Chức Năng Nhận Thức Và Dự Báo Của Văn Học

Văn học nghệ thuật tồn tại trước hết với tư cách của một hình thái nhận thức, có khả năng mở rộng sự hiểu biết của con người. Mỗi tác phẩm văn học từ xưa tới nay đều có giá trị như một thành tựu trên chặng đường nhận thức chung của nhân loại. Vì thế, văn học luôn đưa ta tới những chân trời mới, giúp ta hiểu hơn cuộc sống không chỉ trong hiện tại mà cả trong quá khứ, không chỉ trong phạm vi đất nước mình mà cả ở những xứ sở xa xôi.

Vì vậy chức năng đầu tiên của văn học là chức năng nhận thức và dự báo. Văn học đáp ứng nhu cầu hiểu biết của con người, trở thành “cuốn sách giáo khoa của đời sống”. Khi nắm bắt đời sống trong tính toàn vẹn thẩm mỹ của nó, nhà văn thường đem vào trong tác phẩm của mình một lượng thông tin phong phú và sinh động về đối tượng mà mình miêu tả. Đó là lượng thông tin thẩm mĩ, giàu hình tượng, dễ tiếp nhận đối với mọi người.

Trong tác phẩm “Ông già và biển cả” chúng ta có thể hiểu thêm về biển, về sự phát hiện những quá trình vật lí, sinh học diễn ra trong lòng đại dương mà còn ở sự khám phá về mối tương quan giữa con người và biển, về bản lĩnh và khát vọng của con người trong cuộc đấu tranh xác lập ý nghĩa tồn tại của mình trước thế giới tự nhiên và thế giới con người.

Phản ánh cuộc sống một cách toàn vẹn, sinh động, văn học còn có khả năng vươn tới tầm cao của sự khái quát, nắm bắt sự vận động bên trong của đời sống hiện thực. Chính từ độ chín của sự khám phá, khái quát ấy, văn học có khả năng dự báo tương lai.

Nhờ năng lực ước đoán, tưởng tượng và sự nhạy cảm trước mọi biến động của lịch sử, nhiều nhà văn dự cảm được những biến động của lịch sử, những quá trình xã hội mới ngay khi thực tế đời sống quanh mình vẫn còn trong trạng thái bốn phương phẳng lặng.

Nhà văn tài năng sẽ không đóng khung cuộc sống trong cái nhìn tĩnh quan mà luôn nhìn nhận đánh giá trong sự vận động, phát triển. Yếu tố tiên tri như một phẩm chất chung của những thành tựu văn học lớn. Tuy nhiên, mức độ dự báo, tính chất và nội dung dự báo không phải như nhau trong mỗi trào lưu văn học.

Bên cạnh những tác phẩm tràn đầy dự cảm lạc quan và niềm tin mạnh mẽ vào con người cũng có không ít những tác phẩm, những xu hướng văn học bộc lộ thái độ bi quan, tuyệt vọng trước tương lai loài người. Đối mặt với hiện tại, thâm nhập sâu rộng vào quá trình thực tiễn, văn học hiện thực chủ nghĩa dễ nắm bắt được những tín hiệu của tương lai.

Please follow and like us:

Comments

Mẫn Cảm Của Nghệ Sĩ Trước Thực Tại Và Chức Năng Dự Báo Của Văn Học

rong những năm trước đây, do nhiều nguyên nhân, lý luận văn học và mĩ học Mác xít mới chỉ biết đến 3 chức năng cơ bản của văn học là nhận thức, giáo dục và thẩm mỹ. Theo đó, hoạt động sáng tạo và tiếp nhận văn học cũng thường bị giới hạn, hay nói đúng hơn là bị chi phối bởi ba chức năng này. Cho đến nay, sau ngót một thế kỷ với những biến cố thăng trầm, ba chức năng trên có thể có những cách lý giải khác, với những lối diễn đạt khác, nhưng về căn bản nó vẫn được thừa nhận, và thực tế cho thấy chưa chịu một sự chỉ trích phê phán thuyết phục nào. Tuy nhiên, từ đầu những năm chín mươi của thế kỷ XX đến nay, do sự đổi mới và phát triển của tư duy lý luận và sự phong phú, sinh động của thực tiễn sáng tạo cũng như tiếp nhận văn học nghệ thuật, ngoài ba chức năng quen thuộc, ở một số diễn đàn hội thảo khoa học, một số tiểu luận đăng trên báo và tạp chí, một số công trình và giáo trình lý luận văn học đã bước đầu đề xuất những chức năng mới của văn học như: chức năng giải trí, chức năng dự báo, chức năng giao tiếp, chức năng thông tin… Riêng chức năngdự báo đã có nhà lý luận đề xuất phương án kết hợp với chức năng nhận thức để thành chức năng nhân thức và dự báo của văn học, với lý do chức năng nhận thức tạo tiền đề cho chức năng dự báo. Những đề xuất này đã đầy đủ cơ sở khoa học, đã phù hợp với thực tiễn nghệ thuật hay chưa? Vẫn đang cần giới lý luận và sáng tác cùng suy nghĩ để tiếp tục làm sáng tỏ. Nhưng, với suy nghĩ cá nhân, chúng tôi cho rằng vấn đề dự báo chỉ thuộc về tác giả, còn vấn đề nhận thức thuộc về cả hai: tác giả và người đọc. Vì vậy, chúng tôi thiên về phía cho rằng dự báo là chức năng riêng, độc lập với chức năng nhận thức………..

rong những năm trước đây, do nhiều nguyên nhân, lý luận văn học và mĩ học M ác xít mới chỉ biết đến 3 chức năng cơ bản của văn học là nhận thức, giáo dụcvà thẩm mỹ. Theo đó, hoạt động sáng tạo và tiếp nhận văn học cũng thường bị giới hạn, hay nói đúng hơn là bị chi phối bởi ba chức năng này. Cho đến nay, sau ngót một thế kỷ với những biến cố thăng trầm, ba chức năng trên có thể có những cách lý giải khác, với những lối diễn đạt khác, nhưng về căn bản nó vẫn được thừa nhận, và thực tế cho thấy chưa chịu một sự chỉ trích phê phán thuyết phục nào.

Tuy nhiên, từ đầu những năm chín mươi của thế kỷ XX đến nay, do sự đổi mới và phát triển của tư duy lý luận và sự phong phú, sinh động của thực tiễn sáng tạo cũng như tiếp nhận văn học nghệ thuật, ngoài ba chức năng quen thuộc, ở một số diễn đàn hội thảo khoa học, một số tiểu luận đăng trên báo và tạp chí, một số công trình và giáo trình lý luận văn học đã bước đầu đề xuất những chức năng mới của văn học như: chức năng giải trí, chức năng dự báo,chức năng giao tiếp,chức năng thông tin…Riêng chức năng dự báođã có nhà lý luận đề xuất phương án kết hợp với chức năng nhận thức để thành chức năng nhân thứcvà dự báocủa văn học, với lý do chức năng nhận thức tạo tiền đề cho chức năng dự báo. Những đề xuất này đã đầy đủ cơ sở khoa học, đã phù hợp với thực tiễn nghệ thuật hay chưa? Vẫn đang cần giới lý luận và sáng tác cùng suy nghĩ để tiếp tục làm sáng tỏ. Nhưng, với suy nghĩ cá nhân, chúng tôi cho rằng vấn đề dự báochỉ thuộc về tác giả, còn vấn đề nhận thứcthuộc về cả hai: tác giả và người đọc. Vì vậy, chúng tôi thiên về phía cho rằng dự báo là chức năng riêng, độc lập với chức năng nhận thức.

Thực ra, đây không phải là phát hiện hoàn toàn mới của các nhà lý luận văn học và mĩ học, mà là một vấn đề đã từng có từ rất lâu trong thực tiễn lịch sử nghệ thuật nhân loại nói chung và lịch sử văn học, nghệ thuật Việt Nam nói riêng. Một trong những chứng giải thuyết phục về chức năng dự báo của văn học là sáng tác của những nhà văn lớn thời đại Phục hưng. Ngay từ khi giai cấp tư sản mới hình thành, đại diện cho những lực lượng mới đang lên, chiếm lĩnh vũ đài lịch sử và quyết định chiều hướng đi lên của xã hội, bằng khả năng phân tích, phán đoán và kết hợp với những dự cảm tinh tế, trong các tác phẩm của mình, các nhà nhân văn chủ nghĩa đã cảnh báo trước về thói vụ lợi, lòng tham và các cuộc chinh phạt, tước đoạt đầy máu và nước mắt do chính giai cấp tư sản thực hiện. Gần hơn vào những năm đầu thế kỷ XX, M.Gorki – nhà văn vô sản Nga – dường như đã dự cảm trước được những biến cố lớn của thế kỷ, gần nhất là cuộc cách mạng vô sản Nga qua hình tượng Chim báo bão trong truyện ngắn cùng tên.

Ở Việt Nam, vào cuối những năm ba mươi, đầu những năm bốn mươi của thế kỷ XX, trước tác động của lịch sử, các nhà thơ, nhà văn như: Tố Hữu, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nam Cao, Trần Huyền Trân, Thâm Tâm… đã cho thấy trong sáng tác của họ những dự cảm về tương lại, những tín hiệu báo trước cuộc cách mạng tháng Tám sẽ diễn ra vào những năm sau đó không lâu. Tố Hữu viết:

Ta nghe hè dậy bên lòng Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi!

Nam Cao viết truyện Cơn giông,truyện Sống mòn,truyện Điếu vănvới cảm giác bức bối và với triết lý “sống tức là thay đổi”. Nguyên Hồng viết truyện Lửa, Nhân loại, Ngày mai,đặc biệt là tập truyện ký Cuộc sốngđể nói đến cái không khí ngột ngạt, cái sức nóng chuẩn bị bùng cháy vào một ngày nào đó không xa. Tô Hoài thì cảm thấy “Bốn phương và quanh mình đã nóng như lửa và thực sự lửa đang cháy. Mỗi người, người nào cũng đương cần tự quyết định chết hay là đứng lên? Một con đường” (Hồi ký Tự truyện). Còn Trần Huyền Trân và Thâm Tâm thì dự cảm da diết về các chuyến đi đầy quả quyết nhưng cũng đầy dùng dằng, lưỡng lự. Và gần đây, chắc ai cũng nhớ, vào cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, trong đời sống văn học nghệ thuật đã xuất hiện những phóng sự, những truyện ngắn, những tiểu thuyết, những vở kịch gây xôn xao dư luận, thu hút được sự quan tâm theo dõi của toàn xã hội. Các tác phẩm này không chỉ trực diện phản ánh những vấn đề gay cấn nóng bỏng của thực tại mà còn đưa ra được những dự báo, cảnh báo trước về những vấn đề của cơ chế chính sách, của đời sống xã hội và con người.

Đó là chưa kể đến những tác phẩm như: Cù lao Tràm, Đứng trước biển của Nguyễn Mạnh Tuấn còn ra đời sớm hơn. Đặc biệt là hàng loạt phóng sự nghệ thuật của Trần Huy Quang, Minh Chuyên, Phùng Gia Lộc… làm khuấy động xã hội bằng những chất liệu hiện thực sinh động, có sức truyền cảm mạnh mẽ. Đó thực sự là những áp lực, những tín hiệu báo trước của thời kỳ đổi mới sẽ được chính thức khởi động vào năm 1986.

Như vậy là, bằng mẫn cảm nghệ sĩ và tinh thần công dân của mình, các nghệ sỹ đã góp phần dân chủ hóa xã hội, đề xuất với Đảng và Nhà nước những vấn đề lớn của đời sống sản xuất vật chất và tinh thần xã hội để từ đó hoạch định chiến lược đổi mới, làm thay đổi diện mạo đất nước. So với yêu cầu phát triển, thành tựu văn học thời kỳ tiền đổi mới, tuy còn khiêm tốn nhưng rất đáng được ghi nhận. Đó là sự khởi đầu có ý nghĩa trọng đại góp phần mở ra một thời kỳ mới của đất nước. Ngay cả những người khó tính nhất cũng phải thừa nhận từ năm 1986 đến nay, đất nước ta đã đạt được những kỳ tích lớn lao. Cơ chế quản lý quan liêu bao cấp có thâm niên hàng mấy chục năm, khi tỏ ra không còn phù hợp đã nhanh chóng được thay thế; chính trị ổn định; kinh tế tăng trưởng; mức sống được cải thiện rõ rệt; bộ mặt đất nước đang thay đổi từng ngày, từng giờ. Cần phải khẳng định rằng trong thành tựu của công cuộc đổi mới có đóng góp đáng kể của văn học, nghệ thuật.

Song, rất tiếc là trong quá trình chuyển giai đoạn những năm qua, văn học, nghệ thuật dường như không tiếp tục được mạch cảm hứng công dân, cảm hứng chính luận và vai trò tích cực của mình như thời kỳ tiền đổi mới. Dường như khi những bức bối của cuộc sống đã được giải quyết thì nhiệt huyếtcông dân và tâm huyếtnghệ sĩ có phần giảm và lắng xuống. Đáng lẽ phải phát huy tinh thần đó vào việc đề xuất, kiến giải những vấn đề mới, phản ánh cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực của quá trình đổi mới và đưa ra những dự báo chính xác cho tương lai… thì không ít nghệ sỹ, không ít tác phẩm lại có chiều hướng quay về với những “bi kịch nhỏ”, những số phận cá nhân, những toan tính đời thường, gặm nhấm quá khứ hoặc chạy theo cám dỗ của tiền bạc và hư danh, bỏ quên thiên chức cao quý của nghệ sỹ để chấp nhận mua vui, giải sầu cho những công chúng thấp kém về thị hiếu thẩm mỹ nhưng lại có tiền bằng những sáng tác ít giá trị nghệ thuật, nặng về câu khách thông qua các chi tiết giật gân, hiếu kỳ. Trong lịch sử văn học đã từng có những nhà văn nổi danh nhờ những “nhân vật nhỏ bé” như A.Sekhốp, những kiếp “đời thừa” và “sống mòn” như Nam Cao, nhưng với điều kiện nhà văn phải có tâm, có tài và số phận của những nhân vật nhỏ bé, những kiếp đời thừa, kiếp sống mòn trong tác phẩm phải mang một ý nghĩa xã hội – lịch sử và nhân sinh cao cả. Nếu không, nhà văn sẽ chết chìm trong thế giới nhân vật ô hợp và tầm thường do chính mình tạo ra.

Dưới tác động hai mặt của cơ chế thị trường, văn học nghệ thuật và nghệ sỹ đang có thêm những yếu tố kích thích mới, những động lực sáng tạo mới. Nhưng cũng chính cơ chế thị trường đang làm nao núng không ít ngòi bút và hoen ố không ít tác phẩm. Ai cũng biết sexcó thể cần cho người này, người kia, từng nơi từng lúc và từng người, nhưng với văn chương chân chính thì không, nhất là loại sex rẻ tiền, ô uế như đã từng thấy trong một số tác phẩm gần đây. Bởi vì đó là chuyện sau cánh cửa chứ không phải là chuyện phơi ra trên trang giấy. Có chăng, nó phải được nghệ thật hóa và phải được thể hiện theo quy luật của cái đẹp. Hơn nữa, tình yêu của con người với tư cách là một đề tài vĩnh cửu, không chỉ có vậy mà nó còn mang những giá trị cao cả hơn, trong sáng hơn, nhân đạo hơn, nó nâng cao con người chứ không hạ thấp con người đến mức chỉ còn như những sinh vật bình thường. Khai thác vào những chuyện đời tư như một khuynh hướng mới hình thành trong văn học hiện nay, cũng là một hướng, nhưng ít có cơ hội để trở thành tác phẩm văn học lớn thực sự khi người viết mang động cơ vụ lợi và non kém về trình độ nghệ thuật.

Xu hướng quay lại với quá khứ, khai thác vào đề tài lịch sử như một số nhà văn đang làm hiện nay cũng là một hướng có triển vọng. Xu hướng này đã từng làm một phong trào lớn thu hút nhiều trí thức văn nghệ sĩ thời kỳ cuối những năm ba mươi, đầu những năm bốn mươi của thế kỷ XX, đó là “Phong trào văn nghệ phục cổ”. Các nhà văn, nhà nghệ sĩ tham gia vào phong trào này xem đó là cách để trốn tránh thực tại, để thể hiện khát vọng yêu nước, tìm trong lịch sử những bài học về tinh thần chống ngoại xâm… mà không bị kiểm duyệt của thực dân Pháp. Ngày nay, lý do đó không còn có cơ sở để tồn tại, nhưng đề tài lịch sử, cảm hứng lịch sử thì vẫn sẽ mãi mãi là miền đất hứa của sáng tạo nghệ thuật. Vấn đề là ở chỗ nhà văn, nhà nghệ sĩ phải là người xâu chuỗi lịch sử, phát hiện ra trong dòng chảy của nó những mối liên hệ tinh thần giữa quá khứ – hiện tại – và tương lai. Nhà văn có thể biến lịch sử thành những cái cớ để gửi đến con người hiện tại những thông điệp về giá trị đạo đức tinh thần như ý của nhà văn Pháp A.Dumas từng nói, nhưng nhà văn không được bóp méo lịch sử, xuyên tạc lịch sử, thậm chí minh họa lịch sử một cách thô thiển, vụng về. Trong khi trở về với đề tài lịch sử, cần nhớ rằng bên cạnh nhà văn còn có các nhà sử học, các nhà văn hóa học và những người yêu mến lịch sử dân tộc. Đi ngược hành trình, nhà văn rất dễ cô đơn khi động cơ thiếu trung thực và không có người đồng hành.

Cuộc chiến tranh cách mạng của dân tộc ta ở thế kỷ XX sẽ còn là đề tài lớn cho văn học, nghệ thuật những thế kỷ tiếp theo. Nhưng đó không phải là toàn bộ sứ mệnh của văn học. Nói đúng ra, nó vẫn chỉ là một trong những món nợ mà văn chương cần phải trang trải cho lịch sử dân tộc mà thôi. Trong cuộc sống xã hội hiện đại còn có bao nhiêu vấn đề quan yếu khác mà văn học nghệ thuật cần phản ánh. Trong quá trình đổi mới và hội nhập, vấn đề tìm kiếm, xây dựng một mô hình xã hội lý tưởng mới, một con đường phát triển mới, một trật tự xã hội mới, trong đó các giá trị tinh thần nói chung, giá trị con người nói riêng được tôn vinh; mọi tiềm năng sáng tạo được giải phóng, mọi nhu cầu hưởng thụ vật chất và văn hóa chính đáng được đáp ứng… đang là những vấn đề lớn mà nghệ sĩ chân chính không thể đứng ngoài cuộc. Chẳng lẽ ở đó không có đất cho những tác phẩm nghệ thuật lớn? Không có chỗ cho những xúc cảm nghệ thuật cao cả?

Không thể phủ nhận được rằng trong tiến trình đổi mới và hội nhập hơn hai mươi năm qua, nền văn học, nghệ thuật của chúng ta đã cho thấy những dấu hiệu mới, những cách tân về phương diện hình thức và phương thức biểu hiện. Nhưng, cái mà giới văn học, nghệ thuật đang cần hiện nay là ý thức trách nhiệm nghệ sĩ – công dân trước xã hội. Một cách nhìn mới về chiến tranh, một thái độ mới về những số phận bị bỏ quên, những bi kịch nhỏ giữa đời thường… đối với văn học vẫn luôn luôn đáng khích lệ và trân trọng. Nhưng, những phát hiện lý giải mới về tâm lý, đạo đức của con người trong cơ chế thị trường; những vẫn đề mới nảy sinh trong đời sống xã hội như: vấn đề chuyển đổi hệ giá trị đạo đức tinh thần diễn ra trong thời kỳ đổi mới và hội nhập; những vấn đề lớn mang tính toàn cầu như vấn đề số phận con người trước sự biến đổi khí hậu, môi trường và những biến cố thiên tai, dịch bệnh… những tác động của làn sóng công nghiệp hóa đến nông nghiệp, nông dân và nông thôn; những vấn đề tâm lý – xã hội nảy sinh trong quá trình đô thị hóa; những biểu hiện suy thoái về đạo đức lối sống, khuynh hướng bạo lực, bạo hành trong gia đình, nhà trường và xã hội đang gia tăng; lỷ lệ người chết do tai nạn giao thông và các nguyên nhân khác đang hàng ngày, hàng giờ cướp đi sinh mệnh của hàng trăm, hàng nghìn con người; vấn đề phân hóa giàu nghèo trong xã hội, đặc biệt là tâm lý bất an của con người hiện đại trước các tác động của xã hội và môi trường, trong đó, cái xấu, cái ác đang có chiều hướng lấn át làm lu mờ cái đẹp, cái thiện…, chẳng lẽ đó không phải là những vấn đề của con người xã hội mà văn học cần quan tâm sao?

Chúng ta đang sống trong thời đại có những biến đổi khó lường. Những thành tựu của khoa học và công nghệ – sản phẩm trí tuệ của con người đạt được ở cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI này – sẽ cho phép các nhà khoa học ở từng lĩnh vực tiến hành xử lý các dữ kiện để đưa ra những dự báo toàn cầu, dự báo về từng khu vực và từng lĩnh vực. Có lẽ vì vậy mà ngày nay dự báo đã trở thành một ngành khoa học ( khoa học dự báo) đang phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới. Ngoài trí tuệ của con người, máy tính sẽ là công cụ hữu hiệu giúp cho các ngành khoa học thực hiện các dự báo của mình. Còn văn học – sẽ dự báo tương lai như thế nào và bằng phương tiện nào?

Nửa đầu thế kỷ XX, trước thảm họa khốc liệt của hai cuộc thế chiến trước nhịp độ phát triển nhanh của khoa học kỹ thuật, nhiều nhà văn, nhà triết học hiện sinh ở phương Tây đã đưa ra những dự báo ảm đạm về thân phận của con người ( Huyền thoại Sidípscủa A.Camus là một ví dụ), về nguy cơ tha hóa của con người trước văn minh công nghiệp (vở kịch Những cái ghế của Ionessco là một ví dụ). Đặc biệt là khi người máy ra đời, đảm nhiệm những công việc phức tạp và đạt độ chính xác cao thì hình ảnh con người bằng xương bằng thịt dưới con mắt của các nhà “Kỹ trị” dường như có phần bị tha hóa trước những sản phẩm do chính mình chế tạo ra. Gần đây, khi chú Cừu Dolly ra đời và khi bản đồ gen người phát hiện, vấn đề nhân bản vô tính người được các nhà khoa học đưa ra như một khả năng có thể thực hiện đã khiến cho các nhà nhân văn, các nhà đạo đức học lên tiếng cảnh báo. Quả thực, đó không phải là những lo toan không có căn cứ. Song, chính nhờ các tiên cảm, dự báo mà trong quá trình phát triển, con người với tư cách là chủ nhân của lịch sử, là “trung tâm vũ trụ” đã không để cho máy móc lấn át vai trò của mình, trái lại, càng làm cho trí thông minh và khả năng lao động sáng tạo của con người ngày càng được đề cao bởi năng suất lao động và bởi các thao tác kỹ thuật nối dài khả năng của con người.

Thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang đặt ra nhiều vấn đề bức thiết, trong đó có vấn đề con người – nhân tố chủ thể quyết định tốc độ và chiều hướng phát triển. Các mối quan hệ giữa con người với cơ chế, con người với máy móc công nghệ, con người với con người, con người với sản phẩm hàng hóa, con người với môi trường sống và lao động của mình… sẽ được đặt ra và giải quyết như thế nào? Đương nhiên, không phải chỉ là mối quan tâm của các nhà triết học, kinh tế học, chính trị học, đạo đức học… mà con là mối quan tâm của các nhà văn, các nghệ sĩ mẫn cảm trước thời cuộc. Muốn hay không, thời kỳ mới của lịch sử sẽ tạo ra những hệ giá trị mới, những chuẫn mực đạo đức tinh thần mới mà hôm nay, những người mang thiên chức nghệ sĩ có thể hình dung, tiên đoán. Ngay cả những niềm vui, nỗi buồn sâu xa về số phận, thân phận của mỗi cá nhân trong cộng đồng và trước thế sự cũng luôn luôn là những ám ảnh, những nghiền ngẫm suy tư của mỗi nhà văn, mỗi nhà nghệ sỹ để trong mỗi sáng tác của mình không chỉ hiển hiện thực tại mà còn thấp thoáng hình bóng của tương lai.

Để dự báo và tiên đoán chính xác, mỗi nhà văn, mỗi nghệ sĩ, ngoài sự mẫn cảmvà dự cảmgần như là thanh khí tiên thiên của mình, còn đòi hỏi phải có các khả năng chiêm nghiệm,khả năng phân tích, phán đoán để nhận thức bản chất, nắm bắt quy luật và lôgic khách quan của cuộc sống, để trên cơ sở đó nhận diện tương lai ngay từ trong thực tại. Như vậy, cũng có nghĩa là muốn thực hiện tốt chức năng dự báo, nhà nghệ sỹ, về một phương diện nào đó, phải đồng thời là nhà khoa học, trước hết là khoa học nhân văn.

Tiểu Thuyết Quốc Ngữ Đầu Thế Kỷ Xx Và Chức Năng Dự Báo Của Văn Học

Trong quá trình hình thành nền văn học quốc ngữ cuối thế kỷ XIX đầu XX, tiểu thuyết là một trong những thể loại tiên phong. Không kể Thầy Lararô Phiền của Nguyễn Trọng Quản xuất bản 1887 được ví “như một con chim lạ từ trời Tây đáp xuống một vùng đất còn vắng bóng đồng loại”[1], thì ngay từ năm 1910, khi phần lớn các thể loại văn học hiện đại khác còn hoàn toàn im ắng, người ta đã thấy xuất hiện cùng một lúc ba cuốn tiểu thuyết mang dáng vẻ hiện đại[2]. Không chỉ đi trước ở khu vực sáng tác, lý luận về tiểu thuyết còn đi trước trong khoa Nghiên cứu văn học. Trong hành trình tự thăm dò, tìm hướng đi cho một thể loại hoàn toàn mới, các nhà tiểu thuyết giai đoạn này đã đề xuất được một số luận điểm khá căn bản của lý luận văn học. Nổi bật trong số đó là vấn đề chức năng văn học của tiểu thuyết. Khác với quan niệm về các chức năng giáo dục, giải trí, nhận thức… thường được trình bày trực tiếp trong các lời tựa, lời bạt[3], chức năng dự báo tuy đương thời chưa được định danh, nhưng ngót một thế kỷ trôi qua, đến thời điểm này đã có thể kiểm chứng để khẳng định rằng nó đã hình thành từ trong những tiểu thuyết viết bằng chữ quốc ngữ ở chặng phôi thai của thể loại.

Trong các loại nghệ thuật ngôn từ, tiểu thuyết với những đặc trưng thể loại, giàu có về khả năng này hơn cả. Nhưng dưới thời phong kiến, do sự chi phối của ý thức hệ phong kiến mà cốt lõi là tư tưởng Nho gia, Việt Nam cũng như một số nước chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Hán, đặc biệt coi trọng chức năng giáo huấn của văn học. Văn học dưới thời phong kiến (ngày nay cơ bản thống nhất gọi là văn học trung đại) do vậy còn được gọi là văn học chức năng. Để hành chức, văn học trung đại có một hệ thống thể loại riêng. Tiểu thuyết vì chỉ kể toàn chuyện vặt vãnh, nhỏ nhặt, “đầu đường xó chợ”, nghĩa là không thực hiện được những nhiệm vụ quan trọng, nên chỉ được xem là “tiểu đạo” và không được xếp vào hệ thống thể loại văn học trung đại[4]. Cuối thế kỷ XIX đầu XX, các nước phương Đông đã có một cuộc tiếp xúc rộng rãi và sâu sắc với phương Tây. Quan niệm về văn học, nhất là tiểu thuyết, ở đây đã có nhiều thay đổi. Từ vị trí ngoại biên, thậm chí thấp kém, tiểu thuyết đã được đẩy vào vị trí trung tâm, được coi là nòng cốt, trụ cột của nền văn học. Các nhà cải cách Trung Quốc là những người sớm phát hiện ra điều này. Đầu thế kỷ XX, Lương Khải Siêu viết: “Muốn làm mới dân một nước, cần phải hẵng làm mới tiểu thuyết nước ấy. (…). Vì sao vậy? Vì tiểu thuyết có sức mạnh chi-phối người ta”[5]. Ở nước ta, Huỳnh Thúc Kháng trong “Bài tựa” cuốn Tây phương mỹ nhân của Huỳnh Thị Bảo Hòa cũng viết: “Cái lợi khí truyền bá tư tưởng trong xã hội, tiểu thuyết là một thứ phổ thông rất dễ”[6]. Nhận thức mới mẻ này về tầm quan trọng của tiểu thuyết đã hối thúc thể loại mau chóng ra đời và phát triển.

Quá trình hình thành nền tiểu thuyết quốc ngữ cũng là quá trình rạn vỡ và thay thế của hình thái xã hội. Nói cách khác, tiểu thuyết hiện đại đã hình thành và phát triển trên nền tảng của một hình thái xã hội có nhiều nét đặc thù tương ứng với nó. Chế độ thực dân nửa phong kiến với sự phát triển nhanh của đô thị kiểu tư bản chủ nghĩa, tinh thần dân chủ cùng những tiền đề vật chất cần thiết như ngành in, xuất bản, báo chí… đã tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển của tiểu thuyết. Xã hội trên con đường tư sản hóa cũng đặt ra rất nhiều vấn đề cần miêu tả và lý giải. Tiểu thuyết – thể loại được xem là “sử thi của thời đại mới”, với phương tiện chữ viết mới (quốc ngữ theo mẫu tự La-tinh), đã phản ánh được nhiều vấn đề lớn của dân tộc và thời đại. Qua tiểu thuyết giai đoạn này, người đọc đương thời có thể nhận thức sâu sắc hơn về con người và thời đại mà họ đang sống, để mỗi người trong guồng quay điên đảo của một xã hội coi trọng đồng tiền, lợi danh, bất chấp luân lý, đạo đức… tự xác quyết cho mình một cách sống, một hướng đi. Đồng thời với việc mô tả, nhận diện thực tại xã hội đương thời, các nhà văn đã hình dung được sự vận động của nó trong tương lai. Trong số những vấn đề đã được các nhà tiểu thuyết đầu thế kỷ XX miêu tả và lý giải, nhiều vấn đề sẽ trở nên nóng bỏng và nhức nhối hơn không chỉ trong văn học giai đoạn sau đó (1930-1945) mà cho đến tận cuối thế kỷ XX, đầu XXI khi xu thế hội nhập, toàn cầu hóa trên mọi phương diện khiến Việt Nam một lần nữa “va chạm” rất mạnh với thế giới. Có thể nói, chưa có thời đại nào cuộc sống và con người lại phát triển một cách tự do, phong phú, phức tạp, thiên hình vạn trạng… như thời đại này. Bối cảnh xã hội hiện tại có nhiều mối liên hệ loại hình với xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX đã khiến những vấn đề từng được phản ánh trong tiểu thuyết một thời lại trở lại, dữ dội và quyết liệt hơn, tiếp tục trở thành nỗi nhức nhối của toàn xã hội và nỗi ám ảnh của người cầm bút.

Thứ nhất, đất đai đã trở thành mục tiêu săn đuổi của bọn địa chủ và các tầng lớp thống trị. Trong tiểu thuyết Thầy thông ngôn, giai cấp địa chủ phong kiến bao gồm những ông Hội đồng, ông Cai tổng là cả một lũ sâu mọt chỉ lo đục khoét, bòn rút người lao động nghèo. Ông Lê Huấn Hữu “được làm hội đồng Quản hạt rồi, thì ông chẳng lo việc chi gấp cho bằng việc khẩn đất”[7]. Không chỉ coi việc khẩn đất là mục đích đầu tiên trên con đường hoạn lộ, bọn quan lại còn kết bè kết phái với địa chủ, tạo thành một thế lực hắc ám, như đám mây đen đè nặng lên đời sống của người nông dân. Cùng hội cùng thuyền với Lê Huấn Hữu là Cai tổng Hồ Văn Luông: “Hai ông nói chuyện với nhau, chẳng hề nghe luận việc chi ích nước lợi dân, hoặc tính chuyện chi có nhơn có nghĩa, chỉ lo mưu mà mua đất cho rẻ, hoặc lập thế giựt đất của dân mà thôi”[8]. Tham vọng đó của đám quan lại địa chủ đã được hạng thông ngôn ký lục tiếp tay để thực hiện một cách dễ dàng:”Ông nghe nói thầy thông Phong coi về đất khẩn nên ông tìm đến nhà mà làm quen rồi mượn thầy làm giấy tờ giùm cho ông cho mau”[9]. Những thủ đoạn của Hội đồng Lê Huấn Hữu và Cai tổng Hồ Văn Luông còn bị Hồ Biểu Chánh vạch trần chân tướng, bộc lộ sâu sắc hơn qua nhân vật Vĩnh Thái trong Khóc thầm.

Thứ hai, người nông dân bị cướp mất tư liệu sản xuất, phải lệ thuộc hoàn toàn vào những kẻ sở hữu ruộng đất, cuộc sống trở nên tăm tối, bấp bênh, nghèo khổ cùng cực và rất đau đớn về tinh thần. Thị Lựu ( Con nhà nghèo) – một cô gái nhà nghèo, cha mẹ chết cả – ở với anh chị là cai tuần Bưởi và Thị Tỏ làm tá điền cho nhà Hai Nghĩa. Thị Lựu bị Hai Nghĩa cậy quyền hãm hiếp. Mặc dù đau đớn, cô cũng không dám hé răng vì sợ hắn đòi lại ruộng. Lựu sinh đứa con trai, anh em cai tuần Bưởi những tưởng sẽ được Hai Nghĩa chấp nhận. Vậy mà, không những Hai Nghĩa dửng dưng, gia đình cai tuần Bưởi còn bị bà cai tổng Hiếu và vợ Hai Nghĩa thu lại ruộng rồi đuổi đi để khỏi mang tiếng xấu. Còn đây là gia cảnh của Trần Văn Sửu ( Cha con nghĩa nặng) – một người nông dân không còn quyền sở hữu ruộng đất, phải làm mướn để mưu sinh: “Nhà lá ba căn xịch-xạc, phía ngoài mà chính giữa, có soạn một bàn thờ, trước bàn thờ có lót một bộ ván dầu, lại có một cái ghế nghi. Bên tay mặt thấy có một cái cối xay lúa, còn dựa vách thì dựng nào là giằng xay, nào là chuôi cày, nào là cần câu, nào là cuốc phãng. Bên tay trái thấy có một cái chõng tre nhỏ nhỏ, còn trên vách thì móc nào thúng rổ, nào là giỏ, nào là vòng hái. (…). Chông đèn leo lét để trên ghế nghi, ánh sáng giọi vô bàn thờ trống trơn, duy thấy trên bàn có cái chậu nhỏ để cắm nhan, một cái lon sữa bò, và một cái tô đá mà mẻ miệng hết một miếng bằng ngón tay. Trên vách có treo một bộ tượng bốn tấm, giấy đỏ chữ đen, mà tấm đầu lại đứt khúc dưới mất hết hai ba chữ”[10]. Đó cũng là tình cảnh chung của người nông dân Việt Nam giai đoạn này đã được chính người Pháp xác nhận[11].

Thứ ba, từ nạn chiếm đoạt đất đai, mâu thuẫn xã hội giữa nông dân và các tầng lớp thống trị ngày càng trở nên sâu sắc, gắt gao hơn. Bọn thống trị đã lợi dụng quyền sở hữu đất đai cướp bóc được của người nông dân và thế lực đồng tiền để ức hiếp họ. Người nông dân không còn phương tiện sản xuất, vì cuộc mưu sinh nên nhiều khi đã phải chấp nhận. Dẫu vậy, trong nhiều cảnh ngộ, mối căm hờn dâng lên tột đỉnh đã khiến xung đột xảy ra. Hương hào Đều ( Khóc thầm) bắt quả tang chuyện gian phu dâm phụ đã dùng gậy đánh chết vợ và Vĩnh Thái. Trần Văn Sửu chứng kiến cảnh vợ lăng loàn đã xô vợ ngã chết. Ba Cam ( Con nhà nghèo) trả thù cho em gái là Thị Lựu đã dùng dao rạch một nhát vào mặt Hai Nghĩa – kẻ đã xâm hại em mình…

Bước sang giai đoạn 1930-1945, vấn đề ruộng đất đã được các nhà văn trong trào lưu văn học hiện thực, bằng một bút pháp già dặn hơn, điển hình hóa thành những cảnh ngộ vừa cụ thể, ám ảnh, vừa mang tính phổ quát. Từ những câu chuyện tưởng rất riêng của gia đình chị Dậu trong Tắt đèn (Ngô Tất Tố), anh Pha trong Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan)… người ta ngay lập tức nhận ra đó chính là một trong những thảm kịch lớn nhất của người nông dân ở các nước thuộc địa. Ở nước ta, nạn chiếm hữu ruộng đất và những thủ đoạn bóc lột của các tầng lớp thống trị và ngoại xâm đã đẩy dân tộc tới thảm họa diệt vong vào những năm đầu thập kỷ 40 của thế kỷ XX mà kết cục là một nạn đói khủng khiếp, cướp đi sinh mạng của hàng triệu người. Đó cũng chính là nguồn cơn để người nông dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã nhất tề đứng dậy lật đổ chế độ phong kiến và đánh đuổi lũ ngoại xâm, làm nên cách mạng tháng Tám vĩ đại.

Từ khi đất nước bước vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập rộng rãi toàn cầu, biết bao nhiêu đất đai màu mỡ, tươi tốt của người nông dân – những “bờ xôi ruộng mật” – đã bị chuyển đổi thành các khu công nghiệp, khu thương mại, dịch vụ, sân gol, khu sinh thái, nghỉ dưỡng (resort)… Người nông dân Việt Nam lại một lần nữa phải đối mặt với thực trạng không còn tư liệu sản xuất. Trong bối cảnh này, vấn đề người nông dân và đất đai đã được thể hiện trong tiểu thuyết đầu thế kỷ XX lại tái hồi, lại hiện hữu, lại trở nên rất nóng bỏng trong đời sống xã hội đương đại.

2. Vấn đề đô thị hóa và thân phận con người

Dưới thời phong kiến, các đô thị chủ yếu đóng vai trò trung tâm hành chính. Từ khi Pháp xâm lược, đô thị không chỉ là thủ phủ về chính trị, kinh tế, văn hóa mà còn là nơi tập trung quân đội, nhà kho, các nhà máy, xí nghiệp, trung tâm buôn bán, trường học, bệnh viện… Nhìn chung, những quan hệ giao lưu với nước ngoài đã làm thay đổi hẳn bộ mặt đô thị Việt Nam. Nơi đây mở ra rất nhiều cơ hội về việc làm, cũng có nghĩa là cuộc mưu sinh có nhiều hứa hẹn. Trong khi đó, ở những vùng nông thôn, công cuộc bình định và nạn chiếm hữu đất đai đã khiến đời sống người nông dân trở nên điêu đứng. Không còn tư liệu sản xuất, nông dân từ các vùng nông thôn nghèo khó, xác xơ phải trôi dạt về đô thị tìm kế mưu sinh. Thay vì các mối quan hệ họ hàng, làng xóm – những quan hệ mà con người đem tình nghĩa để ứng xử với nhau, trong môi trường đô thị náo loạn, xô bồ, đồng tiền trở thành thước đo của mọi giá trị. Thêm vào đó, xã hội mới bày ra rất nhiều cạm bẫy khiến người ta dễ mắc phải. Thân phận con người trong bối cảnh đô thị hóa được thể hiện trong các tiểu thuyết quốc ngữ đầu thế kỷ XX nổi lên mấy vấn đề sau:

Thứ hai, con người là nạn nhân của một đời sống thị thành nhiều cạm bẫy. Ngô Tòng trong Cuộc tang thương do gia cảnh éo le, từ bỏ vùng quê Thái Bình cùng mẹ lên Hà Nội sinh sống là bước ra một không gian rộng lớn hơn, tự đặt mình trong nhiều mối quan hệ phức tạp hơn. Dường như nhận thức được sự phức tạp của cuộc sống nơi phố phường, Ngô Tòng không muốn quảng giao, chỉ thân thiết với mình Lê Cần – người bạn học có cùng cảnh ngộ. Tưởng thế là được yên ổn trong cuộc đời đầy bất trắc, nào ngờ chính Lê Cần – người bạn thân thiết và Ngọc Lan – người vợ yêu quí, đã phản bội Ngô Tòng, dan díu với nhau. Cảnh ngộ trớ trêu ngoài sức tưởng tượng đã dẫn đến cái chết bi thảm của Ngô Tòng là điều khó tránh khỏi. Cuộc đời của Bạch Thủy trong Cành hoa điểm tuyết cũng bắt đầu trở nên truân chuyên kể từ lúc đặt chân đến chốn Hà thành. Qua hai tiểu thuyết làm nên tên tuổi là Cành hoa điểm tuyết và Cuộc tang thương, Đặng Trần Phất đã thể hiện rõ thiên hướng ngòi bút của mình. Ông có xu hướng đưa nhân vật từ môi trường nông thôn ra thành thị để thử thách, qua đó chứng tỏ một sự đổi thay không cưỡng nổi của con người trước làn sóng “văn minh” của cuộc Âu hóa. Số phận của những người như Ngô Tòng, Bạch Thủy với đầy những bước ngoặt ngoài dự định và mong muốn chỉ có thể xảy ra trong một môi trường đô thị đa đoan và rất phức tạp.

Vấn đề đô thị hóa và thân phận con người vẫn tiếp tục được các nhà văn hiện thực giai đoạn 1930-1945 khai thác. Nhân vật Thị Mịch trong Giông tố (Vũ trọng Phụng) là một ví dụ về sự tha hóa trong môi trường sống thị thành. Cùng một quan niệm về con người như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao trong Chí Phèo đã xây dựng nhân vật Chí Phèo thành một điển hình nghệ thuật sắc sảo, thể hiện một cách ám ảnh về bi kịch tha hóa của con người trong xã hội thuộc địa. Với Chí Phèo, Nam Cao đã phơi bày nỗi thống khổ tột cùng của con người khi bước chân ra khỏi lũy tre làng, ngụp lặn trong môi trường xã hội thực dân nửa phong kiến – xã hội mà ở đó số phận con người do đồng tiền và tội ác định đoạt, để rồi sau đó trở về sống kiếp dở người dở quỷ, tăm tối, tội lỗi và có lúc đau đớn tới mức không thể tiếp tục sống nốt cuộc đời.

Công cuộc đổi mới đất nước cuối thế kỷ XX đầu XXI lại một lần nữa làm cho quá trình đô thị hóa diễn ra với mức độ chóng mặt. Mô hình đã từng được “kiến thiết” đầu thế kỷ XX giờ đây lại xuất hiện: người nông dân phải nhường đất đai cho các “dự án”, không còn tư liệu sản xuất, với số tiền đền bù ít ỏi đủ để xây cất một ngôi nhà, mua sắm một vài thứ đồ dùng sinh hoạt, con người trở nên thừa thãi, không đủ điều kiện để hưởng thụ ngay cả những thứ mình mới tạo dựng nên. Để tiếp tục sống, không còn con đường nào khác, họ lại phải tìm đến đô thị. Cuộc mưu sinh ở chốn thị thành đầy rẫy những lừa lọc, tàn nhẫn, quay quắt, mưu ma chước quỷ, đổi trắng thay đen, tiền trao cháo múc… không chỉ làm cho người lao động cực nhọc về thân xác; mà còn bị ghẻ lạnh, hắt hủi, khinh khi, làm cho bị đau đớn, xúc phạm về tinh thần. Vốn là nước nông nghiệp, hiện tượng này xảy ra ở nước ta phổ biến hơn bất kỳ một quốc gia nào trong hành trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đâu đâu cũng thấy đất đai bị thu hồi, bị chuyển đổi mục đích sử dụng. Theo đó là số người nông dân mất ruộng đất, phải bỏ làng bỏ quê tìm kiếm cơ hội mưu sinh. Còn gì ám ảnh hơn khi cứ sau mỗi dịp tết cổ truyền, từng đoàn người từ các vùng nông thôn lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau đến các bến xe, ga tàu để đi tìm một vùng đất hứa mà không ai có thể đảm bảo rằng ở đó họ sẽ tìm thấy được một cuộc sống tốt đẹp.

Trong văn học, đề tài này đã trở nên nóng bỏng từ thập niên chín mươi của thế kỷ trước. Các nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp thường ý thức rất rõ sự khác biệt giữa hai môi trường sống là nông thôn và thành thị. Trong quan niệm của nhà văn, con người chỉ sống ở nông thôn mới giữ được bản tính thiện. Triệu ( Những bài học nông thôn) vì thế đã từ chối gốc gác Hà Nội của mình để được coi là nông dân và sinh ra ở nông thôn. Nhưng ngay cả môi trường sống nông thôn cũng không thoát khỏi sự đe dọa của cơn lốc đô thị hóa. Bao nhiêu ngôi làng đang sống bình yên, trong lành, thuần phác, bỗng bị làn gió dữ thổi tới làm cho nham nhở, náo loạn, dở quê dở tỉnh với đầy rẫy tệ nạn và những thói văn minh rởm đời. Con người không chỉ tha hóa khi phải rời bỏ quê hương, tha phương cầu thực, mà trở nên xấu đi ngay trên mảnh đất quê hương mình. Nguyễn Huy Thiệp viết: “Trong một chuyến đi về nông thôn cách đây không lâu, tôi hết sức ngạc nhiên vì ở một huyện lỵ trung du hẻo lánh có khoảng ba chục ngôi nhà xây cất tạm bợ mà có tới gần chục điểm giải khát ăn uống, trong đó có ba điểm trá hình buôn bán gái mại dâm. Các cô gái điếm là dân nhà quê mà khách làng chơi cũng là dân nhà quê nốt. Tôi đã thấy một tay chơi mặc quần ta (dân miền Nam gọi là quần bà ba), áo sơ mi trắng, hút thuốc lá cuộn, đi đứng như thằng sa đì, đi chơi gái với năm nghìn đồng trong túi”[13]. Tốc độ đô thị hóa càng nhanh, cuộc sống của người dân nông thôn càng bị đảo lộn ghê gớm. Bi kịch vẫn nối tiếp. Văn học do thế vẫn đang kiếm tìm và thể hiện những chiều kích mới của tấn bi kịch chưa nhìn thấy hồi kết này.

3. Vấn đề con người nghiện thói hưởng thụ tầm thường

Con người dưới thời phong kiến do phải “khắc kỷ” để “phục lễ” nên ý thức về quyền sống riêng bị giới hạn tới mức tối đa. Tinh thần hưởng thụ cuộc sống hầu như không tồn tại ở các nhà Nho mà chỉ xuất hiện ở giai cấp tư sản. Trong môi trường đô thị, giai cấp tư sản càng có điều kiện vật chất để thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ. Tiểu thuyết Phồn hoa mộng tỉnh của Dương Tự Giáp kể chuyện về Văn Sinh, một chàng trai hai mươi tuổi, sinh ra trong một gia đình khá giả ở Hà Nội, có học hành, đang làm viên chức trong phủ toàn quyền. Văn Sinh là người “thích nghe cô đầu hay, thích uống rượu sâm banh tốt”. Sở thích ấy đã được xã hội đáp ứng một cách đầy đủ: Hà Nội bấy giờ chen chúc các xóm bình khang, “Thôi thì hàng Giấy, Bạch-Mai, Thái-Hà, Hàng-Mã, Vạn-Thái, Khâm-Thiên, các xóm “chị-em” không mấy nhà là tôi không biết cả”[14]. Tại một xóm cô đầu, Văn Sinh đã đắm đuối với một cô đào tên Chinh. Những cuộc chơi thâu đêm suốt sáng không chỉ khiến anh ta tiền mất tật mang mà cuối cùng phải bỏ cả việc để trốn nợ. Viết Phồn hoa mộng tỉnh dưới dạng chép lại một câu chuyện tự thuật của Văn Sinh, Dương Tự Giáp mong muốn cuốn sách của mình sẽ trở thành một bài học cảnh tỉnh cho những ai cứ “đắm-đuối trong bể tình, mơ-màng trên bến đục”, khi tỉnh ra thì sự đã rồi, không cứu vãn được nữa. Không chỉ những người đàn ông nhẹ dạ bị hoàn cảnh “dụ dỗ”, nhiều phụ nữ cũng không thoát khỏi cạm bẫy của một lối sống thành thị chạy theo thị hiếu vật chất tầm thường. Hà Hương trong Hà Hương phong nguyệt (Lê Hoằng Mưu), Phượng trong Mồ cô Phượng (Trứ Giả), Liên Tử Tâm trong Cô Ba Tràh (Nguyễn Ý Bửu)… là những dẫn chứng sinh động.

Sang giai đoạn 1930-1945, vấn đề vẫn tiếp tục được các nhà văn quan tâm, nhất là tiểu thuyết của nhóm Tự lực văn đoàn. Tuyết ( Đời mưa gió) – một cô gái giang hồ – là hiện thân đầy đủ của lối sống chỉ muốn hưởng lạc thú tầm thường, bất chấp đạo đức, luân lý, vô tâm với người khác và thiếu trách nhiệm với chính mình. Bao nhiêu cơ hội tốt đẹp có thể giúp cô hoàn lương, thậm chí nhà văn còn sắp đặt những tình huống khá ảo tưởng, nhưng cuối cùng Tuyết vẫn không thể thoát khỏi lối sống buông thả, phóng đãng vô luân ấy. Xây dựng nhân vật này, các tác giả gần như không tuân thủ quy luật và lô gic cuộc sống, mà chỉ nhằm thể hiện một quan niệm sống đã thấm nhiễm vào phần đông thanh niên thời bấy giờ: “Sống ngày nay nhớ chi đến ngày xưa, tưởng chi đến ngày mai”[15].

Từ khi đất nước chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, cuộc sống đã có rất nhiều thay đổi. Cuộc cải cách kinh tế len lỏi vào mọi ngõ ngách của đời sống, đem lại nhiều cơ hội làm giàu và nhiều người đã giàu lên một cách dễ dàng, nhanh chóng. Sự giàu có trên mức bình thường đã khiến nhiều người mắc phải căn bệnh nghiện hưởng thụ vật chất. Và căn bệnh, oái oăm thay, lại được nền kinh tế hàng hóa dung dưỡng no đủ. Xã hội đang đứng trước nguy cơ của cơn cuồng loạn về chủ nghĩa đồ vật, chủ nghĩa mua sắm, chủ nghĩa tiêu dùng… Lối sống buông thả tột độ đã và đang hình thành trong một bộ phận thanh thiếu niên lúc này, phần lớn xuất phát từ sự dư thừa vật chất mà thiếu đi mục đích, lý tưởng sống vốn chỉ hình thành khi con người phải khổ luyện, trong một môi trường sống lành mạnh.

4. Vấn đề con người háo danh, trọng của, chà đạp đạo lý luân thường

Cơ cấu kinh tế, xã hội đầu thế kỷ XX có nhiều thay đổi, dẫn đến sự ra đời của nhiều ngành nghề mới. Theo đó, trong xã hội xuất hiện rất nhiều kiểu người, hạng người khác nhau gắn với ngành nghề và địa vị xã hội của họ. Tất cả đều hối hả, đua chen trên con đường làm giàu, mua danh kiếm lợi, mua quan bán tước để có được cuộc sống giàu sang, thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ, khiến cho xã hội trở nên náo loạn, xô bồ. Tâm lý ham giàu, tham lam, ích kỷ và độc ác của con người khi chạy theo lối sống tư sản đã được phản ánh trong nhiều tiểu thuyết giai đoạn này. Thị Hạnh trong Cuộc tang thương là một nàng hầu, vì lòng tham mà bất chấp đạo lý, lấy ông Hàn – một ông già đáng tuổi cha cô, để rồi sau khi đã bòn rút hết tiền của, lại đem cả nhân tình về nhà khiến ông Hàn giận quá sinh ra ốm đau mà chết. Ông Trần Tư Độ trong Ngọc chìm đáy biển là hạng người coi đồng tiền cao hơn tất cả: “Cứ theo cái bổn tánh của ông thời trong đời ông không còn biết chi trọng hơn là đồng tiền đồng bạc cã, miển có tiền bạc thì ông vui lòng”[16]. Lê Kỳ Xuân ( Lòng người nham hiểm) vì háo sắc ham tài đã lập mưu hãm hại người bạn là Hoàng Hữu Chí, những mong chiếm đoạt được con gái bà phủ Ân giàu có… Tuy nhiên, thói ham giàu, coi đồng tiền là mục đích, lý tưởng sống ở đời được thể hiện tập trung và sâu sắc hơn cả trong những tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh. Các nhân vật như thông Phong ( Thầy thông ngôn), Thị Lành, Đỗ Thị ( Tiền bạc bạc tiền), Trường Xuân ( Tỉnh mộng), hội đồng Lâm Yên ( Nhân tình ấm lạnh)… đều là những kẻ “sống chết vì tiền”, coi đồng tiền trọng hơn nhân nghĩa, đạo lý, danh dự. Theo đó, xã hội ngày càng điên đảo, quay cuồng, thương luân bại lý.

Trong văn học giai đoạn 1930-1945, tâm lý háo danh, trọng của tiếp tục được đào sâu trong nhiều sáng tác của Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan và các nhà văn hiện thực khác. Bằng tiếng cười trào phúng thâm thúy, sắc lạnh, các nhà văn đã lột trần bản chất của giới thượng lưu tư sản – những kẻ có tiền nhưng chỉ quen hưởng thụ vật chất tầm thường và tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời trong hư danh. Vậy mà để có được nó, người ta đã sẵn lòng làm tất cả, khiến cho xã hội trở nên bất nghĩa, vô luân mà đạo đức chỉ còn là một khái niệm trừu tượng, phù phiếm. Người ta trục lợi ngay cả trong cái chết của cha mẹ ( Số đỏ – Vũ Trọng Phụng, Báo hiếu: trả nghĩa cha, Báo hiếu: trả nghĩa mẹ – Nguyễn Công Hoan). Người ta mua danh từ thân xác của người vợ ( Thế là mợ nó đi Tây – Nguyễn Công Hoan)…

Trong thời kinh tế thị trường, “danh” thường gắn liền với “lợi”, người có quyền chức thường nhiều tiền của. Thực tế ấy đã xô đẩy con người vào một lối sống tranh quyền đoạt lợi, dẫm đạp lên danh dự, nhân phẩm, tình người. Từ thập niên 80 của thế kỷ XX, nhiều nhà văn đã bị ám ảnh bởi hiện thực nhức nhối này. Có thể nói, trong bất kỳ tác phẩm văn học phản ánh hiện thực nào giai đoạn này, người đọc cũng có thể bắt gặp hoặc thấp thoáng, hoặc rất điển hình, ám ảnh, kiểu dạng nhân vật sống chết vì tiền. Trong bối cảnh này, đọc lại nhiều tiểu thuyết ra đời từ đầu thế kỷ XX, ta vẫn thấy những nội dung hiện thực ấy như còn nóng hổi.

5. Vấn đề con người vong bản trước sức hút của cái mới lạ

Một vấn đề xã hội cũng có sức ám ảnh nhiều người viết tiểu thuyết từ đầu thế kỷ XX là hiện tượng vọng ngoại, vong bản của một bộ phận trí thức Tây học. Du học “bên Tây” về, thay vì bắt tay vào việc cải tạo xã hội, đem lại ánh sáng văn minh cho đồng bào đồng chủng, họ lại lạnh lùng quay lưng, khinh rẻ, chê bai nước nhà. Vĩnh Thái ( Khóc thầm) “khảng khái”: “Từ hồi nào cho đến bây giờ tôi nhứt định không thèm đọc nhựt-trình quốc-ngữ”[17]. Roger Trần Thình ( Kim Anh lệ sử) phải học mười năm bên Tây mới lấy được bằng tốt nghiệp trường “Máy-móc”, vậy mà: “Từ ngày cậu đậu được cái bằng về, cậu nghênh-nghênh ngang-ngang lên mặt kỹ sư, không coi ai bằng mình nữa. Cha mẹ cậu thì cậu chê là gàn, mà người đồng-bang với cậu thì cậu khinh là hủ”[18]. Nước Pháp (người đương thời quen gọi là “bên Tây”) là một xứ sở văn minh, điều này không ai phủ nhận. Người Việt Nam du học bên Pháp đã phần nào lĩnh hội được sự văn minh ấy. Tiếc là, họ chưa có đủ tỉnh táo để tiếp nhận một cách chân chính và đúng đắn. Hiểu biết hạn chế cộng với thái độ sùng bái phương Tây tới mức bệnh hoạn đã khiến trong mắt họ những gì thuộc về “người mình”, “nước mình” đều đáng khinh bỉ, đáng bỏ đi cả. Vì thế, chính khi trở về nước, họ lại biến thành những kẻ mất gốc, không còn liên hệ với giống nòi. Nội dung này là tiền đề cho sự ra đời của loại đề tài ông Tây An-nam trong văn học giai đoạn 1930-1945. Trong văn xuôi đương đại, nhiều tác phẩm cũng đang gióng lên hồi chuông cảnh báo về tình trạng vong bản, phủ nhận cội nguồn của một bộ phận người Việt trong cuộc hội nhập rộng lớn toàn thế giới. Bi kịch của con người khát khao kiếm tìm một miền đất hứa bằng những cuộc trốn chạy, bằng những cuộc hôn phối đầy toan tính với người nước ngoài… ngày càng phổ biến như nhắc nhở về một bản lĩnh Việt, trí tuệ Việt, tâm hồn Việt đang bị đánh cắp.

*

Vấn đề còn lại là tại sao những lời tiên tri đã không được màng tới? Tại sao nhiều mối đe dọa đã được cảnh báo từ rất lâu rồi mà hậu thế vẫn không tránh khỏi tai ương? Hiện tồn này cho thấy một quy luật tất yếu của cuộc sống: khi phần đông xã hội vẫn còn u mê, thì những lời cảnh báo, dù nghiêm khắc, cũng chỉ như đá ném ao bèo. Gần một thế kỷ trôi qua, ta đã có thể nhìn lại để định giá về những gì được – mất. Nhiều hậu quả không nhỏ, nếu không muốn nói là thật thảm khốc con người đang phải hứng chịu. Vì xã hội trì đọng, luẩn quẩn hay vì văn học chưa phát triển, chưa thoát ra khỏi bút pháp hiện thực già nua, cũ kỹ? Có thể là cả hai, mà cũng có thể không thuộc một lý do nào trong số đó. Bởi sự vận động, đổi thay của một hình thái xã hội, ngoài nguyên nhân chủ quan còn có yếu tố khách quan quyết định. Văn học dù vận dụng hay không vận dụng một phương pháp sáng tác nào thì cũng không thể quay lưng 360o với hiện thực đời sống. Cái chính là con người chưa kịp bừng ngộ trước những cuộc bể dâu, trước những biến thiên của thời thế. Vậy thì, hãy lắng nghe tiếng nói của nhà văn.

TS. Lê Tú AnhNguồn: Tạp chí Nghiên cứu văn học, Số 3/2013, tr.98-109

(1) Bằng Giang: Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865 – 1930, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1992, tr.303.

(2) Đó là các tác phẩm: Lâm Kim Liên và Hoàng Tố Anh hàm oan của Trần Thiên Trung, Phan Yên ngoại sử của Trương Duy Toản.

(4) Theo Trần Đình Sử: Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr.97.

(5) Dẫn theo Mộc Khuê: Ba mươi năm văn học, Tân Việt, Hà Nội, 1942, tr.43-44.

(6) Trương Duy Hy (biên soạn): Nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hòa – Người phụ nữ viết tiểu thuyết đầu tiên, Nxb Văn học, Hà Nội, 2003, tr.34.

(7), (8), (9) Hồ Biểu Chánh: Thầy thông ngôn, in trong Văn học Việt Nam thế kỷ XX (Văn xuôi đầu thế kỷ), Quyển I – Tập III, Nxb Văn học, Hà Nội, 2002, tr.501, 506, 501.

(10) Hồ Biểu Chánh: Cha con nghĩa nặng, Nxb Tấn Phát (tái bản), 1953, tr. 13-14.

(11) Xin xem Trần Văn Giàu, Đinh Xuân Lâm, Hoàng Văn Lân: Lịch sử cận đại Việt Nam, Tập 3, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1961, tr.53.

(12) Dẫn theo Nguyễn Kim Anh: Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Nxb ĐHQG Tp Hồ Chí Minh, 2004, tr.478.

(13) Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (tái bản), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005, tr.340.

(14) Dương Tự Giáp: Phồn hoa mộng tỉnh, Imp. Kim Đức Giang, Hà Nội, 1929, tr.14.

(15) Khái Hưng và Nhất Linh: Đời mưa gió, Nxb ĐH và GD chuyên nghiệp (in lần thứ hai), Hà Nội, 1991, tr.172.

(16) Mộng Hiệp nữ-sử: Ngọc chìm đáy biển, Từ Duy Quan, Sài Gòn, 1927, tr.101.

(17) Hồ Biểu Chánh: Khóc thầm, An – Trường xb, Sài Gòn, 1929, tr.46.

(18) Trọng Khiêm: Kim Anh lệ sử, Quyển II, Đông-Kinh Ấn-Quán, Hà Nội, 1924, tr.20.

(19) Rasul Gamzatov: Lòng nhân ái là cốt lõi của văn học (Đào Hùng dịch), Báo Văn nghệ, Số 45/2011.

Tính Dự Báo Của Văn Chương

2.

Tất cả các loại hình bảo hiểm xã hội, y tế, giao thông, nhân thọ v.v… đều nằm trong lĩnh vực của chuyên môn Quản trị rủi ro. Thì các cụ ta đã chỉ ra trong câu, vô cùng đơn giản này: “May quần phòng khi cả dạ. Làm cửa phòng khi bựng mâm”. Vì không nhớ đến câu ấy nên tất cả những dãy nhà cao tầng ở miền Bắc (thời ấy năm tầng được gọi là cao tầng) đều không tài nào xoay xỏa được cỗ áo quan khi nhà có chuyện hậu sự.

Ngày đi học, ai chẳng biết câu: “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”, “Thương người như thể thương thân”… nhưng đầu những năm 60 thế kỷ trước, học văn chỉ được biết văn học có tính hiện thực, tính chiến đấu, tính Đảng, tính dân tộc, tính nghệ thuật, chứ không có tính nhân loại (nhân tính). Thế nên phim Người thứ 41 bị coi là xét lại, bị phê phán kịch liệt.

Văn học Nga Xô viết cũng có một tác phẩm cực hay của M. Gorki Bài ca chim báo bão như dự báo một cơn bão táp cách mạng sẽ nổ ra. Nhưng hình như trong lí luận, chưa thấy khẳng định chức năng ấy của văn chương.

Trong văn chương Cách mạng, nhất là thơ Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Sóng Hồng… tính tích cực của nó được mang thuật ngữ tính chiến đấu, nghĩa là cổ vũ người ta đấu tranh lật đổ chế độ cũ ( dùng cán bút làm đòn xoay chế độ). Trong kháng chiến thì cổ vũ công, nông, binh, trí kháng chiến, hăng hái thi đua giết giặc lập công “mừng đón cha trở về” (ca từ một bài hát).

Văn chương sau hòa bình lập lại ở miền Bắc thì tính chiến đấu thể hiện nỗi đau chia cắt, nhớ miền Nam, tin vào ngày mai thống nhất, cổ vũ quân dân miền Bắc “mỗi người làm việc bằng hai”, “thanh niên ba sẵn sang”, “phụ nữ ba đảm đang”. Trong chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân giặc thì cổ vũ bộ đội “nhằm thẳng quân thù mà bắn”, cả nước, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”.

3.

Nói chung, tính tích cực của văn chương cách mạng, kháng chiến trước sau 1975 ở miền Bắc đều thể hiện niềm tin vào độc lập, thống nhất, dân giàu nước mạnh. Tự thân niềm tin ấy về bản chất cũng đã mang ý nghĩa dự báo tương lai tốt đẹp của đất nước rồi.

Đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, văn chương phát triển phong phú hơn, đa dạng hơn, có nhiều xu hướng, phong cách được thể hiện trong thực tế sáng tác. Mặt khác, xu hướng toàn cầu hóa của thế giới phẳng, lấy hòa bình, hòa hoãn, hòa giải, hòa hợp của thế giới hội nhập khiến ai cũng nhận ra nhân tính là mẫu số chung của loài người. Tử số chỉ còn là sự khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ mà thôi.

Liên hiệp quốc định nghĩa khoan dung là hãy chấp nhận sự khác biệt về cả chính trị, tôn giáo, mầu da, tiếng nói, văn hóa. Có nhiều vấn đề phải hành động toàn cầu như biến đổi khí hậu, như chủ nghĩa khủng bố…

Văn chương dự báo tất cả những hiểm họa ấy của loài người. Văn chương nước ta trong hơn hai chục năm trở lại đây thể hiện rõ chức năng dự báo ấy. Nguyễn Thiên Sơn có Dòng sông chết là lời cảnh báo về môi trường sống. Chủ tịch tỉnh (kịch bản Đình Kính) cảnh báo về sự tha hóa của một bộ phận cán bộ công chức. Sinh tử (kịch bản Phạm Ngọc Tiến) đang chiếu trên Truyền hình cảnh báo về cuộc đấu sống còn giữa những người tử tế đích thực và những người tự chuyển hóa, tự biến chất cấu kết với kẻ xấu mưu cầu lợi ích riêng, lợi ích nhóm.

4.

Nói đến thế nhà thơ không chỉ dự báo mà còn mách nước cụ thể cách làm để chặn đứng thủ đoạn của những kẻ nhiều mưu ma chước quỷ vì tiền.

5. 6.

“… Khi một nhân vật chính diện được xây dựng với một phẩm chất hoàn hảo, có tính chất tiêu biểu cho tinh hoa của một giai cấp, một dân tộc, một thời đại, mang những mầm mống lý tưởng trong cuộc sống có thể coi là nhân vật lý tưởng” (M.Bakhtin). Với định nghĩa ấy ” nhân vật lý tưởng rất hiếm trong văn học. Nó phải đạt được những chuẩn toàn vẹn về đạo đức, lối sống, phải tiêu biểu và đại diện cho ước mơ, khát vọng lớn lao những cũng rất thực tế của toàn xã hội trong từng thời kỳ nhất định. Trong hoàn cảnh xã hội có những khủng hoảng nghiêm trọng về niềm tin, về chân lý, về các chuẩn mực đạo đức, về khuynh hướng phát triển… luôn xuất hiện những “người hùng” thực sự có tài năng, bản lĩnh, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám hi sinh vì những sứ mệnh lớn lao, tạo nên những bước ngoặt lịch sử có tính quyết định cho số phận dân tộc“. Đấy là trích đoạn bài viết của Trần Việt Hà trong bài Nhân vật lý tưởng trong tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn trên tạp chí Lí luận Phê bình văn học nghệ thuật, 8/2023.

Tác giả hoàn toàn đồng thuận với đề xuất của nhà thơ Trần Đăng Khoa là cần tổ chức truyền hình trực tiếp. Trong Lửa đắng là truyền hình trực tiếp một phiên tòa điểm.

7.

Truyền hình trực tiếp một cuộc xét xử của tòa án công lý cũng có nghĩa là cùng lúc, nó được tòa án dư luận giám sát chặt chẽ, kể cả lời nói cử chỉ, nhất là lập luận, lý lẽ của các bên. Mà tòa án dư luận trong đó có báo chí là đặc biệt nhạy bén, sắc sảo, có khả năng phản ánh kịp thời công luận xã hội như một phản biện xã hội đáng nể trọng. Tác giả mong muốn cải tiến phương thức lãnh đạo của Đảng như Đảng đã từng có nghị quyết.

“- Đúng quy trình mà không đúng quy định (bổ nhiệm) không đúng người, đúng việc, để hỏng việc hàng loạt mà về trách nhiệm chỉ nhận như một trong những người bỏ phiếu tín nhiệm ở cơ sở, một trong những thường vụ bỏ phiếu… thì có nghe được không? Nếu bảo nghe được thì đồng chí có thể làm đơn xin từ chức để tôi không phải làm thủ tục cách chức… Nếu bảo không nghe được thì tôi còn yêu cầu kiểm điểm để thường vụ quyết định hình thức kỷ luật. Yêu cầu trả lời tại chỗ. Hắn ta nhận khuyết điểm đại thể là ở trên kia (trên Trung ương) chỉ quen làm tổng hợp, chưa làm tổ chức nên sai về phương pháp công tác chứ không sai về động cơ. Không ai tố cáo, không thư nặc danh, không bắt được quả tang mà người ta làm đúng quy trình thì cả nước đều chịu thua các bố tổ chức rồi …”

7.

Cử tri cả nước đều bận tâm việc kẻ tham nhũng nhận tội nhưng không thu hồi được tài sản thì với cách này đảm bảo sẽ thu hồi được. Xin các vị kiểm tra, thanh tra hãy đọc từ trang 159-174 Cuộc vuông tròn sẽ nhận ngay ra tính khả thi của giải pháp này.

Nhà văn đích thực sống cuộc sống thực sẽ nhận ra điều này: khi cuộc sống hôm nay đặt ra vấn đề gì thì nó cũng đồng thời có câu trả lời cho vấn đề ấy. Cuốn sách những vấn đề khoa học của thế kỷ XX chưa giải quyết được nêu 20 vấn đề. Nhưng nó thuộc về lĩnh vực khoa học. Còn những vấn đề xã hội của ta, thật ra các nước phát triển đã giải quyết từ lâu rồi: Đấy là công khai, minh bạch để dân biết, dân bàn, dân quyết định, dân làm (dưới sự quản trị của nhà nước và dân kiểm tra. Nhờ thế mà văn chương có tính dự báo.

Có một nhân vật mang tính dự báo rất cao mà Lửa đắng đề cập đến. Ấy là yếu tố nước ngoài tác động đến nhiều mặt đời sống nước ta qua nhân vật bí mật ” người ngoài hành tinh ” chống lưng cho Vũ Sán leo lên chức giám đốc Sở.

Nguồn Văn nghệ số 52/2023

Bí quyết làm giàu của một tỷ phú Mỹ là đọc tiểu thuyết. Thiết nghĩ những nhà quản trị đất nước cũng nên đọc tiểu thuyết, có thể cũng nhặt nhạnh được ít nhiều điều có ích, trước hết là tính dự báo.

Nhận Thức Trong Văn Học Là Gì ?

Bản chất nhận thức của văn học đã được biết đến từ lâu. Hễ nói đến văn học là người ta không quên nói tới các chức năng nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ.Lí luận văn học ngày nay đã đặt đúng vị trí thẩm mĩ lên hàng đầu, song bản chất nhận thức của văn học vẫn là điều khẳng định. Vấn đề là cần xác định bản chất ấy như thế nào cho phù hợp với đặc trưng của văn học.

Nghiên cứu bản chất nhận thức của văn học, theo chúng tôi, nhất thiết đòi hỏi phải chỉ ra đối tượng đặc thù của văn học, phải giải thích cái lô gích vì sao nhận thức trong văn học lại cho phép nhà văn hư cấu và gắn liền với lí tưởng thẩm mĩ về cuộc sống cũng như tình cảm chủ quan của chủ thể nhận thức và sáng tạo, những điều mà nhận thức khoa học nói chung không chấp nhận.

Câu trả lời thiết nghĩ, có thể tìm thấy ở gợi ý ban đầu của Aristote từ trong sách Thi pháp học (Nghệ thuật thơ ca) của ông viết cách đây 2300 năm trước công nguyên. Nói về nhiệm vụ của nhà thơ ông viết: “Nhiệm vụ của nhà thơ không phải ở chỗ nói về các sự việc đã thực sự xảy ra, mà là nói về cái có thể xảy ra theo quy luật xác suất hay quy luật tất nhiên… Nhà sử học nói về những điều đã xảy ra thực sự, còn nhà thơ thì nói về những gì có thể xảy ra. Vậy nên thơ ca có ý vị triết học và nghiêm chỉnh hơn lịch sử, vì thơ ca nói về cái chung mà lịch sử lại nói về cái cá biệt” (1). Aristote đã nêu ra sự phân biệt rất quan trọng: lịch sử – lĩnh vực của cái đã xảy ra, còn thơ ca (văn học) – lĩnh vực của cái có thể xảy ra theo quy luật xác suất hay tất yếu. Sự phân biệt này cho ta thấy hai điểm. Một là không nên hiểu tư tưởng văn học của Aristote một cách giản đơn thô thiển chỉ là sự mô phỏng – bắt chước – sao chép cuộc sống đã có như lâu nay nhiều người vẫn hiểu. Điều này nhà triết học Nga A. F. Losev đã phân tích rõ trong công trình của ông về triết học cổ Hi Lạp(2). Hai là Aristote cho thấy lĩnh vực quan tâm của văn học không phải là hiện thực đã và đang tồn tại, mà là lĩnh vực của những cái có thể xảy ra. Theo chúng tôi, đó là một tư tưởng rất sâu sắc, có thể lấy làm điểm xuất phát để tìm hiểu đặc trưng nhận thức của văn học.

Triết học duy vật biện chứng từ lâu cho thấy, hiện thực và khả năng là một cặp phạm trù của sự thống nhất đối lập, chuyển hoá cho nhau. Từ điển triết học của Rodental chủ biên, viết: “Hiện thực là bất cứ khách thể nào (sự vật, trạng thái, tình huống) đã tồn tại với tính cách là kết quả của một khả năng nào đó”. “Khả năng biểu hiện khuynh hướng phát triển khách quan nằm trong những hiện tượng đang tồn tại”(3). Khả năng tiềm tàng trong hiện thực (tiềm lực), và trong những điều kiện nhất định nó có thể chuyển hoá thành hiện thực, song không thể gọi khả năng là hiện thực, bởi vì cái gì là khả năng thì không phải là hiện thực và ngược lại cũng vậy, cái gì đã là hiện thực thì không còn là khả năng. Như thế, có thể nói, theo Aristote thì văn học không phản ánh hiện thực, mà chỉ là sự tư duy về những khả năng của hiện thực, hoặc nói theo lối đã quen, văn học chỉ phản ánh các khả năng của hiện thực.

Kiến giải của Aristote buộc ta phải suy nghĩ tới phạm trù khả năng trong triết học, và mối quan hệ giữa văn học nghệ thuật với cái khả năng. Mặc dù mọi lĩnh vực kiến thức của con người đều có phần khám phá cái khả năng, song muốn hiểu bản chất của văn học không thể không nghiên cứu nội dung, đặc điểm của phạm trù quan trọng này. Điều đáng tiếc là phạm trù này cho đến nay trong phạm vi triết học thường chưa được phát triển đúng mức phải có. Trong khi nhấn mạnh tới sự thống nhất mâu thuẫn của chúng, người ta phân biệt “khả năng thực tế” với “khả năng trừu tượng” và quan tâm trước hết đến khả năng thực tế, còn khả năng trừu tượng (khả năng hình thức), những khả năng không có điều kiện chuyển hoá thành hiện thực trong thực tế, những khả năng đã mất thì ít có ý nghĩa và dĩ nhiên là không được quan tâm. Như thế, văn học, nhất là văn học hiện thực chủ nghĩa, theo lí thuyết nói trên, chỉ quan tâm đến hiện thực với các khả năng thực tế mà thôi. Thực ra điều đó không hoàn toàn đúng. Đối với nhu cầu sáng tạo và đời sống tinh thần của con người thì cái khả năng là quan trọng nhất, bất kì là khả năng nào. Con người khác con vật ở chỗ biết sáng tạo ra của cải vật chất, biến đổi tự nhiên và biến đổi cả bản thân mình, do đó ngoài thực tại ra, mọi cái khả năng đối với nó đều có ý nghĩa sống còn, bởi có khả năng là có viễn cảnh, có đổi thay, có chân trời. Mọi khả năng của hiện thực, dù là khả năng trừu tượng, thậm chí khả năng khó tin như người lấy tiên, người lấy ma, người chết sống lại… đều có tác dụng mở rộng không gian nhận thức thế giới, nhận thức hiện tại. Nhà triết học Đức M. Heidegger cho rằng thơ sáng tạo tồn tại, thơ nói về cái “vô”. “Vô” không phải là không có gì mà là vô hạn. Vô hạn là trạng thái tự do vượt lên cái hữu hạn, mà trạng thái ấy chỉ có thể có trong thế giới tinh thần. Vì thế theo Haidegger thơ không phải là đồ trang sức bề ngoài, không phải cảm xúc, tình cảm nhất thời, không phải thứ tiêu khiển, mà là một nền tảng được hun đúc của lịch sử. Ông nói con người “tràn đầy thành quả lao động, nhưng vẫn ngự trị trên mặt đất một cách thi vị” (4). Cái thi vị ở đây là sự tồn tại hướng tới cái vô hạn. Hiểu như vậy, cái khả năng đáp ứng được nhu cầu vươn lên cái vô hạn của con người, cho nên nó trở thành đối tượng của văn học. Thật vậy, nếu hiện thực là sự thực hiện của một trong những khả năng của hiện thực, thì nó luôn luôn là hữu hạn, còn khả năng là vô hạn. Hiện thực gồm tất cả những cái đang có trong hiện tại hữu hạn. Trái lại khả năng là vô hạn. Bởi cái hiện thực có thể có khả năng là không hiện thực. Cái khả năng cũng có thể là cái không có khả năng. Cái tất yếu cũng có thể không tác động mà bị chi phối bởi cái ngẫu nhiên. Cái hiện thực đã thành quá khứ cũng hàm chứa nhiều khả năng. Đằng sau mỗi cái dĩ nhiên đã thành quá khứ có vô vàn cái khả năng đã không còn cơ hội trở thành hiện thực. Nhưng những khả năng đã mất, không còn hiệu lực thực tế ấy vẫn còn ý nghĩa như là những bài học cho tương lai. Con người vẫn thường nhớ và hối tiếc những việc đã qua. Ấy là hối tiếc những khả năng tốt đẹp đã bị phí hoài, những cơ hội nghìn năm đã ra đi không trở lại. Nhà lí luận văn học Nga Iu. Lotman khi bàn về lịch sử đã nói rất chí lí: “Lịch sử chỉ là một trong vô vàn con đường có thể đi. Mỗi con đường đã đi đồng thời là một sự đánh mất các con đường khác” (5). Những khả năng đã mất không phải là vô nghĩa đối với cuộc sống con người, chúng vẫn tiếp tục là đề tài bàn luận, suy nghĩ để lựa chọn con đường tối ưu cho cuộc đời. Và bên trong mỗi cái hiện thực đang tồn tại lại có vô vàn khả năng có thể xảy ra mà không phải bao giờ con người cũng nắm bắt được hết. Đồng thời cùng với một khả năng có thể xảy ra lại có vô vàn khả năng đa dạng, đa chiều có thể xảy ra tiếp sau đó. Các khả năng trừu tượng, phi lí cũng không phải là vô nghĩa. Chúng mở rộng tư duy để hiểu những khả năng, giống như cái ảo giúp hiểu thêm cái thực, cái âm giúp hiểu thêm cái dương! Khả năng luôn luôn phong phú hơn hiện thực và chính nó mở rộng không gian cho tư duy, cho lựa chọn và cho phát triển. Trong triết học chúng ta thường đánh giá rất cao cái tất yếu. Lịch sử chỉ phát triển theo cái tất yếu và theo triết học mác xít, con người chỉ có được tự do khi nhận thức được cái tất yếu ấy. Nhưng khoa học tự nhiên hiện đại đã cho thấy một bức tranh khác. Theo nhà vật lí Prigoring “Các quá trình được dự báo vận động theo các quy luật đã tính trước. Rồi sau đó xuất hiện cái điểm, khi sự vận động đạt đến chỗ không thể dự báo, và đó là chỗ giao nhau của ít nhất là hai, mà thực tế là của vô vàn con đường. Nếu trước đó chúng ta cho rằng có thể tính được xác suất gặp một đường nào đó, nhưng chính ở đó, theo Prigoring, tính xác suất không tác động, mà lại do cái ngẫu nhiên tác động”(6). Nhưng ở đâu có cái ngẫu nhiên tác động thì ở đó có không gian của những cái khả năng mà con người không thể lường trước được.

Khả năng là khuynh hướng, xu thế chuyển biến, vận động, phát triển của hiện thực, là viễn cảnh của tồn tại con người. Con người sẽ ra sao, cuộc sống sẽ ra sao, xã hội sẽ về đâu,… những câu hỏi lớn về hiện tại và tương lai đặt ra từ thời xa xưa mà tôn giáo, triết học và nghệ thuật đều có sứ mệnh trả lời cho mỗi người. Các khả năng, do vậy làm thành đối tượng nhận thức cao nhất của con người. Nhận thức khoa học lịch sử xét cho cùng cũng là nhằm dự báo khả năng cho tương lai.

Nghệ thuật là sáng tạo những thế giới tưởng tượng không có thực, nhằm thể hiện quan niệm nhà văn về cuộc sống, thể hiện những ý nghĩa của hiện thực được nhà văn phát hiện. Tính chất của cái khả nhiên cho phép nghệ thuật có thể tưởng tượng, hư cấu, tạo ra những những thế giới chưa từng có. Các hình tượng văn học kiệt xuất xưa nay, Hămlet, Đôn Kihôtê, Gia Cát Lượng, Quan Vũ, A Q, Kiều, Chí Phèo, Lão Hạc, Xuân Tóc Đỏ… đều thế. Hiện thực với tư cách là sự thực hiện của những khả năng, nó là sự thật, là vật chất, nó có tính ngoan cố không cho phép ai có thể bóp méo, cắt rời, nhào nặn để sáng tạo nên bất cứ hình tượng nào. Bởi như thế là bóp méo, xuyên tạc thực tế. Khi người ta nói nhào nặn chất liệu của hiện thực để sáng tạo nghệ thuật, thì thực chất là nói về việc nhào nặn chất liệu có tính khả năng, chứ không phải nhào nặn hiện thực như nó vốn có. Chỉ có tính khả năng là cái có tính mềm dẻo, tính co dãn cho phép có thể nhào nặn để làm nên sản phẩm mới bằng hư cấu, tưởng tượng.

Cái khả năng còn cho phép người ta được tự do lựa chọn những yếu tố phù hợp với lí tưởng và thị hiếu thẩm mĩ nhằm thể hiện quan niệm sống của mình. Khả năng khi đang là những khuynh hướng tiềm tàng trong hiện thực, nếu không có con người biết phát hiện ra thì nó vẫn chìm khuất trong thực tế. Khả năng là phương diện dành riêng cho con người tự do phát hiện và gắn liền với tính tích cực tư duy, sáng tạo của nó. Ở đây cái khả năng cho phép thống nhất các hiện tượng đời sống với lí tưởng và sáng tạo, thống nhất cái khả nhiên với cái thẩm mĩ. Do thế cái khả năng mới là đối tượng đặc thù của nhận thức văn học.

Cái khả năng với tính chất của nó có thể tác động đến tư tưởng, tình cảm con người rất mãnh liệt. Chẳng hạn khả năng trừng phạt là một nhân tố ngăn ngừa tội phạm mạnh hơn là sự trừng phạt tàn khốc thực tế. Khả năng về sự khổ cực, nghèo túng, đói kém, bệnh tật, khả năng bị khinh bỉ, chê cười thường làm nảy sinh niềm sợ hãi nhiều hơn là các trạng thái đó trong thực tế. Sợ hãi là chức năng của cái khả năng đau đớn hay mất mát cũng giống như mong muốn là chức năng của các khả năng hưởng thụ. Nhà lí luận văn học Nga M. Epstein trong Triết học về cái khả năng nhận xét: “Nói chung, nếu chúng ta nhớ lại lịch sử, thì cái khả năng cũng có ảnh hưởng đến hành vi và tình cảm con người không ít hơn cái hiện thực. Cái tiềm năng có sức tác động mạnh mẽ khi nó vẫn là tiềm năng, có thể nói là tác động đến con người một cách “phi hiện thực”. Niềm tin và sự nghi ngờ, niềm khát khao và nỗi sợ hãi, hi vọng và thất vọng, sự dũng cảm và sự hèn nhát, sự thánh thiện và sự điên cuồng và những trạng thái cảm xúc hay đạo đức thường được gợi lên không phải bằng tình trạng thực tế của sự vật mà là bằng cái khả năng của chúng. Đó là khả năng Chúa còn hay là không, khả năng tôi được cứu hay là bị hại.”(7) Cả dân tộc Việt đi vào hai cuộc kháng chiến không cân sức bằng niềm tin vào khả năng chiến thắng chứ không phải chỉ bằng hiện thực khổ đau. Văn học phản ánh sâu sắc cái khả năng chính là do cội nguồn tác động lớn lao của cái khả năng đối với đời sống con người. Dù kết thúc có hậu hay kết thúc bi kịch văn học đều đặt con người đứng trước sự thể nghiệm, suy tư và lựa chọn về khả năng.

Tất nhiên, văn học không giản đơn chỉ là phản ánh các khả năng của hiện thực. Làm như thế văn học sẽ chẳng khác gì chính trị, tương lai học, xã hội học… Mọi người đều biết, tư duy chẳng phải gì khác, mà là hành động xuyên qua hiện thực để tiến đến các khả năng bị che giấu trong đó. Như thế, chỉ nói đến khả năng là chưa đủ. Điểm đặc thù của văn học còn là sáng tạo những cái khả nhiên của đời sống. “Cái khả năng” mà Aristote nói đến trong bản dịch tiếng Việt nêu trên, theo Chu Quang Tiềm, có thể dịch là “cái khả nhiên”, nghĩa là “cái có thể như thế”. Hiện thực tồn tại trong dạng cái dĩ nhiên (cái đã có như thế) và “cái tất nhiên” (cái bắt buộc phải như thế). Chỉ có trong văn học cái khả năng đã chuyển hoá thành cái khả nhiên do nhà văn sáng tạo dưới dạng hình tượng nghệ thuật. Mọi tác phẩm văn học hư cấu – mọi hình tượng nghệ thuật có giá trị của nhân loại xưa nay thực chất đều là những cái khả nhiên như vậy. Một hình tượng người nông dân (như chị Dậu, anh Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố) hay hình tượng Bác Hồ (chẳng hạn trong thơ Tố Hữu, Minh Huệ, Chế Lan Viên…) đều là những cái khả nhiên trong cảm thụ của tác giả. Không có cái khả nhiên duy nhất. Hình tượng văn học với tư cách là cái khả nhiên còn giàu tính khả năng hơn nữa, bởi ở đây còn có tính khả năng của sức tưởng tượng mang tính cá thể của nhà văn.

Vậy cái khả nhiên văn học có giá trị nhận thức như thế nào? Về mặt này văn học có đặc điểm nhận thức gần gủi với triết học. Nhà triết học Bertrand Russell trong chương “Giá trị của triết học” trong sách Những vấn đề triết học (1912) đã viết: “Mặc dù triết học không thể nói với ta một cách chắc chắn câu trả lời chân lí đối với các mối nghi ngờ do triết học gợi lên thì nó cũng có thể đề xuất với ta nhiều khả năng, những khả năng ấy mở rộng tư tưởng của ta và giải phóng ta khỏi sự chuyên chế của cái thói quen. Bằng cách đó, trong khi giảm bớt tình cảm tin cậy của ta đối với trạng thái sự vật như chúng đang có, triết học tăng cường mạnh mẽ tri thức của ta về những trạng thái mà chúng có thể xuất hiện…, nó đánh thức sự kinh ngạc của ta bằng cách cho thấy những sự vật quen thuộc qua các bình diện khác lạ. Cần nghiên cứu triết học không phải nhằm để đưa ra các câu trả lời xác định đối với các câu hỏi, bởi vì thông thường, không có câu trả lời xác định nào có thể được coi là chân lí, mà là vì bản thân các câu hỏi, bởi các câu hỏi đó mở rộng quan niệm của ta về những gì có thể có, chúng làm phong phú sức tưởng tượng trí tuệ của ta.”(8) Có thể nghĩ rằng, kiến giải của nhà triết học về triết học cũng hoàn toàn phù hợp với bản chất của văn học. Chúng ta không thể nói một cách chắc chắn hoàn toàn những gì văn học biểu hiện là chân lí, bởi đó là nhận thức của nhà văn trong những hoàn cảnh nhất định dưới hình thức hư cấu với rất nhiều ngẫu nhiên. Nhưng ta có thể nói đó là những cái khả nhiên do tác giả sáng tạo nhằm mở rộng tầm hiểu biết về cuộc sống, giải thoát con người khỏi mọi thói quen trì trệ, mọi cái nhìn bề ngoài, kích thích sự chú ý đến mọi biến dị và đa dạng của cuộc đời. Nhưng đồng thời nhận thức văn học khác xa triết học, bởi nhà văn không chỉ khái quát những khả năng mà còn sáng tạo cái khả nhiên, là cái có gía trị thẩm mĩ ở chỗ nó gây khoái cảm cho con người, kích thích và mài sắc không chỉ là tư duy, mà còn mài sắc cảm giác con người về sự đa dạng và khác lạ bất tận của cuộc đời, nuôi dưỡng tình cảm và sự đánh giá có tính nhân văn đối với mọi biến đổi của đời sống. Văn học khác hẳn khoa học vì khoa học chủ yếu nhận thức cái quy luật, cái tất yếu, cái dĩ nhiên của hiện thực dưới hình thức khái niệm, phạm trù, công thức trừu tượng.

Nhìn nhận văn học từ phạm trù cái khả nhiên giúp chúng ta có cơ sở để hiểu chức năng nhận thức đặc thù của nó, nhìn thấy cơ chế bên trong của sự phản ánh thẩm mĩ và do đó có cơ sở đánh giá đúng đắn đối với văn học.

Nguồn: Tạp chí Sông Hương số 231 – 05 – 2008

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn