Chức Năng Chính Quyền Địa Phương / Top 14 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Tổ Chức Chính Quyền Địa Phương

Sự hình thành Nhà nước và phân quyền

Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng trên nguyên tắc thống nhất và các cấp chính quyền là không thể bị chia rẽ. Quốc hội, biểu hiện ý chí của người dân, là cơ quan quyền lực cao nhất, mọi cơ quan khác nằm dưới quyền kiểm soát của Quốc hội. Theo Hiến pháp quy định, Nhà nước là thống nhất và tập trung. Chính quyền địa phương chịu sự chỉ đạo của Chính quyền trung ương, được phân cấp rõ ràng : mỗi cấp tuân theo chỉ thị của cấp cao hơn.

Tuy nhiên, Hiến pháp Việt Nam năm 1992 cũng có quy định về tính tự chủ của chính quyền địa phương. Thật vậy, chính sách Đổi mới đã tăng cường tính chủ động và mở rộng phạm vi chức năng của chính quyền địa phương các cấp. Chính sách này cho phép 63 tỉnh thành Việt Nam có quyền tự chủ đối với một số dịch vụ công cơ bản tại địa phương : giao thông vận tải, hạ tầng, y tế, giáo dục, cấp nước, vệ sinh, xử lý rác thải. Tuy nhiên, chính sách mới chỉ dừng lại ở mức độ ” tản quyền ” chứ chưa thực sự là ” phân quyền ” (phi tập trung) : chính quyền địa phương được giao một số nhiệm vụ và trách nhiệm cụ thể, họ được thực thi chúng một cách độc lập. Họ vẫn là một phần của Nhà nước.

Khái niệm ” phân quyền ” (phi tập trung quyền lực) đã được làm rõ hơn tại Đại hội 8 của Đảng cộng sản Việt Nam năm 1996 : ” Vì lợi ích quốc gia trong quản lý các cơ quan nhà nước, chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, cần thực hiện việc phân quyền quản lý hành chính các địa phương một cách hợp lý, rõ ràng cho phép chính quyền địa phương các cấp phát huy tính tự chủ, khai thác được mọi tiềm năng sẵn có phục vụ phát triển kinh tế xã hội địa phương, đóng góp vào sự phát triển chung của cả nước. Theo đó, cần tăng cường trách nhiệm và quyền lực của chính quyền địa phương các cấp trong việc quản lý các vấn đề của địa phương, đặc biệt là trong các lĩnh vực công, thu chi ngân sách, sử dụng công chức địa phương và giải quyết các vấn đề hành chính khác tại địa phương “.

Theo Hiến pháp, các cơ quan hành pháp địa phương nằm dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng. Ngoài ra, Trung ương vẫn đưa ra quyết định đối với các dự án đầu tư lớn trong đó chính quyền địa phương là một bên đối tác chính của các doanh nghiệp.

Phân chia hành chính ở Việt Nam

Lãnh thổ Việt Nam được chia thành 4 cấp hành chính:

■ Chính quyền trung ương

■ Cấp tỉnh, nằm dưới quyền của cấp trung ương : 63 tỉnh thành trong đó có 5 thành phố (Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà nẵng, Cần Thơ)

■ Cấp huyện, nằm dưới quyền của cấp Tỉnh và Thành phố : 713 huyện bao gồm cả các quận thuộc tỉnh và thuộc thành phố.

■ Cấp xã : 11 162 xã bao gồm các xã vùng nông thôn, phường và thị trấn

Tổ chức chính quyền địa phương các cấp

Ở tất cả các cấp, quyền ra quyết định cũng như việc thực thi quyết định thuộc về 2 cơ quan :

Hội đồng nhân dân : là cơ quan lập pháp của địa phương. HĐND đảm bảo thống nhất việc chỉ đạo từ trung ương đồng thời cũng đóng vai trò kết nối với các sáng kiến riêng của địa phương. Theo điều 199 của Hiến pháp, HĐND là ” cơ quan quyền lực nhà nước tại địa phương “. Một mặt, HĐND quản lý các công việc của địa phương. Mặt khác, HĐND điều phối các hoạt động của nhà nước và thực thi các quyết định của chính phủ. Các hoạt động của HĐND đều được Uỷ ban thường trực của Quốc hội giám sát và chỉ đạo. Phạm vi thẩm quyền của HĐND bao trùm các lĩnh vực luật pháp, kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học và công nghệ, chính sách dân tộc và tôn giáo. HĐND họp 2 kỳ mỗi năm.

Uỷ ban nhân dân : là cơ quan hành pháp tại địa phương (thành viên UBND do HĐND bầu ra) vì vậy đây cũng là cơ quan hành chính của Nhà nước tại địa phương. UBND có nhiệm vụ áp dụng Hiến pháp, luật và các quyết định hành chính của cơ quan nhà nước cấp trên. Chủ tịch UBND nắm trong tay các quyền lực chính nhưng chịu sự kiểm soát một cấp khác tại địa phương là Bí thư Đảng uỷ. Họ thường họp mỗi tháng 1 lần.

Cấp khu vực có hai vai trò, một là sự nối dài của Chính quyền trung ương và đồng thời cũng có vài trò là nơi ra quyết định / thực thi chính sách của chính khu vực đó tại địa phương nhưng vẫn theo tinh thần chỉ thị của trung ương.

Từ nhiều năm nay, Việt Nam đã cam kết nỗ lực trong việc phân quyền để có thể giảm tải các cơ quan trung ương đồng thời tăng cường cải thiện quản lý công tại các địa phương.

Cập nhật ngày 15/10/2018

Chế Định Chính Quyền Địa Phương

Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân (1994 và 2003) đã đặt cơ sở pháp lý cho việc xây dựng chính quyền địa phương theo cơ chế mới và trong tinh thần hoàn thiện bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, có thể thấy cách tổ chức chính quyền địa phương ở nước ta mặc dù theo những đặc thù riêng, song còn chứa đựng nhiều hạn chế như đã tạo ra một hệ thống cơ quan chính quyền địa phương rập khuôn, cứng nhắc, không phân biệt được sự khác nhau trong quản lý hành chính nhà nước ở đô thị, nông thôn, miền núi, hải đảo và cũng không bảo đảm được tính tập trung cao từ trung ương xuống địa phương1.

Với mục đích tiếp tục đổi mới chính quyền địa phương, các chủ trương của Đảng về tổ chức hợp lý chính quyền địa phương đã được thể chế hóa, trong đó có hình thức thí điểm. Kết quả thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân (HĐND) huyện, quận, phường là căn cứ quan trọng để nghiên cứu và hoàn thiện khi sửa đổi Hiến pháp tới đây.

 Đây cũng là thời điểm đưa ra phương án giải quyết triệt để một số vấn đề, như: nguyên tắc mối quan hệ giữa trung ương và địa phương; phân chia đơn vị hành chính – lãnh thổ; mô hình chính quyền địa phương.

1. Mối quan hệ giữa trung ương và địa phương

Liên quan tới mối quan hệ giữa trung ương và địa phương, cần nghiên cứu một số vấn đề mà trước hết là tính chất của HĐND và nguyên tắc thiết lập quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương.

1. 1. Về vị trí của Hội đồng nhân dân

Cơ cấu lãnh thổ và mối quan hệ trung ương – địa phương là những yếu tố phản ánh hình thức nhà nước vốn là nội dung cơ bản của Hiến pháp. Nhìn chung, chế định Hiến pháp về chính quyền địa phương bao gồm các nhóm quy định: phân chia đơn vị hành chính – lãnh thổ; nguyên tắc hình thành mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước trung ương và các cộng đồng lãnh thổ; kiểm soát của chính quyền trung ương đối với các cơ quan địa phương.

Hiến pháp là văn bản quy định về tổ chức quyền lực nhà nước, theo cả chiều ngang và chiều dọc. Như đã rõ, quyền lực nhà nước là thống nhất bởi lẽ toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Về nguyên tắc, nhân dân có toàn quyền tổ chức thực hiện quyền lực. Chỉ khi nào, về khách quan và chủ quan, họ không thể tiến hành được thì hoạt động đó được ủy quyền cho cộng đồng hay cho thiết chế đại diện2. Theo tinh thần dân chủ và tính hợp lý, việc ủy quyền được bắt đầu từ cấp gần dân nhất. Những vấn đề mà cơ sở có khả năng đảm nhiệm sẽ được ủy quyền cho các thiết chế đại diện ở cấp tương ứng. Tương tự như vậy với các vấn đề khác và với các cơ quan được tổ chức ở các cấp cao hơn. Sự “phân vai” này sẽ là lý tưởng nếu được ghi nhận rõ ngay trong Hiến pháp. Thông qua Hiến pháp, nhân dân trao quyền cho các cơ quan nhà nước và những thẩm quyền đó là cơ sở để các chủ thể này thực hiện chức năng quản lý xã hội.

Mục đích của phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ là tổ chức bộ máy quản lý tương ứng tại các điểm dân cư. Tính chất và quy mô của đơn vị hành chính là tiêu chí quyết định cách thức tổ chức các cơ quan chính quyền. Trách nhiệm của Nhà nước là xây dựng, ban hành chính sách phục vụ phát triển xã hội và tổ chức thực hiện chính sách đó trên quy mô toàn lãnh thổ. Để thực hiện công việc đó, cần thiết lập hệ thống cơ quan tương ứng mà một trong số đó là HĐND. Như vậy, HĐND là cơ quan nhà nước, hoạt động theo cơ chế dân chủ đại diện, thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước để tổ chức triển khai các chính sách của Nhà nước và tổ chức đời sống dân cư tại địa phương. Việc thực hiện các nhiệm vụ mang tính tự quản không đồng nghĩa với tính phi nhà nước của cơ quan đại diện được trao thẩm quyền quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương.

1.2. Về nguyên tắc hình thành quan hệ giữa trung ương và địa phương

Từ trước đến nay, mối quan hệ giữa trung ương và địa phương được thực hiện dựa trên quan điểm xuyên suốt về tính thống nhất, tập trung của quyền lực nhà nước. Vị thế của HĐND được khắc họa với tư duy về tính hệ thống của các cơ quan nhà nước. Theo đó, HĐND được quan niệm là yếu tố cấu thành của nhóm cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan đại diện, có tính trội trong tương quan với các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp. Mặc dù tạo thành một khối thống nhất (chính quyền địa phương), nhưng giữa HĐND và Ủy ban nhân dân (UBND), mà đặc biệt là HĐND và các cơ quan nhà nước trung ương hình thành hai tuyến quan hệ mang tính chất khác nhau, đó là với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và với một chủ thể khác – Chính phủ.

Nếu như quan hệ giữa các cơ quan nhà nước trung ương được xác lập theo nguyên tắc phân công, phối hợp thì đặc trưng trong quan hệ giữa trung ương và địa phương thời gian qua là phân cấp. Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 xác định nhiệm vụ: Định rõ vai trò, chức năng và trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp phù hợp với yêu cầu đổi mới sự phân cấp quản lý hành chính giữa trung ương và địa phương; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền địa phương trên cơ sở phân cấp rõ ràng và hợp lý giữa trung ương và địa phương; gắn phân cấp công việc với phân cấp về tài chính, tổ chức và cán bộ. Trong Báo cáo tổng kết tình hình hoạt động của HĐND các cấp nhiệm kỳ 2004-2011, cơ chế phân cấp quản lý giữa trung ương và địa phương được xem là yếu tố tác động tích cực (hoặc ngược lại) đến hiệu quả hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước các cấp tỉnh, huyện, xã3.

Trên thực tế, phân cấp chủ yếu được thực hiện giữa các cơ quan hành chính nhà nước và phần nhiều được thể chế hóa bằng các nghị định của Chính phủ. Với tư duy thẩm quyền của HĐND – cơ quan quyền lực nhà nước phải do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định nên các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ thường tập trung phân định nhiệm vụ, quyền hạn giữa Chính phủ, các bộ với UBND cấp tỉnh4. Được tiến hành theo nguyên tắc bảo đảm hiệu quả, “việc nào, cấp nào sát thực tế hơn, giải quyết kịp thời và phục vụ tốt hơn các yêu cầu của tổ chức và nhân dân thì giao cho cấp đó thực hiện”, nhưng có thể nói, phân cấp thời gian qua nghiêng về tư duy chuyển giao thẩm quyền từ trung ương cho địa phương. Trong tinh thần cải cách hành chính, phân cấp được tiến hành với mục đích khắc phục chồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ giữa bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa phương và để Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ tập trung xây dựng, ban hành thể chế, kế hoạch, chính sách, quản lý vĩ mô về kinh tế – xã hội, chỉ đạo và kiểm tra thực hiện.

Mặc dù được gọi là phân cấp, song quan hệ giữa trung ương và địa phương thời gian qua có dấu hiệu của phân quyền. Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 đề ra nhiệm vụ: Định rõ những loại việc địa phương toàn quyền quyết định, những việc trước khi địa phương quyết định phải có ý kiến của trung ương và những việc phải thực hiện theo quyết định của trung ương.

Trong bối cảnh hiện nay, do có sự đan xen giữa “phân cấp” và “phân quyền”, nên mối quan hệ tổ chức quyền lực nhà nước theo chiều dọc sẽ được thể hiện qua các nhóm quy định lập hiến: dân chủ trực tiếp (những vấn đề nhân dân trực tiếp quyết định ở quy mô địa phương hoặc toàn quốc); dân chủ đại diện (vị trí và trách nhiệm của HĐND với tư cách là cơ quan dân cử); xác định thẩm quyền của từng cấp HĐND và UBND, chế độ ủy quyền. Thông qua đó, những vấn đề do chính quyền địa phương tự quyết; những công việc thuộc thẩm quyền tuyệt đối của trung ương cũng như khả năng tác động, giám sát của trung ương sẽ được định lượng. 

1.3. Về phân chia đơn vị hành chính – lãnh thổ

Tổ chức chính quyền địa phương gắn với phân chia đơn vị hành chính – lãnh thổ và quy chế pháp lý của đơn vị hành chính. Mặc dù Hiến pháp dành cho luật quy định việc thành lập HĐND và UBND nhưng trên thực tế, các cơ quan này được thành lập theo một mô hình chung tại các đơn vị hành chính. Nhu cầu cải cách chính quyền địa phương đã được đặt ra, nhất là với các thành phố trực thuộc trung ương. Thời gian qua, một số địa phương phải “xé rào” để giải quyết các vấn đề bức xúc của mình. Các thành phố trực thuộc trung ương đã và đang xây dựng Đề án về cơ chế đặc thù và thí điểm mô hình chính quyền đô thị. Đối với Hà Nội, vấn đề này đang được nghiên cứu luật hóa.

Theo Hiến pháp, Quốc hội có quyền thành lập đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt. Tuy nhiên, chưa rõ tương quan giữa đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt này với các đơn vị hành chính khác.

Chiến lược cải cách tư pháp định hướng việc thành lập các cơ quan tư pháp theo khu vực. Trong hệ thống hành chính nhà nước cũng có nhiều cơ quan được thiết kế theo tiêu chí liên tỉnh, vùng. Như vậy, cần có quy định làm cơ sở hình thành cơ chế đặc thù trong quản lý đô thị, đô thị đặc biệt và khả năng thành lập các cơ quan mang tính liên địa bàn.

Phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ là vấn đề vẫn cần được quy định ngay trong Hiến pháp. Đây chính là tiêu chí để thiết lập HĐND và UBND (tạm giữ tên gọi như hiện nay), kể cả trong trường hợp không tổ chức một trong hai cơ quan này ở một số địa bàn. Để bảo đảm tính ổn định, nên quy định theo hướng: việc tổ chức các cơ quan chính quyền địa phương được thực hiện theo quy định của luật.

2. Mô hình các cơ quan chính quyền địa phương

2.1. Xác định cấp chính quyền

Vấn đề được nghiên cứu và đặt ra là xác định cấp chính quyền hoàn chỉnh, nơi tổ chức cả hai cơ quan: cơ quan đại diện và cơ quan hành chính. Nhìn chung, đối với đơn vị hành chính cơ sở thì bảo đảm lợi ích dân cư là nhiệm vụ hàng đầu của chính quyền. Trong khi đó, chức năng của cơ quan tại đơn vị hành chính trung gian là duy trì mối liên hệ giữa trung ương và cơ sở. Cơ quan tại loại đơn vị trung gian do cấp trên bổ nhiệm hoặc phê chuẩn và phải đề cao lợi ích của trung ương, tổ chức thực hiện chính sách của Nhà nước. Việc quản lý trên địa bàn lãnh thổ mang tính trung gian về cơ bản do cơ quan hành chính thực hiện; còn cơ quan đại diện (nếu có) chỉ đóng vai trò tư vấn cho cơ quan hành chính.

Vừa qua, thực hiện chủ trương của Đảng về tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, tại 67 huyện, 32 quận, 483 phường của 10 tỉnh, thành phố, HĐND đã không được tổ chức. Trong khuôn khổ thí điểm, tính hành chính của UBND được nhấn mạnh. Cơ chế UBND cấp trên bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các thành viên UBND huyện, quận, phường được thực hiện thay vì được HĐND cùng cấp bầu, miễn nhiệm. Chế độ trách nhiệm, mối quan hệ trong chỉ đạo, kiểm tra giữa UBND cấp trên với cơ quan hành chính huyện, quận, phường được định hình, nhất là trong điều kiện UBND nơi thực hiện thí điểm được trao thêm những nhiệm vụ, quyền hạn về quản lý đô thị, về phát triển kinh tế – xã hội, ngân sách nhà nước.

Qua một thời gian thí điểm, cần giải quyết cả về góc độ lý luận và thực tiễn vấn đề: thiết lập các cấp chính quyền địa phương sao cho vừa bảo đảm các giá trị dân chủ, vừa hướng tới nguyên tắc về tính thống nhất, thông suốt của hệ thống hành chính nhà nước. 

 Ông Vũ Đình Hòe, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp coi quy định “Ủy ban hành chính các cấp có quyền đình chỉ việc thi hành những nghị quyết không thích đáng của HĐND cấp dưới trực tiếp” (từ Hiến pháp năm 1959) chính là cơ sở pháp lý của nguyên tắc “một hành chính” mạnh. Nhưng có lẽ quan trọng hơn, theo ông Vũ Đình Hòe, chính là thực tiễn “Thì không thể chối cãi được rằng suốt 50 năm nay, thực quyền công việc quản lý đất nước ở trung ương là ở trong tay Chính phủ và ở địa phương là ở trong tay Ủy ban”. Về ý tưởng coi Quốc hội và HĐND là hình tượng cao đẹp của chế độ dân chủ – tập quyền, Ông Vũ Đình Hòe cho rằng, “đứng về khách quan, không thể không thừa nhận chúng ta còn đứng xa lắm so với lý tưởng, mặc dầu có cố gắng làm nhiều đấy, nhưng vị trí, vai trò của HĐND vẫn cứ mờ nhạt”. Theo ông, chính hệ thống chặt chẽ (Ủy ban hành chính các cấp chịu sự lãnh đạo của Ủy ban hành chính cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất của Hội đồng Chính phủ) đã làm nên sức mạnh của hành pháp và đã theo sát tư tưởng Hiến chính của Bác Hồ6.

Sửa đổi Hiến pháp lần này là dịp nghiên cứu xác định hai cấp chính quyền địa phương hoàn chỉnh, nơi tổ chức cả HĐND và UBND là những cơ quan có chung chức năng tổ chức thi hành pháp luật. Những công việc của địa phương do HĐND quyết định sẽ được thực hiện theo quy định của Hiến pháp và luật. Bên cạnh đó, các biện pháp thực hiện dân chủ trực tiếp phải được quy định một cách thiết thực để bảo đảm quyền của người dân trong việc quyết định các vấn đề của địa phương, cộng đồng.

2.2. Chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn

Kiểm điểm 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội X, nhìn lại 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001-2010, 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng nêu hạn chế trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam là hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trên một số lĩnh vực yếu; phân cấp mạnh nhưng thiếu kiểm tra, kiểm soát8. Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh yêu cầu “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương. Nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND và UBND các cấp, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách trong phạm vi được phân cấp”9.

Hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương được quyết định bởi nhiều yếu tố. Thời gian qua, việc xác định đồng loạt một mô hình chính quyền địa phương với những nhóm nhiệm vụ, quyền hạn giống nhau đã tỏ ra không phù hợp. Cùng với việc xác định các cấp chính quyền và thẩm quyền mang tính khái quát của mỗi cấp, Hiến pháp có thể đưa ra nguyên tắc hình thành chính quyền đô thị và nông thôn. Điều này cho phép thiết kế các mô hình đa dạng, phù hợp với các nhóm đơn vị hành chính lãnh thổ. Hiện tại, ngoài hai mô hình đô thị và nông thôn “thuần chủng”, còn có mô hình đô thị đặc biệt, mô hình “bán đô thị, bán nông thôn”. Nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ giữa HĐND và cơ quan hành chính các cấp sẽ phải tương thích với mỗi loại mô hình là nội dung sau này sẽ được luật điều chỉnh.

                                                                    

(1) Phạm Quốc Anh (chủ biên). Những vấn đề cơ bản của Hiến pháp năm 1992 sửa đổi. Nxb. Công an nhân dân. Hà Nội, 2006, tr.193-194.

(2) chúng tôi Lê Minh Thông, chúng tôi Nguyễn Như Phát (đồng chủ biên). Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay. Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2002, tr.378.

(3) Xem Báo cáo số 361/BC-UBTVQH12 ngày 8/9/2010.

(4) Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP ngày 30/6/2004 về tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xác định các lĩnh vực cần phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Chính phủ và UBND  cấp tỉnh.

(5) Nguyễn Văn Thảo, Thiết kế bộ máy nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Bộ Tư pháp. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Hà Nội, 1993, tr.127-129.

(6) Vũ Đình Hòe, Nội dung về một Nhà nước của dân, do dân, vì dân, theo tư tưởng Hồ Chí Minh qua bộ máy hành pháp. Bộ Tư pháp. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Hà Nội, 1993, tr.199-200.

(7) Những nội dung cơ bản của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003. Nxb. Tư pháp. Hà Nội, 2003, tr.13.

(8) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2011, tr.171.

(9) Đảng Cộng sản Việt Nam. tlđd, tr. 251.

Một Số Điểm Mới Của Luật Tổ Chức Chính Quyền Địa Phương

Luật Tổ chức chính quyền địa phương được xây dựng trên cơ sở sửa đổi toàn diện Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 cho phù hợp với tinh thần Hiến pháp năm 2013.

Ngày 19/6/2015 Tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIII với tỷ lệ phiếu tán thành là 85,22% đã thông qua Luật tổ chức chính quyền địa phương (luật 2015). Luật này đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 và các chủ trương, định hướng của Đảng về chính quyền địa phương; đồng thời kế thừa những nội dung hợp lý và sửa đổi, bổ sung các bất cập, vướng mắc trong 12 năm thực hiện Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 (gọi là Luật 2003). Luật gồm 8 chương và 143 điều, tăng 2 chương và 3 điều so với Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003.

Thứ nhất, về đơn vị hành chính: Luật Tổ chức chính quyền địa phương xác định các đơn vị hành chính gồm có tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương; xã, phường, thị trấn và đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt. Như vậy, so với Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã bổ sung thêm đơn vị hành chính: thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương và đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt. Đây là quy định nhằm cụ thể hóa Điều 110 Hiến pháp năm 2013.

Thứ hai, về tổ chức chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính: Điều 4 Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định cấp chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính gồm có HĐND và UBND. Chính quyền địa phương ở nông thôn gồm chính quyền địa phương ở tỉnh, huyện, xã. Chính quyền địa phương ở đô thị gồm chính quyền địa phương ở thành phố trực thuộc trung ương, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, phường, thị trấn.

Như vậy, sau một thời gian dài thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường theo Nghị quyết số 26/2008/QH12 của Quốc hội, Nghị quyết số 724/2009/UBTVQH12 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã quy định cấp chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính đều phải có HĐND và UBND. Ngoài ra, một trong những điểm mới nổi bật của Luật Tổ chức chính quyền địa phương so với Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đó là có sự phân biệt giữa chính quyền địa phương ở nông thôn và ở đô thị, phù hợp với đặc điểm kinh tế, địa lý, dân cư, kết cấu hạ tầng và yêu cầu quản lý ở mỗi địa bàn.

Thứ ba, về nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của chính quyền địa phương:

– Đối với HĐND: Luật quy định rõ hơn về cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân tạo cơ sở pháp lý để củng cố, hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của HĐND các cấp. Về cơ cấu tổ chức của HĐND, Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định HĐND thành phố trực thuộc trung ương được thành lập thêm Ban đô thị vì đây là những đô thị tập trung, có quy mô lớn, mức độ đô thị hóa cao và có nhiều điểm đặc thù khác với các địa bàn đô thị thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Về số lượng đại biểu HĐND thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh từ 95 đại biểu lên 105 đại biểu để phù hợp với quy mô dân số, đặc điểm, tính chất của các đô thị lớn này (Điều 39). Phó Chủ tịch HĐND cấp tỉnh, cấp huyện (số lượng là 2) và Phó Chủ tịch HĐND cấp xã (số lượng là 1) hoạt động chuyên trách; Trưởng các Ban của HĐND cấp tỉnh, huyện có thể hoạt động chuyên trách; Phó Trưởng Ban HĐND cấp tỉnh, cấp huyện hoạt động chuyên trách; Trưởng, Phó Ban của HĐND cấp xã hoạt động kiêm nhiệm.

– Đối với UBND: Về cơ cấu tổ chức của UBND, nếu như trước đây, theo quy định của Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, không phải người đứng đầu của các cơ quan chuyên môn của UBND nào cũng là ủy viên của UBND thì đến Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã mở rộng cơ cấu tổ chức UBND theo đó tất cả người đứng đầu của các cơ quan chuyên môn của UBND đều là ủy viên của UBND. Đây là quy định nhằm phát huy trí tuệ tập thể của các thành viên UBND, tăng cường hiệu lực giám sát của HĐND đối với UBND cùng cấp thông qua cơ chế lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu.

Về số lượng Phó Chủ tịch UBND các cấp được quy định theo phân loại đơn vị hành chính, theo đó đối với đơn vị hành chính cấp tỉnh loại đặc biệt (Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh) có không quá 05 Phó Chủ tịch, loại I có không quá 04 Phó Chủ tịch, loại II và loại III có không quá 03 Phó Chủ tịch. Đối với đơn vị hành chính cấp huyện loại I có không quá 03 Phó Chủ tịch, loại II và loại III có không quá 02 Phó Chủ tịch.

– Đối với đơn vị hành chính cấp xã loại I có không quá 02 Phó Chủ tịch, loại II và loại III có 01 Phó Chủ tịch. Ngoài ra, Luật còn bổ sung Điều 124 quy định về việc điều động, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cho phù hợp với quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Chính phủ.

Thứ sáu, Trưởng các Ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện có thể hoạt động chuyên trách, Phó Trưởng Ban Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện hoạt động chuyên trách. Trưởng, Phó Ban của Hội đông nhân dân cấp xã hoạt động kiêm nhiệm. Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện (số lượng là 2) và Phó Chủ tịch Hội động nhân dân cấp xã (số lượng là 1) hoạt động chuyên trách.

Về các Ban của Hội đồng nhân dân cấp xã, đây là quy định mới, gồm Ban pháp chế và Ban kinh tế – xã hội, Trưởng ban, Phó Trưởng ban và các thành viên khác của Ban của Hội đồng nhân dân hoạt động kiêm nhiệm; Trưởng ban không nằm trong Thường trực Hội đồng nhân dân nên không dẫn đến tăng biên chế và bộ máy ở cấp xã. Luật quy định Thường trực Hội đồng nhân dân phê chuẩn Ủy viên của các Ban của Hội đồng nhân dân theo đề nghị của Trưởng ban; Hội đồng nhân dân chỉ tiến hành bầu Trưởng ban, Phó Trưởng chúng tôi đô thị của Hội đồng nhân dân chỉ tổ chức ở thành phố trực thuộc trung ương vì đây là những đô thị tập trung, có quy mô lớn, mức độ đô thị hóa cao và có nhiều điểm đặc thù khác với các địa bàn đô thị đơn lẻ khác là thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

Thứ bảy, Cơ cấu Thường trực HĐND tỉnh gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Trưởng các Ban và Chánh Văn phòng Hội đồng nhân dân; Thường trực Hội đồng nhân dân cấp huyện gồm Chủ tịch, hai Phó Chủ tịch và Trưởng các Ban của Hội đồng nhân dân.

Luật cũng quy định rõ cơ cấu tổ chức chính quyền địa phương ở nông thôn và đô thị và hải đảo, vùng kinh tế xã hội đặc biệt.

Thứ tám, về cơ cấu tổ chức của Ủy ban nhân dân: Một điểm mới đáng chú ý khác là luật đã bổ sung những điểm mới nhằm quy định chi tiết hơn về số lượng, cơ cấu thành viên UBND, nguyên tắc hoạt động của UBND; phiên họp UBND; phạm vi, trách nhiệm giải quyết công việc của các thành viên UBND. Theo đó, cơ cấu tổ chức và hoạt động của UBND có những nội dung mới. Trong đó, nổi bật là việc quy định số lượng Phó Chủ tịch UBND các cấp theo phân loại đơn vị hành chính.

Cụ thể, đối với cấp tỉnh, thành phố Hà Nội và TP Hồ Chí Minh có không quá 5 Phó Chủ tịch UBND; các thành phố trực thuộc Trung ương còn lại và các tỉnh loại I có không quá 4 Phó Chủ tịch UBND; tỉnh loại II và loại III có không quá 3 Phó Chủ tịch UBND.

Đối với cấp huyện, loại I có không quá 3 Phó Chủ tịch UBND; loại II và loại III có không quá 2 Phó Chủ tịch UBND.

Đối với cấp xã, loại I có không quá 2 Phó Chủ tịch UBND, loại II và loại III có 1 Phó Chủ tịch UBND.

Theo quy định của Luật, thì cơ cấu Ủy ban nhân dân bao gồm người đứng đầu của các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân nhằm phát huy trí tuệ tập thể của các thành viên Ủy ban ban nhân dân, tăng cường hiệu lực giám sát của Hội đồng nhân dân đối với Ủy ban nhân dân cùng cấp thông qua cơ chế lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu. Thành phần của Ủy ban nhân dân các cấp gồm người đứng đầu các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân và quy định rõ 01 Ủy viên phụ trách quân sự và 01 Ủy viên phụ trách công an để phụ trách về các lĩnh vực hoạt động quan trọng này ở địa phương.

Thứ chín, Phân định thẩm quyền giữa trung ương, địa phương và giữa các cấp chính quyền.

Một trong những điểm mới của luật là phân định thẩm quyền giữa trung ương, địa phương và giữa các cấp chính quyền nhằm cụ thể hóa Điều 112 Hiến pháp năm 2013. Theo đó, để tạo cơ sở pháp lý cho việc phân quyền, phân cấp, ủy quyền cho chính quyền địa phương, Luật năm 2015 đã quy định các nguyên tắc phân định thẩm quyền, các trường hợp phân quyền, phân cấp, ủy quyền.

Về phân quyền, Luật quy định việc phân quyền cho các cấp chính quyền địa phương phải được quy định trong các luật; chính quyền địa phương tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền. Về phân cấp, Luật quy định căn cứ vào yêu cầu công tác, khả năng thực hiện và điều kiện, tình hình cụ thể khác của địa phương, cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương được quyền phân cấp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện một cách liên tục, thường xuyên một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của mình, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Việc phân cấp phải được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước thực hiện phân cấp.

Về ủy quyền, Luật quy định trong trường hợp cần thiết, cơ quan hành chính nhà nước cấp trên có thể ủy quyền bằng văn bản do UBND cấp dưới hoặc cơ quan, tổ chức khác thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong khoảng thời gian xác định kèm theo các điều kiện cụ thể.

Thứ mười, Quy định nhiệm vụ, quyền hạn đặc trưng của chính quyền đô thị

Luật đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính theo hướng chủ yếu tập trung ở cấp tỉnh, giảm dần xuống cấp huyện đến cấp xã để tránh tình trạng dồn việc về cấp cơ sở mà không tính đến khả năng đáp ứng của từng cấp chính quyền; nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở địa bàn nông thôn tập trung thực hiện quản lý theo lãnh thổ; ở địa phương đô thị chú trọng thực hiện quản lý theo ngành, lĩnh vực.

Luật quy định chung về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương phải thực hiện như tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trên địa bàn; quyết định những vấn đề của địa phương trong phạm vi được phân quyền, phân cấp; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan hành chính nhà nước cấp trên ủy quyền…

Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND và UBND trên các lĩnh vực nhằm thể hiện rõ sự gắn kết chặt chẽ, thống nhất giữa hai thiết chế HĐND và UBND hợp thành chính quyền địa phương.

Chức Năng, Quyền Hạn Của Cán Bộ, Công Chức Địa Chính

Cơ sở pháp lý

Luật cán bộ, công chức năm 2008;

Thông tư 13/2019/TT-BNV hướng dẫn một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố do Bộ Nội vụ ban hành ngày 06 tháng 11 năm 2019;

Công chức địa chính là gì?

Theo quy định tại khoản 2 điều 4 Luật cán bộ công chức năm 2008: công chức được xác định bao gồm những công dân Việt Nam, được bổ nhiệm hoặc tuyển dụng vào các ngạch, chức danh, chức vụ trong các cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Nhà nước, của các tổ chức chính trị – xã hội ở các cấp từ trung ương đến cấp huyện; của các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân (trừ những người là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng); của các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân (trừ những người là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp) và những người nằm trong bộ máy quản lý, lãnh đạo của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội. Công chức là những người nằm trong biên chế, được hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập (áp dụng đối với công chức trong bộ máy quản lý, lãnh đạo của đơn vị sự nghiệp công lập).

Và công chức địa chính là chức danh viết tắt của công chức địa chính –  xây dựng – đô thị và môi trường hoặc công chức Địa chính – nông nghiệp – xây dựng và môi trường;

Cán bộ, công chức địa chính có chức năng, quyền hạn gì theo quy định của pháp luật?

Quyền và nghĩa vụ của cán bộ, công chức nói chung

+ Quyền hạn:

Mực 2 Chương II Luật công chức năm 2008 quy định về quyền hạn mà công chức được hưởng gồm có:

− Được hưởng các quyền lợi đảm bảo về lương, phụ cấp và các khoản ưu đãi nếu có theo quy định của pháp luật;

− Được hưởng các điều kiện để đảm bảo tốt nhất cho việc thực thi công vụ, nhiệm vụ. Gồm có:

Được pháp luật bảo vệ về tính mạng, sức khỏe khi thi hành công vụ;

Được giao quyền hạn tương ứng với nhiệm vụ được giao;

Được cung cấp các trang thiết bị và các điều kiện để làm việc;

− Có thời gian nghỉ ngơi theo pháp luật về lao động;

+ Nghĩa vụ:

− Nghĩa vụ trong khi thực thi, thi hành nhiệm vụ, công vụ: Công chức phải chấp hành các quyết định của cấp trên quản lý; nội quy, quy chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi mình công tác;  thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; thực hiện công tác bảo vệ, quản lý và sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài sản của nhà nước được giao; có ý thức tổ chức kỷ luật;  báo cáo người có thẩm quyền khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật ở trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; bảo vệ bí mật nhà nước và thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

− Nghĩa vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, đối với nhân dân, cụ thể như sau:

Trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phải bảo vệ cho danh dự của Tổ quốc và lợi ích quốc gia;

Chấp hành nghiêm chỉnh các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước;

Có sự liên hệ một cách chặt chẽ với nhân dân, tiến hành lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân địa phương;

Phải có thái độ tôn trọng và phải tận tụy phục vụ nhân dân.

− Nhiệm vụ và chức trách của công chức địa chính cấp xã

Theo quy định tại Khoản 4 Điều 2 Thông tư 13/2019/TT-BNV, công chức địa chính cấp xã có những nhiệm vụ sau đây:

“ a) Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp xã trong các lĩnh vực: Đất đai, địa giới hành chính, tài nguyên, môi trường, xây dựng, đô thị, giao thông, nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới trên địa bàn theo quy định của pháp luật;

b) Trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ sau:

Thu thập thông tin, tổng hợp số liệu, lập sổ sách các tài liệu và xây dựng các báo cáo về đất đai, địa giới hành chính, tài nguyên, môi trường và đa dạng sinh học, công tác quy hoạch, xây dựng, đô thị, giao thông, nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới trên địa bàn theo quy định của pháp luật;

Tổ chức vận động nhân dân áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, bảo vệ môi trường trên địa bàn;

Tham gia giám sát về kỹ thuật các công trình xây dựng thuộc thẩm quyền quản lý của Ủy ban nhân dân cấp xã;

Chủ trì, phối hợp với công chức khác thực hiện các thủ tục hành chính trong việc tiếp nhận hồ sơ và thẩm tra để xác minh nguồn gốc, hiện trạng đăng ký và sử dụng đất đai, tình trạng tranh chấp đất đai và biến động về đất đai trên địa bàn; xây dựng các hồ sơ, văn bản về đất đai và việc cấp phép cải tạo, xây dựng các công trình và nhà ở trên địa bàn để Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định hoặc báo cáo Ủy ban nhân dân cấp trên xem xét, quyết định theo quy định của pháp luật;

c) Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật chuyên ngành và do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã giao.”

 Nếu còn những vướng mắc cần giải đáp hãy liên hệ với chúng tôi để được giải đáp nhanh chóng, cập nhật những quy định mới theo quy định pháp luật hiện hành. 

Thông tin liên hệ:

Địa chỉ trụ sở chính: LUẬT NHÂN DÂN VIỆT NAM

Số 16, ngõ 84 Chùa Láng, phường Láng Thượng, quận Đống Đa, TP Hà Nội

Hotline tư vấn pháp luật miễn phí:

Mobile: 0966.498.666

Tel: 02462.587.666

Email: luatnhandan@gmail.com