Chức Năng Báo Chí / Top 11 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Tìm Hiểu Vai Trò Của Báo Chí Và Chức Năng Của Báo Chí

Hiện nay, báo chí đã và ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của mình trong đời sống xã hội. Đây được xem là công cụ sắc bén để tuyên truyền đường lối, chủ trường của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước. Đồng thời, báo chí cũng là cầu nối, phản ánh tâm tư, nguyện vọng cũng như nhu cầu cấp thiết của nhân dân.

Về vai trò,báo chí đang ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn những nhân tố tích cực và nhiều điển hình tiên tiến trong sản xuất và chiến đấu, góp phần đưa kinh tế đất nước phát triển cùng với sự phát triển chung của thế giới. Báo chí là cầu nối quan trọng giữa doanh nghiệp và nhà quản lý, hoạch định chính sách giúp Nhà nước điều chỉnh những chủ trương, đường lối cho phù hợp với thực tiễn. Báo chí còn tham gia một cách đồng cảm trên mặt trận đấu tranh tham những, chống tiêu cực và tệ nạn xã hội.

Báo chí ngày cảng khẳng định vai trò quan trọng trong đời sống xã hội

Đây được xem là kênh thông tin, thỏa mãn nhu cầu thông tin của xã hội. Xã hội càng hiện đại, việc phổ biến thông tin trên quy mô đại chúng càng trở nên quan trọng và vì vậy, sự phụ thuộc, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các phương tiện thông tin đại chúng và xã hội càng trở nên chặt chẽ. Trong thời đại bùng nổ thông tin ngày nay, vai trò tích cực của cộng đồng truyền thông đã thúc đẩy quá trình xã hội hóa các hoạt động giám sát và phản biện xã hội.

Báo chí cũng được xem là nhân tố, là phương tiện có sức mạnh đặc biệt to lớn trong việc định hướng nhận thức, hình thành dư luận xã hội. Báo chí là một lực lượng rất quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả của phản biện xã hội trong tiến trình xây dựng một xã hội thực sự dân chủ. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, mỗi thông tin trên báo chí đều có thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến vị thế, diện mạo của quốc gia, dân tộc.

2. Chức năng của báo chí trong giai đoạn hiện nay

Báo chí cách mạng Việt Nam là một bộ phận quan trọng trong công tác tuyên truyền của Đảng. Các nhà báo được xem là chiến sỹ xung kích trên mặt trận văn hóa – tư tưởng. Nhiệm vụ trọng yếu của báo chí chính là cung cấ p thông tin.

Việc định hướng, giáo dục chính trị, tư tưởng thực chất là tuyên truyền và bảo vệ hệ tư tưởng của giai cấp công nhân. Báo chí Việt Nam là công cụ truyền thông của Đảng, vì thế, trước hết cần tuyên truyền và phổ biến chủ nghĩa Mác- Lê, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước đến mọi tầng lớp nhân dân.

Đồng thời, báo chí cũng là diễn đàn của nhân dân, phản ánh một cách trung thực tâm tư, nguyện vọng và mong muốn của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Chức năng định hướng của báp chí chính là không ngừng nâng cao nhận thức chính trị, tính tự giác của quần chúng nhân dân, là phương tiện góp phần tạo nên nhận thức xã hội, định hướng tư tưởng và tạo lập dư luận xã hội theo đúng định hướng tuyên truyền của Đảng.

Báo chí là bộ phận cấu thành của văn hóa nên nó trực tiếp góp phần phát triển, bảo tồn và giao lưu văn hóa.

Báo chí thực hiện chức năng giáo dục, truyền bá tư tưởng của Đảng đến cộng đồng

Báo chí tham gia bồi đắp, hướng dẫn, nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân, đồng thời góp phần định hướng, điều chỉnh và cổ vũ xây dựng môi trường văn hóa mới. Chức năng giáo dục của báo chí trong xã hội hiện đại rất phong phú và đa dạng. Đó là giáo dục tư tưởng chính trị, trách nhiệm công dân giáo dục pháp luật, trao đổi kỹ năng sống, kinh nghiệm làm ăn,… cho cá nhân và cộng đồng; phổ biến kiến thức, các thành tựu khoa học mới, hướng dẫn áp dụng, chuyển giao công nghệ, tham gia cổ vũ, tổ chức thực hiện…

Đây được đánh giá là chức năng quan trọng của báo chí. Trong xã hội hiện đại, thông tin có vai trò đặc biệt quan trọng, chính thông qua sử dụng và giám sát thông tin nên báo chí thể hiện được chức năng giám sát và phản biện xã hội của mình. Chức năng này thể hiện quyền lực của báo chí trong đời sống xã hội. Giám sát xã hội của báo chí thực chất là thông qua tai mắt của nhân dân, giám sát bằng dư luận xã hội.

Bên cạnh đó, báo chí còn mang chức năn giải trí, góp phần thỏa mãn nhu cầu giải trí, tiêu khiển của con người, Đây chính là lý do mà chức năng giải trí của báo chí hiện đại ngày càng được quan tâm và đề cao.

Đọc Chức Năng+ Nguyên Tắc Của Báo Chí

c. Chức năng văn hoá và giải trí: Vị trí và vai trò của chức năng văn hóa giải trí: – Các sản phẩm truyền thông góp phần to lớn vào việc nâng cao dân trí và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc cũng như giao lưu, tiếp thu các tinh hoa văn hoá của các dân tộc trên thế giới, phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước, chấn hưng dân tộc.– Quá trình phát triển văn hoá Việt Nam: Việt Nam có nền văn minh phát triển từ rất sớm, khoảng 10.000 năm văn minh thôn dã kéo dài. Nó có nhiều mặt tích cực và hạn chế. – Phương thức báo chí tham gia phát triển văn hoá: + Đại chúng hoá các giá trị văn hoá

+ Kích thích năng lực sáng tạo, giá trị mới của cộng đồng + Tiếp thu và biến đổi + báo chí phải trở thành bộ …., nhà báo trở thành nhà văn hoá. (?) + báo chí tham gia, giới thiệu, tổng kết kinh nghiệm. + Nhà báo cố gắng là nhà văn hoá, có phông văn hoá. – Giải trí đối với báo chí: giúp công chúng, tạo điều kiện cho công chúng sử dụng thời gian rỗi, cân bằng tâm sinh lý. + thông tin mới, hay …(văn nghệ) + trong bối cảnh kinh tế thị trường, nhu cầu giải trí càng lớn + truyền hình là kênh giải trí

d. Chức năng giám sát và phản biện xã hội: – Với khả năng tổ chức, tập hợp lực lượng, báo chí tham gia quản lý để đảm bảo luồng thông tin hai chiều. Từ Đảng và Nhà nước đến dân và từ dân đến Đảng và Nhà nước. Nhờ đó, Nhà nước có thể nắm bắt hiệu quả của những chính sách và từ đó chỉnh sửa, bổ sung và hiểu được tâm tư của người dân. – Phản biện xã hội là một phương thức mới trong xã hội ta, thể hiện 1 tư duy mới. Phản biện xã hội là nêu ra cái tiêu cực, không tốt để hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung. Phản biện xã hội là phản biện chủ trương, chính sách, pháp luật, nêu ra cái tốt, cái hay, chỉ ra sự bất cập. Việc giám sát là độc lập bởi nếu giám sát không độc lập thành đồng loã. – Yêu cầu: Điều kiện để tăng cường chức năng giám sát, phản biện xã hội của báo chí nói chung: + đặc thù phản biện, giám sát xã hội của báo chí: đây là giám sát phản biện của nhân dân, là tai mắt hay chính là sự giám sát của nhân dân. Do đó, tăng cường phản biện, giám sát là phát huy quyền làm chủ của người dân. Muốn giám sát và phản biện tốt, phải nâng cao dân trí, bởi dân trí là tiền đề của dân chủ. + bộ máy công quyền mạnh, thể chế nhà nước mạnh, hệ thống pháp luật phải minh bạch, rõ ràng. Phải có thể chế quyền lực minh bạch dân chủ. Cán bộ công quyền trong bộ máy phải có năng lực. – Yêu cầu đối với nhà báo: + chất lượng đối với nhà báo: phẩm chất, năng lực và điều kiện làm việc + Mọi thông tin báo chí phải phục vụ bảo vệ đất nước.

– Đây là một loạt sản phẩm hàng hoá càng nhiều người dùng, gía trị trị sử dụng của nó càng cao (khác với các loại sản phẩm khác). Đặc điểm này phản ánh nó gắn liền với quần chúng, gắn liền với xã hội. – Yêu cầu: + Phải nhận thức được hoạt động kinh doanh vì công chúng + quan hệ công chúng sinh ra trong hoạt động báo chí truyền thông – Cac loại dịch vụ đều tính đến chiến lược phát triển.

Tiểu Luận Hv Báo Chí Và Tuyên Truyền Đề Tài Chức Năng Xã Hội Của Báo Chí

Vũ Trần Nam Linh Lớp Truyền hình K31A2

Bài tập Cơ sở lí luận báo chí Đề bài: Chức năng xã hội của báo chí. 1/ Khái niệm chức năng? Theo từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam: 1.1. Trong triết học, xã hội học, CN chỉ: a) Tác động của các đặc tính của một hệ thống khách thể đối với các hệ thống môi trường cùng nằm trong một hệ thống các quan hệ với khách thể đang xem xét một hệ thống các quan hệ nhất định (như CN giác quan, CN tiền tệ…). b) Kết quả đối với một hệ thống xã hội của một hiện tượng, sự kiện, yếu tố, thể chế xã hội có tác dụng góp phần vào sự vận hành, sự duy trì hệ thống xã hội đó. Định nghĩa này giả định rằng một hệ thống có một sự thống nhất nhất định, gọi là sự thống nhất CN. 1.2. Trong ngôn ngữ học, CN chỉ: a) Nhiệm vụ, vai trò của các đơn vị ngôn ngữ hoặc của các yếu tố trong hệ thống ngôn ngữ, vd. CN khu biệt nghĩa của các âm vị, CN phân giới của các âm, CN hình thái học. b) Sự cụ thể hoá vai trò của một yếu tố ngôn ngữ trong lời nói cụ thể, vd. CN chủ ngữ, CN vị ngữ, CN định ngữ, vv.

c) Vai trò của ngôn ngữ đối với xã hội như CN làm phương tiện giao tiếp và công cụ biểu hiện tư duy của con người. d) Tác dụng của ngôn từ cụ thể trong giao tiếp, vd. CN thông báo, CN cầu khiến, CN biểu cảm, vv. đ) Ngoài ra, cũng có một khuynh hướng ngữ pháp gọi là “ngữ pháp chức năng”.

Nội dung cơng tác tư tưởng của Đảng ta: – Truyền bá hệ tư tưởng. – Truyền bá Cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng. Mục đích của công tác tư tưởng: – Để quần chúng nhân dân biến hệ tư tưởng của Đảng thành hệ tư tưởng của quần chúng nhân dân. – Để giác ngộ, nâng cao tính tự giác cho quần chúng nhân dân. – Để bồi dưỡng niềm tin, tình cảm cách mạng, cổ vũ hành động. Các loại hình của công tác tư tưởng: – Hoạt động lý luận (Quán triệt và phổ biến hệ tư tưởng; Tổng kết thực tiễn để hình thành đường lối chiến lược, chủ trương, chính sách). – Hoạt động tuyên truyền. – Hoạt động cổ động. (Khi đã có đường lối chiến lược, chủ trương, chính sách … thì tuyên truyền và cổ động cho chúng). Các công cụ tư tưởng: – Hệ thống các trường lớp chính trị. – Sinh hoạt tư tưởng theo các cơ quan, đoàn thể, đơn vị, tổ chức … – Đội ngũ báo cáo viên. – Bảo tàng, triển lãm, pa nô, áp phích, các đội tuyên truyền … – Văn học nghệ thuật. – Báo chí (bao gồm các loại hình) là công cụ đặc biệt quan trọng. Trong số các công cụ tư tưởng của Đảng thì báo chí đóng vai trị cực kỳ quan trọng. Chính vai trò, tác dụng của báo chí trong việc giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng đối với quần chúng nhân dân đã tạo thành nhóm chức năng tư tưởng của báo chí. Báo chí là công cụ tư tưởng quan trọng bởi lẽ báo chí hàng ngày hàng giờ thông qua hoạt động chuyển tải thông tin truyền bá

hệ tư tưởng của Đảng vào quần chúng nhân dân, hướng tính tích cực xã hội của quần chúng nhân dân vào việc thực hiện những mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đặt ra. Nhóm chức năng tư tưởng của báo chí bao gồm các thành tố: 2.1.1. Chức năng mục tiêu: – Lý luận báo chí cách mạng đã chỉ rõ ý nghĩa to lớn của báo chí trong việc hình thành đời sống tinh thần của quần chúng nhân dân. Vai trò của báo chí cũng tăng nhanh đồng hành với sự phất triển của xã hội cùng với việc mở rộng quy mô của các hoạt động xã hội và thu hút quần chúng nhân dân tham gia vào các phong trào, các hoạt động xã hội. – Báo chí làm nhiệm vụ khách quan là chuyển tải thông tin một cách nhanh chóng, toàn diện và có định hướng. Cũng như mọi hoạt động khác của con người, hoạt động báo chí bao giờ cũng hướng tới những mục tiêu xác định. Mục tiêu của hoạt động báo chí là nâng cao tính tự giác cho đối tượng công chúng. (Tự giác là làm việc gì tự mình hiểu mà làm, không cần phải nhắc nhở, đốc thúc). Để nâng cao tính tự giác cho công chúng, báo chí phải nâng cao nhận thức và tự nhận thức cho họ. Nhận thức và tự nhận thức nằm trong mối quan hệ biện chứng. Nhận thức (là khả năng của con người phản ánh và tái hiện hiện thực vào tư duy) – là toàn bộ những tri thức về thế giới xung quanh: những quy luật, những hiện tượng, những khuynh hướng, những quá trình của đời sống xã hội. Còn tự nhận thức là hiểu được vị trí của mình trong thế giới, trong các mối quan hệ xã hội; hiểu được mục đích, ý nghĩa của cuộc sống, hiểu được mục đích và yêu cầu, hiểu được cách thức để đạt được mục đích và thỏa mãn những nhu cầu ấy … Sự tự giác là kết quả của nhận thức và tự nhận thức. Tự giác là động lực mạnh mẽ của hành vi, nó quy định tính tích cực xã hội của con người.

Để thực hiện tốt chức năng mục tiêu – báo chí phải: + Giúp cho công chúng nhận thức thế giới khách quan một cách toàn

diện, sâu sắc và đúng đắn. + Định hướng xã hội cho công chúng một cách toàn diện, đúng đúng đắn và khoa học. 2.1.2. Chức năng định hướng. Để nâng cao tính tự giác cho đối tượng công chúng đòi hỏi báo chí phải định hướng cho họ một cách toàn diện và đúng đắn. Định hướng xã hội – là tác động, giáo dục, giúp đỡ cho công chúng hiểu và đánh giá đúng các sự kiện, hiện tượng của đời sống xã hội để từ đó họ xác định được mục tiêu, khuynh hướng và đặc điểm hành vi của mình. Sự định hướng như vậy thể hiện ở các mặt: – Thứ nhất: Qua thông tin báo chí cung cấp giúp cho công chúng hiểu được cái gì đang diễn ra. Sự định hướng bắt đầu từ hiểu biết tất cả các sự kiện hàng ngày diễn ra trong thế giới xung quanh để tạo thành bức tranh toàn cảnh về thế giới khách quan của con người mà con người sống trong nó. Đối với báo chí, mô hình thông tin, hệ thống các khái niệm về cuộc sống là rất quan trọng. – Thứ hai: Qua việc cung cấp thông tin báo chí giúp cho công chúng xác định rõ được rằng trong điều kiện và hoàn cảnh cụ thể cần đạt tới cái gì, cả về trước mắt, cả về lâu dài từ quan điểm chính thống. – Thứ ba: Sự định hướng được thể hiện qua việc đánh giá các sự kiện, hiện tượng, các quá trình, các khuynh hướng, các nhân vật … (Đương nhiên là từ quan điểm chính thống). Sự đánh giá đó sẽ có sức thuyết phục, tác động mạnh mẽ tới đối tượng khi nó như là những kết luận được rút ra từ việc

phân tích các sự kiện, hiện tượng, các quá trình, các khuynh hướng, các nhân vật … ấy của thực tiễn (từ quan điểm chính thống). –

Thứ tư: Sự định hướng còn thể hiện ở việc phổ biến những giá trị,

những chuẩn mực, những phương thức, phương pháp hoạt động … nhằm thực hiện những mục tiêu đề ra và đạt được những kết qủa cao nhất trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Kết quả định hướng của báo chí đến mức nào phụ thuộc vào mức độ công khai các vấn đề của đời sống xã hội; vào sự dễ hiểu, cập nhật của thông tin; vào khả năng phản ánh và xem xét công khai, thẳng thắn các vấn đề của đời sống xã hội trên báo chí. Định hướng của báo chí trong thực tế có thể toàn diện, sâu sắc và đúng đắn; có thể toàn diện nhưng không sâu sắc và đúng đắn; và cũng có thể là rất yếu kém. Báo chí cách mạng – với bản chất giai cấp và vai trò lịch sử của mình – phải định hướng một cách sâu sắc, toàn diện và đúng đắn, hình thành ý thức khoa học và tiến bộ cho công chúng xã hội, làm sao để công chúng báo chí nhận thức đúng về thế giới xung quanh, hiểu được vị trí và vai trò của mình để lựa chọn thái độ và hành vi cho phù hợp. Định hướng xã hội toàn diện, sâu sắc, đúng đắn và khách quan sẽ tác động trực tiếp tới hoạt động của công chúng trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ xã hội đã đề ra. Báo chí thực hiện chức năng mục tiêu, hình thành tính tự giác thông qua định hướng xã hội một cách toàn diện, sâu sắc, đúng đắn và khách quan mang đặc điểm tổng hợp; có nghĩa là báo chí phải tác động tới các mặt của thế giới tinh thần, tới toàn bộ các bộ phận cấu thành của cấu trúc ý thức xã hội: Thế giới quan; Ý thức lịch sử, văn hóa và Dư luận xã hội. Thế giới quan: là quan niệm thành hệ thống về thế giới, về các hiện tượng tự nhiên và xã hội. TGQ thể hiện cả ở 2 phương diện: bức tranh thực

tiễn về thế giới và mối quan hệ, quan điểm về thế giới. Hệ thống quan niệm này quy định lập trường, quan điểm, niềm tin, lý tưởng … của con người. TGQ là lăng kính mà thông qua đó con người nhận thức và đánh giá thế giới xung quanh, thẩm định các giá trị vật chất và tinh thần, bày tỏ thái độ trước các sự kiện, hiện tượng … của đời sống xã hội, xác định mục đích, phương hướng và đặc điểm của hành vi. TGQ là hạt nhân của cấu trúc ý thức xã hội, được hình thành là do cả một quá trình và nó bền vững, chậm thay đổi. Ý thức lịch sử, văn hóa: là thành tố thứ 2 của cấu trúc ý thức xã hội, nó đóng vai trị trung gian, truyền dẫn giữa TGQ và Dư luận xã hội (DLXH). Ý thức lịch sử, văn hóa là quan niệm của con người về lịch sử, về hiện tại trong mối quan hệ với quá khứ và tương lai. Để xem xét, thẩm định và đánh giá các sự kiện, hiện tượng của thực tiễn, con người phải hiểu và biết được lịch sử hình thành và vận động của thực tiễn, các mối quan hệ của thực tiễn với thời đại, với môi trường tự nhiên và xã hội … Bởi lẽ hiện tại như là quá trình vận động và phát triển của quá khứ, bị quy định bởi quá khứ và ảnh hưởng đến tương lai. Sự hình thành ý thức lịch sử, văn hóa do nhiều yếu tố: văn hóa truyền thống, kiến thức được trang bị bởi hệ thống nhà trường từ thấp đến cao, văn học nghệ thuật, các phương tiện thông tin đại chúng và tuyên truyền, kinh nghiệm sống … trong đó báo chí có vai trò đặc biệt quan trọng do khả năng cung cấp thông tin nhanh, đa dạng và phong phú: phổ biến những tri thức, những kinh nghiệm, những giá trị lịch sử, thẩm định và cổ động cho những giá trị lịch sử, tạo môi trường cho sự hình thành ý thức lịch sử, văn hóa. Dư luận xã hội: là thành tố động nhât, linh hoạt nhất của ý thức xã hội. DLXH là phản ứng, thái độ của xã hội trước một sự kiện, hiện tượng, vấn đề … hay một nhân vật nào đó. Đối tượng của DLXH là toàn bộ các sự kiện, hiện tượng … của đời sống xã hội. Chủ thể của DLXH là các giai cấp, các

tầng lớp, các dân tộc, các nhóm xã hội, các vùng hay địa phương … DLXH xem xét và đánh giá các sự kiện thường ngày của đời sống xã hội xuất phát từ mối liên hệ đối với chúng. DLXH có thể tiến bộ, có thể lạc hậu, có thể thúc đẩy, có thể kìm hãm sự tiếp thu cái mới, sự phát triển của xã hội. Các thành tố của ý thức xã hội nằm trong mối liên hệ chặt chẽ, vận động một cách linh hoạt dưới sự tác động của thực tiễn. 2.1.3. Chức năng giáo dục chính trị tư tưởng Chức năng giáo dục chính trị tư tưởng của báo chí được thể hiện ở sự giáo dục, bao gồm giáo dục thường xuyên và giáo dục lại đối với công chúng báo chí. Giáo dục – là hoạt động nhằm hình thành ý thức ở đối tượng. Khi nhận được những thông tin (về quá khứ và hiện tại, về những quy luật vận động và phát triển của xã hội, về những giá trị và chuẩn mực của cuộc sống …) tạo ra sự thay đổi về chất trong mỗi con người. Nếu những thông tin tiếp nhận ấy là chân thực và khách quan thì quan điểm riêng được hình thành sẽ là tích cực (và ngược lại). Để đạt được hiệu quả giáo dục, báo chí khi truyền bá những thông tin về thực tiễn phải giúp cho công chúng hiểu biết được những quy luật, những sự kiện, hiện tượng, những quá trình của đời sống xã hội, phải quan tâm đến việc tạo ảnh hưởng tư tưởng mạnh mẽ tới họ, phải phối hợp và gắn với những giá trị, những chuẩn mực, những tư tưởng hiện hành, có nghĩa là gắn với chức năng mục tiêu của hoạt động thông tin, với toàn bộ các hình thức định hướng xã hội. Nội dung quan trọng nhất của giáo dục là hình thành tư duy kinh tế, giáo dục ý thức chính trị, ý thức lao động, ý thức đạo đức, ý thức luật pháp, tinh thần yêu nước … và đấu tranh chống lại những tư tưởng và những chuẩn mực đạo đức xa lạ.

Hoạt động giáo dục trong báo chí góp phần tạo ra niềm tin của công chúng. Sự xuất hiện của niềm tin đối với báo chí – đó là kết quả của việc tiếp thu thông tin cá nhân, hình thành từ sự tin tưởng vào những phản ánh, phân tích và đánh giá, đề xuất, kiến nghị và kết luận của báo chí. Niềm tin đối với báo chí khác với đức tin trong tôn giáo. Đức tin trong tôn giáo là sự ngộ nhận thiếu bằng chứng … còn niềm tin đối với báo chí được hình thành từ báo chí và do báo chí – thông qua những bằng cớ xác thực của thực tiễn. (Thông qua kỹ năng phản ánh, phân tích, đánh giá các sự kiện, hiện tượng, các quá trình, các khuynh hướng … hàng ngày của báo chí). Do vậy, để hình thành niềm tin của công chúng, đòi hỏi báo chí phải sử dụng một cách linh hoạt và sáng tạo các phương pháp tái tạo thực tiễn trong các tác phẩm báo chí, vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo những đặc điểm, những quy luật của hoạt động tuyên truyền, cổ động và tổ chức mà nhờ những phương pháp này thực hiện một cách hiệu quả nhiệm vụ giáo dục của báo chí. – Tuyên truyền: là hoạt động truyền bá những tư tưởng nền tảng, quan điểm cơ bản của hệ tư tưởng của chế độ. Nội dung tuyên truyền cơ bản: + Tuyên truyền hệ tư tưởng. + Tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. + Tuyên truyền các quan niệm khái quát về thời đại. + Tuyên truyền hình thành lối sống mới. – Cổ động: là hoạt động của báo chí để phổ biến những thông tin thời sự, tác động tích cực và có định hướng vào lập trường, thái độ, tình cảm … của công chúng. Bằng những thông tin phản ánh các sự kiện, hiện tượng hàng ngày về thực tiễn, cổ động được thể hiện trong những đánh giá rõ ràng nhằm hình thành nên mối quan hệ của công chúng với các sự kiện, hiện tượng ấy cho phù hợp với ý nghĩa của nó, định hướng hoạt động cho công chúng.

– Tổ chức: Kết quả hoạt động tuyên truyền và cổ động của báo chí được phản ánh trong việc hình thành ý thức và tự ý thức ở công chúng, trong việc giáo dục ý thức, trong việc định hướng toàn diện, sâu sắc và đúng đắn (khoa học). Đó là bước đi đầu tiên, quan trọng của công tác tổ chức. Nó tạo điều kiện quan trọng và cần thiết cho tính tích cực trong các hoạt động xã hội của công chúng để chuyển sang bước thứ hai: tập hợp và hướng dẫn hoạt động của công chúng nhàm thực hiện những mục tiêu chung của xã hội trong từng giai đoạn xã hội cụ thể. Tuyên truyền, cổ động và tổ chức có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, đan xen trong nhau, là điều kiện và tiền đề của nhau khó có thể phân định rạch ròi. 2.2/ Chức năng quản lý, giám sát Bài báo làm ví dụ: Bài báo “Nứt đập thủy điện do sai sót tất cả các khâu” của nhà báo Trí Tín đăng trên tờ VnExpress ngày 22 tháng 3 năm 2012. Báo chí thực hiện chức năng quản lý xã hội bằng việc cung cấp và duy trì dòng thông tin tuần hoàn trong cơ thể xã hội theo cả 2 chiều. Một mặt, với khả năng nhanh chóng, kịp thời, chính xác và rộng khắp, báo chí (gồm tất cả các loại hình: báo in; phát thanh; truyền hình; báo mạng điện tử) là những phương tiện có ưu thế tuyệt đối trong việc chuyển đến khách thể quản lý những thông tin dưới dạng các quyết định quản lý. Mặt khác, báo chí phản ánh thực trạng tình hình không chỉ của đối tượng quản lý một cách đa dạng, phong phú, chính xác và kịp thời … tới xã hội, tới chủ thể quản lý,

giúp cho chủ thể quản lý có thêm những nguồn thông tin để soạn thảo và tổ chức thực hiện các quyết định quản lý. Với đặc điểm của hoạt động thông tin, báo chí có tác động trực tiếp tới từng bộ phận cấu thành của hệ thống xã hội, tời toàn xã hội. Nhưng sự tác động như vậy cũng có thể diễn ra theo 2 hướng: – Nếu báo chí phục vụ cho mục tiêu tiến bộ, thông tin báo chí chân thực và đúng đắn thì báo chí sẽ tác động tới các quá trình xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển. – Nếu báo chí phục vụ cho những mục tiêu vụ lợi thì báo chí sẽ làm rối loạn hệ thống quản lý, sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội. Bởi lẽ thông tin tự thân nó không thể thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của xã hội mà chỉ có thể thông qua những người chịu sự tác động của thông tin, và họ thể hiện sự tác động đó trong hành vi của mình, trong kỹ thuật và công nghệ mới, trong những hình thức quản lý mới đối với sản xuất, xã hội, tổ chức lao động … 2.3/ Chức năng khai sáng, giải trí Bài báo “Lê Văn Tuấn với thể loại âm nhạc mới: CROR” của tác gỉa Thanh Kiều trên tờ Thể Thao & Văn Hóa ngày 19 tháng 7 năm 2010. Sự phát triển rộng khắp của các loại hình báo chí là tiền đề quan trọng để cung cấp thông tin, nâng cao trình độ hiểu biết, văn hóa của công chúng, đồng thời thông qua báo chí xã hội hóa, đại chúng hóa những giá trị văn hóa tinh thần của nhân dân, giúp cho mọi thành viên trong xã hội có điều kiện bổ sung vốn tri thức, làm phong phú thêm đời sống tinh thần … của mình. Đây chính là điều kiện, là phương tiện để con người phát triển một cách toàn diện – mục đích cao cả của chế độ, mơ ước ngàn đời của nhân loại.

việc viết một tác phẩm báo chí mà còn có thể đưa người đọc đến việc hiểu sai lệch vấn đề, thậm chí nắm bắt hoàn toàn sai thông tin. Ví dụ như tờ báo mạng chúng tôi chúng tôi chúng tôi 2sao.net.vn… Tất nhiên không phải bài báo nào của những tờ này cũng phạm phải những điều nêu trên nhưng càng ngày, những bài báo có chất lượng kém càng xuất hiện nhiều trên các tờ báo này. Để giải quyết các hạn chế, tiêu cực này, nhà nước cần có các chế tài xử phạt nghiêm ngặt hơn, các điều lệ trong Luật báo chí chặt chẽ hơn với những tờ báo, nhà báo viết các bài viết có chất lượng quá kém, làm sai lệch thông tin, ảnh hưởng xấu tới bộ mặt nền báo chí nói chung của Việt Nam. 3.2/ Tích cực

Ngôn Ngữ Báo Chí Là Gì? Tính Chất Của Ngôn Ngữ Báo Chí

Việc làm Báo chí – Truyền hình

Ngôn ngữ báo chí là cách viết của người làm báo, với cách viết ngắn gọn, súc tích thể hiện những thông tin mà người làm báo muốn truyền tải đến người đọc, trong đó ngôn ngữ báo chí chính là công cụ truyền thông điệp chính và cơ bản nhất, như vậy có thể thấy ngôn ngữ báo chí là một phần của sự phát triển ngôn ngữ.

Ngôn ngữ báo chí là gì

Trong lĩnh vực báo chí ngôn ngữ báo chí có vai trò và chức năng vô cùng quan trọng trong việc truyền tải thông tin, là phương tiện để chạm đến trái tim người đọc, nó quyết định đến việc tác phẩm của bạn, dòng thông tin của bạn đưa cho người đọc hay – dở của một bài báo. Hiện nay có rất nhiều hình thức để truyền tải thông tin chúng ta có báo in sử dụng chữ viết, ngôn ngữ để truyền tải thông tin, để đưa thông tin cho động giá và tác động trực tiếp đến tác giả. Báo chí phản ánh hiện thực thông tin. Báo chí phản ánh hiện thực thông qua việc đề cấp các sự kiện, không có sự kiện thì không có tin tức báo chí được đưa ra cho người đọc hàng ngày, do đó nét đặc trưng nhất của báo chí chính là tính sự kiện.

2. Tính chất của ngôn ngữ báo chí

2.1. Ngôn ngữ báo chí phải chính xác

Ngôn ngữ điều đầu tiên phải đảm bảo tính chính xác. Đặc biệt đối với ngôn ngữ báo chí, tính chất này vô cùng quan trọng, vì báo chí là việc đưa thông tin đến cho người đọc, báo chí định hướng dư luận xã hội, chính vì vậy những thông tin đưa lên báo phải chính xác, nguồn thông tin đưa lên báo phải có căn cứ, được kiểm tra trước khi đăng, chỉ cần một sơ suất nhỏ nhất là ngôn từ cũng có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho người đọc, đặc biệt hướng dư luận đi theo chiều hướng không đúng hướng của sự vật sự việc. Chỉ cần bạn sử dụng sai ngôn từ cũng dẫn đến độc giá hiểu sai thông tin, Trong tiếng việt có rất nhiều nghĩa, thanh âm đa dạng chính vì vậy mà việc sử dụng sai sẽ dẫn đến ý nghĩa câu nói sai, đi xa sự thật. Để tránh những sai lầm đáng tiếc có thể xảy ra bạn nên phải thực hiện ít nhất 2 yêu cầu, và đặc biệt với những nhà báo thì hai yêu cầu này phải thực sự giỏi đó chính là phải giỏi tiếng mẹ đẻ, cụ thể là nắm vững ngữ pháp, có hiểu biết về ngữ nghĩa của từ tiếng mẹ đẻ, có vốn từ rộng, thành thạo về ngữ âm và nghĩa của từ, hiểu về phong cách diễn biến của từng từ khi đặt vào câu và bối cảnh của câu để độc giả hiểu đúng ý nhà báo.

Thứ hai phải bám sát các sự kiện có thực và nguyên dạng để phản ánh khoogn tưởng tượng, không phóng đại sự thật hoặc không thêm bớt sự thật, đó là hai yêu cầu có quan hệ qua lại và mật thiết với nhau. Nếu một nhà báo mà giỏi ngôn ngữ, có cách diễn đạt ý tốt nhưng xa đối với thực tế không bám sát và sự kiện thì bài báo đó cũng rỗng tuếch không ý nghĩa. Cái tác giả cần là thực tế của sự kiện chứ không phải những ngôn từ hoa lá cành mà thông tin đưa vào bài thì không có thì bài báo cũng bị coi là thất bại. Nhưng với những bài báo có thông tin của sự vật sự việc nhưng lại không biết dùng ngôn từ để diễn đạt, không thể truyền tải hết thông tin của tác giả thì bài báo đó cũng không đạt được hiệu quả cao.

Việc sử dụng ngôn ngữ báo chí trong tác phẩm một cách chính xác nhà báo không chỉ đạt hiệu quả giao tiếp cáo mà còn giúp cho việc giữ gìn tiếng viết, phát triển tiếng viết một cách trong sáng mang bản sắc dân tộc, để sau này khi lớp trẻ lớn lên chúng tự hào về ngôn ngữ mẹ đẻ, Chính vì vậy mà những người làm báo cần phải sử dụng ngôn ngữ báo chí thật chính xác để mang lại nhiều lợi cho xã hội.

2.2. Tính cụ thể của ngôn ngữ báo chí

Tính cụ thể của ngôn ngữ báo chí được thể hiện mạnh ở mảng nhà báo miêu tả, tưởng thuận phải cụ thể, tỉ mỉ, dùng câu văn của mình để thể hiện sự vật sự việc một cách chân thực nhất, phải cặn kẽ trong từng chi tiết nhỏ, có như vậy người đọc mới có thể hình dung hết được sự vật sự việc, đã có nhiều tác phẩm nổi tiếng đã thể hiện được tính cụ thể của ngôn ngữ báo chí, từ những miêu tả của nhà báo mà người đọc hình dung tưởng tượng được mọi sự việc đang diễn ra, có thể nói tác giả đã sử dụng rất tốt tính cụ thể của ngôn ngữ báo chí.

Tính chất của ngôn ngữ báo chí

2.3. Tính đại chúng của ngôn ngữ báo chí

Báo chí là phương tiện truyền thông tin đại chúng, chính vì vậy mà tất cả các đối tượng trong cuộc sống, tất cả mọi người trong xã hội không phụ thuộc và trình độ học vấn, lứa tuổi, giới tính, địa vị xã hội….tất cả đều là đối tượng để báo trí hướng tới. Chính vì vậy mà ngôn ngữ báo chí phải là ngôn ngữ quốc dân, dùng những từ ngữ dành cho tất cả mọi người, vì báo chí một khi phát hành sẽ phục vụ tất cả mọi người trên mọi miền của đất nước chính vì vậy mà không được dùng ngôn ngữ địa phương. Với những bài báo dùng những từ ngữ không có tính đại chúng chỉ phục vụ một số đối tượng hạn hẹp thì báo chí ở đây đã mất đi chức năng tác động đến mọi tầng lớp trong xã hội. Chính đây là lý do vì sao báo chí ít khi sử dụng những từ ngữ địa phương hay sử dụng từ chuyên ngành, tiếng lóng để thể hiện nội dung.

2.4. Tính ngắn gọn của ngôn ngữ báo chí

Ngắn gọn và đủ ý là một trong những yếu tố quan trọng trong ngôn ngữ báo chí, với những bài báo dài dòng diễn đạt ý không chuẩn khiến người đọc nhàm chán, không đủ kiên trì để có thể đọc hết bài bào để hiểu hết thông tin thi đó là một bài báo thất bại trong việc truyền tải ý, vì nó không đáp ứng được tính kịp thời và nhanh chóng. Việc trình bày dài dòng trong báo chí sẽ khiến người trình bày mắc nhiều lỗi hơn, nhất là những lỗi về sử dụng ngôn ngữ. Việc đưa các thông tin lên báo cũng có quy định về số lượng từ ngữ, giới hạn về một khoảng không gian và diện tích, chính vì vậy mà việc ngắn gọn xúc tích rất cần thiết cho ngôn ngữ báo. Bạn nên lựa chọn và sắp xếp các thành tố ngôn ngữ cần kỹ lưỡng, hợp lý, đủ ý và không vượt quá số lượng giới hạn đã được quy định trước.

Hiện nay tính ngắn gọn của ngôn ngữ báo chí được thực hiện khá nghiêm túc đã có nhiều tờ báo quy định số lượng từ được đưa lên báo, Với những bài không đặt trước thì biên tập viên tự cân đối điều chỉnh thông tin để phù hợp.

Với tính định lượng của ngôn ngữ báo chí giúp ích rất nhiều cho nhà báo, nó giúp nhà báo chủ động việc trình bày nội dung tác phẩm, chủ động sáng tạo nội dung, nhờ đó họ có thể dễ dàng viết và đăng trong tất cả các trường hợp khi có khách hàng yêu cầu đặt bài.

2.5. Tính biểu cảm của ngôn ngữ báo chí

Tính biểu cảm của ngôn ngữ báo chí được xem là một trong những tính chất quan trọng, trong ngôn ngữ báo chí gắn liền với việc sử dụng các từ ngữ, lỗi nói mới lạ, sử dụng những từ ngữ có tính biểu cảm cao, giàu hình ảnh, đậm dấu ấn cá nhân, và dó đó sinh động và hấp dẫn ít nhất cũng gây được ấn tượng với độc giả.

Sự biểu cảm của ngôn ngữ báo chí vô cùng đa dạng và phong phú, chúng thể hiện sự vật sự việc qua những câu tư trừu tượng, những câu tục ngữ ca dao, những câu tượng hình… tất cả đều được sử dụng một cách bàn bản và thuận lợi, là sự vay mượn các hình ảnh từ ngữ, với những thú chơi chữ, gieo vần đã làm nên sự đặc biệt của ngôn ngữ báo chí, tính biểu cảm tương đối cao.

Với những bài báo không sử dụng tính biểu cảm của ngôn ngữ báo chí sẽ dẫn đến hiện tượng khô khan, bài viết không có hồn. Tính biểu cảm được thể hiện bởi tính hay, tình cảm mà người viết muốn truyền tải đến người đọc, làm cho họ đạt tới một trạng thái tâm lý cảm xúc nhất định, để từ đó đưa những thông tin mà người viết vẫn chờ đợi.

Tính biểu cảm của ngôn ngữ báo chí

2.6. Tính khuôn mẫu của ngôn ngữ báo chí

Ngôn ngữ báo chí cũng cần phải có khuôn mẫu và định hướng, không thể viết theo sở thích và viết vô tổ chức chính vì vậy mà cần phải có khuôn mẫu trong báo chí, khuôn mẫu bao giờ cũng đơn nghĩa và mang sắc thái biểu cảm trung tính, chẳng hạn trong văn phong báo chí khi viết các mẫu tin người viết thường sử dụng những khuôn mẫu như.

Ngôn ngữ sự kiện là linh hồn của ngôn ngữ báo chí, có ngôn ngữ sự kiện thì báo mới có hồn. Bởi nó là nền tảng cho sự tồn tại của ngôn ngữ báo chí và là trung tâm của ngôn ngữ báo chí.

Ngôn ngữ của độ không xác định là một dạng thức phát triển của ngôn ngữ sự kiện vì nó dựa trên sự vận động của sự kiện mà hình thành.

Ngôn ngữ định lượng thực chất là sự phát sinh, sự cụ thể hóa của ngôn ngữ sự kiện. Chính vì đòi hỏi phản ánh cụ thể, chân xác về sự kiện có thật và nguyên dạng đã dẫn đến việc đòi hỏi phải coi trọng số lượng.