Chức Năng Nhiệm Vụ Của Ngành Kiểm Sát

Thứ ba – 26/08/2014 17:27

THEO TINH THẦN CẢI CÁCH TƯ PHÁP

Cải cách tư pháp là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX và X của Đảng; đặc biệt Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2023 đã thể hiện rõ quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với nhiệm vụ cải cách tư pháp, tạo bước chuyển mới trong nhận thức và hành động của các cơ quan tư pháp. Một trong những nội dung trọng tâm của công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta là cải cách hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân. Do vậy, vấn đề cải cách hay bàn về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thời gian qua đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu và trao đổi của nhiều nhà khoa học và chỉ đạo thực tiễn trong và ngoài ngành Kiểm sát.

Riêng về chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhân dân hiện nay cũng còn có những ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, Viện kiểm sát chỉ tập trung thực hiện tốt chức năng công tố; ý kiến khác cho rằng, Viện kiểm sát giữ nguyên chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp như hiện nay; nhưng có ý kiến lại cho rằng, phải mở rộng nhiệm vụ của Viện kiểm sát hơn nữa, ngoài thực hành quyền công tố phải mở rộng chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật như ngành Kiểm sát đã thực hiện từ những năm 1960 đến 2002. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin nêu lên một số suy nghĩ của cá nhân về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát theo tinh thần cải cách tư pháp như sau:

Mỗi cơ quan Nhà nước cần phải có một chức năng, nhiệm vụ riêng. Sự phân công càng rành mạch, cụ thể thì hiệu quả quản lý Nhà nước sẽ đạt kết quả càng cao và phát huy cao độ vai trò của cơ quan đó ở từng lĩnh vực, từng ngành, từng cấp. Nếu không sẽ xảy ra tình trạng là ở một lĩnh vực nào đó có nhiều cơ quan cùng làm dẫn đến sự chồng chéo, hoặc là có lĩnh vực bị bỏ trống, hoặc bị buông lỏng sự quản lý của Nhà nước dẫn đến tình trạng “kỷ cương phép nước” không nghiêm, pháp luật bị vi phạm, sự thống nhất trong quản lý Nhà nước bị phá vỡ… mà không có một cơ quan nào chịu trách nhiệm. Do vậy, việc làm rõ chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát theo tinh thần cải cách tư pháp có ý nghĩa rất quan trọng.

1. Về chức năng thực hành quyền công tố

Các nhà khoa học về lịch sử Nhà nước và pháp luật đã chỉ ra rằng, chế định công tố được hình thành và hoàn thiện dần cùng với sự hoàn thiện và phát triển của tố tụng hình sự. Lúc đầu, trong Nhà nước Hy Lạp và La Mã cổ đại, người bị hại là người buộc tội và có nghĩa vụ chứng minh lời buộc tội của mình, nhưng do hoạt động của họ rất khó khăn, nên sau này việc truy cứu trách nhiệm hình sự được chuyển cho Nhà nước, do các viên chức của nhà Vua tiến hành. Viện công tố đầu tiên xuất hiện ở Pháp (năm 1302) với tư cách là cơ quan đại diện của nhà Vua, có nhiệm vụ phát hiện và đưa các vụ việc vi phạm pháp luật của nhà Vua đến Toà án để xử lý và tác động sao cho quyết định của Toà án có lợi cho Nhà nước. Cho đến nay, ở hầu hết các quốc gia, dù với tên là Viện công tố hay Viện kiểm sát, hoặc được bổ sung thêm chức năng, nhiệm vụ tham gia hoạt động ở mức độ nhất định trên lĩnh vực dân sự, hành chính, thương mại, thi hành án và giam giữ cải tạo; nhưng hầu hết các nước trên thế giới đều giao cho cơ quan này là cơ quan đại diện của Nhà nước thực hiện nhiệm vụ buộc tội trong tố tụng hình sự. Do vậy, có ý kiến cho rằng chức năng buộc tội trong tố tụng hình sự – chức năng thực hành quyền công tố là chức năng vốn có của Viện công tố(1).

Ở Việt Nam, từ thời Pháp thuộc, Viện công tố đã được thành lập, mô hình này tiếp tục tồn tại sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 trong cơ cấu hệ thống tổ chức của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Hiến pháp năm 1946 tuy không đề cập đến Viện công tố nhưng trong cơ cấu của Toà án có các Công tố viên làm nhiệm vụ buộc tội nhân danh Nhà nước trước phiên toà trong các vụ án hình sự. Sau ngày hoà bình lập lại ở miền Bắc, từ năm 1958, Viện công tố được tách ra khỏi Toà án nhưng trực thuộc Chính phủ và hình thành một hệ thống cơ quan Nhà nước độc lập với Toà án từ Trung ương tới địa phương. Hoạt động chủ yếu của Viện công tố vẫn là hoạt động công tố trước Toà án. Sau này, do yêu cầu của công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, nên theo quy định của Hiến pháp năm 1959 một loại hình cơ quan Nhà nước mới trong bộ máy Nhà nước được hình thành. Đó là hệ thống cơ quan Viện kiểm sát ngoài chức năng công tố, Viện kiểm sát các cấp còn thực hiện một chức năng thứ hai là kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 tuy có sửa đổi một số quy định về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát, nhưng chức năng công tố, vẫn giao cho Viện kiểm sát đảm nhiệm. Đặc biệt, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2002) quy định cụ thể Viện kiểm sát “thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2023 vẫn khẳng định: “Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”. Như vậy, ở Việt Nam chức năng thực hành quyền công tố từ trước đến nay vẫn luôn được giao cho Viện kiểm sát thực hiện.

2. Về chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp

Các nhà khoa học về lịch sử Nhà nước và pháp luật cũng chỉ ra rằng, hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật không phải chỉ xuất hiện sau Cách mạng tháng Mười Nga (1917) khi Lênin xây dựng Nhà nước Xô Viết – một Nhà nước kiểu mới, mà đã có từ thời Vua Pier Đệ nhất (1772), khi yêu cầu củng cố quyền lực của nhà Vua, nhu cầu cần có sự quản lý Nhà nước mạnh mẽ. Viện công tố với chức năng giám sát, có nhiệm vụ kháng nghị các quyết định và hành vi trái pháp luật của bất kỳ cơ quan và quan chức nào, thông báo cho nhà Vua về những vi phạm pháp luật được phát hiện. Viện công tố ở Nga được nhìn nhận không chỉ là một cấu trúc quản lý thuận tiện, hợp lý mà trước hết là sức mạnh gắn kết Nhà nước, là nền tảng cho pháp chế thống nhất, là trật tự pháp luật. Hoạt động chủ yếu của Viện công tố Nga lúc này là giám sát sự tuân thủ pháp luật trong Nhà nước, còn hoạt động buộc tội trước Toà án chỉ là một trong những chức năng của Viện công tố.

Sau Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, khi thấy được vai trò to lớn của pháp luật và pháp chế đối với sự tồn tại, củng cố và lớn mạnh của chính quyền Xô Viết thì vấn đề tuân thủ pháp luật của Nhà nước Trung ương được đặt ra một cách thiết thực và gay gắt. V.I. Lênin tiếp thu, phát triển từ mô hình Viện công tố Nga trước đây khi mở rộng phạm vi hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật và lập nên mô hình Viện kiểm sát, coi hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật như là chức năng thuộc tính của Viện kiểm sát. Trải qua thực tiễn, mô hình Viện kiểm sát ở Liên Xô (cũ) đã phát huy tác dụng rất lớn. Hầu hết các nước khu vực Đông Âu và các nước khác khi xây dựng Nhà nước kiểu mới cũng lấy mô hình Viện kiểm sát – với đặc thù là cơ quan bảo đảm pháp chế thống nhất trong phạm vi cả nước – để tổ chức bộ máy các cơ quan Nhà nước của mình.

Sau khi Liên Xô (cũ) sụp đổ, mô hình Viện kiểm sát của V.I. Lênin đã phải đương đầu với nhiều thách thức, nhưng đến nay, về cơ bản mô hình Viện kiểm sát vẫn tồn tại ở nước Nga và một số nước khác. Các chức năng kiểm sát của Viện kiểm sát vẫn được duy trì. Hiến pháp Thổ Nhĩ Kỳ ghi nhận: Viện công tố có quyền khởi tố vụ án, quyền bảo đảm sự tuân thủ pháp luật trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước và công dân, về sự phù hợp của các điều ước quốc tế với luật pháp quốc gia, kháng nghị với bất kỳ bản án trái pháp luật nào của Toà án, kiểm sát hoạt động của Cảnh sát tư pháp, soạn thảo chính sách hình sự và phòng ngừa tội phạm. Hiến pháp của Brazin năm 1988 đã sửa theo hướng khẳng định vai trò của Viện công tố, nó không chỉ có thẩm quyền buộc tội nhân danh Nhà nước mà còn giám sát hành chính, bảo đảm tuân thủ quyền tự do của công dân, bảo vệ lợi ích xã hội. ở nhiều nước châu Âu, ngoài việc phát hiện vi phạm pháp luật, tội phạm thì Viện công tố còn có một số chức năng giám sát tuân theo pháp luật và chức năng này đang có xu hướng mở rộng. Hội thảo “Viện công tố ở châu Âu trong thế kỷ 21” đã kết luận: “Nếu chỉ có lĩnh vực hình sự thì quá hạn chế do vậy nên nhìn nhận vai trò của Viện công tố trong lĩnh vực pháp luật dân sự, thương mại và xã hội. Hơn nữa, với mục đích bảo đảm sự phản ứng hiệu quả trước hiện tượng tội phạm cần nghiên cứu khả năng hoạt động của Viện công tố trong lĩnh vực thuế, tài chính, hành chính và các lĩnh vực khác…”(2).

Ở Việt Nam, theo Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960, Viện kiểm sát chính thức được thành lập, cơ quan Viện kiểm sát đã ra đời thay thế cho mô hình Viện công tố, ngoài chức năng thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát còn có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ, cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân.

Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 vẫn khẳng định Viện kiểm sát là cơ quan “bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”, nhưng phạm vi hoạt động đã có sự thu hẹp. Từ chỗ là nhân tố chính “bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”, thì nay hoạt động của Viện kiểm sát chỉ là “góp phần” cho quá trình đó mà thôi và mô hình tổ chức cũng có sự thay đổi. Theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) thì phạm vi hoạt động của Viện kiểm sát chỉ còn “thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”.

Thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2023 và để có cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc quyết định về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát, theo chúng tôi, ngoài việc nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố, ngành Kiểm sát phải làm tốt nhiệm vụ kiểm sát các hoạt động tư pháp. Trong đó, tập trung vào kiểm sát chặt chẽ việc tiếp nhận, giải quyết các tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố; tăng cường kiểm sát các hoạt động tư pháp trong việc giải quyết các vụ, việc dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, các vụ án hành chính và các việc khác theo quy định của pháp luật; đổi mới, nâng cao chất lượng công tác kiểm sát thi hành án. Đồng thời phải xây dựng được mô hình tổ chức bộ máy gọn nhẹ, nhưng tinh nhuệ; trong đó tập trung vào củng cố đội ngũ cán bộ của cơ quan Viện kiểm sát nhân dân tối cao, làm cho đội ngũ cán bộ này có đủ “tầm” để hướng dẫn chỉ đạo hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát các địa phương. Mặt khác, theo định hướng tăng thẩm quyền cho cấp huyện thì phải tập trung lực lượng cho Viện kiểm sát cấp huyện để đủ sức xử lý những công việc trực tiếp thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.

Hiện nay, nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về kinh tế – hành chính không giao cho Viện kiểm sát đảm nhiệm, nhưng theo chúng tôi, muốn giữ gìn kỷ cương phép nước tốt, làm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh thì cần phải có một lực lượng làm nhiệm vụ giám sát việc tuân theo pháp luật của các cá nhân, cơ quan, tổ chức; nhất là trong giai đoạn hiện nay chúng ta đang thực hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống vi phạm và tội phạm, nhất là cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tạo môi trường tốt cho hoạt động đầu tư nước ngoài. Mặt khác, một đất nước muốn phát triển mạnh mẽ, hùng cường thì trước hết chính quyền Trung ương phải mạnh, đủ sức để lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất, không để tình trạng manh mún, địa phương hoạt động không nằm trong quỹ đạo chung của đất nước. Do vậy, vẫn cần phải đẩy mạnh hoạt động giám sát việc tuân theo pháp luật của tất cả các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân.

Vậy, cơ quan nào có thể thực hiện được nhiệm vụ này? Chúng tôi đồng tình với quan điểm cho rằng cần giao cho Viện kiểm sát thực hiện chứng năng này như đã từng thực hiện từ khi thành lập (1960) đến năm 2002(3). Việc giao như vậy sẽ có một số lợi thế:

+ Viện kiểm sát là một hệ thống cơ quan Nhà nước độc lập với các cơ quan hành pháp, tư pháp. Viện kiểm sát các cấp chịu sự lãnh đạo chỉ đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao, nên có khả năng rất cao trong việc loại trừ sự lạm dụng quyền hạn hành chính, kép kín, cục bộ địa phương…

+ Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật đã được Nhà nước ta giao cho Viện kiểm sát từ năm 1960 đến năm 2002. Viện kiểm sát các cấp đã trải qua nhiều năm tổ chức, hoạt động và có đội ngũ cán bộ Kiểm sát viên có bề dày kinh nghiệm về lĩnh vực này.

+ Chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật có mối quan hệ khăng khít, hỗ trợ lẫn nhau. Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về kinh tế – hành chính có tính phòng ngừa, ngăn chặn, răn đe tội phạm rất cao và có mối quan hệ trực tiếp đến hiệu quả đấu tranh chống tội phạm vì khả năng phát hiện tội phạm rất lớn và loại bỏ những hành vi buông lỏng kỷ cương phép nước, nhất là khi những hành vi có dấu hiệu tội phạm nhưng chỉ bị xử lý nội bộ, xử lý hành chính… Kết quả hoạt động kiểm sát trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về kinh tế, hành chính là một kênh thông tin vô cùng quan trọng cho Viện kiểm sát chủ động thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, như quyết định khởi tố vụ án, truy cứu trách nhiệm hình sự của những người phạm tội, ngăn chặn hậu quả của tội phạm một cách kịp thời, chủ động trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; không phải là tình trạng thụ động chờ để “tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức và kiến nghị khởi tố do cơ quan Nhà nước chuyển đến và có trách nhiệm chuyển ngay các thông tin, tài liệu đã tiếp nhận cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền”(4). Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát đã tạo cho Viện kiểm sát có những lợi thế hơn hẳn bất kỳ cơ quan Nhà nước nào trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng.

Qua nghiên cứu tham khảo về tổ chức và hoạt động của Viện công tố một số nước trên thế giới và qua thực tiễn xây dựng và phát triển ngành Kiểm sát thời gian qua, chúng tôi đề nghị Đảng và Nhà nước ngoài việc tiếp tục giao cho Viện kiểm sát chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, cần tiếp tục nghiên cứu để tiến tới có thể giao lại nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật cho Viện kiểm sát./.

Viện Kiểm Sát Là Gì? Chức Năng, Nhiệm Vụ, Quyền Hạn Của Viện Kiểm Sát

1. Trả lời cho câu hỏi viện kiểm sát là gì ?

Có thể hiểu một cách đơn giản nhất, viện kiểm sát là cơ quan chức năng có trách nhiệm và quyền hạn thực hiện công tố . Cùng với tòa án, cơ quan này thuộc nhánh tư pháp trong bộ máy nhà nước. Viện kiểm sát được chia thành nhiều cấp bậc khác nhau. Trong đó, viện kiểm sát nhân dân tối cao là cơ quan có thẩm quyền cao nhất. Ngoài ra, còn có các viện kiểm sát trực thuộc địa phương như : viện kiểm sát tỉnh ( thành phố), viện kiểm sát quận (huyện).

Viện kiểm sát là một cơ quan được quốc hội giao quyền trực tiếp về thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước và công dân trên địa bàn. Sau khi hiến pháp năm 1992 được sửa đổi vào năm 2002, viện kiểm sát còn có thêm chức năng thực hiện quyền công tố theo luật tố tụng hình sự quy định.

1.2. Viện kiếm sát tiếng anh là gì?

Chắc hẳn các bạn , đặc biệt là các bạn ngành luật có quan tâm tên tiếng anh của viện kiểm sát là gì đúng không? Nó là một ngôn ngữ chuyên ngành mà nhất định các bạn ngành luật phải biết để phục vụ cho quá trình học tập và làm việc. Viện kiểm soát có tên tiếng anh là procuracy, tên đầy đủ của viện kiểm sat nhân dân sẽ là people procuracy.

2. Cơ cấu tổ chức và chức năng của viện kiểm sát 2.1. Các chức năng của viện kiểm sát

Hiểu một cách nôm na, viện kiểm sát sẽ thực hiện quyền công tố và quyền kiểm sát các hoạt động tư pháp đối với đơn vị hành chính được phân công đảm nhiệm.

Thực hiện quyền công tố là chức năng quan trọng của viện kiểm sát. Trong một phiên tòa xét xử, chúng ta thường sẽ thấy có luật sư và kiểm sát viên. Nếu như luật sư đóng vai trò bào chữa cho người phạm tội thì kiểm sát viên lại căn cứ vào các bằng chứng phạm tội nhằm buộc tội những đối tượng này. Viện kiểm sát sẽ có sự kết hợp chặt chẽ với tòa án nhân dân các cấp để đảm bảo việc xét xử diễn ra công bằng, minh bạch nhất.

Đối với chức năng kiểm sát, viện kiểm sát cần phải kiểm tra tính hợp pháp của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp và thực hiện ngay tại thời điểm vừa tiếp nhận thông tin tố giác, kiến nghị khởi tố.

Có thể hiểu rằng, Viện kiểm sát có chức năng bảo vệ hiến pháp, pháp luật, bảo vệ cho lẽ phải, công bằng và quyền lợi của nhân dân. Cơ quan này có sự phối kết hợp với Tòa án nhân dân đảm bảo các vấn đề kiện tụng được diễn ra công bằng nhất, và hướng tới mục tiêu không có oan sai.

2.2. Cơ cấu tổ chức của viện kiểm sát

Viện kiểm sát bao gồm 4 cấp bậc : Viện kiểm sát nhân dân tối cao, viện kiểm sát nhân dân cấp cao ( các viện kiểm sát này đặt tại 3 thành phố lớn là Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng), viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, thành phố và viện kiểm sát nhân dân cấp quận, huyện.

Trong viện kiểm sát, người đứng đầu là viện trưởng đảm nhiệm công tác phân công, điều hành công việc của các kiểm sát viên, đồng thời tham gia vào các trọng án có nhiều tình tiết phức tạp. Bên dưới viện trưởng viện kiểm sát là viện phó hỗ trợ viện trưởng trong quá trình làm việc và điều hành các kiểm sát viên. Các kiểm sát viên sẽ nhận sự phân công của cấp trên để tham gia giải quyết các vụ án trên địa bàn phụ trách.

2.3. Viện kiểm sát có quyền gì Quyền kháng nghị

Viện kiểm sát nhân dân dùng quyền kháng nghị khi nào? Trong trường hợp mà hành vi,bản án , quyết định của cơ quan , cá nhân có thẩm quyết trong hoạt động tư pháp có hành vi đặc biệt nghiêm trọng vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền con người, quyền công dân, xâm phạm đến lơi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp phasp của tổ chức, cá nhân thì lúc đó viện kiểm sát nhân dân sẽ phải kháng nghị lên các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền để được giải quyết theo quy định của pháp luật

Quyền kiến nghị

Viện kiểm sát nhân dân dùng quyền kháng nghị khi nào? Trong trường hợp mà hành vi,bản án , quyết định của cơ quan , cá nhân có thẩm quyết trong hoạt động tư pháp có hành vi đặc biệt nghiêm trọng vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền con người, quyền công dân, xâm phạm đến lơi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp phasp của tổ chức, cá nhân thì lúc đó viện kiểm sát nhân dân sẽ phải kháng nghị lên các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền để được giải quyết theo quy định của pháp luật

3. Sự khác biệt giữa viện kiểm sát và tòa án nhân dân

Về chức năng, viện kiểm sát sẽ tiến hành kiểm sát các hoạt động tư pháp và thực hiện quyền công tố. Trong khi đó, toà án nhân dân sẽ có vai trò xét xử và thực hiện quyền tư pháp.

Tòa án sẽ là cơ quan đưa ra quyết định tuyên án dựa theo các căn cứ của hai bên viện kiểm sát và luật sư. Như vậy, viện kiểm sát sẽ đóng vai trò tìm hiểu một chuyên án và tìm những chứng cứ để buộc tội nếu như người bị tố giác thực sự vi phạm. Tuy nhiên, cơ quan này không phải là người đưa ra quyết định cuối cùng đối với người phạm tội.

4. Điều kiện để trở thành một kiểm sát viên 4.1. Điều kiện về bằng cấp

Để có thể trở thành một kiểm sát viên, tiêu chí đầu tiên bạn cần đáp ứng được chính là có trình độ về cử nhân Luật trở lên. Sau khi tốt nghiệp các trường thuộc chuyên ngành Luật như Đại học Luật Hà Nội, đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, hoặc một số các trường đại học có đào tạo chuyên ngành Luật như đại học Kinh tế Quốc Dân, Đại học Quốc Gia khoa Luật, bạn hoàn toàn có thể tham dự các kỳ thi công chức ngành kiểm sát để trở thành những kiểm sát viên làm việc trong các viện kiểm sát các cấp.

4.2. Điều kiện về lý lịch

Gần giống như các ngành công an, quân đội, ngành kiểm sát sẽ tiến hành điều tra lý lịch khá “chặt”. Khi nộp hồ sơ thi tuyển vào ngành này, các bạn cần phải đảm bảo có một lý lịch ” sạch”, bản thân và bố mẹ, ông bà, anh, chị, em không vi phạm pháp luật, không có những hành vi chống phá Đảng và Nhà nước.

4.3. Điều kiện về sức khỏe

Nghề kiểm sát viên có áp lực công việc khá lớn. Vì vậy, các bạn cần phải có sức khỏe đảm bảo thì mới có thể đáp ứng được yêu cầu công việc. Trước khi tham dự kỳ thi nghiệp vụ kiểm sát và kỳ thi công chức, bạn cần phải trải qua vòng sơ tuyển sức khỏe. Nếu bạn đảm bảo về chiều cao, cân nặng và không mắc các bệnh truyền nhiễm, bệnh nan y nguy hiểm, bạn sẽ có cơ hội đi vào “vòng tiếp theo”.

5. Phương thức thi tuyển để trở thành nhân viên của viện kiểm sát

Để có thể trở thành nhân viên của viện kiểm sát, các bạn phải trải qua những kỳ thi khá gắt gao.

Sau khi có bằng cử nhân luật, các bạn có nguyện vọng muốn làm việc tại viện kiểm sát cần phải tham dự kỳ thi công chức và kỳ thi riêng của ngành kiểm sát. Đề thi rất đa dạng về tất cả các mảng kiến thức nói chung và kiến thức của ngành Luật nói riêng. Ngoài ra, các bạn cần phải tham dự thi tiếng Anh, tin học và một số bộ môn khác theo yêu cầu.

Kết quả thi sẽ được xét theo độ dốc, từ cao xuống thấp, nếu bài thi của bạn đạt được điểm số cao hơn so với các đối thủ, chắc chắn, bạn sẽ giành được tấm vé vào làm việc tại viện kiểm sát- là mơ ước của rất nhiều các sinh viên tốt nghiệp ngành luật.

Tuy nhiên, trước khi thi tuyển, các bạn cần phải đảm bảo bản thân đáp ứng được tất cả điều kiện của ngành, tránh tình trạng đã trúng tuyển nhưng lại lý lịch gia đình hoặc sức khỏe bản thân lại không đáp ứng được yêu cầu công việc.

6. Học viện kiểm sát ra có việc làm không? 7. Trường học viện kiểm sát ở đâu?

Trường có tên là Đại học kiểm sát hà nội , trường là cơ sở giáo dục đại học công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam, trực thuộc Viện kiểm soát nhân dân tối cao. Đại học kiểm sát Hà Nội là cái tên khá mới trong hệ thống các trường đại học ở Việt Nam vì vậy chắc nhiều bạn vẫn không biết trường ở đâu đúg không? Trường được đặt tại trụ sở : phường Dương Nội, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Và hiện tại chỉ có một cơ sở duy nhất.

Công Tác Tham Mưu Trong Quá Trình Thực Hiện Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Ngành Kiểm Sát Nhân Dân

Quy chế về tổ chức và hoạt động của Văn phòng VKSND tối cao ban hành kèm theo Quyết định số 275/QĐ-VKSTC-VP ngày 19/6/2023 của Viện trưởng VKSND tối cao đã quy định khái quát 10 nhóm nhiệm vụ, quyền hạn chính của Văn phòng VKSND tối cao, đặc biệt là nhiệm vụ “Tham mưu giúp Viện trưởng VKSND tối cao về kế hoạch, nhiệm vụ công tác; về quản lý, chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhân dân”. Trên cơ sở đó, nhiệm vụ tham mưu này được hệ thống hóa thành 09 nhiệm vụ tham mưu chủ yếu của Phòng Tham mưu tổng hợp, Văn phòng VKSND tối cao.

1. Khái quát về vị trí, vai trò của công tác tham mưu

Thực hiện Luật tổ chức VKSND năm 2014, Quyết định số 410/QĐ-VKSTC-V15 ngày 26/6/2023 của Viện trưởng VKSND tối cao về việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị thuộc bộ máy làm việc của VKSND tối cao, các đơn vị đều thực hiện nhiệm vụ tham mưu giúp Viện trưởng VKSND tối cao. Theo Quyết định số 03/QĐ-VKSTC-V15 ngày 22/12/2023 của VKSND tối cao về cơ cấu bộ máy làm việc, cơ cấu lãnh đạo, quản lý và công chức, viên chức của VKSND các cấp, hiện nay Văn phòng của VKSND được thành lập tại 3 cấp (VKSND tối cao, VKSND cấp cao và VKSND cấp tỉnh). Tại cơ quan VKSND tối cao có Văn phòng VKSND tối cao và có Phòng tham mưu tổng hợp trong các đơn vị thuộc VKSND tối cao (trừ một số đơn vị đặc thù có bộ phận làm công tác này như: Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội; trường Đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại thành phố Hồ Chí Minh; tạp chí Kiểm sát; báo Bảo vệ pháp luật). Tại VKSND cấp cao, VKSND cấp tỉnh, có Văn phòng. Tại VKSND cấp huyện có bộ phận làm công tác văn phòng (sau đây viết tắt là Văn phòng Viện kiểm sát các cấp).

Phải khẳng định rằng, công tác tham mưu trong ngành Kiểm sát nhân dân có đặc điểm, đặc thù xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của ngành và xuyên suốt các khâu công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND. Văn phòng VKSND tối cao là đơn vị chủ trì thực hiện nhiệm vụ “Tham mưu với Viện trưởng VKSND tối cao về phương hướng, nhiệm vụ công tác, về quản lý, chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của đơn vị, của ngành Kiểm sát nhân dân. Giúp Viện trưởng VKSND tối cao tổ chức các phiên họp Ủy ban kiểm sát và làm thư ký các phiên họp của Ủy ban kiểm sát VKSND tối cao. Chánh Văn phòng là người phát ngôn của VKSND tối cao”.

Văn phòng Viện kiểm sát nhân dân các cấp có vị trí, vai trò quan trọng trong tổ chức bộ máy, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND nên vị trí và vai trò của công tác tham mưu được thể hiện trên nhiều phương diện, xuyên xuốt toàn bộ các khâu công tác. Theo quy định của VKSND tối cao, Văn phòng Viện kiểm sát các cấp là đơn vị chủ trì, đầu mối làm công tác tham mưu giúp Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp, Thủ trưởng đơn vị tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát theo phân cấp quản lý; thực hiện công tác quản lý, theo dõi, tổng hợp tình hình hoạt động; tham mưu tổ chức kiểm tra, sơ kết, tổng kết, triển khai công tác hằng năm; xây dựng các báo cáo, phục vụ hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân; thực hiện công tác hành chính tư pháp, lưu trữ, thông tin liên lạc và các nhiệm vụ bảo đảm hoạt động bình thường của cơ quan, đơn vị, góp phần thực hiện hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của ngành. Kết quả công tác của Văn phòng Viện kiểm sát các cấp có sự tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả hoạt động chung của toàn bộ cơ quan, đơn vị và của ngành. Văn phòng Viện kiểm sát các cấp làm việc theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; mọi hoạt động phải tuân theo quy định của pháp luật và các quy định của VKSND tối cao (Quy chế tổ chức, hoạt động của Văn phòng).

Như vậy, công tác tham mưu có vị trí, vai trò quan trọng, gắn liền với công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo Viện kiểm sát các cấp, các đơn vị trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành. Công tác tham mưu được thực hiện ở tất cả các cấp Kiểm sát; thông qua nhiệm vụ quản lý, theo dõi, tổng hợp tình hình hoạt động để tham mưu giúp Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp về phương hướng, nhiệm vụ công tác trong quản lý, chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhân dân. Xuất phát từ đặc điểm đặc thù đối với chức năng, nhiệm vụ của Ngành, theo chúng tôi, khái niệm công tác tham mưu của Ngành được hiểu như sau: ” Công tác tham mưu trong ngành Kiểm sát nhân dân là tổng thể các hoạt động trợ giúp công tác lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao theo nguyên tắc tổ chức và hoạt động của VKSND, để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.

2. Nhiệm vụ và giải pháp công tác tham mưu đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp

Những kết quả, thành tích nổi bật của công tác tham mưu đã được phân tích, đánh giá cụ thể thông qua tổng kết 5 năm công tác văn phòng ngành Kiểm sát nhân dân từ năm 2012 đến năm 2023 (theo Báo cáo số 113/BC-VKSTC ngày 31/10/2023 của VKSND tối cao), đồng thời, chỉ rõ một số tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc cần được đánh giá, làm rõ để đưa ra một số giải pháp khắc phục, kiến nghị, đề xuất. Trong phạm vi bài viết, chúng tôi nhận định khái quát tình hình và đề xuất một số nhiệm vụ công tác tham mưu của ngành Kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, cụ thể:

2.1. Dự báo yêu cầu tình hình mới tác động đến nhiệm vụ công tác tham mưu

Trong bối cảnh tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp, nhất là các loại tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm tham nhũng, chức vụ, kinh tế, tội phạm ma túy, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm mạng tiếp tục gia tăng,… đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi hết sức nặng nề cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhất là vai trò của các cơ quan tiến hành tố tụng để bảo đảm giữ vững an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo điều kiện phát triển kinh tế của đất nước. Đảng và Nhà nước ta tiếp tục đặc biệt quan tâm đến việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó có VKSND. Thông qua các chủ trương về cải cách tư pháp của Đảng ta được thể hiện trong các văn kiện của Đảng qua các kỳ Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI và XII, Quốc hội tiếp tục giám sát chặt chẽ việc thực hiện các Nghị quyết, đặt ra các chỉ tiêu nghiệp vụ đối với ngành Kiểm sát nhân dân nhằm tăng cường thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn mới.

Năm 2023 và những năm tới, nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp trong đó có ngành Kiểm sát nhân dân phải triển khai thi hành nhiều đạo luật mới về tư pháp theo tinh thần Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với yêu cầu bảo vệ quyền con người, quyền công dân ngày càng cao hơn. Yêu cầu đặt ra đối với công tác tham mưu trong ngành Kiểm sát nhân dân tập trung vào các nhiệm vụ: Tham mưu cho Viện trưởng VKSND tối cao chỉ đạo toàn ngành tiếp tục triển khai thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp trong thời gian tới theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2023; thực hiện nghiêm Chương trình số 01-Ctr/BCSĐ ngày 05/12/2023 của Ban Cán sự Đảng VKSND tối cao về chương trình công tác trọng tâm cải cách tư pháp của ngành Kiểm sát nhân dân giai đoạn 2023-2023.

Toàn ngành Kiểm sát nhân dân tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Quốc hội về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm. Viện trưởng VKSND tối cao tiếp tục chỉ thị toàn ngành Kiểm sát nhân dân thực hiện tốt phương châm “Đoàn kết, đổi mới – Trách nhiệm, kỷ cương – Chất lượng, hiệu quả”. Trong đó, tập trung đổi mới mạnh mẽ công tác tổ chức cán bộ, nâng cao tinh thần trách nhiệm, bản lĩnh chính trị và chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên; triển khai thực hiện nghiêm các đạo luật mới về tư pháp; tăng cường trách nhiệm công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; xây dựng ngành Kiểm sát nhân dân trong sạch, vững mạnh. Toàn ngành tiếp tục thực hiện các nội dung đề ra trong các Chỉ thị công tác của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành.

Viện trưởng VKSND tối cao tiếp tục chỉ thị toàn ngành chú trọng thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, gồm: (1) Tập trung làm tốt nhiệm vụ chống oan sai, chống bỏ lọt tội phạm, chủ động đề ra nhiều giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; (2) Tiếp tục đổi mới công tác tổ chức cán bộ; tăng cường kỷ cương, kỷ luật, bản lĩnh, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên trong thực thi công vụ; đề cao vai trò, trách nhiệm người đứng đầu; đánh giá năng lực, trách nhiệm của Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp, Thủ trưởng đơn vị thông qua kết quả công tác của đơn vị; (3) Bảo đảm các điều kiện thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của VKSND.

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, nhiệm vụ của Viện kiểm sát được xuyên suốt từ khi tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm đến khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Do đó, VKSND phải phát huy vai trò là cơ quan trung tâm trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, bảo đảm cho việc xử lý vụ án đúng pháp luật, đáp ứng được yêu cầu.

Công tác cải cách tư pháp, cải cách hành chính yêu cầu xây dựng đầy đủ các quy trình, trình tự giải quyết công việc ở tất cả các khâu công tác, bảo đảm minh bạch, gắn trách nhiệm công vụ ở mỗi giai đoạn được xử lý theo đúng quy trình; đáp ứng yêu cầu về chỉ số cải cách hành chính.

2.2. Đề xuất một số nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm công tác tham mưu đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp

Một là, về tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác tham mưu.

– Xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy làm công tác tham mưu bảo đảm tính hợp lý, hiệu quả và thống nhất từ trung ương đến địa phương trên cơ sở quy định về tổ chức bộ máy VKSND các cấp theo Luật tổ chức VKSND năm 2014; nghiên cứu Đề án về việc thành lập Vụ tham mưu tổng hợp, VKSND tối cao.

– Lựa chọn, bố trí cán bộ có năng lực, trình độ và kinh nghiệm thực tiễn cho công tác tham mưu với “… tư duy làm công tác tổ chức cán bộ là phải dám cho đi, dám nhận về” 1. Xây dựng, trẻ hóa đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu có năng lực, trình độ, kinh nghiệm thực tiễn, nhạy bén, sáng tạo, chuyên nghiệp trong khả năng nắm bắt, tổng hợp, phân tích, đánh giá và dự báo tình hình, có khả năng sử dụng công nghệ thông tin, điều phối công việc tốt. Theo kết luận chỉ đạo của Viện trưởng VKSND tối cao tại Thông báo số 225/TB-VKSTC ngày 18/7/2023, Viện kiểm sát các cấp cần lưu ý thực hiện những giải pháp cơ bản sau:

– Quy định về việc điều động, luân chuyển định kỳ để đào tạo cán bộ làm công tác tham mưu tại Văn phòng Viện kiểm sát các cấp theo hướng: Người có từ 5 năm làm công tác tham mưu tổng hợp, hoàn thành tốt nhiệm vụ thì tổ chức điều động, luân chuyển đến các đơn vị nghiệp vụ theo nguyện vọng và sở trường công tác; điều động, phân công cán bộ của các đơn vị nghiệp vụ đến làm công tác tham mưu tổng hợp tại Văn phòng Viện kiểm sát các cấp, nhằm sử dụng hợp lý những người có trình độ chuyên môn, năng lực, kinh nghiệm và khả năng tư duy tổng hợp đảm nhận công tác tham mưu, tổng hợp.

– Điều chỉnh cơ cấu đội ngũ công chức có chức danh tư pháp và không giữ chức danh tư pháp làm công tác tham mưu bảo đảm hợp lý, hiệu quả và thống nhất. Trong công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ phải coi cán bộ làm công tác tham mưu là nguồn đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, lãnh đạo quản lý các cấp trong đơn vị. Cần có cơ chế ưu tiên về quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, điều động, luân chuyển, bổ nhiệm chức vụ quản lý, chức danh tư pháp; chú ý phát hiện cán bộ trẻ có năng lực để luân chuyển, đào tạo, xây dựng được đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu theo hướng chính quy, chuyên nghiệp và chuyên sâu.

– Rà soát lại trình độ, năng lực người làm công tác tham mưu để đánh giá, phân loại khả năng giải quyết công việc thực tế, từ đó có những biện pháp đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng, bao gồm cả bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp để người làm công tác tham mưu có kiến thức tổng hợp toàn diện, nắm chắc việc vận dụng các thao tác nghiệp vụ. Đồng thời, bồi dưỡng kiến thức về ngoại ngữ, tin học ứng dụng văn phòng và các chương trình khác về công tác văn phòng.

– Nghiên cứu, xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về công tác lãnh đạo, quản lý và tham mưu trong ngành Kiểm sát nhân dân.

Hai là, hoàn thiện quy định về công tác tham mưu.

Nghiên cứu “Hệ thống hóa, rà soát, đơn giản hóa” chế độ báo cáo.

Với quan điểm đổi mới ngành Kiểm sát nhân dân, đồng hành với “Chính phủ kiến tạo”, chúng tôi cho rằng, cần nghiên cứu định hướng của Đề án đơn giản hóa chế độ báo cáo trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước của Chính phủ: “Đến năm 2023, hệ thống thông tin báo cáo quốc gia cơ bản hoàn thành và được vận hành, bảo đảm báo cáo được thực hiện trực tuyến, nội dung báo cáo chính xác, đầy đủ, kịp thời; có sự tích hợp, kết nối và chia sẻ dữ liệu báo cáo giữa các cơ quan hành chính nhà nước; các dữ liệu báo cáo được quản lý, cập nhật và khai thác sử dụng hiệu quả; mẫu báo cáo, biểu báo cáo được tối đa hóa, phù hợp với yêu cầu báo cáo của từng cấp quản lý, phục vụ có hiệu quả hoạt động báo cáo trực tuyến” (Quyết định số 559/QĐ-TTg ngày 24/4/2023 của Thủ tướng Chính phủ). Theo đó:

– Hệ thống báo cáo phải đồng bộ, thống nhất, bảo đảm cung cấp và truyền dẫn thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời, an toàn, phục vụ thiết thực, hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của Viện kiểm sát các cấp, đồng thời, giảm tải gánh nặng hành chính trong tuân thủ chế độ báo cáo.

– Khai thác hiệu quả cơ sở dữ liệu và ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện chế độ báo cáo để giảm gánh nặng báo cáo, bảo đảm thông tin minh bạch, chính xác; kịp thời đề xuất xây dựng các chỉ tiêu nghiệp vụ khác bên cạnh hệ thống chỉ tiêu cơ bản đánh giá kết quả công tác nghiệp vụ theo chế độ thống kê kết quả hoạt động của ngành Kiểm sát nhân dân, nhằm bảo đảm việc khai thác được đầy đủ số liệu, đánh giá tỷ lệ giải quyết từng chỉ tiêu công tác cần báo cáo.

– Sớm xây dựng, hoàn thiện Đề án: “Đổi mới chế độ thông tin, báo cáo công tác của VKSND đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”.

Đề nghị Lãnh đạo VKSND tối cao quan tâm phối hợp với các cơ quan tư pháp trung ương ban hành thông tư liên ngành quy định thống nhất, chặt chẽ về thời điểm lấy số liệu, việc phối hợp xây dựng báo cáo định kỳ (báo cáo tháng, quý, sơ kết công tác 6 tháng đầu năm và tổng kết công tác hằng năm) giúp cho cơ quan quản lý nhà nước các cấp nắm được chính xác tình hình vi phạm, tội phạm và những vấn đề phức tạp tại địa phương cũng như toàn quốc trong kỳ báo cáo, để có những chỉ đạo, điều hành sát hợp.

Sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng mới các quy định về công tác tham mưu.

Văn phòng VKSND tối cao nghiên cứu, tham mưu cho Lãnh đạo VKSND tối cao chỉ đạo toàn diện về tăng cường công tác quản lý hành chính, văn phòng, áp dụng quy định về chỉ số cải cách hành chính; đề xuất Viện trưởng VKSND tối cao cho chủ trương xây dựng, ban hành thông tư để quy định về công tác tham mưu tổng hợp trong ngành Kiểm sát nhân dân.

Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin.

Triển khai phần mềm quản lý án, phần mềm quản lý văn bản và điều hành thống nhất trong toàn ngành để cập nhật thông tin một cách nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm. Viện kiểm sát cấp tỉnh nghiên cứu áp dụng cơ chế phân công đầu mối nằm trong tổ chức Văn phòng thực hiện nhiệm vụ quản lý, theo dõi việc thụ lý và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và quản lý án hình sự, tương tự mô hình hiện nay đang triển khai tại Văn phòng VKSND tối cao, phù hợp với đặc điểm của đơn vị, địa phương, nhằm giúp cho Viện trưởng, Thủ trưởng đơn vị quản lý chặt chẽ số vụ, việc về hình sự hiện nay đơn vị đang giải quyết; cũng như nắm bắt những thiếu sót, tồn tại nhằm phục vụ tốt cho công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành.

Nâng cấp phần mềm thống kê, quản lý án để các đơn vị nghiệp vụ có thể trích xuất dữ liệu từ phần mềm, phục vụ tốt hơn công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành; có hướng dẫn kèm theo khi ban hành các biểu mẫu báo cáo thống kê mới.

Sớm thay đổi biểu mẫu thống kê cho phù hợp với quy định mới của pháp luật và các tiêu chí báo cáo; hằng năm phải rà soát, sửa đổi, bổ sung các chỉ tiêu thống kê, bảo đảm sự tương thích về số liệu giữa báo cáo thống kê và báo cáo bằng văn bản; bổ sung số liệu thống kê về thu hồi tài sản tham nhũng, kinh tế; hỗ trợ chức năng trích xuất số liệu thống kê (lũy kế) đối với cấp cơ sở để bảo đảm chính xác, thuận tiện cho theo dõi, quản lý, phục vụ kịp thời các báo cáo chuyên đề, đột xuất; cung cấp số liệu kết quả công tác tuần của toàn ngành, số liệu phục vụ báo cáo công tác nội chính,… phục vụ hiệu quả công tác tham mưu.

Thường xuyên bồi dưỡng kiến thức mới về công nghệ thông tin cho công chức làm công tác tham mưu, nâng cao hiệu quả sử dụng các thiết bị công nghệ, kỹ thuật mới trong công tác.

Ba là, tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành và đổi mới nội dung, phương pháp, cách thức thực hiện công tác tham mưu.

Có nhận thức đúng về vị trí pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng, nhất là công tác tham mưu tổng hợp, vì đây chính là yếu tố then chốt trong công tác tham mưu giúp Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp về phương hướng, nhiệm vụ công tác, về quản lý, chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện nhiệm vụ công tác. Theo đó, cần phải tăng cường chỉ đạo, điều hành đối với công tác tham mưu; đổi mới nội dung, phương pháp, cách thức thực hiện.

Nghiên cứu, đổi mới công tác tham mưu về quản lý, chỉ đạo, điều hành ở tầm chiến lược, có tầm nhìn bao quát và kế hoạch hành động ngắn hạn, trung hạn và dài hạn để nâng cao chất lượng công tác, đáp ứng được nhiệm vụ yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình mới.

Duy trì thường xuyên chế độ họp giao ban lãnh đạo Văn phòng, đơn vị theo định kỳ, nhất là chế độ giao ban hằng tuần, hằng tháng. Thông qua đó, kịp thời nắm bắt những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

Tăng cường chỉ đạo công tác hướng dẫn, tập huấn, kiểm tra nghiệp vụ, rút kinh nghiệm và sơ kết, tổng kết công tác văn phòng theo định kỳ.

Bảo đảm công tác bảo vệ bí mật nhà nước và quy định của Đảng trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành nói chung và công tác văn phòng nói riêng, vì Văn phòng là đầu mối thu thập, xử lý thông tin, báo cáo.

Văn phòng VKSND tối cao nghiên cứu, đề xuất Viện trưởng VKSND tối cao ban hành Chỉ thị về công tác văn phòng Viện kiểm sát các cấp giai đoạn 2023 – 2023 và những năm tiếp theo để chỉ đạo khắc phục tồn tại, hạn chế và tiếp tục phát huy kết quả đạt được của công tác tham mưu, tổng hợp xây dựng văn bản, giúp nâng cao chất lượng tham mưu trong quản lý, chỉ đạo, điều hành của Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp và công tác phục vụ, bảo đảm hoạt động của Viện kiểm sát các cấp và của toàn ngành.

Bốn là, tăng cường các điều kiện bảo đảm cho công tác tham mưu.

Kiến nghị cần có cơ chế chính sách bảo đảm kinh phí, trang thiết bị, phương tiện làm việc phù hợp với tính chất, phục vụ yêu cầu công tác tham mưu. Trang bị cho những người làm công tác tham mưu các thiết bị điện tử, để tạo điều kiện trong việc lưu, chuyển văn bản, như: Máy ghi âm, ghi hình,… máy tính xách tay không kết nối internet để thực hiện quy định về bảo vệ bí mật nhà nước (theo Chỉ thị số 03/CT-VKSTC ngày 03/7/2023 của Viện trưởng VKSND tối cao về tăng cường công tác bảm đảm an ninh, an toàn thông tin trong ngành Kiểm sát nhân dân).

Hỗ trợ, đảm bảo kinh phí chi cho hoạt động thông tin liên lạc, mua văn phòng phẩm… phù hợp với đặc thù của công tác tham mưu tổng hợp, nhất là dịp phục vụ sơ kết, tổng kết, phục vụ hoạt động giám sát, xây dựng báo cáo Quốc hội, Hội đồng nhân dân và cơ quan có thẩm quyền.

Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận công tác thuộc Văn phòng và với các đơn vị làm công tác chuyên môn, nghiệp vụ; có mối quan hệ phối hợp tốt với người làm công tác tham mưu của các cơ quan tư pháp, cơ quan hữu quan; quan hệ chặt chẽ giữa bộ phận làm công tác tham mưu Viện kiểm sát cấp trên với Viện kiểm sát cấp dưới./.

1 Chỉ đạo của Viện trưởng VKSND tối cao tại Hội nghị sơ kết công tác 6 tháng đầu năm 2023 của Vụ tổ chức cán bộ, VKSND tối cao ngày 03/7/2023.

Trưởng phòng Tham mưu tổng hợp, Văn phòng VKSND tối cao

Công Tác Của Ngành Kiểm Sát Quân Sự Trong Giai Đoạn Mới

Trần Phước Tới

                                            Phó Viện trưởng VKSND tối cao

                                          Viện trưởng VKS Quân sự Trung ương

I. KHÁI QUÁT VỀ TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA NGÀNH KIỂM SÁT QUÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH.

Thực hiện Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 và Quyết nghị của Thường trực Quân uỷ Trung ương, ngày 12 tháng 5 năm 1961 hệ thống Viện kiểm sát quân sự được thành lập theo Thông tri số 06-TT-H của Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, với 18 Viện kiểm sát quân sự, được tổ chức theo hai cấp: Viện kiểm sát quân sự Trung ương và 17 Viện kiểm sát quân sự cơ sở; đội ngũ cán bộ phần lớn được chuyển từ cán bộ chính trị, quân sự, chưa qua đào tạo chuyên môn nghiệp vụ kiểm sát; trụ sở của Viện kiểm sát quân sự được bố trí trong doanh trại cùng các cơ quan đơn vị khác, hoạt động nghiệp vụ dựa vào nguồn ngân sách Quốc phòng.

 Sau khi có Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm sát quân sự 1985, hệ thống Viện kiểm sát quân sự được tổ chức theo 3 cấp, đồng bộ với hệ thống Viện kiểm sát nhân dân, gồm Viện kiểm sát quân sự Trung ương, các Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương, các Viện kiểm sát quân sự khu vực. Về chuyên môn, Viện kiểm sát quân sự được tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất, lãnh đạo theo ngành: Viện kiểm sát quân sự do Viện trưởng lãnh đạo; Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp trên; Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Về hành chính quân sự, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung ương chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo điều hành của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu sự chỉ huy của người chỉ huy đơn vị nơi Viện kiểm sát quân sự đặt trụ sở. Về công tác Đảng, ngành Kiểm sát quân sự chịu sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của Quân uỷ Trung ương; Đảng bộ Viện kiểm sát quân sự Trung ương thuộc Đảng bộ Tổng cục Chính trị; Đảng bộ Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương gồm có chi bộ Viện kiểm sát quân sự quân khu (và tương đương), các chi bộ Viện kiểm sát quân sự Khu vực thuộc đảng bộ Cục chính trị quân khu và tương đương.

 Đến nay, toàn ngành Kiểm sát quân sự có 51 Viện kiểm sát, gồm Viện kiểm sát quân sự Trung ương, 16 Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương, 34 Viện kiểm sát quân sự khu vực. Đội ngũ cán bộ Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự theo biên chế là 528 quân nhân, hiện có 471, thiếu 57; có 99,17% trình độ Cử nhân luật trở lên, trong đó 8,35% trình độ Thạc sỹ luật (Viện kiểm sát quân sự Trung ương có 30% trình độ Thạc sỹ luật). Cơ sở vật chất, kinh phí bảo đảm cho hoạt động kiểm sát ngày càng được nâng lên. Về cơ bản các Viện kiểm sát quân sự đều có trụ sở độc lập (riêng các Viện kiểm sát quân sự khu vực của quân đoàn do quân số ít, đóng quân cùng địa điểm với Viện Kiểm cấp thứ hai nên không xây trụ sở riêng).

Thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW, Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị và các Nghị quyết của Đảng uỷ quân sự Trung ương; Chỉ thị, Kế hoạch của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng về cải cách tư pháp, hàng năm ngành Kiểm sát quân sự đều xây dựng Chương trình hành động với các nội dung, biện pháp cụ thể để nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu khoa học, chất lượng đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên. Nhờ áp dụng tổng hợp các biện pháp nên chất lượng các mặt công tác của các Viện kiểm sát quân sự ngày càng được nâng cao, không để xảy ra oan sai phải bồi thường theo Nghị quyết 388 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về tăng thẩm quyền cho cấp khu vực, từ 01/7/2004, ngành Kiểm sát quân sự đã thực hiện thẩm quyền mới cho 100% các Viện kiểm sát quân sự khu vực. Đến nay các Viện kiểm sát quân sự khu vực đều thực hiện tốt thẩm quyền mới, hằng năm giải quyết gần 90% án sơ thẩm, từ đó các Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương, các Phòng nghiệp vụ của Viện kiểm sát quân sự Trung ương có nhiều thời gian, điều kiện nghiên cứu, hướng dẫn, chỉ đạo nâng cao nghiệp vụ cho các Viện cấp dưới. Công tác nghiên cứu, ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ nhiệm vụ chuyên môn, đáp ứng yêu cầu về cải cách tư pháp được ngành Kiểm sát quân sự hết sức quan tâm. Trong những năm qua, nhiều đề tài, đề án đã được nghiên cứu, triển khai thực hiện như: Đề tài “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát quân sự các cấp đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”; “Nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của các Viện kiểm sát quân sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, “Đề án Mô hình tổ chức, biên chế các Viện kiểm sát quân sự”, “Đề án bồi dưỡng, huấn luyện kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ kiểm sát quân sự giai đoạn 2011 – 2023” và đặc biệt, Viện kiểm sát quân sự Trung ương đã triển khai xây dựng Trung tâm huấn luyện nghiệp vụ ngành kiểm sát quân sự, dự kiến, sau năm 2012 sẽ đưa vào hoạt động để triển khai thực hiện các nội dung của Đề án bồi dưỡng, huấn luyện kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ kiểm sát quân sự giai đoạn 2011 – 2023.

II. TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT QUÂN SỰ TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

Tiếp tục quán triệt, thực hiện nội dung các Nghị quyết, Chỉ thị của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp, về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác điều tra, xử lý các vụ án; công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và các Quyết định, Kế hoạch, Chương trình của Chính phủ, của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng mà gần đây nhất là các Kế hoạch số 04-KH/BCS ngày 30/8/2010 của Ban cán sự đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện Kết luận 79-KL/TW; Kế hoạch công tác kiểm sát thực hiện Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm số 11/KH-VKSTC-VP ngày 10/3/2011 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Kế hoạch số 332/KH-CCTP ngày 14/02/2011 của Bộ Quốc phòng thực hiện Nghị quyết 67/NQ-ĐUQSTƯ về thực hiện chiến lược cải cách tư pháp trong quân đội đến năm 2023 (giai đoạn 2011-2023); ý kiến của Quân uỷ Trung ương về triển khai các Đề án đổi mới về tổ chức và hoạt động của các Cơ quan tư pháp trong quân đội cũng như căn cứ vào tổ chức quân đội, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, tổ chức, hoạt động và công tác của Viện Kiểm sát quân sự  giai đoạn mới như sau:

2.1. Dự kiến mô hình tổ chức, biên chế, hoạt động của Viện kiểm sát quân sự các cấp trong giai đoạn mới.

2.1.1. Dự kiến mô hình tổ chức, biên chế của Viện kiểm sát quân sự các cấp.

Trên cơ sở các quy định về cải cách tư pháp và đặc điểm tổ chức quân đội trong giai đoạn mới, hệ thống Viện kiểm sát quân sự giai đoạn 2011-2023 dự kiến được tổ chức 3 cấp, theo định hướng: Các Viện kiểm sát quân sự chủ yếu được tổ chức tại các Quân khu (phù hợp với tổ chức của Toà án quân sự và nguyên tắc xét xử theo địa bàn quản hạt) và một số đơn vị có tính chất đặc biệt như các Quân chủng và Bội đội biên phòng.

Sau 2023 dự kiến chỉ tổ chức các Viện kiểm sát theo địa bàn các Quân khu, khu vực.

2.1.2. Về hoạt động của Viện kiểm sát quân sự trong giai đoạn mới.

Trên cơ sở Kết luận 79-KL/TW của Bộ Chính trị, các cơ quan có thẩm quyền sẽ xây dựng các dự án Luật, Pháp lệnh điều chỉnh hoạt động của các Viện kiểm sát quân sự. Tuy nhiên, theo tinh thần đổi mới về tổ chức và hoạt động các cơ quan tư pháp của Kết luận 79-KL/TW Bộ Chính trị thì hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát quân sự như sau:

– Các Viện kiểm sát quân sự khu vực sẽ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp hầu hết các vụ án hình sự.

– Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu và tương đương thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự cấp quân khu; thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án quân sự Khu vực; không thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm.

– Viện kiểm sát quân sự Trung ương thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án quân sự cấp quân khu; thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Toà án quân sự cấp quân khu và khu vực đã có hiệu lực pháp luật nhưng lại có kháng nghị. 

2.2. Những yêu cầu đặt ra đối với các mặt công tác của Viện kiểm sát quân sự trong giai đoạn mới.

2.2.1. Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.

– Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử:

Phối hợp với các cơ quan tư pháp và cấp uỷ, chỉ huy các đơn vị đấu tranh ngăn chặn, làm giảm tình hình tội phạm trong quân đội, nhất là các loại tội nghiêm trọng, tội phạm mới như tội phạm xâm phạm an ninh Quốc gia, tội phạm có yếu tố nước ngoài, tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm con người, tội phạm về ma tuý, tham nhũng, tội phạm có tổ chức, có sử dụng công nghệ cao.

Tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra. Kiểm sát chặt chẽ công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Tăng cường trách nhiệm trong việc xem xét, phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra, trong việc áp dụng, huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn, trong việc quyết định truy tố. Hạn chế đến mức thấp nhất tỷ lệ bắt, tạm giữ sau phải chuyển xử lý hành chính, tỷ lệ đình chỉ vụ án do miễn trách nhiệm hình sự, tỷ lệ án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Không để xảy ra việc đình chỉ do bị can không phạm tội; không để xảy ra việc Viện kiểm sát truy tố, Toà án xét xử tuyên bị cáo không phạm tội. Tăng cường hoạt động kiểm sát điều tra, đảm bảo hoạt động của Cơ quan điều tra và của những người tham gia tố tụng đúng quy định của pháp luật.

Nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà của Kiểm sát viên. Làm tốt công tác chuẩn bị xét xử, dự kiến các tình huống có thể phát sinh tại phiên toà. Chủ động tham gia xét hỏi, tranh luận tại phiên toà; kiểm sát chặt chẽ hoạt động xét xử của Toà án và những người tham gia tố tụng, đảm bảo việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; tăng cường kiểm sát bản án, quyết định của Toà án Quân sự. Nâng cao chất lượng kháng nghị. Chú trọng công tác tổ chức rút kinh nghiệm xét xử nhằm nâng cao các kỹ năng xét hỏi, luận tội, tranh luận của Kiểm sát viên.

Quá trình tiến hành tố tụng đối với các vụ án có người phạm tội, bị can, bị cáo là cán bộ đảng viên cần thực hiện nghiêm túc các quy định của Chỉ thị 15-CT/TW của Bộ Chính trị, nhất là các quy định về bắt, khám xét, khởi tố, truy tố. Phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra, Toà án quân sự giải quyết đúng đắn kịp thời các vụ án phức tạp, nghiêm trọng gây nhiều bức xúc cho xã hội. 

– Kiểm sát thi hành án; kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù.

Làm tốt công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong công tác tổ chức quản lý việc tạm giữ, tạm giam và chấp hành án phạt tù tại các nhà tạm giữ, trại tạm giam và trại giam quân sự, đảm bảo việc giam giữ đúng thủ tục chế độ, chính sách, không để xảy ra việc quá hạn tạm giữ, tạm giam; giam chung các đối tượng không đúng quy định.

Công tác kiểm sát thi hành án hình sự: Kiểm sát chặt chẽ việc ra quyết định thi hành các quyết định, bản án của Toà án. Chú trọng kiểm sát các quyết định hoãn, tạm đình chỉ, miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù; việc lập hồ sơ xét đề nghị đặc xá. Tăng cường kiểm sát trực tiếp việc thi hành án treo tại các Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn và các đơn vị trong, ngoài quân đội.

Công tác kiểm sát thi hành án dân sự: Kiểm sát chặt chẽ việc phân loại, xác minh điều kiện thi hành án, yêu cầu Cơ quan thi hành án áp dụng kịp thời các biện pháp thi hánh án giải quyết dứt điểm những việc có điều kiện thi hành; kiểm sát chặt chẽ việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế, miễn, giảm thi hành án; chú trọng kiểm sát việc trả lại đơn yêu cầu thi hành án.   

– Tổ chức tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp.

Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền, đảm bảo việc tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo theo đúng quy định của pháp luật; thực hiện nghiêm các quy định về tiếp công dân đến Viện KSQS khiếu nại, tố cáo; tăng cường kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư­­­ pháp của các cơ quan tư pháp quân đội.

2.2.2. Công tác điều tra của Cơ quan điều tra VKSQS Trung ương.

Hoàn thiện Quy chế hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự Trung ương; chủ động phối hợp chặt chẽ với các Viện kiểm sát quân sự, các Phòng nghiệp vụ nắm và quản lý đầy đủ tin báo, tố giác tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền. Nâng cao chất lượng hoạt động xác minh, điều tra các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền.

2.2.3. Công tác nghiên cứu và thống kê tội phạm:

– Viện kiểm sát quân sự các cấp nêu cao trách nhiệm trong việc tham gia vào dự thảo xây dựng các dự án Luật, các văn bản quy phạm pháp luật khác theo yêu cầu của cấp trên. Tiếp tục  nghiên cứu, đề xuất sửa đổi Quy chế về sự lãnh đạo của Đảng uỷ các cấp đối với ngành Kiểm sát quân sự; tiếp tục triển khai nghiên cứu các đề tài khoa học làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát quân sự các cấp đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế như: Những đặc điểm về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát quân sự các cấp; mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong quân đội; cơ chế quản lý hành chính và cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với các Viện kiểm sát quân sự;  những nội dung, yêu cầu đặt ra đối với sự phát triển của ngành kiểm sát quân sự trong giai đoạn mới. Trước mắt cần có một số đề tài nghiên cứu phục vụ cho việc sửa đổi Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm sát quân sự. Triển khai nghiên cứu xây dựng các Chương trình, giáo án để thực hiện đề án bồi dưỡng, huấn luyện kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ, kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự các cấp.

– Nâng cao hơn nữa chất lượng thống kê nghiệp vụ; thống kê hình sự, thống kê tội phạm liên ngành trong quân đội theo quy định. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tư pháp trong quân đội thực hiện nghiêm túc công tác tiếp ký thống kê hình sự, thống kê tội phạm liên ngành, phục vụ có hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo và điều hành của Lãnh đạo Viện kiểm sát quân sự các cấp. Tổng hợp những vướng mắc, khó khăn trong việc áp dụng các sổ, mẫu biểu thống kê kiến nghị cấp có thẩm quyền nghiên cứu sửa đổi cho phù hợp.

– Chú trọng nâng cao chất lượng việc ứng dụng công nghệ thông tin. Phối hợp với các cơ quan của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ quốc phòng nghiên cứu tạo bước đột phá về ứng dụng công nghệ thông tin trong toàn ngành Kiểm sát quân sự phục vụ việc lưu trữ, tra cứu thông tin, nghiệp vụ, và công tác quản lý, chỉ đạo điều hành trong toàn ngành Kiểm sát quân sự.

2.2.4. Công tác xây dựng Ngành.

– Công tác tổ chức cán bộ:

 Tiếp tục giáo dục, quản lý chặt chẽ đội ngũ cán bộ kiểm sát quân sự theo lời Bác: Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn. Hoàn chỉnh để báo cáo Ban chỉ đạo cải cách tư pháp TW và Viện trưởng VKSND tối cao, báo cáo Quân uỷ Trung ương, Thủ trưởng Bộ Quốc phòng các Đề án tổ chức, biên chế hệ thống Viện kiểm sát quân sự, các Quyết định, Quy chế về đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng và sử dụng cán bộ VKSQS, tiêu chuẩn, chức danh cán bộ ngành Kiểm sát quân sự. Phối hợp làm tốt công tác quy hoạch, phát hiện, xây dựng nguồn, xây dựng đội ngũ cán bộ 5 năm (2011 – 2023). Triển khai thực hiện Pháp lệnh Kiểm sát viên (sửa đổi) trong toàn Ngành.

Phối hợp với các cơ quan của Bộ Quốc phòng, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Toà án nhân dân, Toà án quân sự, Cục điều tra hình sự, các trường, trung tâm đào tạo, chuẩn bị các bước để thực hiện “Đề án bồi dưỡng, huấn luyện kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ kiểm sát quân sự giai đoạn 2011 – 2023” như: Xây dựng chương trình và tuyển chọn đội ngũ cán bộ, giảng viên có chất lựơng cao chuẩn bị thực hiện một số nội dung: bồi dưỡng kiến thức chuyên sâu về quản lý, chỉ đạo, điều hành đối với Viện kiểm sát quân sự; bồi dưỡng kỹ năng chuyên sâu phục vụ các mặt công tác kiểm sát như tổ chức khám nghiệm hiện trường, pháp y, xét hỏi, luận tội, tranh luận tại phiên toà..; bồi dưỡng các kiến thức bổ trợ về quân sự, quốc phòng, an ninh; bồi dưỡng cán bộ kiểm sát quân sự Lào và Căm phu chia.

– Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành:

Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành. Thực hiện nghiêm nguyên tắc lãnh đạo tập trung, thống nhất trong ngành đồng thời thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở. Các VKSQS xây dựng kế hoạch công tác kiểm sát quân sự khoa học, cụ thể, sát thực tế hoạt động của từng đơn vị. Viện KSQS cấp trên quản lý và nắm chắc tình hình các mặt hoạt động của Viện cấp dưới, tăng cường công tác kiểm tra chuyên khâu, kiểm tra toàn diện đối với Viện cấp dư­­­ới; làm tốt công tác tổng kết rút kinh nghiệm về nghiệp vụ và công tác xây dựng ngành. Thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các Quy chế về thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; Quy chế về thông tin, báo cáo, quản lý công tác trong Ngành kiểm sát. Thực hiện đúng các quy định về công tác văn thư, lưu trữ.

– Công tác bảo đảm:

 Viện kiểm sát quân sự các cấp nêu cao trách nhiệm trong việc quản lý, sử dụng tài sản, phương tiện kỹ thuật quân sự; thực hiện công khai, dân chủ, minh bạch và hiệu quả trong phân bổ, sử dụng kinh phí phục vụ tốt cho thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Tiếp tục thực hiện nghiêm Luật thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí và các quy định của cấp trên về áp dụng các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định đời sống, bảo đảm an sinh xã hội theo Nghị quyết 11 của Chính phủ. Tăng cường phối hợp với các cơ quan chức năng để triển khai xây dựng các dự án, đề án công tác bảo đảm của Ngành kiểm sát quân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp. Trước mắt, tập trung vào việc đề nghị mở mới dự án xây dựng trụ sở Viện kiểm sát quân sự Trung ương, một số Viện Khu vực đã được cấp đất; sửa chữa những trụ sở xuống cấp nghiêm trọng; từng bước thay thế những ô tô quá cũ./.

                        Nguồn: Kỷ yếu Hội nghị cán bộ ngành Kiểm sát năm 2011

Chức Năng, Quyền Hạn, Nhiệm Vụ Của Viện Kiểm Sát

Tìm hiểu về chức năng của Viện kiểm sát

Quy định về chức năng, nhiệm vụ của VKS

Viện kiểm sát là gì? Viện kiểm sát có chức năng nhiệm vụ và quyền hạn như thế nào. Đây là vấn đề mà không chỉ người theo học pháp lý cần tìm hiểu mà mỗi người dân cũng nên nắm rõ để phục vụ cho những nhu cầu pháp lý trong cuộc sống.

1. Viện kiểm sát là gì?

Theo Thư viện Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì viện kiểm sát được định nghĩa như sau:

“Viện kiểm sát có chức năng thực hiện quyền công tố. Viện kiểm sát và tòa án là hai cơ quan thuộc nhánh Tư pháp trong bộ máy nhà nước (Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp).

Viện kiểm sát nhân dân chính là một Cơ quan nhà nước đảm nhiệm chức năng kiểm sát việc các cơ quan khác của nhà nước từ cấp bộ trở xuống, các tổ chức kinh tế – xã hội, các đơn vị vũ trang cho đến công dân có đảm bảo tuân thủ pháp luật hay không. Đồng thời Viện kiểm sát nhân dân còn thực hành quyền công tố, đảm nhiệm công tác điều tra tội phạm do luật tố tụng hình sự quy định.

Viện kiểm sát nhân dân Việt Nam được tổ chức một các hệ thông, gồm các cơ quan: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân các cấp ở địa phương, các Viện kiểm sát quân sự. Nguyên tắc hoạt động trong hệ thống tuân thủ nguyên tắc:

Những viện trưởng của viện kiểm sát cấp dưới sẽ chịu sự lãnh đạo của viện trưởng viện kiểm sát nhân dân cấp trên.

Các viện trưởng của viện kiểm sát nhân dân tại địa phương và quân sự sẽ chịu sự lãnh đạo của viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Đất nước Việt Nam là đất nước theo hệ thống xã hội chủ nghĩa. Bộ máy của nhà nước thuộc hệ thống của các nước xã hội chủ nghĩa, được xây dựng nên dựa theo nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân, chính nhân dân sẽ là người thực hiện quyền lực thông qua những cơ quan đại diện cho nhân dân là Hội đồng nhân dân ở các cấp.

2. Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát

Vốn là một hệ thống độc lập, Viện kiểm sát nhân dân Việt Nam được tổ chức với bốn cấp. Đó là:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Viện kiểm sát nhân dân cấp cao: có 3 Viện kiểm sát cấp cao đặt tại 3 thành phố lớn là Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh.

Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Mỗi tỉnh sẽ có một viện kiểm sát cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương vậy nên cả nước có tất cả 63 Viện kiểm sát ở cấp này.

Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh hiện nay có khoảng 191 Viện kiểm sát cấp huyện.

Ngoài ra thuộc vào hệ thống của Viện kiểm sát nhân dân sẽ có Viện kiểm sát quân sự. Trong đó, Viện kiểm sát quân sự sẽ bao gồm:

Viện kiểm sát quân sự Trung ương

Viện kiểm sát quân sự cấp Quân khu, Quân chủng,…

Viện kiểm sát quân sự ở các cấp Khu vực

3. Chức năng của Viện kiểm sát

Viện kiểm sát nhân dân có hai chức năng, đó là: Thực hành quyền công tố và Kiểm sát hoạt động tư pháp.

Để hiểu rõ hơn chức năng của Viện kiểm sát nhân dân chúng ta cần đi sâu phân tích từng chức năng nêu trên:

1.1.Chức năng thực hành quyền công tố:

Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.

Theo đó, Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm: Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội; Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật.

Khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án trái pháp luật, phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; trực tiếp khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong những trường hợp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định; Quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra, truy tố theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; Hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật khác trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Khi cần thiết đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu để làm rõ tội phạm, người phạm tội; Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; tiến hành một số hoạt động điều tra để làm rõ căn cứ quyết định việc buộc tội đối với người phạm tội; Điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, các tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định của luật; Quyết định việc áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn điều tra, truy tố; Quyết định việc truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa; Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp Viện kiểm sát nhân dân phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội; Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc buộc tội đối với người phạm tội theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng thực hành quyền công tố bằng các công tác sau đây: Thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; Thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự; Thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố tội phạm; Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự; Điều tra một số loại tội phạm; Thực hành quyền công tố trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự.

1.2 Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp:

Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật.

Theo đó, Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm: Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; việc giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác được thực hiện đúng quy định của pháp luật; Việc bắt, tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù, chế độ tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo đúng quy định của pháp luật; quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, người chấp hành án phạt tù không bị luật hạn chế phải được tôn trọng và bảo vệ; Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành nghiêm chỉnh; Mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp phải được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh.

Khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tư pháp theo đúng quy định của pháp luật; tự kiểm tra việc tiến hành hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân; cung cấp hồ sơ, tài liệu để Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định trong hoạt động tư pháp; Trực tiếp kiểm sát; xác minh, thu thập tài liệu để làm rõ vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp; Xử lý vi phạm; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khắc phục, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp; kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm; Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kiến nghị hành vi, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kháng nghị hành vi, quyết định có vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền khác trong hoạt động tư pháp; Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền; Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật.

Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp bằng các công tác sau đây: Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; Kiểm sát việc khởi tố, điều tra vụ án hình sự; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng trong giai đoạn truy tố; Kiểm sát việc xét xử vụ án hình sự; Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự; Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật; Kiểm sát việc thi hành án dân sự, thi hành án hành chính; Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp của các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền; Kiểm sát hoạt động tương trợ tư pháp.

4. Nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân:

Bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

Ngoài ra, Viện KSND còn thực hiện một số công tác: Thống kê tội phạm; xây dựng pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; Đào tạo, bồi dưỡng; nghiên cứu khoa học; hợp tác quốc tế và các công tác khác để xây dựng Viện kiểm sát nhân dân.

5. Quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân:

Quyền kháng nghị:

Trường hợp hành vi, bản án, quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì Viện kiểm sát nhân dân phải kháng nghị. Cơ quan, người có thẩm quyền phải giải quyết kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật.

Quyền kiến nghị:

Theo đó, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân được cụ thể hóa trong Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính và trong một số văn bản quy phạm pháp luật khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, bảo đảm cho pháp luật được tuân thủ thống nhất./.