Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân (1994 và 2003) đã đặt cơ sở pháp lý cho việc xây dựng chính quyền địa phương theo cơ chế mới và trong tinh thần hoàn thiện bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, có thể thấy cách tổ chức chính quyền địa phương ở nước ta mặc dù theo những đặc thù riêng, song còn chứa đựng nhiều hạn chế như đã tạo ra một hệ thống cơ quan chính quyền địa phương rập khuôn, cứng nhắc, không phân biệt được sự khác nhau trong quản lý hành chính nhà nước ở đô thị, nông thôn, miền núi, hải đảo và cũng không bảo đảm được tính tập trung cao từ trung ương xuống địa phương1.
Với mục đích tiếp tục đổi mới chính quyền địa phương, các chủ trương của Đảng về tổ chức hợp lý chính quyền địa phương đã được thể chế hóa, trong đó có hình thức thí điểm. Kết quả thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân (HĐND) huyện, quận, phường là căn cứ quan trọng để nghiên cứu và hoàn thiện khi sửa đổi Hiến pháp tới đây.
Đây cũng là thời điểm đưa ra phương án giải quyết triệt để một số vấn đề, như: nguyên tắc mối quan hệ giữa trung ương và địa phương; phân chia đơn vị hành chính – lãnh thổ; mô hình chính quyền địa phương.
1. Mối quan hệ giữa trung ương và địa phương
Liên quan tới mối quan hệ giữa trung ương và địa phương, cần nghiên cứu một số vấn đề mà trước hết là tính chất của HĐND và nguyên tắc thiết lập quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương.
1. 1. Về vị trí của Hội đồng nhân dân
Cơ cấu lãnh thổ và mối quan hệ trung ương – địa phương là những yếu tố phản ánh hình thức nhà nước vốn là nội dung cơ bản của Hiến pháp. Nhìn chung, chế định Hiến pháp về chính quyền địa phương bao gồm các nhóm quy định: phân chia đơn vị hành chính – lãnh thổ; nguyên tắc hình thành mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước trung ương và các cộng đồng lãnh thổ; kiểm soát của chính quyền trung ương đối với các cơ quan địa phương.
Hiến pháp là văn bản quy định về tổ chức quyền lực nhà nước, theo cả chiều ngang và chiều dọc. Như đã rõ, quyền lực nhà nước là thống nhất bởi lẽ toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Về nguyên tắc, nhân dân có toàn quyền tổ chức thực hiện quyền lực. Chỉ khi nào, về khách quan và chủ quan, họ không thể tiến hành được thì hoạt động đó được ủy quyền cho cộng đồng hay cho thiết chế đại diện2. Theo tinh thần dân chủ và tính hợp lý, việc ủy quyền được bắt đầu từ cấp gần dân nhất. Những vấn đề mà cơ sở có khả năng đảm nhiệm sẽ được ủy quyền cho các thiết chế đại diện ở cấp tương ứng. Tương tự như vậy với các vấn đề khác và với các cơ quan được tổ chức ở các cấp cao hơn. Sự “phân vai” này sẽ là lý tưởng nếu được ghi nhận rõ ngay trong Hiến pháp. Thông qua Hiến pháp, nhân dân trao quyền cho các cơ quan nhà nước và những thẩm quyền đó là cơ sở để các chủ thể này thực hiện chức năng quản lý xã hội.
Mục đích của phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ là tổ chức bộ máy quản lý tương ứng tại các điểm dân cư. Tính chất và quy mô của đơn vị hành chính là tiêu chí quyết định cách thức tổ chức các cơ quan chính quyền. Trách nhiệm của Nhà nước là xây dựng, ban hành chính sách phục vụ phát triển xã hội và tổ chức thực hiện chính sách đó trên quy mô toàn lãnh thổ. Để thực hiện công việc đó, cần thiết lập hệ thống cơ quan tương ứng mà một trong số đó là HĐND. Như vậy, HĐND là cơ quan nhà nước, hoạt động theo cơ chế dân chủ đại diện, thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước để tổ chức triển khai các chính sách của Nhà nước và tổ chức đời sống dân cư tại địa phương. Việc thực hiện các nhiệm vụ mang tính tự quản không đồng nghĩa với tính phi nhà nước của cơ quan đại diện được trao thẩm quyền quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương.
1.2. Về nguyên tắc hình thành quan hệ giữa trung ương và địa phương
Từ trước đến nay, mối quan hệ giữa trung ương và địa phương được thực hiện dựa trên quan điểm xuyên suốt về tính thống nhất, tập trung của quyền lực nhà nước. Vị thế của HĐND được khắc họa với tư duy về tính hệ thống của các cơ quan nhà nước. Theo đó, HĐND được quan niệm là yếu tố cấu thành của nhóm cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan đại diện, có tính trội trong tương quan với các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp. Mặc dù tạo thành một khối thống nhất (chính quyền địa phương), nhưng giữa HĐND và Ủy ban nhân dân (UBND), mà đặc biệt là HĐND và các cơ quan nhà nước trung ương hình thành hai tuyến quan hệ mang tính chất khác nhau, đó là với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và với một chủ thể khác – Chính phủ.
Nếu như quan hệ giữa các cơ quan nhà nước trung ương được xác lập theo nguyên tắc phân công, phối hợp thì đặc trưng trong quan hệ giữa trung ương và địa phương thời gian qua là phân cấp. Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 xác định nhiệm vụ: Định rõ vai trò, chức năng và trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp phù hợp với yêu cầu đổi mới sự phân cấp quản lý hành chính giữa trung ương và địa phương; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền địa phương trên cơ sở phân cấp rõ ràng và hợp lý giữa trung ương và địa phương; gắn phân cấp công việc với phân cấp về tài chính, tổ chức và cán bộ. Trong Báo cáo tổng kết tình hình hoạt động của HĐND các cấp nhiệm kỳ 2004-2011, cơ chế phân cấp quản lý giữa trung ương và địa phương được xem là yếu tố tác động tích cực (hoặc ngược lại) đến hiệu quả hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước các cấp tỉnh, huyện, xã3.
Trên thực tế, phân cấp chủ yếu được thực hiện giữa các cơ quan hành chính nhà nước và phần nhiều được thể chế hóa bằng các nghị định của Chính phủ. Với tư duy thẩm quyền của HĐND – cơ quan quyền lực nhà nước phải do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định nên các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ thường tập trung phân định nhiệm vụ, quyền hạn giữa Chính phủ, các bộ với UBND cấp tỉnh4. Được tiến hành theo nguyên tắc bảo đảm hiệu quả, “việc nào, cấp nào sát thực tế hơn, giải quyết kịp thời và phục vụ tốt hơn các yêu cầu của tổ chức và nhân dân thì giao cho cấp đó thực hiện”, nhưng có thể nói, phân cấp thời gian qua nghiêng về tư duy chuyển giao thẩm quyền từ trung ương cho địa phương. Trong tinh thần cải cách hành chính, phân cấp được tiến hành với mục đích khắc phục chồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ giữa bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa phương và để Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ tập trung xây dựng, ban hành thể chế, kế hoạch, chính sách, quản lý vĩ mô về kinh tế – xã hội, chỉ đạo và kiểm tra thực hiện.
Mặc dù được gọi là phân cấp, song quan hệ giữa trung ương và địa phương thời gian qua có dấu hiệu của phân quyền. Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 đề ra nhiệm vụ: Định rõ những loại việc địa phương toàn quyền quyết định, những việc trước khi địa phương quyết định phải có ý kiến của trung ương và những việc phải thực hiện theo quyết định của trung ương.
Trong bối cảnh hiện nay, do có sự đan xen giữa “phân cấp” và “phân quyền”, nên mối quan hệ tổ chức quyền lực nhà nước theo chiều dọc sẽ được thể hiện qua các nhóm quy định lập hiến: dân chủ trực tiếp (những vấn đề nhân dân trực tiếp quyết định ở quy mô địa phương hoặc toàn quốc); dân chủ đại diện (vị trí và trách nhiệm của HĐND với tư cách là cơ quan dân cử); xác định thẩm quyền của từng cấp HĐND và UBND, chế độ ủy quyền. Thông qua đó, những vấn đề do chính quyền địa phương tự quyết; những công việc thuộc thẩm quyền tuyệt đối của trung ương cũng như khả năng tác động, giám sát của trung ương sẽ được định lượng.
1.3. Về phân chia đơn vị hành chính – lãnh thổ
Tổ chức chính quyền địa phương gắn với phân chia đơn vị hành chính – lãnh thổ và quy chế pháp lý của đơn vị hành chính. Mặc dù Hiến pháp dành cho luật quy định việc thành lập HĐND và UBND nhưng trên thực tế, các cơ quan này được thành lập theo một mô hình chung tại các đơn vị hành chính. Nhu cầu cải cách chính quyền địa phương đã được đặt ra, nhất là với các thành phố trực thuộc trung ương. Thời gian qua, một số địa phương phải “xé rào” để giải quyết các vấn đề bức xúc của mình. Các thành phố trực thuộc trung ương đã và đang xây dựng Đề án về cơ chế đặc thù và thí điểm mô hình chính quyền đô thị. Đối với Hà Nội, vấn đề này đang được nghiên cứu luật hóa.
Theo Hiến pháp, Quốc hội có quyền thành lập đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt. Tuy nhiên, chưa rõ tương quan giữa đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt này với các đơn vị hành chính khác.
Chiến lược cải cách tư pháp định hướng việc thành lập các cơ quan tư pháp theo khu vực. Trong hệ thống hành chính nhà nước cũng có nhiều cơ quan được thiết kế theo tiêu chí liên tỉnh, vùng. Như vậy, cần có quy định làm cơ sở hình thành cơ chế đặc thù trong quản lý đô thị, đô thị đặc biệt và khả năng thành lập các cơ quan mang tính liên địa bàn.
Phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ là vấn đề vẫn cần được quy định ngay trong Hiến pháp. Đây chính là tiêu chí để thiết lập HĐND và UBND (tạm giữ tên gọi như hiện nay), kể cả trong trường hợp không tổ chức một trong hai cơ quan này ở một số địa bàn. Để bảo đảm tính ổn định, nên quy định theo hướng: việc tổ chức các cơ quan chính quyền địa phương được thực hiện theo quy định của luật.
2. Mô hình các cơ quan chính quyền địa phương
2.1. Xác định cấp chính quyền
Vấn đề được nghiên cứu và đặt ra là xác định cấp chính quyền hoàn chỉnh, nơi tổ chức cả hai cơ quan: cơ quan đại diện và cơ quan hành chính. Nhìn chung, đối với đơn vị hành chính cơ sở thì bảo đảm lợi ích dân cư là nhiệm vụ hàng đầu của chính quyền. Trong khi đó, chức năng của cơ quan tại đơn vị hành chính trung gian là duy trì mối liên hệ giữa trung ương và cơ sở. Cơ quan tại loại đơn vị trung gian do cấp trên bổ nhiệm hoặc phê chuẩn và phải đề cao lợi ích của trung ương, tổ chức thực hiện chính sách của Nhà nước. Việc quản lý trên địa bàn lãnh thổ mang tính trung gian về cơ bản do cơ quan hành chính thực hiện; còn cơ quan đại diện (nếu có) chỉ đóng vai trò tư vấn cho cơ quan hành chính.
Vừa qua, thực hiện chủ trương của Đảng về tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, tại 67 huyện, 32 quận, 483 phường của 10 tỉnh, thành phố, HĐND đã không được tổ chức. Trong khuôn khổ thí điểm, tính hành chính của UBND được nhấn mạnh. Cơ chế UBND cấp trên bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các thành viên UBND huyện, quận, phường được thực hiện thay vì được HĐND cùng cấp bầu, miễn nhiệm. Chế độ trách nhiệm, mối quan hệ trong chỉ đạo, kiểm tra giữa UBND cấp trên với cơ quan hành chính huyện, quận, phường được định hình, nhất là trong điều kiện UBND nơi thực hiện thí điểm được trao thêm những nhiệm vụ, quyền hạn về quản lý đô thị, về phát triển kinh tế – xã hội, ngân sách nhà nước.
Qua một thời gian thí điểm, cần giải quyết cả về góc độ lý luận và thực tiễn vấn đề: thiết lập các cấp chính quyền địa phương sao cho vừa bảo đảm các giá trị dân chủ, vừa hướng tới nguyên tắc về tính thống nhất, thông suốt của hệ thống hành chính nhà nước.
Ông Vũ Đình Hòe, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp coi quy định “Ủy ban hành chính các cấp có quyền đình chỉ việc thi hành những nghị quyết không thích đáng của HĐND cấp dưới trực tiếp” (từ Hiến pháp năm 1959) chính là cơ sở pháp lý của nguyên tắc “một hành chính” mạnh. Nhưng có lẽ quan trọng hơn, theo ông Vũ Đình Hòe, chính là thực tiễn “Thì không thể chối cãi được rằng suốt 50 năm nay, thực quyền công việc quản lý đất nước ở trung ương là ở trong tay Chính phủ và ở địa phương là ở trong tay Ủy ban”. Về ý tưởng coi Quốc hội và HĐND là hình tượng cao đẹp của chế độ dân chủ – tập quyền, Ông Vũ Đình Hòe cho rằng, “đứng về khách quan, không thể không thừa nhận chúng ta còn đứng xa lắm so với lý tưởng, mặc dầu có cố gắng làm nhiều đấy, nhưng vị trí, vai trò của HĐND vẫn cứ mờ nhạt”. Theo ông, chính hệ thống chặt chẽ (Ủy ban hành chính các cấp chịu sự lãnh đạo của Ủy ban hành chính cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất của Hội đồng Chính phủ) đã làm nên sức mạnh của hành pháp và đã theo sát tư tưởng Hiến chính của Bác Hồ6.
Sửa đổi Hiến pháp lần này là dịp nghiên cứu xác định hai cấp chính quyền địa phương hoàn chỉnh, nơi tổ chức cả HĐND và UBND là những cơ quan có chung chức năng tổ chức thi hành pháp luật. Những công việc của địa phương do HĐND quyết định sẽ được thực hiện theo quy định của Hiến pháp và luật. Bên cạnh đó, các biện pháp thực hiện dân chủ trực tiếp phải được quy định một cách thiết thực để bảo đảm quyền của người dân trong việc quyết định các vấn đề của địa phương, cộng đồng.
2.2. Chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn
Kiểm điểm 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội X, nhìn lại 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001-2010, 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng nêu hạn chế trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam là hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trên một số lĩnh vực yếu; phân cấp mạnh nhưng thiếu kiểm tra, kiểm soát8. Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh yêu cầu “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương. Nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND và UBND các cấp, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách trong phạm vi được phân cấp”9.
Hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương được quyết định bởi nhiều yếu tố. Thời gian qua, việc xác định đồng loạt một mô hình chính quyền địa phương với những nhóm nhiệm vụ, quyền hạn giống nhau đã tỏ ra không phù hợp. Cùng với việc xác định các cấp chính quyền và thẩm quyền mang tính khái quát của mỗi cấp, Hiến pháp có thể đưa ra nguyên tắc hình thành chính quyền đô thị và nông thôn. Điều này cho phép thiết kế các mô hình đa dạng, phù hợp với các nhóm đơn vị hành chính lãnh thổ. Hiện tại, ngoài hai mô hình đô thị và nông thôn “thuần chủng”, còn có mô hình đô thị đặc biệt, mô hình “bán đô thị, bán nông thôn”. Nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ giữa HĐND và cơ quan hành chính các cấp sẽ phải tương thích với mỗi loại mô hình là nội dung sau này sẽ được luật điều chỉnh.
(1) Phạm Quốc Anh (chủ biên). Những vấn đề cơ bản của Hiến pháp năm 1992 sửa đổi. Nxb. Công an nhân dân. Hà Nội, 2006, tr.193-194.
(2) chúng tôi Lê Minh Thông, chúng tôi Nguyễn Như Phát (đồng chủ biên). Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay. Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2002, tr.378.
(3) Xem Báo cáo số 361/BC-UBTVQH12 ngày 8/9/2010.
(4) Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP ngày 30/6/2004 về tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xác định các lĩnh vực cần phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Chính phủ và UBND cấp tỉnh.
(5) Nguyễn Văn Thảo, Thiết kế bộ máy nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Bộ Tư pháp. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Hà Nội, 1993, tr.127-129.
(6) Vũ Đình Hòe, Nội dung về một Nhà nước của dân, do dân, vì dân, theo tư tưởng Hồ Chí Minh qua bộ máy hành pháp. Bộ Tư pháp. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Hà Nội, 1993, tr.199-200.
(7) Những nội dung cơ bản của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003. Nxb. Tư pháp. Hà Nội, 2003, tr.13.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2011, tr.171.
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam. tlđd, tr. 251.