ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
LÊ THỊ THỦY CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2011 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ THỦY CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Quốc Hùng
HÀ NỘI – 2011
MỤC LỤC Trang
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM 3 1.1. Khái niệm và đặc điểm chức năng xã hội của Nhà nước Việt Nam 3 1.2. Quá trình phát triển của chức năng xã hội của Nhà nước Việt Nam 12 1.3. Vai trò và mối liên hệ giữa chức năng xã hội với các chức năng khác của nhà nước 18
Chương 2: NỘI DUNG CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY 24 2.1. Tình hình kinh tế, chính trị – xã hội của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 24 2.2. Nhiệm vụ, chiến lược của nhà nước Việt Nam hiện nay 25 2.2.1. Nhiệm vụ chiến lược chung 25 2.2.2. Nhiệm vụ, chiến lược cụ thể 26 2.3. Nội dung cơ bản của chức năng xã hội của Nhà nước Việt Nam hiện nay 33 2.3.1. Xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động của đời sống xã hội 33 2.3.2 Xây dựng và đảm bảo thực hiện các chính sách xã hội 34 2.3.3. Đảm bảo cung cấp các dịch vụ công cho xã hội 37 2.3.4. Giải quyết các vấn đề xã hội 43 2.3.5. Bảo trợ và phúc lợi xã hội 63 2.4. Những yếu tố tác động đến chức năng xã hội của Nhà nước Việt Nam hiện nay 69 2.4.1. Yếu tố chính trị 69 2.4.2. Yếu tố kinh tế 70 2.4.3. Yếu tố hội nhập quốc tế 72
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁCH THỨC THỰC HIỆN CHỨC NĂNG XÃ HỘI HIỆU QUẢ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 73 3.1. Phương hướng thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước Việt Nam hiện nay 73 3.1.1. Đổi mới nhận thức về chức năng xã hội của nhà nước 73 3.1.2 Đổi mới nội dung và cách thức thực hiện chức năng xã hội 74 3.1.3. Đổi mới nhận thức về chức năng xã hội của nhà nước là sự kết hợp hài hòa giữa “nhà nước hóa” và “xã hội hóa” 75 3.1.4. Đổi mới chức năng xã hội phải được đặt trong mới quan hệ tổng thể đối mới các chức năng khác của nhà nước 76 3.1.5. Những hạn chế nhất định trong việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước 77 3.2. Những cách thức thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước trong giai đoạn hiện nay 79
3.2.1. Tổ chức và kiện toàn bộ máy nhà nước 79 3.2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật 82
Danh môc tµi liÖu tham kh¶o 94 1 MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài Chức năng xã hội là một trong những chức năng quan trong, thể hiện rõ nét bản chất “nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cùng với chức năng chính trị, chức năng kinh tế, chức năng xã hội của nhà nước là một chuỗi các phương diện hoạt động chính của nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của nhà nước, là các hoạt động có quá trình hình thành và phát triển và được thể hiện rõ rệt theo từng giai đoạn phát triển của nhà nước Việt Nam. Mặc dù chức năng xã hội là một trong những chức năng nguyên thủy của Nhà nước, xuất hiện ngay từ khi xuất hiện nhà nước. Song đây lại là một vấn đề lý luận tương đối mới mẻ so với các nội dung khác trong lý luận về Nhà nước và pháp luật. Ở nước ta, chức năng này mới được đề cập rộng rãi trong những năm gần đây của thời kỳ đổi mới. Và trên phương diện lý luận và thực tiễn, đã xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau về vai trò, phạm vi, nội dung, phương thức thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước. Điều này làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc đảm bảo thực hiện đúng chức năng xã hội của nhà nước trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn tiến tới xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, so nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân và giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” [23, Điều 2]. Mặt khác, sự hội nhập và phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay dẫn đến việc phát sinh những vấn đề xã hội rộng rãi và phổ biến đòi hỏi Nhà nước phải quản lý và điều tiết để đảm bảo sự phát triển bền vững của nhà nước Việt Nam.
3 Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA NHÀ NƢỚC VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA NHÀ NƢỚC VIỆT NAM Nhà nước là hiện tượng xã hội vô cùng phức tạp, có lịch sử hình thành, tồn tại và phát triển riêng của nó. Nhà nước xuất hiện và tồn tại trong lịch sử xã hội loài người với những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định. Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng: Xã hội loài người hiện nay được thoát thai từ một xã hội thị tộc với ba lần phân công lao động: Lần thứ nhất, chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, lần thứ hai thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp, và lần thứ ba thương mại xuất hiện, trở thành một ngành kinh tế độc lập. Đồng thời với sự phân công lao động là việc xuất hiện các giai cấp đối lập nhau, luôn luôn mâu thuẫn và đấu tranh gay gắt với nhau. Do đó, tổ chức thị tộc không còn đủ khả năng điều hành xã hội, đòi hỏi phải có một tổ chức mới về chất để duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội theo một trật tự hợp lý, tổ chức đó được gọi là nhà nước. Bên cạnh đó, nhu cầu phải chống thiên tai, bão lụt, đảm bảo sự tồn tại của con người trước thiên nhiên cũng là một trong những nguyên nhân không kém phần quan trọng của sự ra đời của nhà nước. Và điều đó cũng chứng minh rằng nhà nước “không phải là một quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội” mà là “một lực lượng nẩy sinh từ xã hội”, do nhu cầu của chính con người. Nhà nước như là “một lực lượng tựa hồ như đứng trên xã hội”, vì “không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, nhưng lại có chức năng làm dịu bớt xung đột và giữ cho những xung đột đó nằm trong một trật tự nhất định để cho sản xuất phát triển và xã hội loài người không thể đi đến chỗ diệt vong” [13, tr. 26].
4 Từ khi ra đời, nhà nước giữ một vị trí và vai trò quan trọng trong xã hội có giai cấp thể hiện trong mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội, giữa nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội. Xã hội là cơ sở cho sự phát sinh, phát triển và diệt vong của nhà nước. Ngược lại, Nhà nước là một bộ phận quan trọng không thể thiếu được của xã hội có giai cấp. Nhờ có nhà nước tác động toàn diện, mạnh mẽ đến đời sống xã hội và giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện những lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị và duy trì những điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Các chức năng của nhà nước được hình thành xuất phát từ nhiệm vụ duy trì sự thống trị giai cấp và duy trì sự tồn tại, phát triển của toàn xã hội. Mỗi chức năng của nhà nước thể hiện sự thống nhất về tổ chức, hình thức và biện pháp thực hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực hoạt động của nhà nước, gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước. Chức năng của nhà nước phản ánh bản chất, vai trò và vị trí của nhà nước đối với xã hội. “Chức năng của nhà nước là những phương hướng (hay phương diện, mặt hoạt động cơ bản của nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của nhà nước trong các giai đoạn phát triển cụ thể”. Chức năng xã hội là một trong những chức năng cơ bản của nhà nước. Đây không phải là một khái niệm mới xuất hiện. Ph. Ăngghen không những thừa nhận chức năng xã hội của nhà nước tồn tại từ ngay khi nhà nước mới ra đời mà còn khẳng định chức năng xã hội trong nhiều trường hợp còn nổi bật hơn chức năng chuyên chính giai cấp: Nhà nước mà những nhóm tự nhiên gồm các công xã trong cùng một bộ lạc đã đi đến chỗ thiết lập ra trong quá trình tiến triển của họ (như việc tưới nước ở phương Đông)… Trên cơ sở phân hóa xã hội, yêu cầu tổ chức công trình tưới nước và yêu cầu đấu tranh tự vệ làm cho nhiều nhà nước phương Đông ban đầu vốn là chức năng chung của xã hội, tiêu biểu cho lợi ích chung của cộng đồng rồi dần dần chuyển sang địa vị đối lập với xã hội, trở thành chức năng của nhà nước đối với xã hội [1].
5 Trong nhà nước chiếm hữu nô lệ và nhà nước phong kiến, chức năng xã hội mang nặng màu sắc giai cấp, đẳng cấp. Nhà nước bảo vệ lợi ích của giai cấp, của nhóm xã hội trên cơ sở địa vị của giai cấp, nhóm xã hội đó trong cơ cấu xã hội. Sự phân biệt đối xử, sự bất bình đẳng đó được pháp luật ghi nhận công khai. Ngoài trách nhiệm của nhà nước trong bảo vệ trật tự an toàn xã hội và các công việc chung khác trong lĩnh vực xã hội, hoạt động của nhà nước hầu hết được nhận thức như là những hành vi mang tính chất ban ơn, ân huệ, từ thiện, thường được gọi là những chính sách an dân. Khi nhà nước tư sản ra đời, vị trí cá nhân của con người được chú trọng trên mọi phương diện so với các chế độ xã hội trước đó, quyền con người, quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật đã được công nhận về mặt pháp lý nên tính xã hội và chức năng xã hội của Nhà nước tư sản rõ nét hơn. Trong những năm gần đây, chức năng xã hội chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động của nhà nước tư sản. Nhà nước tư sản giải quyết các vấn đề xã hội chủ yếu thông qua hệ thống trợ cấp xã hội, thông qua việc can thiệp vào các quá trình kinh tế để giải quyết các vấn đề xã hội chủ yếu thông qua hệ thống trợ cấp xã hội, thông qua việc can thiệp vào các quá trình kinh tế để giải quyết các khía cạnh xã hội như tạo công ăn việc làm, điều tiết thu nhập, bảo hộ người tiêu dùng… Nguyên nhân cơ bản của sự thay đổi này là do phong trào đấu tranh của quần chúng lao động, do mâu thuẫn xã hội gay gắt và do mục đích của giai cấp tư sản muốn thu hút lực lượng đáng kể chống lại chủ nghĩa xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới có bản chất khác với kiểu nhà nước bóc lột (phong kiến, tư sản), là nhà nước của đại đa số dân cư trong xã hội và thực thi quyền lực vì quyền lợi và lợi ích trước hết của giai cấp công nhân và nhân lao động. Đề cập đến chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong khi chú trọng đến chức năng giai cấp, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn coi chức năng xã hội là thuộc tính cơ bản nhất và quan trọng nhất của nó. Nói về vấn đề này, V.I. Lênin cho rằng, chuyên chính
6 vô sản không phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc lột và cũng không phải chủ yếu là bạo lực, mà mặt cơ bản của nó là không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân cùng với việc tổ chức, xây dựng toàn diện xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Ông viết: “Lần đầu tiên chuyên chính vô sản, tức là thời kỳ quá độ tiến tới chủ nghĩa cộng sản, sẽ đem lại một chế độ dân chủ cho nhân dân, cho số đông, đi đôi với sự trấn áp tất yếu đối với số ít, đối với bọn bóc lột”. Như vậy, có thể nói, bản thân chuyên chính vô sản, theo quan điểm mácxít, tự nó đã thể hiện sự thống nhất giữa chức năng giai cấp và chức năng xã hội của nhà nước. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa – xã hội không còn các giai cấp đối kháng, nhà nước xã hội chủ nghĩa vẫn thực hiện hai chức năng cơ bản, nhưng cơ chế và mục đích thực hiện hai chức năng đó đã có sự thay đổi căn bản. Cũng như mọi nhà nước khác đã từng tồn tại trong lịch sử, nhà nước xã hội chủ nghĩa muốn thực hiện được chức năng giai cấp của mình, trước hết phải làm tốt chức năng xã hội, đặc biệt là việc không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân, sử dụng sức mạnh, lực lượng của mình để bảo vệ và bảo đảm tuyệt đối các quyền tự do dân chủ cho nhân dân. Thực hiện tốt chức năng xã hội là cơ sở, là điều kiện tiên quyết để nhà nước xã hội chủ nghĩa đảm bảo và giữ vững địa vị thống trị xã hội về mặt chính trị, nghĩa là có đầy đủ khả năng để trấn áp sự phản kháng của các giai cấp bóc lột và các thế lực thù địch. Điều này có nghĩa là, chức năng giai cấp và chức năng xã hội luôn có mối quan hệ biện chứng, cái nọ làm tiền đề và là cơ sở cho cái kia. Tuy nhiên, trong điều kiện giai cấp vô sản đã giành được chính quyền và thiết lập được nhà nước của mình, thì chức năng giai cấp là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài; còn chức năng xã hội (mà trong đó, việc tổ chức xây dựng xã hội mới là chủ yếu) là nhiệm vụ cơ bản, quyết định trực tiếp sự thắng lợi hay thất bại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự khác nhau căn bản giữa việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhà nước tư bản chủ nghĩa là ở chỗ, nhà nước tư bản chủ nghĩa thực hiện chức năng xã hội không phải với tư
7 cách là mục đích, mà là phương tiện để củng cố, đảm bảo sự thống trị chính trị và kinh tế của thiểu số trong xã hội là giai cấp tư sản đối với đa số là giai cấp công nhân và những người lao động khác. Theo đó, việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước tư bản chủ nghĩa luôn bị giới hạn trong một phạm vi chật hẹp và bị chi phối bởi quan điểm của giai cấp tư sản, xuất phát từ những lợi ích kinh tế và chính trị ích kỷ của một thiểu số dân cư trong xã hội. Ngược lại, việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa được xác định là mục đích chứ không phải là phương tiện để nhà nước ấy đảm bảo sự thống trị chính trị của nó. Chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhằm đảm bảo quyền dân chủ cho đại đa số những người lao động, xây dựng những thiết chế, cơ sở để quyền làm chủ đó được thực hiện một cách thực sự trong thực tế. Trong các chế độ xã hội khác nhau, xuất phát từ bản chất xã hội và vai trò xã hội của nhà nước, tất cả các nhà nước đều đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức thực hiện và quản lý những công việc chung nảy sinh từ sự tồn tại, phát triển của toàn bộ cộng đồng, cải thiện chất lượng của cuộc sống cho người dân nên bất kì một nhà nước nào cũng thực hiện chức năng xã hội. Tuy nhiên, do sự khác biệt về bản chất nhà nước, về điều kiện tồn tại và phát triển của mỗi nhà nước mà chức năng xã hội của mỗi nhà nước có thể có những nội dung, phương thức thực hiện khác nhau và luôn thay đổi tương ứng với sự phát triển và tiến bộ của xã hội, tương ứng với vai trò của Nhà nước trong việc tác động vào các quá trình xã hội. Chức năng xã hội của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương diện hoạt động cơ bản của nhà nước thể hiện bản chất chính trị – xã hội của nhà nước trong việc thực hiện các trách nhiệm, nhiệm vụ xã hội ở các giai đoạn phát triển lịch sử nhất định. Chức năng xã hội của nhà nước Việt Nam có vai trò to lớn trong việc khẳng định bản chất, uy tín của nhà nước, tính nhân đạo, tính ưu việt và mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa. Chức
8 năng xã hội của nhà nước ta chịu sự chi phối của các yếu tố như chính trị, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, truyền thống văn hóa, đạo đức, tâm lý dân tộc… Chức năng xã hội của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay khác với chức năng xã hội của các nhà nước tư bản chủ nghĩa trên thế giới và cũng khác với chức năng xã hội của nhà nước ta trong các giai đoạn trước đây. Về lý luận chung, chức năng xã hội thể hiện bản chất (tính xã hội Nhà nước) và ngược lại bản chất của nhà nước được thể hiện thông qua các chức năng của nhà nước, được cụ thể hóa và thực hiện trong nhiều mặt hoạt động của nhà nước. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng, một nhà nước sẽ không thể tồn tại nếu nó chỉ phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị mà không tính đến lợi ích của các tầng lớp khác trong xã hội. Vì vậy, ngoài tư cách là bộ máy nhằm duy trì sự thống trị của giai cấp này với giai cấp khác, nhà nước là tổ chức chính trị xã hội rộng lớn bao gồm mọi giai cấp, tầng lớp, dân tộc, là phương tiện tổ chức bảo đảm lợi ích chung của xã hội. Bất kì một nhà nước nào, cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết mọi vấn đề nảy sinh trong xã hội, duy trì trật tự an toàn xã hội, ổn định và phát triển, thực hiện hoạt động này hay hoạt động khác phù hợp với yêu cầu của xã hội. Nhà nước còn giải quyết các công việc mang tính xã hội chung mà cá nhân, công dân không thể giải quyết được như xây dựng các công trình phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường… Tất cả các nhà nước đều thực hiện chức năng xã hội, nhưng do sự khác biệt về bản chất nhà nước, về điều kiện tồn tại và phát triển của mỗi nhà nước mà chức năng xã hội của nhà nước được thực hiện khác nhau. Trong nhà nước chiếm hữu nô lệ và nhà nước phong kiến, do bản chất nhà nước của hai hình thức nhà nước này là công cụ bạo lực để thực hiện nền chuyên chính của giai cấp chủ nô và giai cấp địa chủ phong kiến, duy trì địa vị kinh tế của
9 hai giai cấp này nhằm thực hiện sự thống trị đối với toàn xã hội, cho nên chức năng xã hội của hai hình thức nhà nước này mang nặng màu sắc giai cấp, đẳng cấp. Nhà nước chỉ bảo vệ lợi ích của giai cấp, của nhóm xã hội thuộc giai cấp thống trị. Chức năng xã hội thể hiện mờ nhạt vì các nhà nước này tập trung vào chức năng chính trị như chức năng bảo vệ và củng cố chế độ sở hữu, chức năng đàn áp sự phản kháng của giai cấp bị trị bằng bạo lực, chức năng thống trị về tư tưởng, chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược và phòng thủ chống xâm lược… Chức năng xã hội của nhà nước trong những hình thức nhà nước này được thể hiện như một hình thức ban ơn, ân huệ, từ thiện. thường được gọi là những chính sách an dân. Trong nhà nước tư sản, chức năng xã hội được thể hiện rõ nét hơn, nhà nước giải quyết các vấn đề xã hội như việc làm, thất nghiệp, dân số, giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường, vấn đề bảo trợ xã hội cho người già hoặc thất nghiệp, các tệ nạn xã hội. Tuy nhiên, bản chất của nhà nước tư sản vẫn là công cụ thống trị giai cấp của giai cấp tư sản, việc nhà nước tư sản thể hiện rõ chức năng xã hội của nhà nước nhằm xoa dịu mâu thuẫn gay gắt trong xã hội và do mục đích của giai cấp tư sản muốn thu hút lực lượng để chống lại chủ nghĩa xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa với bản chất là nhà nước của đại đa số cư dân trong xã hội. Điều 2 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 quy định: “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức” [23], thể hiện rõ bản chất nhà nước của dân, do dân và vì dân: Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước dưới nhiều hình thức khác nhau như thông qua bầu cử lập ra các cơ quan đại diện quyền lực của mình, kiểm tra, giám sát các hoạt động của các cơ quan nhà nước… Nhà nước Việt Nam là nhà nước của tất cả các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam, là biểu hiện tập trung của khối đại đoàn kết dân tộc anh em, được tổ chức và hoạt động trên cơ sở bình đẳng trong các mối quan hệ giữa nhà nước và công dân.
10 Nhà nước thể hiện tính dân chủ rộng rãi, một mặt tạo điều kiện thuận lợi về chính trị, pháp lý, kinh tế để đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế của nền kinh tế quốc dân, mặt khác quan tâm mạnh mẽ đến việc giải quyết các vấn đề xã hội, quan tâm phát triển văn hóa giáo dục, bảo vệ sức khỏe của nhân dân, tôn trọng các giá trị con người. Bên cạnh đó, bản chất của nhà nước còn được thể hiện ở chính sách đối ngoại thể hiện khát vọng hòa bình, mong muốn hợp tác trên tinh thần hữu nghị, cùng có lợi với tất cả các quốc gia trên thế giới. Chức năng xã hội của nhà nước thể hiện tính quyền lực và tính dân chủ của nhà nước. Chức năng xã hội là một trong những chức năng cơ bản của nhà nước, là phương diện hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực xã hội, là một trong những hình thức thể hiện quyền lực nhà nước, luôn gắn liền với cơ cấu quyền lực nhà nước. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong bất kì xã hội có giai cấp nào, quyền lực nhà nước cũng vẫn là quyền lực của giai cấp thống trị, là công cụ chuyên chính của một giai cấp, thể hiện trên ba phương diện: thống trị về chính trị, về kinh tế và về tư tưởng đồng thời duy trì những điều kiện cần thiết cho sự tồn tại của xã hội. Việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước cũng là một trong những hình thức thể hiện tính quyền lực của nhà nước. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước dân chủ, tức là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực thông qua các cơ quan đại diện, thông qua các hình thức khác để tham gia vào hoạt động quản lý của nhà nước, tác động mạnh mẽ đến quá trình hoạch định chính sách đường lối của Đảng và nhà nước, cũng như vào các hoạt động quản lý điều hành. Bên cạnh đó nhân dân tham gia công việc của nhà nước và xã hội ở cơ sở trong các hoạt động đa dạng nhằm bảo vệ của công, bảo vệ quyền và lợi ích của công dân và trật tự an toàn xã hội, tổ chức đời sống công cộng. Nhân dân ta, người chủ của quyền lực, không chỉ tạo lập nên nhà nước của mình, trực tiếp và thông qua các cơ quan đại diện cho mình thực thi quyền lực, mà còn thông qua các hình thức khác để tham gia vào hoạt động quản lý của nhà nước, tác động mạnh mẽ đến quá trình hoạch định chính sách
11 đường lối của Đảng và nhà nước, cũng như các hoạt động lập pháp, hoạt động quản lý điều hành, công tác xét xử và các hoạt động bảo vệ pháp luật. Điều 53 của Hiến pháp đã ghi nhận: “Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội…”. Ở những mức độ khác nhau, nhân dân có thể tác động một cách tích cực vào quá trình thực hiện quyền lực của nhà nước. Hiến pháp và pháp luật của nhà nước ta đã có nhiều quy định cụ thể để hiện thực hóa khả năng đó. Nhà nước phát triển công tác thông tin, báo chí, phát thanh, truyền hình, điện ảnh, xuất bản, thư viện và các phương tiện thông tin đại chúng khác, khuyến khích phát triển các hình thức hoạt động văn học, nghệ thuật. Đó là kênh cực kỳ quan trọng để qua đó nhân dân góp tiếng nói của mình vào quá trình hoạch định đường lối của Đảng, xây dựng chính sách và pháp luật của nhà nước. Đảng và Nhà nước đã tạo ra mọi điều kiện để công dân có thể sử dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền được thông tin, quyền khiếu nại, quyền tố cáo vơi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại. tố cáo được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định, Chính phủ thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng mà Chính phủ phải giải quyết. Hiến pháp cũng quy định trách nhiệm của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện chế độ thông báo tình hình mọi mặt của địa phương… Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước dân chủ, quyền lực thuộc về nhân dân nhưng để thực hiện được dân chủ thực sự, phải thu hút được các tầng lớp lao động tham gia một cách rộng rãi và thật sự bình đẳng vào quản lý công việc nhà nước và xã hội. Trên phương diện pháp lý, trình độ dân chủ thể hiện ở chỗ pháp luật ghi nhận và bảo đảm các quyền dân chủ cho công dân được thực hiện như thế nào, là sự thể hiện của việc giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và công dân. Trong xã hội dân chủ, hoạt động của nhà nước chỉ thể hiện trong những “khoảng hợp pháp” chứ không phải bao trùm
12 lên toàn bộ đời sống xã hội. Chủ trương xã hội hóa trong việc thực hiện các chức năng cua nhà nước trong đó có chức năng xã hội hiện nay là một biểu hiện rõ nét của chế độ dân chủ. Chức năng xã hội của nhà nước tồn tại một cách tất yếu khách quan, bắt nguồn từ bản chất và thể hiện bản chất chung của nhà nước, trong đó chức năng giai cấp giữ vai trò định hướng, chi phối chức năng xã hội và chức năng xã hội là điều kiện, cơ sở xã hội để thực hiện chức năng giai cấp. Chức năng xã hội của nhà nước có nội dung khác nhau ở mỗi giai đoạn phát triển của xã hội. Ngay từ khi xuất hiện, nhà nước thể hiện vai trò trên hai phương diện cơ bản là công cụ bảo vệ giai cấp và quản lý những công việc chung của xã hội, tức là thực hiện hai chức năng: chức năng thống trị giai cấp và chức năng xã hội. Cuộc sống xã hội bao gồm rất nhiều lĩnh vực vận động. Các lĩnh vực đều cần có sự tác động của nhà nước – sự tác động được thực hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau. Mỗi lĩnh vực ấy có những quy luật vận động đặc thù, do vậy đòi hỏi ở nhà nước một sự tác động cũng đặc thù, phù hợp với từng đặc điểm của từng lĩnh vực. 1.2. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA NHÀ NƢỚC VIỆT NAM Chức năng xã hội của nước ta là một trong những chức năng cơ bản và nhất quán trong toàn bộ lịch sử phát triển của nhà nước Việt Nam. Ở Việt Nam, con đường hình thành nhà nước diễn ra có sự khác biệt. Theo tư liệu lịch sử, đặc biệt là về mức độ chênh lệch tài sản trong mộ táng, thì sự phân hóa giai cấp trong xã hội chưa sâu sắc, chưa dẫn đến mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Nhưng sở dĩ nhà nước vẫn được hình thành vì có hai yếu tố đặc biệt và quan trọng thúc đẩy, đó là: công cuộc chống ngoại xâm và công cuộc trị thủy – thủy lợi. Trải qua thời kỳ phát triển lâu dài, sự phát triển của sức sản xuất tạo ra sản phẩm dư thừa. Mặt khác, do nhu cầu bức thiết và sống còn của công cuộc trị thủy thủy lợi và chống giặc ngoại xâm,
13 Hùng Vương vốn là tù trưởng một bộ lạc đã đứng ra thống nhất các bộ lạc khác và trở thành thủ lĩnh của liên minh bộ lạc, trở thành người chỉ huy quân sự tối cao và người điều hành cao nhất trong công cuộc trị thủy – thủy lợi. Lợi dụng uy tín và địa vị đó, Hùng Vương và các con cháu của mình, dần dần theo cách nói của Ph Angghen, từ việc đảm nhận “chức năng xã hội” tiêu biểu cho lợi ích chung đã chuyển sang “địa vị độc lập với xã hội” và vươn lên thống trị xã hội, biến thành ông vua cùng bộ máy cai trị giúp việc của mình. Trải qua các giai đoạn chính quyền đô hộ nghìn năm của phong kiến Trung Quốc, thế kỷ thứ X đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, kết thúc thời kì thống trị hà khắc và nguy hiểm của phong kiến nước ngoài, giành độc lập dân tộc. Nhà nước đầu tiên, và nhà nước hầu hết qua các triều đại, chính quyền nhà nước đều phải đứng ra đảm nhận vai trò tổ chức toàn thể dân tộc chống giặc ngoại xâm và vai trò trị thủy và thủy lợi. Chức năng xã hội của nhà nước được hình thành từ khi xuất hiện nhà nước và duy trì trong suốt quá trình phát triển của mình. Trong suốt thời kỳ bị thực dân Pháp thống trị, dân tộc ta đã liên tục đấu tranh quật khởi giành độc lập dân tộc. Và ngay từ những ngày đầu mới thành lập, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ đã tập trung giải quyết ba nhiệm vụ lớn: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Mặc dù, đất nước trong hoàn cảnh chiến tranh với bao khó khăn chồng chất, nhưng ở các địa phương, chính quyền cách mạng đã từng bước mang lại quyền lợi cho nhân dân như giảm tô, giảm tức, bảo vệ an ninh trật tự xã hội. Đặc biệt là việc kịp thời tiến hành cải cách ruộng đất để “người cày có ruộng”, thủ tiêu quyền chiếm hữu ruộng đất của thực dân pháp, đế quốc xâm lược khác và của địa chủ Việt Nam. Nhà nước chú trọng việc xây dựng các văn bản pháp luật quy định và đảm bảo các quyền tư do dân chủ của công dân Việt Nam như: Sắc lệnh ngày 8/9/1945 về quyền bầu cử; Sắc lệnh số 51 ngày 17/10/1945 về tổng tuyển cử; Sắc lệnh ngày 29/03/46 về quyền tự do báo chí; Sắc lệnh ngày 22/4/1946 về quyền tự do hội họp. Và đặc biệt là Hiến pháp 1946 được Quốc
14 hội thông qua ngày 9/11/1946 với 1 chương ghi nhận và đảm bảo những quyền cơ bản của công dân. Trong giai đoạn này bên cạnh việc ghi nhận các quyền tự do cơ bản của công dân, Đảng và Nhà nước ta còn ý thức tầm quan trọng của giáo dục đào tạo, xác định con người luôn vừa là động lực vừa là mục đích của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu và khẳng định ba nhiệm vụ lớn của chính quyền: là diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm. Và người đã ký 3 sắc lệnh: Sắc lệnh số 17 thành lập bình dân học vụ, Sắc lệnh số 19 cho phép lập lớp bình dân học vụ vào buổi tối cho người nông dân và thợ thuyền, Sắc lệnh số 20 quy định việc học chữ quốc ngữ là bắt buộc và không mất tiền. Nhiều lớp học, trường học ở các cấp học đã được mở ra, hệ thống giáo dục mới của nước ta được bắt đầu hình thành. Để tránh giặc đói, nhà nước đã thủ tiêu những luật lệ hạn chế việc chuyên chở thóc gạo cho Pháp, Nhật đặt ra trước đây và thay bằng một loạt quyết định mới, tìm mọi biện khôi phục và phát triển sản xuất bằng việc bãi bỏ những thể lệ kìm hãm sản xuất công thương và lưu thông hàng hóa, cải cách chế độ thuế thóc, bãi bỏ các thứ thuế nô dịch, bất công giảm gánh nặng cho dân chúng. Trong giai đoạn 1954 – 1975, mặc dù đất nước tồn tại song song hai chính quyền cách mạng với hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau: miền Nam đấu tranh giành và xây dựng chính quyền cách mạng, bên cạnh đó Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam còn đề ra và thực hiện những nhiệm vụ cụ thể, trong đó có nhiệm vụ: xây dựng nền văn hóa giáo dục dân tộc và tiến bộ, xóa nạn mù chữ, mở rộng trường học, cải cách chế độ học tập và thi cử, thực hiện nam nữ bình quyền, bảo vệ quyền bình đẳng giữa các dân tộc, thực hiện chế độ dân chủ rộng rãi và tiến bộ… còn miền Bắc xây dựng Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, khôi phục kinh tế, cải cách xã hội chủ nghĩa, đấu tranh thi hành Hiệp định Gienevơ, thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm, vừa xây dựng kinh tế vừa đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc
15 bằng không quân của đế quốc Mỹ, đấu tranh ngoại giao và ký kết Hiệp định Pari về Việt Nam, chi viện kịp thời và to lớn cho cách mạng miền Nam. Nhìn chung trong giai đoạn 1954 – 1975, chức năng xã hội của nhà nước đều được thực hiện trên cơ sở nền kinh tế lạc hậu, phụ thuộc vào sự viện trợ từ bên ngoài. Đất nước trong giai đoạn chiến tranh bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau, song Nhà nước ta vẫn xây dựng một hậu phương vững chắc, động viên cao độ sức người, sức của cho tiền tuyến, quyết tâm giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Chức năng xã hội của nhà nước trong giai đoạn này chưa được bộc lộ rõ so với chức năng chuyên chính giai cấp và chức năng kinh tế, và việc thực hiện chức năng xã hội trong giai đoạn này phần lớn nhờ vào việc thực hiện chức năng khác của nhà nước và chủ yếu là chức năng kinh tế. Trong giai đoạn 1976 – 1986, đất nước hòa bình, thống nhất và bước vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, nhưng do mắc phải những sai lầm chủ quan duy ý chí, ấu trĩ tả khuynh, duy trì quá lâu cơ chế quản lý cũ dẫn đến nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) là mốc quan trọng dẫn đến sự chuyển đổi trong nhận thức và tư duy của Đảng: Xác định đổi mới kinh tế là trọng tâm, là cơ sở cho việc đổi mới từng bước hệ thống chính trị. Chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường và theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính trị phải được đổi mới từng bước vững chắc, giữ vững ổn định chính trị tạo điều kiện thuận lợi cho việc đổi mới kinh tế. Cơ sở lý luận của công cuộc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp, chức năng xã hội của nhà nước được thực hiện phiến diện. Các đối tượng được hưởng các chế độ bảo đảm và dịch vụ công chủ yếu là người lao động trong khu vực hành chính sự nghiệp, trong các cơ quan và đơn vị kinh tế nhà nước. Với nguyên tắc thực
16 hiện phân phối công bằng, trực tiếp, trên cơ sở các chỉ tiêu kế hoạch cụ thể thậm chí nhà nước xác định cụ thể tới những nhu cầu tối thiểu của từng cá nhân về ăn, ở, mặc, chăm sóc sức khỏe… Tất cả được thực hiện với nguồn kinh phí của nhà nước, tất cả đều dựa vào nhà nước. Với nên kinh tế thị trường, ngoài việc thực hiện các chế độ đối với những đối tượng trên, Nhà nước đã thực sự quan tâm đến tầng lớp nhân dân khác, đặc biệt là nông dân, nông thôn và những vùng đặc biệt khó khăn. Đảm bảo đời sống tối thiểu cho mọi thành phần dân cư trong xã hội bằng cách tạo mọi điều kiện, cơ hội để mọi thành viên trong xã hội cùng phát triển theo khả năng của mình, bảo đảm cho mọi người sống trong môi trường xã hội an toàn, lành mạnh, mọi người đều được quan tâm chăm sóc, thụ hưởng các phúc lợi về giáo dục, y tế, văn hóa… Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, việc xây dựng một nhà nước thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân (theo Hiến pháp năm 1992) là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Điều này lại một lần nữa khẳng định bản chất giai cấp và chức năng giai cấp của nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân vẫn được giữ vững, đồng thời chức năng xã hội, bản chất xã hội của nhà nước được xác định một cách rõ ràng hơn. Chức năng xã hội của nhà nước trong giai đoạn này có sự thay đổi về nội dung và phương thức thực hiện, xuất hiện từ yêu cầu đòi hỏi khách quan của xã hội nhằm đáp ứng đòi hỏi của chính sự vận động và phát triển của xã hội. Từ sự thay đổi cơ chế kinh tế, hàng loạt các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình kinh tế như: việc làm, thu nhập, văn hóa, giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội… đòi hỏi phải có sự kiểm soát từ phía nhà nước. Dân chủ trong kinh tế đòi hỏi dân chủ trong lĩnh vực xã hội phải được phát huy, nhân dân ngày càng tham gia tích cực vào việc giải quyết các công việc nhà nước, công việc xã hội. Vị trí và vai trò của nhà nước chuyển dần từ vai trò “một người bảo trợ” chung cho toàn xã hội chuyển sang thành “người cầm lái”, khởi xướng và tổ chức các hoạt động xã hội, là chủ thể hoạch định và thực thi các chính sách xã hội. Một
18 có công, người được hưởng chính sách xã hội, phân phối thu nhập xã hội công bằng, hợp lý, tạo động lực phát triển mạnh, góp phần phòng, chống tiêu cực, tệ nạn xã hội. Nhà nước xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng dịch vụ công thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân về giáo dục và đào tạo, giải quyết việc làm, chăm sóc sức khỏe, văn hóa, thông tin, thể thao… Những tiền đề cơ bản của công cuộc đổi mới và những chuyển biến tích cực của Nhà nước trong việc thực hiện chức năng công quyền và chức năng xã hội theo cơ chế mới, ngày càng thích ứng với điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay không thể tách rời vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đã làm cho công việc thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước tiến những bước quan trọng. 1.3. VAI TRÒ VÀ MỐI LIÊN HỆ GIỮA CHỨC NĂNG XÃ HỘI VỚI CÁC CHỨC NĂNG KHÁC CỦA NHÀ NƢỚC Chức năng xã hội là chức năng cơ bản của nhà nước, mọi nhà nước đều phải thực hiện việc quản lý những hoạt động chung đồng thời phải chăm lo một số việc chung của toàn xã hội. Ph. Ăngghen đã viết: “Ở khắp nơi, chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị, và sự thống trị chính trị cũng chí kéo dài chừng nào nó còn thực hiện chức năng xã hội của nó”. Cũng như mọi nhà nước khác đã từng tồn tại trong lịch sử, nhà nước xã hội chủ nghĩa muốn thực hiện chức năng giai cấp của mình trước hết phải làm tốt chức năng xã hội, đặc biệt là việc không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân, sử dụng sức mạnh, lực lượng của mình để bảo vệ và bảo đảm tuyệt đối các quyền tự do dân chủ của nhân dân. Thực hiện tốt chức năng xã hội là cơ sở, điều kiện tiên quyết để nhà nước đảm bảo và giữ vững địa vị xã hội về mặt chính trị, nghĩa là có đầy đủ khả năng để trấn áp sự phản kháng của các giai cấp bóc lột và các thế lực thù địch.
19 Chức năng xã hội thể hiện bản chất của nhà nước, là cơ sở để xác định và đánh giá bản chất nhà nước: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức” [23, Điều 2]. Bản chất của Nhà nước ta là nhà nước của toàn thể nhân dân, nhân dân thiết lập nên nhà nước bằng quyền bầu cử, sử dụng quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan quyền lực và thông qua hình thức giám sát, kiểm tra, khiếu kiện các quyết định của nhà nước làm thiệt hại đến quyền lợi của họ hoặc tham gia góp ý kiến vào các dự án, chính sách, pháp luật. Bản chất của nhà nước ta còn được thể hiện ở khối đại đoàn kết dân tộc, tính dân tộc được phát huy nhờ kết hợp tính giai cấp, nhân dân và tính thời đại. Nhà nước thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh”. Nhà nước quan tâm đến việc giải quyết các vấn đề xã hội, chú trọng phát triển giáo dục, y tế, văn hóa…, các chính sách xã hội thể hiện tinh thần nhân đạo. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng trong mối quan hệ giữa nhà nước và công dân. Công dân có đầy đủ quyền tự do dân chủ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đồng thời công dân cũng tự giác thực hiện mọi nghĩa vụ trước nhà nước. Về phần mình, nhà nước cũng tôn trọng các quyền tự do dân chủ của công dân và ghi nhận đả bảo cho các quyền đó được thực hiện đầy đủ. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa còn được thực hiện qua các chính sách đối ngoại của nhà nước thể hiện khát vọng hòa bình, hữu nghị “Việt Nam mong muốn được làm bạn với tất cả các nước trên thế giới”. Việc nhà nước thực hiện chức năng đối ngoại đúng đắn sẽ đảm bảo cho nhân dân quyền được sống trong môi trường chính trị ổn định, không có bạo lực và đảm bảo quyền được giao lưu học hỏi với các nước trong khu vực và trên thế giới. Chức năng của nhà nước thể hiện vai trò của nhà nước trong việc cung cấp các hàng hóa công cộng nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Nhà
20 nước có thể tập trung cung cấp những hàng hóa công thuần túy như: quyền sở hữu tài sản, sư ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát những căn bệnh truyền nhiễm, nước sạch, đường sá và bảo vệ người nghèo. Hay nhà nước có thể tiến hành quản lý những tác động nhằm giảm ô nhiễm môi trường, điều tiết thị trường chống độc quyền và cung cấp các chính sách bảo hiểm xã hội… Chức năng xã hội của nhà nước góp phần khắc phục mặt trái của kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường tuy có nhiều điểm mạnh nhưng bản thân nó vốn có những giới hạn, những khuyết tật mang tính tự phát hết sức bướng bỉnh. Hơn thế nữa, quan hệ thị trường còn là môi trường thuận lợi để phát sinh nhiều tiêu cực và tệ nạn xã hội. Thực tiễn hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới vừa qua cho thấy, bên cạnh tác động tích cực là cơ bản, những tác động tiêu cực do mặt trái của kinh tế thị trường gây ra cũng hết sức nghiêm trọng, đặc biệt trên phương diện tư tưởng, đạo đức, lối sống. Chúng ta mới áp dụng cơ chế thị trường chưa được bao nhiêu, song bên cạnh những thành tựu, chúng ta đã phải trả giá không nhỏ cho những hiện tượng tiêu cực, như do cách làm ăn thuần túy chạy theo lợi nhuận đã dẫn đen các hình thức lừa đảo hối lộ, trốn thuế, nợ nần khó trả, do thương mại hóa một cách tràn lan, xâm nhập cả vào các lĩnh vực dễ thương tổn như y tế, giáo dục, văn hóa đã làm cho các giá trị đạo đức, tinh thần bị băng hoại và xuống cấp, đồng tiền đã chi phối nhiều quan hệ giữa người với người, sự phân hóa giàu nghèo và bất công xã hội có chiều hướng tăng lên, lối sống ích kỷ, thực dụng có nguy cơ ngày càng tăng Do đó, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định nền kinh tế thị trường mà chúng ta cần xây dựng là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích của nền kinh tế đó là: “Phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hưu, quản lý và phân phối” [9].
21 Về sở hữu, tồn tại sở hữu toàn dân, tập thể và sở hữu tư nhân. Nhà nước xây dựng cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động trực tiếp hay thông qua khâu trung gian nhất định tham gia vào quá trình hoạch định, tổ chức, giám sát, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch phát triển của đất nước. Và trên lĩnh vực phân phối nhà nước ưu tiên phân phối theo lao động và phúc lợi xã hội, kết hợp tăng trưởng kinh té với việc thực hiện công bằng xã hội, hoạch định các chính sách xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa… Chức năng xã hội của nhà nước mang lại sự ổn định về mặt xã hội. Việc đảm bảo phúc lợi xã hội ngày một gia tăng nhờ hiệu quả tác động của chính sách kinh tế tiến bộ, nhà nước đảm bảo sự công bằng trong xã hội (địa vị pháp lý ngang nhau thụ hưởng ngang nhau, lao động ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau, đóng góp, cống hiến cả về vật chất và tinh thần cả trong quá khứ và hiện tại ngang nhau cho sự phát triển của đất nước thì được hưởng ngang nhau… Với việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước, đảm bảo cho mọi người dân được sống trong một xã hội công bằng, bình đẳng và bác ái sẽ tạo ra sự đồng thuận lớn trong mọi tầng lớp nhân dân. Và thông qua việc thực hiện các chức năng xã hội của nhà nước, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, nhà nước lại cung cấp cho thị trường một nguồn lao động chất lượng, là nguồn lao động chính tạo ra năng suất lao động cao và lực lượng các cán bộ quản lý doanh nghiệp cho mọi thành phần kinh tế, mọi loại hình kinh tế. Chức năng xã hội mang lại sự ổn định về mặt xã hội, là tiền đề cho việc thực hiện các chức năng nhà nước khác như chức năng chính trị và chức năng kinh tế, và ngược lại các chức năng này là điều kiện đảm bảo để thực hiện chức năng xã hội của nhà nước. Trong giai đoạn hiện nay, nội dung cơ bản đồng thời cũng là mục tiêu của chức năng chính trị của nhà nước ta là bảo vệ vững chắc chế độ chính trị, chế độ nhà nước xã hội chủ nghĩa, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam và kiều bào ở nước ngoài, trấn áp sự chống phá của các thế lực thù