền ngẫm” về nó? Không “nghiền ngẫm” thì “phản ánh” sao được? Mà không “phản ánh” thì “nghiền ngẫm” trên cơ sở nào! Nhà văn không phải trẻ nhỏ đang học miêu tả, chỉ cốt nói cho được đúng các đặc điểm bề ngoài của sự vật. Mà ngay với các trẻ nhỏ, thầy cô cũng hướng dẫn phải so sánh tưởng tượng đánh giá khi quan sát sự vật. Con mắt nhà văn cũng không phải là ống kính máy ảnh, chỉ cốt chụp lấy khoảnh khắc có thật của cảnh. Và ngay như khi sử dụng cái ống kính đó, nhà nhiếp ảnh cũng phải chọn góc nhìn, độ chiếu sáng và các đối chọi sáng tối ở cảnh và cả thần thái của cảnh, nhất là ảnh chân dung. Vậy thì cái gọi là “nghiền ngẫm” khi phản ánh là việc đương nhiên nhà văn phải làm, dù cho có quan niệm như ông Lê Ngọc Trà Nghiền ngẫm là xem xét, đánh giá các sự kiện, hành động trong nhiều chiều khác nhau, trong mối liên hệ với quá khứ và tương lai, không chỉ từ góc độ trước mắt mà còn của lâu dài, không phải về phương diện chính trị mà còn về phương diện nhân sinh, đạo đức, thẩm mĩ (trg.17-18).

Ở luận điểm thứ hai, tác giả nêu ra luận điểm:

Trong cuộc sống cái tốt và cái xấu, cái được và cái mất tồn tại cạnh nhau gắn chặt với nhau, vì vậy nếu chỉ nói cái tốt hoặc cái được là chỉ nói một phần sự thật (LXM nhấn mạnh) (trg.35).

Tác giả phê phán việc không nói đến cái xấu, cần quan niệm rằng miêu tả cái xấu để người ta nhận diện nó, chống lại nó.

Nói như thế là đúng với lý thuyết, không ai cãi được. Nhưng phải chăng nói thế là phớt lờ cái thực tế khắc nghiệt của lịch sử. Cho đến cuối những năm 80 có điều kiện thực hiện đổi mới xã hội ta ít ra cũng đã trải 40 năm phải cầm súng thực hiện hai cuộc chiến tranh giữ nước đòi hỏi mọi người trong đó có các nhà văn phải chịu gian khổ hi sinh. Tiếc rằng trong gần 10 năm hòa bình tương đối, chúng ta rơi vào trì trệ, duy trì quá lâu cách quản lý bao cấp từ thời kháng chiến. Xã hội và Văn học có nhu cầu đổi mới. Cuộc đấu tranh tư tưởng này không thể không có những phê phán hợp lý sai lầm ấy. Nhưng từ đó đi đến phê phán tràn lan lại là không đúng.

Trong chuyện “nói tất cả sự thật” cũng là như vậy. Có những thứ sự thật thuộc bí mật quân sự không được phép tiết lộ. Có những thứ hy sinh mất mát thậm chí thất bại nặng nề nếu nói ra đầy đủ sẽ ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của người cầm súng. Với ý thức công dân, các nhà văn có thể làm việc không có lợi cho cuộc chiến đấu chung như thế?

Lại phải nói thêm về việc nói đến cái xấu hôm nay: Rất đúng ý kiến của ông Lê Ngọc Trà nói:

Không nên xem hễ nói đến cái xấu là “bôi xấu”, “bôi đen”. Hãy để cho nhà văn nói thật về cái xấu, cái ác trong xã hội và bằng cách đó hỗ trợ cho cuộc đấu tranh không ngang sức giữa thiện và ác bởi vì trong đời cái đẹp thì mong manh dễ vỡ, lòng tốt thì vụng dại ngây thơ, còn cái ác cái đểu cáng thì dạn dĩ, liều lĩnh thông minh – phải nham hiểm và khôn ngoan thế nào mới có thể ác và xấu được!

Tất nhiên có vấn đề lập trường xã hội – thẩm mỹ của nhà văn. Có vấn đề thái độ của nhà văn. Phải “đứng cao hơn” cái xấu, cái ác. Không thể hùa theo các cái nhu cầu không chính đáng của bản năng, thậm chí vuốt ve, phỉnh nịnh, tán dương nó như có nhà văn đã làm một cách “say sưa”!

Đến đây xin khép lại bài trao đổi. Mong được nghe phản hồi từ tác giả và quí độc giả quan tâm. 

Lê Xuân MậuTuần Báo Văn Nghệ chúng tôi số 398

Thực Hiện Chức Năng Giám Sát Và Phản Biện Xã Hội Của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam Hiện Nay

Giám sát và phản biện xã hội là yêu cầu khách quan, mang tính phổ biến trong việc tổ chức và vận hành quyền lực chính trị của các nhà nước dân chủ. Nó là một trong những bộ phận cấu thành hệ thống kiểm soát quyền lực nhằm khắc phục xu hướng lạm quyền, tha hóa quyền lực nhà nước và là một phần tất yếu của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền và thực thi dân chủ.

Hoạt động giám sát ở nước ta, cho đến nay, về thực chất, chủ yếu nằm trong hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước mà cụ thể là của Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp. Hoạt động này cùng với hoạt động kiểm tra của Đảng, hoạt động thanh tra của chính quyền làm thành hệ thống kiểm soát quyền lực từ “bên trong” hệ thống chính trị. Hoạt động giám sát và phản biện xã hội tuy đã được các văn kiện của Đảng và pháp luật của Nhà nước quy định, nhưng nhìn chung chưa phát huy tác dụng góp phần kiểm soát quyền lực. Đây là một trong những lý do chủ yếu khiến cho nền chính trị ở nước ta tồn tại dai dẳng nhiều vấn đề bức xúc như nạn tham nhũng, tệ quan liêu cửa quyền của các cơ quan và công chức hành chính, tình trạng lãng phí ngân sách và tài nguyên quốc gia, tình trạng vi phạm dân chủ… Tình trạng này đặt ra yêu cầu cần tiếp tục nghiên cứu hệ thống kiểm soát quyền lực trong đó có vấn đề giám sát và phản biện xã hội.

Hệ thống giám sát và phản biện xã hội ở nước ta gồm nhiều chủ thể, trong đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò quan trọng đặc biệt. Hoạt động giám sát của Mặt trận và các đoàn thể được ghi nhận từ Hiến pháp năm 1992 (bổ sung, sửa đổi năm 2001), sau đó là Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1999) và trong nhiều văn bản pháp luật khác. Cho đến nay, nhìn chung hoạt động này vẫn rất hạn chế về hiệu quả, thậm chí có nhiều ý kiến cho rằng nó còn mang tính hình thức, chưa đi vào thực chất và là nội dung yếu nhất trong phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Mặt trận còn tỏ ra lúng túng về nội dung, phương pháp thực hiện, dẫn đến hiệu quả rất hạn chế, chưa ngang tầm vị trí pháp lý – chính trị của mình.

Hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là công cụ kiểm soát quyền lực của nhân dân. Thực hiện tốt hoạt động giám sát và phản biện xã hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sẽ góp phần vào việc giải quyết nhiều vấn đề bức xúc vi phạm quyền lực của nhân dân hiện nay. Giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội mà Nghị quyết Đại hội X của Đảng nêu ra “là nhiệm vụ mới, rất quan trọng và nhạy cảm, cần được nghiên cứu thận trọng và tổ chức triển khai có hiệu quả” như Nhận định của Bộ Chính trị tại Thông báo số 73, ngày 10-5-2007.

Để giúp bạn đọc hiểu thêm về hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật xuất bản cuốn sách Thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay của TS. Nguyễn Thọ Ánh.

Nội dung cuốn sách gồm 3 chương:

Chương I: Giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Một số vấn đề lý luận

Chương II: Thực trạng và những vấn đề thực tiễn đang đặt ra trong quá trình thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay

Chương III: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Cuốn sách khẳng định hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là đòi hỏi cấp bách và tất yếu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

Chức Năng Của Văn Học

CHỨC NĂNG CỦA VĂN HỌC I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ CHỨC NĂNG CỦA VĂN HỌC:

Là một hình thái xã hội thuộc thượng tầng kiến trúc, cũng như bất kỳ một hình thái ý thức nào khác văn chương nghệ thuật có tác dụng tích cực trở lại đối với toàn bộ đời sống xã hội. Nhưng văn chương lại là một hình thái ý thức xã hội đặc thù vì vậy nó tác động tới xã hội theo phương thức riêng của mình, mà không một hình thái ý thức nào có thể thay thế được. Phần việc đặc thù mà văn chương đảm nhiệm đối với đời sống tinh thần của con người, cái suy đến cùng quyết định giá trị xã hội không thể thay thế được của văn chương, đó là chức năng của nó. Chỉ có thông qua chức năng của mình, văn chương mới phát huy được tác dụng tích cực của mình.

Khái niệm chức năng của văn chương là khái niệm dùng để xác định ý nghĩa và giá trị của văn chương đối với đời sống xã hội. Muốn thấu hiểu chức năng của văn chương, hay nói cách khác là, muốn thấy rõ ý nghĩa, giá trị tác dụng của văn chương thì chỉ có đặt nó trong mối liên hệ mật thiết với toàn bộ cơ cấu đời sống xã hội, với đối tượng phản ánh, với đời sống tinh thần phong phú của con người. Có như thế mới tránh được thái độ hạ thấp văn chương, xem văn chương là trò chơi chữ, là công việc nhàn rỗi, là trò mua vui giải trí tầm thường.

II. CÁC CHỨC NĂNG CHỦ YẾU.

Văn chương là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội. Luận điểm đó của mĩ học Mác – Lênin có một ý nghĩa quan trọng trong việc xác định giá trị của văn chương nghệ thuật. Trước hết là giá trị nhận thức. Văn chương phát sinh và phát triển từ lâu trong đời sống xã hội loài người, nhưng không phải ai cũng thấy được giá trị nhận thức của nó.

Maritain nhà triết học người Pháp đã viết: “Nếu nghệ thuật là một phương tiện để nhận thức, thì rõ ràng rằng nó thấp hơn nhiều so với hình học”

Kayser, nhà lí luận văn học theo chủ nghĩa cấu trúc viết: “Tác phẩm văn học sống và phát sinh không phải là hồi quang của một cái gì khác mà là một cấu trúc ngôn ngữ khép kín”. Hoặc quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật” của mĩ học duy tâm phương Ðông, Tây cũng là thứ không thừa nhận giá trị nhận thức của văn chương.

Ngược hẳn với những quan điểm duy tâm đó, mĩ học Marx – Lénine cho nghệ thuật là phương tiện Mácnh liệt mà con người dùng để nhận thức thế giới.

Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác luôn thấy rõ và nhấn mạnh ý nghĩa nhận thức cả văn học nghệ thuật. Mác và Ăngghen đã nhiều lần nêu rõ ý nghĩa nhận thức của văn chương. Về bộ tiểu thuyết Tấn trò đời của Balzac, bộ bách khoa toàn thư về cuộc sống của xã hội Pháp trong nửa đầu thế kỷ XIX, Ăngghen viết: “Balzac mô tả toàn bộ lịch sử xã hội Pháp, trong đó ngay cả những chi tiết kinh tế (thí dụ như việc phân phối lại quyền tư hữu thực tế về quyền tư hữu cá nhân sau cách mạng) tôi đã học tập được nhiều hơn là tất cả các sách của các nhà sử học, các nhà kinh tế học, các nhà thống kê chuyên nghiệp thì ấy cộng chung lại.”[1]

Cũng như C. Mác và F. Aêng ghen, Lênin đánh giá cao khả năng hiểu biết, khám phá, sáng tạo của văn học. Một ví dụ tiêu biểu là người đã đánh giá rất cao L. Tolstoi ở khả năng nhận thức và phản ánh đời sống xã hội qua tác phẩm của ông. Người xem “Tolstoi là tấm gương phản chiếu cách mạng Nga.”[1] Phạm Văn Ðồng cũng đã từng phát biểu rất chí lí rằng: “Văn học nghệ thuật là công cụ để hiểu biết. Khám phá, sáng tạo lại thực tại xã hội”. Văn chương nghệ thuật có chức năng nhận thức cuộc sống. Nhưng vì sao văn chương nghệ thuật khác các hình thức nhận thức khác?

C. Mác nói: “Ý thức con người chẳng qua là tồn tại được ý thức”. Ý thức xã hội là phản ánh tồn tại xã hội. Sự phản ánh đó có thể đúng hay méo mó lệch lạc nhưng muốn hay không thì những ý niệm, khái niệm, quan niệm có được trong đầu óc con người là bắt nguồn từ hiện thực. Văn chương là một hình thái ý thức, cho nên bất kỳ một hình thái ý thức nào khác nó có khả năng phản ánh tồn tại xã hội. Nhận thức con người chẳng qua là sự phản ánh thực tại vào đầu óc con người mà thôi. Vì vậy văn học có chức năng nhận thức hiện thực.

Sáng tạo văn chương nghệ thuật trước hết là một hành động nhận thức (tức là sự hiểu biết) nhận thức về sự vật, về con người, về đời sống xã hội và về cả chính bản thân mình nữa. Muốn sáng tạo trước hết phải nhận thức, phải hiểu biết. Bản thân sự nhận thức không phải là một cái gì bẩm sinh hay huyền bí, nó có nguồn gốc từ thực tiễn, từ trong lao động sản xuất, từ trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên, xã hội của con người. Không hiểu biết cuộc sống thì cũng có nghĩa là không thể nhận thức và do đó không thể có văn chương nghệ thuật. Nhưng nhận thức không phải chỉ đơn thuần là hiểu biết theo nghĩa sát sạt của từ này, mà nó phải tiến lên cấp độ cao hơn là “khám phá” tức là phát hiện ra những mặt nào, yếu tố nào bản chất, là quy luật trong sự phức tạp, muôn màu muôn vẻ của hiện thực. Hiện thực là muôn màu, muôn vẻ, đa tạp, cái ngẫu nhiên và cái tất nhiên tồn tại lẫn lộn, nhiều khi cái bản chất, cái quy luật lại biểu hiện ra dưới hình thức cái ngẫu nhiên cái tạm thời, cái không bản chất. Văn chương nhận thức cuộc sống là phải luôn luôn tìm ra được cái quy luật của đời sống. Nếu không làm được điều đó thì ý nghĩa nhận thức của văn chương chỉ dừng lại ở hiểu biết đơn giản, máy móc và bên ngoài của hiện thực mà thôi. Lại nữa, văn chương không chỉ nhận thức để mà nhận thức, hiểu biết để mà hiểu biết mà là để sáng tạo ra một công cụ nhận thức mới cho con người. Ðó là tác phẩm văn chương. Cho nên, ngoài việc hiểu biết sâu sắc, rộng rãi về thế giới, văn chương còn phải khám phá ra phát hiện ra bản chất quy luật của thế giới. “Sáng tạo” là một yêu cầu cực kỳ quan trọng của chức năng nhận thức của văn chương. Lênin nói: “Ý thức con người không chỉ phản ánh thế giới khách quan mà còn sáng tạo ra thế giới khách quan nữa”. Sáng tạo là yêu cầu của mọi hình thức nhận thức của con người. Nhận thức của con người không phải là sự phản ánh thế giới một cách thụ động, máy móc mà là một sự sáng tạo lại một hiện thực mới cao hơn, hiện thực mà nhà văn đã nhận thức được. Và tác phẩm văn chương thực sự là một công cụ nhận thức khi nhà văn có sự sáng tạo đó. Tác phẩm văn chương sẽ hoàn thành sứ mạng là công cụ nhận thức khi người đọc tiếp xúc với nó không phải là tiếp xúc với cái thế giới mà mình đã nhận thấy ở ngoài đời mà tiếp xúc với thế giới mới hợp lí hơn, đáng sống hơn, nên có hơn.

Nói văn chương nghệ thuật là một hình thái ý thức cũng có nghĩa là nói tới chức năng nhận thức đặc thù – văn chương nghệ thuật trong toàn bộ hệ thống ý thức của con người. Và cũng có nghĩa là khẳng định tính chất khoa học của văn chương. “Văn học là một khoa học” , tính khoa học của nó là ở chỗ nó đưa lại những nhận thức, những hiểu biết đúng đắn và sinh động về tự nhiên xã hội (cuộc sống, con người) trên những mặt thuộc bản chất quy luật, sự vận động, phát triển. Với ý nghĩa đó mà Phạm Văn Ðồng đã viết: “Văn học, nghệ thuật là công cụ để hiểu biết, để khám phá, để sáng tạo lại thực tại xã hội. Nó là khoa học (…). Nghệ thuật là một sự hiểu biết, văn học là một sự hiểu biết, khoa học là một sự hiểu biết, hiểu biết cao sâu lắm”.

Nói “văn học là một khoa học” chính là để nhấn mạnh ý nghĩa tầm quan trọng, tính chính xác của khả năng nhận thức, biểu hiện, khám phá thế giới của nó. Nhưng sẽ rất sai lầm nếu đem đánh đồng nhận thức khoa học và nhận thức nghệ thuật. Nhận thức của văn chương nghệ thuật không phải như nhận thức của khoa học. Sự khác nhau đó được phân biệt trên 2 bình diện sau :

Một mặt, tri thức và văn chương nghệ thuật đem lại cho con người về bản chất và quy luật của thế giới không phải bằng những khái niệm, công thức, định lí… mà là bằng phương thức thể hiện riêng, phương tiện đặc thù. Ðó là những hình tượng nghệ thuật. Nghệ thuật nhận thức các hiện tượng tự nhiên và xã hội không phải là tái hiện trực tiếp. Mặt khác, sự nhận thức ấy không bao giờ là trực tiếp mà thông qua con đường thẩm mĩ, bằng con đường tình cảm thẩm mĩ.

Tóm lại: Văn chương có khả năng nhận thức vô cùng to lớn trên nhiều bình diện của hiện thực đời sống về tự nhiên cũng như về xã hội. Nhưng đó là sự nhận thức về phương diện triết học, chính trị, xã hội, tâm lí và thẩm mĩ… “Nó là cuốn sách giáo khoa về đời sống”. Chức năng đó diễn ra trong quá trình nhà văn nhận thức hiện thực bằng tác phẩm nghệ thuật, tác phẩm nghệ thuật, đến lượt mình, trở thành một công cụ thẩm mĩ giúp người đọc nhận thức cuộc sống và hiện thực qua những khám phá và sáng tạo của nhà văn.

Trong Luận cương về Phơ – bách Marx viết : “Triết học không những chỉ nhằm giải thích đúng đắn thế giới khách quan mà quan trọng hơn là cải tạo thế giới”.

Lénine nói: “Nghĩa là thế giới không thỏa Mácn con người và con người quyết định biến đổi thế giới bằng hành động của mình”. Những tư tưởng vĩ đại đó không chỉ có ý nghĩa trên địa hạt triết học đơn thuần, hay ở một lĩnh vực nhận thức nào mà có ý nghĩa cho mọi lĩnh vực nhận thức chân chính của con người.

Văn chương một nghệ thuật là một hình thái ý thức đặc thù, nhưng tựu trung vẫn là một hình thái ý thức xã hội, nó nằm trong quy luật nhận thức chung trên của con người. Vì vậy, văn chương không chỉ có chức năng nhận thức thế giới mà còn có chức năng cải tạo thế giới. Tác dụng cải tạo của văn chương, vì vậy là một thuộc tính tất yếu, là một đặc điểm mang tính quy luật, tính bản chất.

Giáo dục của văn chương là làm thay đổi hoặc nâng cao tư tưởng, quan điểm, nhận thức của con người theo chiều hướng tiến bộ hoặc cách mạng, giúp cho con người từ chỗ tán thành đến hành động theo lí tưởng nhân vật hoặc lí tưởng tác giả. Hoặc bằng những hình tượng nghệ thuật sinh động và hấp dẫn, tác giả giúp con người phân biệt được tốt xấu, đúng sai, từ đó liên hệ đến mình và xác định cho mình một thái độ một lập trường nhất định theo những điều đã hấp thụ qua tác phẩm. Tóm lại văn chương thực hiện chức năng giáo dục đối với bạn đọc ở những phương diện sau:

– Học tập, nâng cao trình độ văn hóa.

– Rèn luyện, trau dồi giác quan thẩm mĩ

– Tu dưỡng đạo đức, phẩm chất.

– Cải tạo thế giới quan và quan điểm chính trị – xã hội.

Bất cứ tác phẩm văn chương nào cũng có thể có tác dụng này hay tác dụng khác đối với người đọc có tác dụng tiêu cực, có tác dụng tích cực, có tác dụng nhất thời, có tác dụng vĩnh cửu.

Văn chương thực hiện chức năng giáo dục bằng cách, trước hết, là ở tư tưởng của nhà văn thể hiện ngay trong việc nhận thức và phản ánh hiện thực. Tác phẩm văn chương là sản phẩm ý thức nhà văn, là kết quả hoạt động có mục đích của nhà văn. Qua tác phẩm người sáng tác bao giờ cũng gửi gắm ký thác, truyền đạt một cái gì đó cho người đọc. Ðó là lập trường quan điểm, tư tưởng, ý nghĩ và những lời giải đáp cùng những ước vọng của người sáng tác trước cuộc sống. Những điều gửi gắm đó nếu rung động được lòng người thì giúp họ nhận thức được đúng đắn cuộc sống và khiến họ đi đến những suy nghĩ và hành động đúng.

Thứ đến là nội dung tư tưởng, ở khuynh hướng tuyên truyền, động viên và giáo dục của tác phẩm từ các nhân vật điển hình đại diện cho tư tưởng tác giả thông qua tâm tư, suy nghĩ, triết lí sống của nhân vật được trình bày dưới dạng này hay dạng khác. Hình tượng Từ Hải trong Truyện Kiều ngoài ý nghĩa là mơ ước tự do và công lí của Nguyễn Du, nó còn có tác dụng khơi dậy ở người đọc ý chí độc lập tự do, ý thức không cam tâm làm nô lệ, ý thức tháo củi sổ lồng đạp bằng mọi bất công ở con người. Hình tượng Kiều lại giáo dục con người ta lòng hiếu nghĩa với cha mẹ, lòng chung thủy vợ chồng, ý thức luôn luôn khơi dậy trong cuộc sống.

Nó còn thể hiện ở tính thẩm mĩ của tác phẩm. Tức là ở lí tưởng thẩm mĩ và hình thức nghệ thuật mà tác giả vận dụng để truyền đạt có hiệu quả nhất những tư tưởng và kiến giải của mình đến người đọc.

Văn chương có nhiệm vụ xây dựng những hình tượng nghệ thuật mang lí tưởng thẩm mĩ, đó là cuộc sống đáng sống và con người đáng có. Hình tượng Từ Hải là một hình tượng mang lí tưởng thẩm mĩ của tác giả: Lí tưởng về con người anh hùng đầy lòng nhân đạo, bình đẳng, bác ái và ý chí quật cường không cam tâm làm nô lệ. Từ Hải còn là niềm vui mừng, nỗi ước muốn của quần chúng lao động. Nếu như Mác Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh … là những hình tượng làm cho người đọc căm ghét thì Từ Hải lại là nhân vật làm cho người ta thương yêu, trân trọng, đấy chính là mặt trái và mặt phải của tác dụng thẫm mĩ của hình tượng văn học.

Văn chương là một nghệ thuật, tác dụng cải tạo của nó còn ở hình thức nghệ thuật. Nghệ thuật trong sáng giản dị tạo cho người ta cảm giác nhẹ nhõ, nghệ thuật sinh động phong phú, hấp dẫn làm con người ta trở nên yêu cuộc sống hơn.

Chức năng giáo dục của văn chương còn ở tính chiến đấu của nó. Văn chương là vũ khí đấu tranh giai cấp. Tính chất “vũ khí” của văn chương biểu hiện tập trung ở chỗ này. Cải tạo là phê phán cái cũ, cái xấu, cái lạc hậu, đề xuất cái mới cái tốt cái tiến bộ cách mạng. Nếu văn chương chỉ vạch ra cái tiêu cực không thôi thì mới là được nhiệm vụ “phá” mà chưa làm được nhiệm vụ “xây”. Như thế có nghĩa là chưa thực hiện trọn vẹn chức năng cải tạo. Mặt khác, không có một vụ “xây” nào mà không gắn với phê phán, phá bỏ cái cũ, cái xấu, cái lạc hậu, cái cản trở sự phát triển đi lên. Lénine đã từng gọi Người mẹ của Gorki là “quyển sách kịp thời” bởi vì chính Người mẹ đã có sức mạnh cải tạo, sức mạnh của một vũ khí tinh thần và tư tưởng cho công nhân Nga lúc bấy giờ. Người nói (theo lời thuật lại của Gorki):

“Quyển sách này là cần thiết, nhiều công nhân đã tham gia phong trào cách mạng một cách vô ý thức, tự phát, và bây giờ họ đọc Người mẹ, điều đó sẽ mang lại ích lợi lớn cho bản thân họ.[1]

Và quả thật, những hình tượng điển hình về những công nhân – những chiến sĩ cách mạng Nga, qua sự miêu tả của nhà sáng lập ra nền văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa, đã tỏ ra là những tấm gương mà nhờ đó nhiều thế hệ chiến sĩ đấu tranh nhằm giải phóng nhân loại khỏi ách áp bức đã học tập được.

Văn chương là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sản phẩm của ý thức người nghệ sĩ, là sản phẩm của tài năng tư tưởng tình cảm của người nghệ sĩ. Vì vậy, chức năng cải tạo của văn chương đạt được tới đâu là do người đẻ ra nó. Sáng tạo nghệ thuật ngoài sự hiểu biết, tài năng ra còn là vấn đề lí tưởng sống. Lí tưởng sống của nhà văn gắn liền với chức năng cải tạo của văn học. Một tâm hồn bệnh hoạn, yếu đuối, một lí tưởng sống hưởng lạc thì chỉ tạo ra được những hình tượng nghệ thuật nhằm trụy lạc hóa con người không hơn không kém.

Lí tưởng nhà văn luôn luôn gắn liền với mọi giai cấp nhất định. Nhà văn là người phát ngôn cho giai cấp và những lực lượng xã hội nhất định. Nói đến chức năng cải tạo của văn chương là nói đến việc nhà văn dùng tác phẩm của mình để truyền đạt lí tưởng sống của mình mà cũng là lí tưởng của giai cấp mình, của một lực lượng xã hội, một thời đại nhất định mà mình đang sống. càng gắn lí tưởng mình với lí tưởng tiến bộ của thời đại bao nhiêu thì nhà văn càng phát huy được chức năng cải tạo của nghệ thuật mình bấy nhiêu. Bởi vì lí tưởng thời đại cũng tức là lí tưởng của quần chúng nhân dân người chủ nhân lịch sử. Lịch sử văn chương đã chứng tỏ rằng có những tác phẩm nghệ thuật có sức sống trường cửu, có sức cải tạo lớn lao là do lí tưởng nhà văn gắn bó với lí tưởng thời đại đó, lí tưởng nhân loại cần lao lúc đó.

Ðặc trưng chức năng giáo dục của văn chương là ở chỗ : văn chương giáo dục con người thông qua con đường tình cảm. Từ xúc động, lay động về tình cảm mà người đọc liên hệ đến bản thân, tự giác nhận ra đúng, sai. Nghệ thuật giáo dục con người bằng biện pháp tự giác. Giáo dục nghệ thuật không phải bằng biện pháp cưỡng bách, hành chính gò ép mà hoàn toàn tự giác, thoải mái. Nghệ thuật giáo dục bằng hình thức hấp dẫn vui tươi, cuốn hút. Ở đây, tưởng như giáo dục vui chơi, giải trí là một. Tác dụng giáo dục của nghệ thuật thật là lâu bền ; từ từ nhưng vô cùng sâu sắc.

Trong quá trình con người đồng hóa tự nhiên về mặt thẩm mĩ thì nghệ thuật là hình thái cao nhất, tập trung nhất, đầy đủ nhất của quan hệ thẩm mĩ của con người đối với hiện thực. Nói như thế có nghĩa là, con người, trong hoạt động thực tiễn của mình, bao giờ cũng sáng tạo thế giới theo quy luật của cái đẹp. Trong “Bản thảo kinh tế – triết học 1844” C. Mác viết :

“Súc vật chỉ nhào nặn vật chất theo thước đo và nhu cầu của giống loài của nó, còn con người thì có thể sản xuất theo bất cứ giống loài nào, và ở đâu cũng có thể áp dụng thước đo thích hợp cho đối tượng, do đó con người cũng nhào nặn vật chất theo quy luật của cái đẹp.[1]

Không chỉ nghệ thuật mà bất kỳ hoạt động thực tiễn vật chất nào của con người cũng đều có ý nghĩa thẩm mĩ. Tuy vậy, phải nhận rằng cái đẹp trong nghệ thuật là tập trung nhất, là mãnh liệt nhất, là biểu hiện cao nhất của quan hệ thẩm mĩ của con người đối với hiện thực. Trong đời sống tinh thần của con người thì nghệ thuật đảm đương trọng trách biểu hiện và truyền thụ cái đẹp. Những hình thái ý thức khác của xã hội như triết học, khoa học, … đều có chức năng nhận thức và giáo dục của nó. Nhưng chỉ có trong nghệ thuật, chức năng thẩm mĩ mới được đặt ra một cách bắt buộc.

Chức năng thẩm mĩ của văn chương bộc lộ ở chỗ: làm thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ, phát triển năng lực, thị hiếu thẩm mĩ của con người. Cũng tức là, nghệ thuật làm thỏa mãn nhu cầu về lí tưởng, ước mơ, sự hoàn thiện hoàn mĩ của con người trước thế giới.

Nghệ thuật thực hiện chức năng thẩm mĩ bằng nhiều cách:

Trước hết là làm thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của người đọc bằng việc miêu tả và phản ánh cái đẹp trong tự nhiên và xã hội. Cái đẹp là cái khả năng đưa đến cho người ta một khoái cảm, một thích thú, một niềm xúc động khi con người nhìn thấy hoặc thưởng thức. Những cái được gọi là đẹp phải là cái chân thực, sinh động, hài hòa, thống nhất được cái mặt tiêu biểu và đa dạng của sự vật, có khả năng tác động trực tiếp vào giác quan con người (thị giác và thính giác). Việc phản ánh này thường có chọn lọc và gắn liền với quá trình điển hình hóa, tài năng sáng tạo của nghệ sĩ. Nhờ vậy, cái đẹp của đời sống khi đã được đưa vào nghệ thuật thì nó đẹp gấp bội. Bởi vì ngoài đời sống, nó đã đẹp, khi đi vào nghệ thuật nó lại qua bàn tay trau chuốt gọt dũa của nhà văn. Thử đơn cử một ví dụ, bài ca dao sau:

Trong đầm gì đẹp bằng sen

Lá xanh, bông trắng, lại chen nhị vàng Nhị vàng, bông trắng, lá xanh Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Nói đến sen là nói đến đẹp. Sen là đẹp, nhưng chỉ nhìn nó ở ngoài đời thì chưa thấy hết cái đẹp của nó. Phải nhìn nó trong nghệ thuật ta mới thấy hết, càng nhìn càng thấy đẹp, đẹp từ màu sắc, hương vị, hình thức, phẩm chất. Giải thích cái đẹp trong nghệ thuật có phần duy tâm, nhưng Hégel đã khẳng định: “Ngay bây giờ chúng ta có thể khẳng định rằng cái đẹp trong nghệ thuật cao hơn cái đẹp của tự nhiên”. Nghệ thuật không chỉ miêu tả, phản ánh cái đẹp trong tự nhiên, xã hội mà còn sáng tạo ra cái đẹp mới vốn không có trong hiện thực – tác phẩm nghệ thuật. Tác phẩm nghệ thuật là kết tinh tài năng sáng tạo trên cơ sở chất liệu hiện thực chứ không phải là bản thân hiện thực. Nó không chỉ là tư tưởng, tình cảm tài năng của nhà văn mà nó còn là cái đẹp mới. Bên cạnh cái đẹp của tự nhiên: vừng trăng, bầu trời, ánh sáng, cánh cò, giòng sông… là cái đẹp do bàn tay nghệ sĩ tạo ra: áng thơ, bản nhạc, điệu múa… đây là một tự nhiên đẹp thứ 2.

Nghệ thuật phát huy tác dụng chức năng thẩm mĩ đối với con người bằng cách rèn luyện năng lực thẩm mĩ cho con người trên rất nhiều bình diện.

Nghệ thuật làm cho cảm xúc thẩm mĩ của con người ngày một tinh tế. Do tiếp xúc với nghệ thuật mà các giác quan của con người tinh tế, nhạy bén, đi đến khả năng cảm thụ nhiều hơn, lớn hơn. Ví dụ giữa tai người không rành nhạc và rành nhạc, có tiếp xúc rèn luyện nhiều. Người rành nhạc có lỗ tai có khả năng thẩm âm tốt hơn người không rành nhạc.

Nghệ thuật đào tạo năng khiếu thẩm mĩ, tức là tạo ra năng lực sáng tạo, đánh giá cái đẹp của con người. Năng lực thẩm mĩ là một sự trao truyền, học tập lẫn nhau qua nhiều thế hệ. Không ai có thể sáng tạo hay thưởng thức được nghệ thuật nếu không biết đến nghệ thuật là gì. Chỉ có tôi luyện trong nghệ thuật thì năng lực nghệ thuật mới phát triển. Có vấn đề tài năng trong lĩnh vực này, nhưng tài năng đó là cả một sự hun đúc của nhiều thế hệ. Nghệ thuật hun đúc cho con người khả năng cảm thụ tinh tế, đánh giá chính xác cái đẹp trong cuộc sống. Ðồng thời, hình thành cho con người một nhận thức sâu sắc về cái đẹp. Thưởng thức nghệ thuật đồng thời là sự tiếp nhận giáo dục về nghệ thuật. C. Mác viết: “Nếu anh muốn hưởng thụ nghệ thuật, thì anh phải là con người có kiến thức về nghệ thuật”.

Kiến thức về nghệ thuật không thể và chỉ đơn thuần lết quả sự tiếp thu theo con đường giáo dục bởi khoa mĩ học theo trường lớp sách vở mà còn bag cả con đường trực tiếp thưởng thức các tác phẩm nghệ thuật. Con đường này tuy tự phát nhưng vô cùng sâu sắc.

Nghệ thuật cung cấp cho con người quan điểm thẩm mĩ, thái độ thẩm mĩ một cách sinh động và sâu sắc. Vì con người tiếp thu nó không phải dưới dạng kết luận, phán đoán trừu tượng như trong khoa nghiên cứu nghệ thuật.không một bài giảng về nghệ thuật nào có thể thay thế được điều mà con người trực tiếp nhận qua tác phẩm nghệ thuật.

Nghệ thuật xây dựng cho con người lí tưởng thẩm mĩ. Con người, sản phẩm đẹp nhất của tạo vật là đối tượng của nghệ thuật. Nghệ thuật đã chọn cho mình một đối tượng đặc biệt: tinh hoa của trời đất, “người ta là hoa đất” (Tục ngữ), “Con người làcái đẹp nhất trong thế giới mà chúng ta cảm giác được” (Tchernychevski), “Con người là lí tưởng của cái đẹp” (Kant). Nhưng nghệ thuật vẫn xây dựng những con người lí tưởng. Ðó là lí tưởng thẩm mĩ. Vì mục đích nghệ thuật là không phải chụp lại , hay tái hiện tất cả những gì về phẩm chất mà con người hiện có. Con người trong nghệ thuật là con người sẽ có, cần có. Ðó là con người lí tưởng. Do bản thân con người không bao giờ tự thỏa Mácn với mình mà luôn luôn có nhu cầu vươn lên cái cao xa hơn – vươn lên con người lí tưởng.

Văn chương là một nghệ thuật, là một hình thái ý thức đặc thù, nó mang tính thẩm mĩ. Tính thẩm mĩ này gắn liền với bản chất của văn chương.nếu tách rời hoặc không thấy đặc thù thẩm mĩ thì hoặc là không hiểu được bản chất văn chương, hoặc hạ thấp nó, hoặc biến nó thành một cái gì khác ngoài văn nó.

Khi nói đến chức năng nhận thức của văn chương, dù có đề cập đến khả năng nhận thức to lớn của nó thế nào mặc lòng mà không thấy đây là sự nhận thức có tính đặc thù thẩm mĩ, nhận thức từ góc độ thẩm mĩ thì tức là đánh đồng nghệ thuật với mọi hoạt động nhận thức khác,và cũng tức là hạ thấp giá trị nhận thức của nghệ thuật dẫn đến hạ thấp hoặc thủ tiêu nghệ thuật.

Chức năng thẩm mĩ của văn chương chỉ có thể phát huyđược tác dụng Mácnh liệt khi văn chương đạt được giá trị tự nhận thức cao. Ngược lại, văn chương chỉ có thể đạt được tính thẩm mĩ cao đẹp khi nó đạt được giá trị nhận thức sâu. Diderot nói: cái đẹp chẳng qua là chân lí. như thế, nghệ thuật không phải là cái gì phi lí, hoặc siêu nhiên mà nó quan hệ đến vấn đề chân lí. tác phẩm nghệ thuật càng tiếp cận với cuộc sống càng phản ánh được chân lí khách quan một cách sâu sắc thì càng có tính nghệ thuật cao, xưa nay, những tác phẩm nghệ thuật lớn, bất hủ không có tác phẩm nào lại chỉ đạt một trong hai mặt này.

Xét về mặt hình thức nhận thức thì nghệ thuật có hình thức nhận thứcđặc thù so với hình thái ý thức khác, đó là hình thức nhận thức thẩm mĩ, nhận thức theo góc độ cái đẹp.nhưng xét về mặt bản chất nhận thức thì nghệ thuật thống nhất với các hoạt động nhận thức khác của con người. nếu như chức năng thẩm mĩ là đặc trưng của văn chương thì chức năng nhận thức là bản chất của văn chương.

Mọi hình thức nhận thức chân chính của con người đều vươn đến mục đích cải tạo mình. nhưng mọi hình thức nhận thức đó lại thực hiện chức năng cải tạo theo đặc trưng riêng. Nghệ thuật nói chung và văn chương nói riêng thực hiện chức năng cải tạo,giáo dục của mình theo góc độ thẩm mĩ, bằng thỏa Mácn nhu cầu thẩm mĩ. Dưới hình thức thẩm mĩ, bằng phương tiện thẩm mĩ, văn học tiến hành giáo dục và cải tạo con người.

Cải tạo giáo dục con người có rất nhiều hình thức, đó có thể bằng luân lí, đạo đức học, bằng chính trị và bằng hành chính v.v… Nhưng biện pháp nhẹ nhàng mà sâu sắc, tinh tế mà mạnh mẽ là biện pháp nghệ thuật. Nghệ thuật trực tiếp tác độngvào tình cảm con người để giáo dục, cải tạo con người.

Thơ Ban chấp hành trung ương Ðảng lao động Việt Nam gởi đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ III viết:

“Là tiếng nói tình cảm, là hình thức nhuần nhị và sắc bén của tư tưởng có tác dụng sâu rộng và lâu bền trong đời sống tinh thần của nhân dân,văn nghệ giữ một vai trò quan trọng trong việc xây dựng đạo đức, tình cảm và tác phong xã hội chủ nghĩa”.

Một tác phẩm văn chương muốn đạt tới chức năng cải tạo và giáo dục mình thì trước hết phải đạt được tính nghệ thuật cao. Với những hình tượng nghệ thuật sinh động, có sức truyền cảm, nghệ thuật tác động vào tình cảm con người ; khi những hình tượng nghệ thuật có sức lay động tình cảm con người thì tình cảm đó là xuất phát điểm, là sức bật cho lí trí và hành động của con người.

Nghệ thuật không phải là vị nghệ thuật, nghệ thuật vị nhân sinh. Tự nó, nghệ thuật đã mang tính cải tạo giáo dục của mình. tuy nhiên muốn có giá trị thẩm mĩ cao, nghệ thuật phải đạt tới sức cải tạo mạnh mẽ, ngược lại để cải tạp và giáo dục nghệ thuật lại phải đạt được tính thẩm mĩ cao.

Nếu như chức năng thẩm mĩ là đặc trưng của nghệ thuật thì chức năng giáo dục là nhiệm vụ của nghệ thuật.

Văn chương là một hình thái ý thức, một hình thức nhận thức của con người như bất kỳ một hình thức nhận thức nào khác. Văn chương nhận thức không phải là để nhận thức mà nhận thức là để cải tạo, biến đổi thế giới. Cho nên, chức năng nhận thức và chức năng cải tạo giáodụccủa văn chương là không thể tách rời nhau.muốn cải tạo thì trước hết phải nhận thức, nhận thức là để cải tạo, nhận thức càng sâu thì cải tạo càng mạnh.

Chức năng nhận thức và giáo dục gắn chặt với nhau và gắn chặt với chức năng thẩm mĩ.trong nghệ thuật, nhận thức là nhận thức dưới góc độ cái đẹp. Giáo dục là giáo dục thông qua nhận thức thẩm mĩvà bằng phương tiện thẩm mĩ. Yù nghĩa thẩm mĩ của tác phẩm nghệ thuật là ở chỗ hiệu quả giáo dục cải tạo mà nó đạt được.

Tóm lại, văn chương nghệ thuật có 3 chức năng chủ yếu: nhận thức, giáo dục và thẩm mĩ. Ba chức năng quan hệ khắng khít và xuyên thấu vào nhau vàcùng tác động tới con người. Trong cả 3 chức năng đó, không được xem nhẹ một chức năng nào và cũng không thể tách bạch ra từng chức năng một trong thực tế. Nói một cách chính xác và khoa học ra thì văn học nghệ thuật có một chức năng chủ yếu – nhận thức – giáo dục – thẩm mĩ. Bởi vì giáo dục, thẩm mĩ, nhận thức là 3 phương diện khác nhau của một vấn đề, của một sự vật. Chức năng này đồng thời biểu hiện chức năng kia và tồn tại trong chức năng kia và ngược lại.

Nguyễn Hưng @ 09:04 24/05/2011 Số lượt xem: 41375

Ý Thức Đạo Đức Phản Ánh Lĩnh Vực Nào Của Đời Sống Xã Hội

Trong quá trình khảo sát đạo đức, quan điểm phổ biến được vận dụng để lý giải vấn đề này là gắn liền sự hình thành và phát triển của đạo đức với tính chế định của các điều kiện lịch sử , xã hội, các quan hệ kinh tế. Quan điểm này thường được nêu lên như sau: “Muốn tìm một hiện tượng đạo đức không thể dừng lại ở chỗ giải thích nội dung khái niệm của nó mà phải đi sâu tìm hiểu nguồn gốc xã hội, đặc điểm kinh tế, cơ sở giai cấp, nghĩa là tìm hiểu tồn tại xã hội đã đẻ ra hiện tượng đạo đức ấy” (l) hoặc “khi nói đạo đức mới xuất hiện cùng với sự xuất hiện của phương thức sản xuất mới, phương thức sản xuất XHCN thì cũng có nghĩa là phương hướng nghiên cứu những vấn đề đạo đức của xã hội nói chung cũng như những vấn đề đạo đức của thời kỳ quá độ nói riêng là phải tìm trong nền tảng kinh tế xã hội” (2). Có thể nói việc xác đinh phương hướng nghiên cứu đạo đức xuất phát từ các điều kiện lịch sử xã hội, đặc biệt là từ các quan hệ kinh tế là một hướng nghiên cứu đúng đắn. Đó cũng là sự thể hiện cụ thể quan niệm duy vật về lịch sử trong nghiên cứu đạo đức và cho phép lý giải các vấn đề của đạo đức ở khía cạnh bản chất nhất. Sẽ không thể làm rõ các vần đề cơ bản của đạo đức nếu tách rời các quan hệ kinh tế đó của nó. Hơn nữa khi nghiên cứu đạo đức từ các quan hệ kinh tế chủng ta đều biết rằng việc nêu lên quan điểm trên cũng không phải là sự xác đinh tùy tiện, chúng có tiền đề lý luận trực tiếp từ một luận điểm quan trọng của Engen. Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”, khi phê phán những nguyên tắc đạo đức vĩnh cửu, tồn tại bên ngoài loài người và giai cấp của Đuyrinh, Engen viết:

“… Con người ta, dù tự giác hay không tự giác rốt cuộc đều rút những quan niệm đạo đức của mình ra từ những quan hệ thực tiễn đang làm cơ sở cho vị trí giai cấp của mình, tức là từ những quan hệ kinh tế trong đó người ta sản xuất và trao đổi”. (3) Engen nhấn mạnh: ” Chúng ta khẳng định rằng chung quy lại thì mọi thuyết đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ…” (4). Điều đó chi có nghĩa khảo sát đạo đức dưới tác động của các quan hệ kinh tế là một hướng tiếp cận cơ bản và hết sức quan trọng trong nghiên cứu đạo đức.

Nhưng như chúng ta biết, đạo đức nếu chỉ được khảo sát từ các quan hệ kinh tế thị trường không thể xác định đầy đủ được. Nói khác đi phải chăng bản thân các quan hệ kinh tế trực tiếp quy định nội dung và đặc trưng riêng biệt của đạo đức? Nếu đúng là các quan hệ kinh tế là cơ sở duy nhất để nghiên cứu đạo đức thì sẽ có ba vấn đề sau đây không thể giải đáp được.

Thứ nhất, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, không chỉ đạo đức, mà tất cả các hình thái ý thức xã hội khác như chính trị, pháp luật… đều chịu sự quy định của các quan hệ kinh tế. Các quan hệ kinh tế quy định tất cả các hình thái ý thức xã hội chứ không riêng đạo đức, do đó sẽ không thể giải thích được đặc trưng riêngbiệt của đạo đức – một trong những hình thái của nó.

Thứ hai, khi nêu lên luận điểm này ngay Engen cũng không đặt tính quy định của các quan hệ kinh tế đối với đạo đức như một nguyên nhân trực tiếp, duy nhất mà chỉ xét nó trong nghĩa “rốt cuộc”, “xét đến cùng”.

Thứ ba, lý thuyết về các hình thái ý thức xã hội chỉ ra rằng, nếu ý thức xã hội là một hệ thống các yếu tố khác nhau về chất thì nguyên nhân của tính đa dạng của các hình thái ý thức là do tính đa dạng của đối tượng mà ý thức nó phản ánh. Điều đó có nghĩa, mỗi hình thái ý thức ngoài tính chế định chung của tồn tại đều có một đối tượng riêng biệt của mình và đặc trưng riêng biệt của mỗi hình thái ý thức được quy đinh bởi đặc trưng riêng biệt của đối tượng mà nó phản ánh. Như vậy nghiên cứu đạo đức nếu chỉ xuất phát từ các quan hệ kinh tế sẽ không thể làm sáng tỏ bản chất và đặc trưng của chúng. Vấn đề quan trọng đặt ra ở đây chính là phải làm rõ đối tượng mà đạo đức phản ánh, nghĩa là làm rỡ “tồn tại riêng biệt”, cái trực tiếp quy định đặc trưng riêng biệt của đạo đức, chứ không phải chỉ xác định một tồn tại nói chung. Chính từ những tiền đề đặt ra nêu trên chúng tôi cho rằng làm rõ các vấn đề của đạo đức, không thể chỉ xuất phát từ những điều kiện và tác động chung mà còn phải chỉ ra những nguyên nhân và những tác động riêng, đặc biệt là cần chỉ ra và xác định đúng đối tượng riêng biệt, trực tiếp của đạo đức.

Cần nói rằng vấn đề tồn tại riêng biệt của đạo đức cũng không phải là vấn đề mới. Từ lâu, gắn liền với việc khảo sát đặc trưng riêng biệt của đạo đức, nó đã được nhiều nhà nghiên cứu mácxít cũng như giới nghiên cứu ngoài mácxít quan tâm. Các nhà triết học thời khai sáng ở phương Tây đã bàn rất nhiều về vấn đề này. Tuy nhiên trong giới nghiên cứu mácxít tính cấp bách của vấn đề chỉ thực là sự nổi lên khi thực tiễn xây dựng CNXH đặt ra những tình huống mà trong đó việc lý giải các vấn đề đạo đức từ một nền tảng kinh tế nói chung đã không thể giải đáp. Nguyên nhân cơ bản của tình huống này gắn liền với sự suy thoái và đổ vỡ của ý thức đạo đức xã hội trong quá trình xây dựng nền sản xuất công hữu.

Như ta đã biết, khi nói ý thức đạo đức là sự phản ánh của các quan hệ kinh tế thì nguyên tắc ý thức đạo đức XHCN phải được hình thành và phát triển cùng với qúa trinh hình thành và phát triển các quan hệ kinh tế XHCN, nghĩa là qú trình xác lập chế độ cống hữu về tư liệu sản xuất. Nhưng trên thực tế không chỉ ở những nước có điều kiện và hoàn cảnh đặc thù với nhiều biến động phức tạp trong quá trinh đi lên CNXH như nước ta mà ngay ở những nước có điều kiện thuận lợi hơn nguyên tắc ấy vẫn không diễn ra trong hiện thực. Việc xây dựng ý thức đạo đức mới không những không dễ dàng thực hiện ngay những kết quả ban đầu đạt được của nó cũng liên tục bị sói mòn và biến dạng dữ dội từ dưới nhiều hình thức. Khảo sát thực tế qúa trình xây dựng ý thức đạo đức mới ở Liên Xô. Trước đây nhà đạo đức học Xô viết P.R.Apecian đã chỉ ra một nghịch lý sâu sắc sau: ” Nếu các quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu công cộng về tư hậu sản xuất mà chúng ta xây dựng trong hơn 70 năm qua là quan hệ sản xuất XHCN thì các quan hệ đó đã không tạo ra trong xã hội một cuộc sống tinh thần đạo đức tương ứng, nghĩa là không tạo ra cơ sở để hình thành những quan hệ đạo đức nhân đạo và tốt đẹp giữa người và người“(5). Thậm chí nghiên cứu trạng thái ý thức đạo đức của con người trong các tập thể lao động trong những năm gần đây các tác giả N.N. Crutov và O N.Crutova còn cho thấy một thực tế: ở đâu tính chất công hữu trong các quan hệ sản xuất càng cao thì ở đó tính chất XHCN trong các quan hệ đạo đức của con người càng thấp. Đó là thái độ thờ ơ đối với công việc, sự ghẻ lạnh trong quan hệ giữa người này với người khác, với tập thể…” (6).

Vì sao giữa các quan hệ kinh tế và ý thức đạo đức của con người trong CNXH lại xuất hiện nghịch lý trên? Vì sao từ địa vị của người làm thuê bước lên vi trí của người làm chủ, con người không “khẳng định mình mà lại phủ định mình“? Thực tế cho thấy vấn đề này cũng như nhiều vấn đề khác từng nảy sinh trong quá trình xây dựng CNXH trước đây sẽ không được lý giải sáng tỏ nếu không bàn đến một yếu tố then chốt trong cơ chế tác động của các quan hệ xã hội.

Nói đúng hơn chính thông qua việc lý giải các mâu thuẫn gay gắt đang diễn ra trong quá trình xây dựng xã hội mới đã cho phép làm sáng tỏ một vấn đề mà theo Engen đó cũng là một chân lý giản dị và sáng tỏ nhưng vốn bị “một đống tư tưởng che kín mất” vấn đề các lợi ích và việc thỏa mãn các lợi ích của con người. Trên bình diện đạo đức việc lý giải vấn đề cũng không nằm ngoài thực tế đó. Nói khác đi chính từ việc khảo sát các mâu thuẫn xã hội hiện thực người ta dần dần nhận ra rằng: cái trực tiếp quy định bản chất và đặc trưng riêng biệt của đạo đức không phải là các quan hệ kinh tế nói chung mà là những quan hệ xác định. Những quan hệ này mặc dù không nằm ngoài mối liên hệ với các quan hệ kinh tế, song chúng có vị trí và cơ chế tác động độc lập và không đồng nhất với các quan hệ kinh tế, đó là lợi ích. Trong nền sản xuất dựa trên chế độ công hữu chính do không thực hiện đúng đắn và đầy đủ các quan hệ lợi ích cho nên đã không tránh khỏi tiêu cực dẫn đến sự xói mòn và suy thoái của ý thức đạo đức xã hội.

Qủa là nghiên cứu đạo đức không thể không bàn đến yếu tố lợi ích, điều mà Engen khi dẫn lại lời của các nhà khai sáng Pháp đã viết: ” Lợi ích hiểu một cách đúng đắn là nguyên tắc của toàn bộ đạo đức“. Về nguyên tắc đạo đức bao giờ cũng là hình thức phản ánh của các quan hệ kinh tế và chịu sự quy định của các quan hệ kinh tế, hay nói đúng hơn đó là sự quy đinh của các điều lịch sử xã hội và của các quy luật của sự phát triển xã hội. Nhưng tính quy đinh của các điều kiện và các quy luật của sự phát triển xã hội không tác động đến đạo đức một cách trực tiếp mà chỉ biểu hiện và bộc lộ thông qua các mắt khâu trung gian. Có nghĩa sự tác động nêu trên chỉ được thực hiện chừng nào các mắt khâu trung gian được phát huy và sử dụng, ngược lại thiếu sự chuyển tiếp của các mắt khâu trung gian, sự tác động trên sẽ không còn ý nghĩa. Khảo sát đạo đức dưới tác động của các lợi ích chính là nhằm làm rõ vai trò của các tác động trực tiếp ấy. Hơn nữa khảo sát các tác động xã hội dẫn đến sự hình thành đạo đức thông qua các mắt khâu trung gian cán thấy rằng, tính quy định của các điều kiện và các quan hệ kinh tế đốt với lợi ích không phải là mối liên hệ một chiều, đơn trị. Nói khác đi không phải trong hệ thống quan hệ kinh tế nào cũng đều sinh ra những lợi ích tương ứng với nó và do vậy làm xuất hiện những ý thức đạo đức phù hợp. Do tác động của nhiều yếu tố xã hội khác nhau, mối liên hệ trên luôn là một biến thể phức tạp. Nó có thể là sự thể hiện chân thực và đầy đủ nội dung của các quan hệ kinh tế, nhưng cũng có thể chỉ là những phản ánh phiến diện, hư ảo của các quan hệ trên. Chẳng hạn không thể giản đơn cho rằng, trong nền sản xuất dựa trên chế độ công hữu, con người bao giờ cũng có thể được quan tâm và thỏa mãn đầy đủ các lợi ích của mình, và ngược lại trong các nền sản xuất dựa trên chế độ tư hữu sự quan tâm ấy sẽ không thể diễn ra. Thật ra ở bất cứ nền sản xuất nào việc thỏa mãn các lợi ích không chỉ đặt ra ở chế độ sở hữu, chế độ kinh tế, đó là những vấn đề của chế độ chính trị, xã hội và việc thực hiện các chế độ ấy… Đặc biệt, một trong những vấn đề trung tâm của mối quan hệ này là việc xác định vị trí của con người trong nền sản xuất xã hội, quyền được hoàn thiện của con người được biểu hiện bằng việc thỏa mãn chính các nhu cầu và lợi ích của họ. Thực tế cho thấy ở bất cứ đâu, một khi vị trí của con người trong xã hội bị coi rẻ, con người bị biến thành phương tiện cho các mục đích khác nhau, dù đó là phương tiện để phát triển xã hội, quyền của con người bị vi phạm, thi dù đó là nền sản xuất dựa trên chế độ công hữu đi nữa, sự quan tâm trên cũng không thể được thực hiện. Bởi vậy để xây dựng và phát triển đạo đức cùng với việc xác lập các quan hệ kinh tế phù hợp, việc thỏa mãn các nhu cầu và lợi ích của con người luôn là một đòi hỏi có tính nguyên tắc đặt ra trong xây dựng và phát triển của một xã hội.

Như vậy nếu quả là sự hình thành và phát triển của đạo đức luôn gắn liền với các quan hệ lợi ích và “đạo đức có thể chỉ được xác định đầy đủ khi đặt nó trong mối quan hệ với các nhu cầu và lợi ích” (7) thì việc nghiên cứu đạo đức từ các lợi ích là một hướng tiếp cận đáng lưu ý, đồng thời đó cũng là một vấn đề lý luận có ý nghĩa thực tiễn cấp bách. Nghiên cứu đạo đức từ các lợi ích chính là cho phép làm sáng tỏ các vấn đề then chốt đang đặt ra trong nghiên cứu đạo đức học hiện nay: vấn đề về cơ sở phản ánh, về chức năng và ý nghĩa lịch sử của sự tồn tại của đạo đức. Đặc biệt, một trong những vấn đề có nghĩa phương pháp luận quan trọng trong hướng tiếp cận trên là làm rõ dây chuyền tác động xã hội dần đến sự hình thành và phát triển của đạo đức trong cuộc sống hiện thực. Trước đây khi nghiên cứu đạo đức từ các quan hệ kinh tế không phải chúng ta không nhìn thấy vai trò của các quan hệ kinh tế trong ý nghĩa “xét đến cùng” của nó. Nhưng để làm rõ dây chuyền tác động xã hội bằng việc xác định và chỉ ra các yếu tố trung gian, trực tiếp trong chính dây chuyền ấy, chúng ta thường chỉ mới quan tâm đến các tác động cùng lớp: các yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc như chính trị, pháp luật, nghệ thuật, tôn giáo… Đương nhiên nghiên cứu đạo đức không thể không bàn đến vai trò tác động của các yếu tố trong cùng thượng tầng kiến trúc cũng như các tác động xã hội khác đối với đạo đức và các mối quan hệ đan xen giữa chúng. Với tư cách là một hình thái ý thức, đạo đức không là kết quả riêng biệt của bất kỳ một tác động nào. Tính phức tạp và thống nhất của hiện tượng cũng như biện chứng của sự phát triển của nó luôn đặt ra và gắn liền với chính các tác động đa tầng và đa hướng đó. Nhưng vấn đề đặt ra là: vậy thì phải chăng trong sự hình thành và phát triển của đạo đức, các yếu tố và đã tác động xã hội khác nhau đều mang vai trò và ý nghĩa như nhau? Về thực chất chúng bao gồm những yếu tố nào? Về vấn đề này theo chúng tôi sự nhận định của các tác giả Xô viết trong công trình “Đạo đức học macxit” là tương đối hợp lý (8).

Sự hình thành và phát triển của đạo đức trong công trình này được xác định gắn liền với các yếu tố sau:

Một, hướng vận động của các lợi ích hiện có trong xã hội.

Hai, hệ thống các giá trị đạo đức đang tác động

Ba, sự thay đổi các tình huống của sự lựa chọn đạo đức (chẳng hạn sự thay đổi các chuẩn mực trong cách mạng khoa học kỹ thuật).

Bốn, sự tác động của các phương tiện điều chỉnh xã hội khác (quy định của pháp luật, các thiết chế hành chính…).

Năm, điều kiện giao tiếp, dư luận xã hội, kinh nghiệm đạo đức cá nhân;

Sáu, trạng thái tâm lý xã hội.

Bảy, sự tác động của các yếu tố trong lĩnh vực văn hóa tinh thần: khoa học, nghệ thuật, tôn giáo…

Và xét đến cùng đó là tự quy định của các điều kiện kinh tế, xã hội.

Trong hệ thống các yếu tố kể trên. Sự tác động của các lợi ích được coi là một trong những yếu tố có vai trò trực tiếp và gần gũi nhất trong việc tạo ra các định hướng đạo đức ở con người.

Có thể nói, việc làm rõ các tác động đa dạng trong xã hội đối với sự hình thành đạo đức và xác định vai trò riêng biệt của mỗi tác động đó là đòi hỏi không thể thiếu trong xây dựng đạo đức hiện nay.

(1) C.Mác, F.Engen, V.I Lênin. Bàn về đạo đức. UB khoa học xã hội Việt – Viện triết học, Hà Nội, 1972, tr.24.

(2) Mấy vấn đề đạo đức và thầm mỹ trong thời kỳ quá độ. Viện triết học Hà Nội, 1983, tr. 21.

(3) C.Mác, F.Engen, Tuyển tập gồm 6 tập. Tập 5, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1983, tr. 135.

(4) F.Engen Chống Đuyrinh, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1960, tr. 162.

(6) P.R.Apecian. Đạo đức và chức năng xã hội cơ bản của nó. Nxb khoa học. Mockva 1988, tr. 64.

(6) Xem N.N. Crutov, O.N. Crutova. Con người giữa những con người. Nxb Kiến thức. Mockva, 1989.

(7) Đạo đức: ý thức và hành vi, Nxb Khoa học Mockva 1986, tr.11.

(8) Đạo đức học macxit, Nxb Chính trị, M, 1986, tr. 34.