Chức Năng Nhiệm Vụ Của Chi Bộ Là Gì?

Chi bộ được thành lập tại các cơ quan, đơn vị khác nhau. Đây là tổ chức bao gồm những thành viên đã được xét duyệt tư cách Đảng viên và hoạt động sinh hoạt Đảng tại Chi bộ này. Thông thường, mỗi cơ quan, đơn vị nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập hay tổ chức khác thành lập một Chi bộ để các Đảng viên có thể sinh hoạt cũng như bồi dưỡng về tư cách Đảng viên.

Chi bộ đóng vai trò quan trọng, là tổ chức lãnh đạo chính trị cho các thành viên, nhân viên và cá nhân khác trong cơ quan, đơn vị, tổ chức đó. Đảm bảo việc thực hiện các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, học tập là làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

2. Điều kiện thành lập Chi bộ

Đối với cấp xã, phường, thị trấn muốn thành lập phải đáp ứng điều kiện quy định tại Khoản 2 Điều 21 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2011 như sau: “Ở xã, phường, thị trấn có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở đảng (trực thuộc cấp uỷ cấp huyện)…”

Đối với các cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác xã đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân đội, công an và các đơn vị khác muốn thành lập Chi bộ cơ sở thì cũng phải đáp ứng điều kiện tại Khoản 2 Điều 21 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2011 như sau: ” Ở cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân đội, công an và các đơn vị khác có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức đảng (tổ chức cơ sở đảng hoặc chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở);

Đối với các doanh nghiệp cũng cần đáp ứng điều kiện trên thì mới có thể thành lập Chi bộ tại đơn vị của mình.

3. Chức năng nhiệm vụ của chi bộ

Chức năng nhiệm vụ của chi bộ được ban hành trong các Văn bản Quy định của Ban Bí thư thuộc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền

Nhiệm vụ của chi bộ ( Nhiệm vụ chính trị của chi bộ) ở cơ quan hay ở cấp xã, cấp huyện có những nhiệm vụ chi tiết cụ thể khác nhau do hoàn cảnh, phạm vi quản lý cũng như chức năng của chi bộ quyết định. Nhìn chung, Chi bộ có những nhiệm vụ chính là lãnh đạo trong các lĩnh vực, hoạt động sau như:

– Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng, phát triển kinh tế – xã hội. Đảm bảo thực hiện theo các Nghị quyết của địa phương và cấp trên, thực hiện lãnh đạo theo pháp luật, cải cách môi trường để phát triển kinh tế.

– Lãnh đạo công tác tư tưởng: về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng, đạo đức tác phong Hồ Chí Minh, chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tư tưởng chống các quan điểm sai trái,…

– Lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ

– Lãnh đạo xây dựng các tổ chức đảng bộ, chi bộ

– Lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng

– Lãnh đạo xây dựng hệ thống chính trị cơ sở

– Lãnh đạo các đoàn thể chính trị – xã hội

Chức Năng Nhiệm Vụ Của Ban Kiểm Soát Nội Bộ Trong Doanh Nghiệp

Ban kiểm soát nội bộ là gì? Cơ cấu và nội dung công việc của ban kiểm soát nội bộ

Ban kiểm soát nội bộ được biết đến là một tổ chức hoạt động chủ yếu dựa vào công ty được lập ra bởi Hội đồng quản trị. Qua đó, giúp cho Hội đồng quản trị kiểm tra, giám sát tính hợp pháp, chính xác và trung thực trong việc quản lý.

Đồng thời, đảm bảo tuân thủ quy định về quá trình điều hành hoạt động kinh doanh, ghi chép sổ sách kế toán, báo cáo tài chính và việc chấp hành điều lệ công ty, nghị quyết, quyết định của Hội đồng quản trị và Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Bộ phận trưởng ban kiểm soát

Các thành viên ban kiểm soát chuyên trách

Các thành viên ban kiểm soát không chuyên trách

Chức năng nhiệm vụ của Ban kiểm soát nội bộ trong doanh nghiệp

Một số chức năng nhiệm vụ của Ban kiểm soát nội bộ được thống kê cụ thể tại một doanh nghiệp. Cụ thể là:

Kiểm tra, đánh giá các thông tin kinh tế, tài chính và phi tài chính đã và đang cũng như sẽ phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp.

Xác nhận và báo cáo về chất lượng và độ tin cậy của thông tin quản trị, thông tin tài chính do các cá nhân, phòng ban, bộ phận và Ban điều hành doanh nghiệp. Báo cáo cho Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị hay chủ doanh nghiệp.

Kiến nghị giải pháp quản lý rủi ro tiềm tàng vốn có và có thể xảy ra trong tương lai đối với hoạt động của doanh nghiệp.

Xác nhận việc tuân thủ pháp luật, tuân thủ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông và chủ doanh nghiệp mà Ban điều hành doanh nghiệp đã và đang thực hiện trong quá trình điều hành hoạt động.

Kiến nghị giải pháp để kịp thời ngăn chặn các sai phạm đã và đang xảy ra hoặc có thể sẽ xảy ra bất cứ khi nào ở hiện tại và tương lai.

Giám sát thực hiện các giải pháp để chỉnh sửa, khắc phục sai phạm, rủi ro trong mỗi bộ phận, phòng ban và toàn bộ quá trình hoạt động của doanh nghiệp.

Thực hiện việc kiểm tra những sai sót, khi có yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông. Ban Kiểm soát sẽ chịu trách nhiệm kiểm tra theo một khoản thời gian quy định, kể từ ngày nhận được yêu cầu.

Trực tiếp can thiệp vào hoạt động công ty khi cần thiết. Tiến hành kiến nghị với Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng Cổ đông. Để đưa ra các biện pháp sửa đổi, bổ sung, cải tiến cơ cấu tổ chức quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của công ty.

Trường hợp, nếu phát hiện có thành viên Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng Cổ đông, Tổng Giám đốc vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty. Cần phải thông báo bằng văn bản ngay lập tức với Hội đồng quản trị. Bắt buộc những người có hành vi vi phạm phải dừng lại và đưa ra các giải pháp khắc phục hậu quả.

Nguyên tắc hoạt động của ban kiểm soát nội bộ

Độc lập về tổ chức với các đơn vị, các bộ phận điều hành.

Độc lập về hoạt động với các hoạt động quản lý điều hành và các nghiệp vụ được kiểm soát.

Độc lập về đánh giá và trình bày ý kiến trong báo cáo kiểm soát.

Khách quan, trung thực trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm soát nội bộ .

Chuyên trách và không kiêm nhiệm các cương vị, các công việc chuyên môn khác trong bộ máy điều hành.

Thống Nhất Chức Năng, Nhiệm Vụ, Bộ Máy Của Tổ Chức Đảng Trong Doanh Nghiệp Nhà Nước

Các đại biểu tham dự hội thảo.

Báo cáo đề dẫn do đồng chí Nguyễn Thanh Bình trình bày, nhấn mạnh: Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, giải pháp nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nói chung, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, ngân hàng thương mại nhà nước nói riêng; từng bước sắp xếp tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng trong doanh nghiệp. Hiện nay, yêu cầu đặt ra đối với tổ chức đảng, nhất là tổ chức đảng cấp trên cơ sở trong các DNNN và DN có vốn nhà nước chi phối, phải đổi mới, hoàn thiện đồng bộ giữa mô hình tổ chức DN với đổi mới, hoàn thiện nội dung và phương thức lãnh đạo của cấp ủy Đảng; kiện toàn tổ chức bộ máy phải gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Từ thực tiễn sinh động của TP Hồ Chí Minh, đồng chí Võ Thị Dung, Phó Bí thư Thành ủy đề nghị xác định rõ hơn mối quan hệ giữa Đảng ủy cấp trên cơ sở với tổ chức đảng trực thuộc, nhất là với tổ chức đảng trong DN mà vốn nhà nước không chi phối. Đảng ủy cấp trên cơ sở kiểm tra, giám sát đối với tổ chức đảng trong DN có vốn nhà nước không chi phối chỉ kiểm tra, giám sát đảng viên thực hiện nhiệm vụ; kiểm tra doanh nghiệp chấp hành quy định của luật về chính sách người lao động. Đồng chí đề nghị cần rà soát Luật Doanh nghiệp, Luật Công đoàn; cần có quy định Đảng lãnh đạo đoàn thể, tham gia góp ý kiến vào kế hoạch sản xuất, kinh doanh như thế nào; quan tâm nghiên cứu chỉ đạo về bộ máy Đảng ủy trong DN cổ phần hoá, nhất là DN có vốn nhà nước không chi phối.

Theo đồng chí Nguyễn Văn Thắng, Ủy viên dự khuyết T.Ư Đảng, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐQT Ngân hàng VietinBank, là đơn vị áp dụng mô hình tổ chức đảng chưa toàn ngành, Đảng ủy VietinBank không lãnh đạo, chỉ đạo toàn hệ thống, vì vậy việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Đảng ủy có những bất cập. Công tác xây dựng Đảng, phát triển đảng viên ở các đơn vị trong hệ thống bị hạn chế bởi công tác đánh giá chất lượng tổ chức đảng, đảng viên được thực hiện theo hướng dẫn của cấp ủy địa phương, chưa có sự gắn kết với quy chế đánh giá cán bộ của VietinBank.

Đồng chí Trần Ngọc Thành, Bí thư Đảng ủy Tổng công ty Đường sắt Việt Nam nêu thực tế: Đảng bộ tổng công ty có 114 tổ chức cơ sở đảng, 1.038 chi bộ, trong đó có các tổ chức đảng thuộc doanh nghiệp nhà nước, hoặc công ty cổ phần có vốn sở hữu nhà nước dưới 50%, hoặc đã thoái hết vốn nhà nước. Hoạt động của doanh nghiệp cổ phần phát sinh nhiều yếu tố bất cập, dẫn đến vai trò của tổ chức đảng dần dần bị hạn chế, nhất là ở những nơi Nhà nước không giữ cổ phần chi phối. Vai trò của tổ chức đảng trong doanh nghiệp bị chi phối bởi cổ đông lớn, không còn chủ động trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác cán bộ. Một số doanh nghiệp sau cổ phần hóa làm ăn thua lỗ, lãnh đạo doanh nghiệp, cấp ủy biến động, không phát huy được vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng.

Đồng chí Phạm Xuân Cảnh, Phó Bí thư thường trực Đảng ủy, thành viên Hội đồng thành viên (HĐTV) Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đề nghị cần có hướng dẫn cụ thể về việc lập các tổ chức cơ sở đảng trực thuộc Đảng bộ toàn tập đoàn, toàn tổng công ty; hướng dẫn việc lập mô hình tổ chức đảng tại cơ quan Công ty mẹ Tập đoàn (bao gồm bộ máy điều hành, bộ máy tham mưu giúp việc của Tập đoàn) trực thuộc Đảng bộ toàn Tập đoàn. Vì trong thực tế, tập đoàn kinh tế là một nhóm doanh nghiệp (gồm Công ty mẹ Tập đoàn và các doanh nghiệp thành viên) và việc điều hành tập đoàn kinh tế thực hiện thông qua Công ty mẹ Tập đoàn, hoạt động bằng pháp lý của Công ty mẹ Tập đoàn. Đại diện Đảng ủy đề nghị cần xác định rõ đối tượng và phân biệt giữa đảng ủy cấp trên cơ sở và đảng ủy cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng. Tại Đảng bộ Tập đoàn Dầu khí Việt Nam thì Đảng ủy cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng còn được giao một số quyền cấp trên cơ sở. Thực tiễn hiện nay, trong các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước chi phối chịu sự điều chỉnh theo các văn bản quy phạm pháp luật. Vai trò của cấp ủy Đảng trong công tác cán bộ được quy định thuần túy chỉ là cấp cho ý kiến (đồng ý hoặc không đồng ý) về công tác cán bộ ở tất cả các khâu theo đề nghị của HĐTV và Tổng giám đốc doanh nghiệp. Quy định nhiệm vụ, quyền hạn trong lãnh đạo công tác tổ chức cán bộ cần cụ thể hơn. Cần nêu rõ: Cấp ủy lãnh đạo cụ thể những gì? Lãnh đạo như thế nào? Thẩm quyền được quyết định những gì, quyết định những khâu nào trong công tác cán bộ? Xây dựng quy chế, quy định gồm những gì? Đề nghị bổ sung thẩm quyền của ban thường vụ cấp ủy trong việc quyết định định biên cán bộ chuyên trách của các đoàn thể chính trị – xã hội trong doanh nghiệp.

Kiện toàn tổ chức, bộ máy đồng bộ hơn Phần lớn đại biểu nhất trí cao với dự thảo; đề xuất nên xác định rõ tổ chức đảng trong doanh nghiệp nhà nước theo mô hình toàn tập đoàn hay mô hình không toàn tập đoàn. Đồng chí Nguyễn Văn Thắng cho rằng, hoạt động của ngành ngân hàng có những đặc thù riêng, trong khi đó tại địa phương, đảng ủy khối doanh nghiệp tỉnh, thành phố chỉ đạo chưa sát với nhiệm vụ chính trị của ngân hàng. Đảng bộ VietinBank mong muốn được kiện toàn theo mô hình đảng bộ toàn ngành để lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện các mặt hoạt động, thống nhất xuyên suốt toàn hệ thống, thực hiện đúng chủ trương nhất thể hóa sự lãnh đạo của Đảng.

Đồng chí Ngô Thị Thanh Hằng đề nghị Trung ương nghiên cứu hoàn thiện mô hình tổ chức đảng trong các tập đoàn kinh tế, tổng công ty thuộc các thành phần kinh tế, tránh tình trạng đảng bộ doanh nghiệp thành viên có cùng cấp bộ đảng với đảng bộ các tập đoàn kinh tế, tổng công ty. Nên ưu tiên xác lập đảng bộ toàn doanh nghiệp vì có nhiều ưu điểm hơn, thuận lợi cho công tác lãnh đạo, điều hành, nhất là trong thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác cán bộ.

Theo tham luận của Tập đoàn Điện lực Việt Nam, công tác cán bộ của Đảng ủy Tập đoàn đối với các đơn vị thành viên chưa toàn diện và đồng đều. Hiện nay, Ban Thường vụ Đảng ủy Tập đoàn quản lý cán bộ đến thủ trưởng các đơn vị cấp III, tuy nhiên, việc đánh giá cán bộ hằng năm (đối với cán bộ của các đơn vị sinh hoạt đảng tại địa phương) chưa đầy đủ thông tin, do chưa có quy định báo cáo thường xuyên. Quy chế làm việc của Đảng ủy Tập đoàn cũng chưa có quy định về mối quan hệ công tác giữa Đảng ủy Tập đoàn với cấp ủy các đơn vị sinh hoạt đảng tại địa phương. Tuy mô hình tổ chức đảng chưa đồng bộ, song Đảng ủy Tập đoàn vẫn giữ được vai trò lãnh đạo trong thực hiện nhiệm vụ chính trị, xây dựng và phát triển Tập đoàn. Vì vậy, Đảng ủy đề nghị tiếp tục mô hình Đảng bộ công ty mẹ mở rộng.

Về tổ chức bộ máy, đồng chí Phạm Xuân Cảnh nêu ý kiến, nên quy định một phó bí thư phụ trách xây dựng Đảng, có thể bố trí kiêm lãnh đạo doanh nghiệp, để có sự lãnh đạo gắn kết, sâu sát hơn với nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh mà không nên quy định phó bí thư chuyên trách. Một số đại biểu cho rằng, cần quy định rõ việc lập cơ quan chuyên trách, các ban chuyên trách và định biên cán bộ chuyên trách cho từng ban chuyên trách xây dựng Đảng. Số lượng cán bộ chuyên trách cần phân theo quy mô đảng bộ, vị trí doanh nghiệp: Tập đoàn kinh tế khác tổng công ty và khác các ngân hàng thương mại; đảng bộ toàn tập đoàn khác các đảng bộ công ty mẹ hoặc đảng bộ cơ quan. Cán bộ tại các ban chuyên trách không nên quy định tăng cường bố trí kiêm nhiệm – nếu có thì chỉ nên kiêm nhiệm trong phạm vi cơ quan chuyên trách, giữa các ban chuyên trách; tránh trường hợp quy định “tăng cường bố trí kiêm nhiệm công tác đảng” thì lãnh đạo doanh nghiệp sẽ không bố trí đủ số lượng định biên cần thiết và trong thực tế ở doanh nghiệp, cán bộ tham mưu trực tiếp bố trí kiêm nhiệm hiệu quả không cao.

Đồng chí Nguyễn Kim Anh, Ủy viên Ban cán sự Đảng, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đề nghị cần cập nhật chủ trương, chính sách mới để xây dựng quy định phù hợp. Thí dụ, nếu chỉ quy định mô hình tổ chức đảng trong ngân hàng thương mại thì chưa đủ. Nhiều ngân hàng nhà nước hiện là ngân hàng cổ phần nhà nước chi phối, hay ngân hàng chính sách là tổ chức tài chính có chức năng tín dụng.

Từ thực tế tại Đảng bộ Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam, đồng chí Hoàng Đức Sơn, Phó Bí thư Đảng ủy cho biết, hiện nay, Đảng ủy Khối Doanh nghiệp T.Ư có Ban Dân vận, nhiệm vụ công tác dân vận của Đảng ủy Khối triển khai xuống các đảng ủy trực thuộc, nhưng chưa quy định thuộc ban tham mưu, giúp việc nào của cấp ủy cấp trên cơ sở thực hiện nhiệm vụ này. Do vậy, cần quy định nhiệm vụ công tác dân vận thuộc ban nào trong các ban tham mưu, giúp việc cấp ủy và nên đưa vào quy định này. Còn đồng chí Trần Ngọc Thành, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Thành viên Tổng công ty Đường sắt Việt Nam nêu ý kiến, khi quy định về mô hình tổ chức đảng cấp trên cơ sở trong DNNN cần xem xét việc sắp xếp các tổ chức đoàn thể chính trị cho phù hợp, tránh tình trạng như hiện nay là tổ chức đảng trực thuộc nơi này; công đoàn, đoàn thanh niên trực thuộc nơi khác. Đối với quy định về số lượng cán bộ chuyên trách công tác đảng, nhiều ý kiến cho rằng cần nghiên cứu thật kỹ lưỡng để quyết định phù hợp. Cần tính đến chế độ chính sách, nguồn chi trả để không ảnh hưởng chi phí sản xuất của doanh nghiệp, nhưng vẫn bảo đảm thực hiện nhiệm vụ công tác đảng.

Mối quan hệ giữa đảng ủy với lãnh đạo doanh nghiệp và cấp ủy địa phương Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của đảng ủy cấp trên cơ sở trong doanh nghiệp, cần xây dựng mối quan hệ công tác giữa đảng ủy cấp trên cơ sở trong doanh nghiệp nhà nước với: Tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương và các cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy; đảng đoàn, ban cán sự đảng, lãnh đạo các bộ, ngành, đoàn thể ở Trung ương; hội đồng quản trị/hội đồng thành viên, tổng giám đốc và các đoàn thể chính trị – xã hội trong doanh nghiệp; cấp ủy địa phương nơi doanh nghiệp có đơn vị thành viên đóng trên địa bàn. Các đại biểu đã có những kiến nghị, đề xuất cụ thể, tương đối nhất, có thể chia thành các nhóm nội dung là: Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng công ty Đường sắt Việt Nam Trần Ngọc Thành kiến nghị, Trung ương cần quy định cơ chế phối hợp giữa đảng ủy tổng công ty, tập đoàn với tỉnh ủy, thành ủy. Thực tế, các đơn vị thành viên của Tổng công ty Đường sắt đóng ở các tỉnh, thành phố và trải dài qua hơn 200 huyện. Nếu Đảng ủy đường sắt phối hợp cấp ủy huyện sẽ rất khó khăn và không thể; còn trong mối quan hệ với tỉnh ủy thì Đảng ủy đường sắt chỉ tương đương cấp huyện, khó gọi là phối hợp với các tỉnh ủy, thành ủy.

Ở một góc độ khác, Thứ trưởng Nội vụ Nguyễn Trọng Thừa đề nghị cần quy định thật rõ mối quan hệ giữa đảng ủy trong nội bộ tập đoàn, tổng công ty, cụ thể là với hội đồng quản trị, hội đồng thành viên, tổng giám đốc. Đồng thời kiến nghị quy định về mối quan hệ phải được cân nhắc, đối chiếu với Luật Doanh nghiệp, xem có cản trở doanh nghiệp phát triển hay không? Bởi vì tiến trình cổ phần hóa tới đây sẽ rất nhanh và Nghị quyết Đại hội XII của Đảng nêu rõ là tạo mọi điều kiện để doanh nghiệp phát triển.

Đồng chí Hoàng Đức Sơn đề nghị Trung ương quy định rõ hơn việc phối hợp về lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác cán bộ; quy định các đảng ủy tập đoàn, tổng công ty phối hợp cấp ủy nào ở địa phương. Để việc phối hợp giữa các đảng ủy tập đoàn kinh tế với cấp ủy địa phương có hiệu quả cao, đề nghị Trung ương quy định cụ thể hơn như, phối hợp bằng việc ban hành các nghị quyết, quyết định, quy định về lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác cán bộ và lãnh đạo các đoàn thể quần chúng.

Về mối quan hệ của đảng ủy với các tổ chức trong nội bộ doanh nghiệp, Phó Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh Võ Thị Dung đề nghị, bí thư cấp ủy phải là người giữ vai trò chủ chốt trong doanh nghiệp thì mới thực hiện tốt được nhiệm vụ, phát huy vai trò của tổ chức đảng. Đồng quan điểm này, Phó Bí thư thường trực Đảng ủy, thành viên HĐTV Tập đoàn Dầu khí Việt Nam Phạm Xuân Cảnh đề nghị, bí thư cấp ủy nên là chủ tịch, tổng giám đốc.

Khái Niệm, Nhiệm Vụ, Chức Năng Của Doanh Nghiệp Thương Mại

Kết quả Khái niệm, nhiệm vụ, chức năng của doanh nghiệp thương mại:

“Doanh nghiệp thương mại là một đơn vị kinh doanh được thành lập hợp pháp, nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực thương mại”.Như vậy, một tổ chức kinh tế được coi là một doanh nghiệp thương mại phải có đủ hai điều kiện sau:

Phải được thành lập theo đúng luật định;

Phải trực tiếp thực hiện chức năng thương mại với mục đích kiếm lời.

Nhiệm vụ của doanh nghiệp thương mại:

Các doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực đều có chung nhiệm vụ sau:

Hoạt động kinh doanh đáp ứng nhu cầu của thị trường;

Thực hiện đầy đủ các cam kết đối với khách hàng về sản phẩm, dịch vụ, giải quyết thỏa đáng các mối quan hệ lợi ích với các chủ thể kinh doanh theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi;

Bảo toàn và tăng trưởng vốn, mở rộng kinh doanh;

Bảo vệ môi trường, bảo vệ sản xuất, bảo đảm an ninh, an toàn và trật tự xã hội;

Chấp hành pháp luật, thực hiện chế độ hạch toán thống kê thống nhất và thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước.

Chức năng của doanh nghiệp thương mại

Thực hiện chức năng lưu chuyển hàng hóa.

Sản xuất ra sản phẩm là khâu đầu tiên, nhưng sản phẩm mới chỉ là sản phẩm ở trạng thái khả năng, chỉ khi nào sản phẩm được đưa vào quá trình sử dụng (trong sản xuất hoặc tiêu dùng cá nhân) thì sản phẩm mới thực sự trở thành sản phẩm và quá trình sản xuất mới hoàn thành.

Thực hiện chức năng lưu thông hàng hóa một cách chuyên nghiệp, các doanh nghiệp thương mại tổ chức quá trình lưu thông một cách hợp lý, nhanh chóng, đảm bảo thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Doanh nghiệp thương mại là người cung ứng hàng hóa cho khách hàng, do đó cần phải quan tâm đến giá trị sử dụng của hàng hóa (sử dụng như thế nào? Sử dụng làm gì? Đối tượng sử dụng? Thời gian và địa điểm mua bán?) và chi phí lưu thông hàng hóa để có giá cả hợp lý, khách hàng có thể chấp nhận được.

Chức năng tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu lưu thông.

Quá trình sản xuất theo nghĩa rộng gồm 4 khâu: sản xuất, phân phối, trao đổi (lưu thông) và tiêu dùng. Bốn khâu này có quan hệ mật thiết và tác động qua lại với nhau trong đó mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng là mối quan hệ cơ bản nhất.

Kinh doanh thương mại nằm ở khâu trung gian giữa một bên là sản xuất và phân phối, một bên là tiêu dùng sản phẩm. Trong quá trình trao đổi hàng hóa, lưu thông sản phẩm từ lĩnh vực sản xuất đến lĩnh vực tiêu dùng, các doanh nghiệp thương mại phải thực hiện phân loại, chọn lọc, đóng gói, vận chuyển, dự trữ, bảo quản sản phẩm, hướng dẫn sử dụng sản phẩm, sửa chữa, lắp ráp, bảo hành sản phẩm…Đây chính là chức năng tiếp tục quá trình sản xuất trong quá trình lưu thông. Chức năng này nhằm hoàn thiện sản phẩm ở dạng tốt nhất để sản phẩm thích hợp với nhu cầu của người tiêu dùng.

Như vậy, kinh doanh thương mại có chức năng lưu thông hàng hóa là chức năng kinh tế chủ yếu, nhưng gắn rất chặt chẽ với chức năng kỹ thuật sản phẩm, tức là chức năng tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu lưu thông. Mặt khác, trong quá trình thực hiện lưu thông hàng hóa, các doanh nghiệp thương mại còn phải thực hiện việc tổ chức sản xuất, đầu tư, khai thác tạo nguồnhàng để tạo ra các sản phẩm thay thế hàng ngoại nhập có giá cả phải chăng để chủ động trong nguồn hàng và thích hợp với nhu cầu của khách hàng.

Chức năng dự trữ hàng hóa và điều hòa cung – cầu.

Chức năng của kinh doanh thương mại là mua bán hàng hóa vào để cung ứng đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, đúng chất lượng, số lượng, ở những nơi thuận tiện cho khách hàng. Nhờ có hàng hóa dự trữ mà doanh nghiệp thương mại có thể thỏa mãn đầy đủ, kịp thời về nhu cầu hàng hóa của khách hàng. Nhờ có hệ thống mạng lưới rộng (kho, trạm, cửa hàng, quầy hàng, siêu thị, đại lý…) mà doanh nghiệp thương mại có thể đảm bảo thuận lợi cho khách hàng mua những hàng hóa cần thiết, vừa tiết kiệm được thời gian, vừa không phải đi quá xa.

Để thỏa mãn nhu cầu và khả năng của khách hàng, doanh nghiệp thương mại phải mua những mặt hàng có chất lượng tốt, đúng yêu cầu của khách hàng, nhưng phải ở nơi có nguồn hàng phong phú, nhiều, rẻ, sau khi cộng với chi phí lưu thông đưa đến thị trường bán, khách hàng vẫn có thể chấp nhận được. Điều này, một cách tự nhiên, kinh doanh thương mại thực hiện việc điều hòa cung cầu từ nơi có hàng hóa nhiều, phong phú, rẻ đến nơi có hàng hóa ít, khan hiếm, đắt hoặc mua hàng khi thời vụ và bán hàng quanh năm, cung cầu hàng hóa được điều hòa.

Về Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Đảng Bộ, Chi Bộ Cơ Sở Cơ Quan

QUY ĐỊNH

VỀ CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA ĐẢNG BỘ, CHI BỘ CƠ SỞ CƠ QUAN

– Căn cứ Điều lệ Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị (khóa IX);

– Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

– Căn cứ Pháp lệnh cán bộ, công chức và đặc điểm của cơ quan;

Ban Bí thư quy định chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở cơ quan như sau:

I- Chức năng

Điều 1. Đảng bộ, chi bộ cơ sở cơ quan là hạt nhân chính trị, lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tham gia lãnh đạo xây dựng và thực hiện có hiệu quả các chủ trương, nhiệm vụ công tác của cơ quan; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, công chức và người lao động; xây dựng đảng bộ, chi bộ và cơ quan vững mạnh.

II- Nhiệm vụ

Điều 2. Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, an ninh, quốc phòng.

1- Lãnh đạo cán bộ, công chức và người lao động đề cao tinh thần trách nhiệm, tham gia xây dựng và thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của cơ quan theo đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

2- Lãnh đạo cán bộ, công chức và người lao động phát huy tính chủ động, sáng tạo, làm tốt chức năng tham mưu, nghiên cứu, đề xuất và kiến nghị với lãnh đạo cơ quan về những vấn đề cần thiết; không ngừng cải tiến lề lối, phương pháp làm việc, nâng cao hiệu quả công tác, thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao.

3- Lãnh đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở cơ quan, phát huy quyền làm chủ của cán bộ, công chức và người lao động, đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu và các biểu hiện tiêu cực khác. Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, cải thiện điều kiện làm việc của cán bộ, công chức và người lao động.

4- Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng toàn dân, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong cơ quan. Đoàn kết nội bộ, đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng, đấu tranh chống âm mưu ”diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, giữ gìn bí mật quốc gia, bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ tài sản của Nhà nước và của cơ quan.

Điều 3. Lãnh đạo công tác tư tưởng

1- Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng, đạo đức tác phong Hồ Chí Minh cho cán bộ, công chức và người lao động; phát huy truyền thống yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tinh thần làm chủ, xây dựng tình đoàn kết, hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau; kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên, quần chúng để giải quyết và báo cáo lên cấp trên.

2- Kịp thời phổ biến, quán triệt để cán bộ, công chức và người lao động nắm vững và chấp hành đúng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các chủ trương, nhiệm vụ của cơ quan; thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, kiến thức và năng lực công tác cho cán bộ, đảng viên.

3- Lãnh đạo cán bộ, đảng viên và quần chúng đấu tranh chống các quan điểm sai trái, chống tư tưởng cơ hội, thực dụng, cục bộ, bản vị, những hành vi nói, viết và làm trái với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; những biểu hiện mất dân chủ, gia trưởng, độc đoán, quan liêu, thiếu tinh thần trách nhiệm, tinh thần hợp tác và ý thức tổ chức, kỷ luật; phòng, chống sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.

Điều 4. Lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ.

1- Cấp ủy tham gia xây dựng và lãnh đạo thực hiện chủ trương về kiện toàn tổ chức, sắp xếp bộ máy và quy chế hoạt động của cơ quan.

2- Cấp ủy tham gia ý kiến với ban cán sự đảng, đảng đoàn và lãnh đạo cơ quan về quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nhận xét, đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật … đối với cán bộ thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan. Lãnh đạo việc thực hiện các quyết định đó. Chú trọng phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và phát triển tài năng.

3- Cấp ủy đề xuất ý kiến để cấp trên xem xét, quyết định các vấn đề về tổ chức và cán bộ của cơ quan thuộc thẩm quyền của cấp trên.

Điều 5. Lãnh đạo các đoàn thể chính trị – xã hội.

1- Lãnh đạo các đoàn thể chính trị – xã hội trong cơ quan xây dựng tổ chức vững mạnh, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo luật định và điều lệ của mỗi đoàn thể; phát huy quyền làm chủ của cán bộ, công chức và người lao động, đẩy mạnh các phong trào thi đua, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được giao.

2- Lãnh đạo các đoàn thể chính trị – xã hội và cán bộ, đảng viên, quần chúng tham gia xây dựng và bảo vệ đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các chủ trương, nhiệm vụ của cơ quan.

Điều 6. Xây dựng tổ chức đảng.

1- Đề ra chủ trương, nhiệm vụ và biện pháp xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên, nhất là việc phát hiện và đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực trong cơ quan. Thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình; thực hiện có nền nếp và nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ, bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu.

– Giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên nêu cao vai trò tiền phong, gương mẫu, thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao; xây dựng kế hoạch và tạo điều kiện để đảng viên thực hiện nhiệm vụ học tập, không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt.

3- Cấp ủy xây dựng kế hoạch, biện pháp quản lý đảng viên, phân công nhiệm vụ và tạo điều kiện cho đảng viên hoàn thành nhiệm vụ được giao; thực hiện tốt việc giới thiệu đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với chi ủy, đảng ủy cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú. Làm tốt công tác động viên, khen thưởng, kỷ luật đảng viên; biểu dương, khen thưởng kịp thời những cán bộ, đảng viên có thành tích xuất sắc, xử lý nghiêm, kịp thời những cán bộ, đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước.

4- Làm tốt công tác tạo nguồn và phát triển đảng viên, bảo đảm về tiêu chuẩn và quy trình, chú trọng đối tượng là đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và những quần chúng ưu tú, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ.

5- Xây dựng cấp ủy có đủ phẩm chất, năng lực, hoạt động có hiệu quả, được đảng viên, quần chúng tín nhiệm. Nói chung, bí thư cấp ủy phải là cán bộ lãnh đạo của cơ quan, tiêu biểu cho đảng bộ, chi bộ, đoàn kết, tập hợp được cán bộ, đảng viên và quần chúng.

6- Cấp ủy thường xuyên kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và Quy định của Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm. Định kỳ hằng năm, cấp ủy tổ chức để quần chúng tham gia góp ý về sự lãnh đạo của tổ chức đảng và vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên.

Điều 7. Đối với thủ trưởng cơ quan.

1. Đảng bộ, chi bộ, cấp ủy bảo đảm và tạo điều kiện để thủ trưởng cơ quan thực hiện trách nhiệm, quyền hạn được giao; thủ trưởng cơ quan bảo đảm và tạo điều kiện để đảng bộ, chi bộ thực hiện Quy định này. Cấp ủy cơ quan thường xuyên phản ánh với ban cán sự đảng, đảng đoàn, lãnh đạo cơ quan ý kiến của đảng viên, quần chúng về việc thực hiện các nhiệm vụ và chính sách, chế độ trong cơ quan.

3- Bí thư, thủ trưởng cơ quan phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và tổ chức đảng khi để xảy ra quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực trong cơ quan. Khi đảng ủy, chi ủy cơ sở và thủ trưởng cơ quan có ý kiến khác nhau thì thủ trưởng cơ quan quyết định theo thẩm quyền và chịu trách nhiệm về quyết định đó, đồng thời cấp ủy và thủ trưởng cơ quan cùng báo cáo lên cấp trên có thẩm quyền xem xét, quyết định.

Điều 8. Đối với các đoàn thể chính trị – xã hội.

Định kỳ (3 tháng, 6 tháng, 1 năm) hoặc đột xuất khi có yêu cầu, cấp ủy làm việc với các đoàn thể, nắm định hình hoạt động của từng đoàn thể để có biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời.

Điều 9. Đối với cấp ủy và chính quyền địa phương.

Cấp ủy xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với cấp ủy và chính quyền địa phương nơi có trụ sở cơ quan và nơi có cán bộ, đảng viên của cơ quan cư trú, để phối hợp công tác và quản lý cán bộ, đảng viên.

IV- Điều khoản thi hành

Điều 10. Tổ chức thực hiện.

1- Các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương, các cấp ủy cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện Quy định này.

2- Căn cứ Quy định này và các văn bản hướng dẫn của cấp ủy cấp trên, đảng bộ, chi bộ cơ sở cơ quan xây dựng quy chế hoạt động cụ thể để thực hiện.

Điều 11. Hiệu lực thi hành.

Quy định này thay thế Quy định số 54-QĐ/TW, ngày 19-11-1992 của Ban Bí thư (khóa VII), có hiệu lực từ ngày ký và phổ biến đến các chi bộ để thực hiện.