Cấu Tạo Phù Hợp Với Chức Năng Của Hồng Cầu / Top 8 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Cấu Tạo Và Chức Năng Hồng Cầu

Hồng cầu chiếm hơn 99% trong các thành phần hữu hình của máu. Ở động vật như cá, lưỡng cư, bò sát, chim, hồng cầu hình bầu dục có nhân; ở đa số thú khác hồng cầu dạng hình đĩa lõm hai mặt và không có nhân như hồng cầu của người. Hồng cầu trưởng thành, lưu thông trong máu là tế bào không có nhân. Ở người trong điều kiện tự nhiên, hồng cầu có hình đĩa hai mặt lõm, đường kính 7-8 μm, bề dày phần ngoại vi 2-2,5 μm và phần trung tâm 1 μm, thể tích trung bình 90-95 μm3. Hình dạng này có hai lợi điểm như sau:

+ Tăng diện tích bề mặt tiếp xúc làm tăng khả năng khuếch tán khí thêm 30% so với hồng cầu cùng thể tích mà có dạng hình cầu.

+ Làm cho hồng cầu trở nên cực kỳ mềm dẻo, có thể đi qua các mao mạch hẹp mà không gây tổn thương mao mạch cũng như bản thân hồng cầu.

Cấu trúc của hồng cầu đặc biệt thích ứng với chức năng vận chuyển khí oxy.

Thành phần chung của hồng cầu gồm: nước 63-67%, chất khô 33-37% trong đó: prôtêin 28%; các chất có nitơ 0,2%, ure 0,02%, glucid 0,075%, lipid và lecithin, cholesterol 0,3%.

Thành phần chính của hồng cầu là hemoglobin (Hb), chiếm 34% trọng lượng (nồng độ 34 g/dl). Cấu trúc của hồng cầu đặc biệt với nhiều thành phần khác nhau. Hai thành phần quan trọng nhất của hồng cầu được nghiên cứu nhiều đó là màng hồng cầu và hemoglobin. Màng hồng cầu mang nhiều kháng nguyên nhóm máu. Hemoglobin là thành phần quan trọng trong sự vận chuyển khí của máu.

Ở các loài động vật khác nhau, số lượng hồng cầu khác nhau.

Ở người bình thường, số lượng hồng cầu trong máu ngoại vi là:

– Nam : 5.400.000 ± 300.000 /mm3

– Nữ : 4.700.000 ± 300.000/mm3

Số lượng hồng cầu thay đổi trong các điều kiện cụ thể. Tăng chút ít sau bữa ăn, vào mùa lạnh, khi lao động nặng, khi mất mồ hôi hoặc ở độ cao hơn 700mm so với mặt biển. Ở trẻ sơ sinh, số lượng hồng cầu cao trong vòng một hai tuần đầu, sau đó có hiện tượng vỡ hồng cầu gây vàng da sinh lý. Số lượng hồng cầu giảm khi uống nước nhiều, cuối kỳ kinh nguyệt của phụ nữ, ở các trạng thái bệnh lý như xuất huyết, bệnh thiếu máu.

3. Ðộ bền thẩm thấu của màng hồng cầu và tốc độ lắng hồng cầu

– Ðộ bền thẩm thấu của màng hồng cầu Màng hồng cầu là một màng bán thấm. Nước có thể qua màng hồng cầu khi áp suất thẩm thấu bên trong và bền ngoài hồng cầu khác nhau. Người ta xác định sức bền hồng cầu bằng dung dịch muối NaCl nhược trương có nồng độ khác nhau (phương pháp Hamberger).

Hồng cầu trong dung dịch muối NaCl nhược trương bị trương to lên và vỡ ra do nước từ dung dịch muối vào trong hồng cầu. Khi hồng cầu vỡ, hemoglobin giải phóng vào dung dịch và làm cho nó có màu hồng. Một số hồng cầu vỡ trong dung dịch muối NaCl nhược trương 0,44%. Nồng độ muối NaCl 0,44% được gọi là sức bền tối thiểu của hồng cầu. Toàn bộ hồng cầu vỡ hết trong dung dịch NaCl nhược trương 0,34%. Nồng độ muối NaCl 0,34% được gọi là sức bền tối đa của hồng cầu. Hồng cầu có thể bền trong dung dịch nước sinh lý 0,9% NaCl.

Ðộ bền hồng cầu tăng sau khi cắt lách và giảm trong bệnh vàng da huyết tán.

Máu được chống đông đặt trên ống nghiệm, hồng cầu lắng xuống dưới, huyết tương nổi lên trên. Vì tỷ trọng của hồng cầu (1,097) cao hơn tỷ trọng của huyết tương (1,028). Khi có quá trình viêm nhiễm diễn ra trong cơ thể làm hàm lượng các prôtêin thay đổi, cân bằng điện tích prôtêin huyết tương thay đổi, điện tích màng hồng cầu cũng bị biến đổi theo, hồng cầu dễ dính lại với nhau hơn và làm cho nó lắng nhanh hơn. Như vậy tốc độ lắng máu càng cao thì quá trình viêm đang diễn ra trong cơ thể càng mạnh. Chỉ số tốc độ lắng hồng cầu là chiều cao cột huyết tương tính bằng milimét (mm) trong 1 giờ, 2 giờ và 24 giờ.

Hemoglobin còn gọi huyết sắc tố, đó là chromo prôtêin gồm hai thành phần là nhân heme và globin (hình 2.2).

Heme là một sắc tố đỏ. Mỗi heme gồm một vòng porphyrin và một ion Fe ++ chính giữa. Porphyrin là phổ biến trong thế giới sinh vật. Porphyrin kết hợp với Mg++ tạo thành chất diệp lục của thực vật. Một phân tử hemoglobin có bốn nhân heme, chiếm 5%. Hem có thể kết hợp với nhiều chất khác nhau. Nếu hem kết hợp với globin thì tạo thành Hb.

Nếu kết hợp với albumin, NH3, pyridin, nicotin… tạo nên chất gọi là hemochromogen. Hem phản ứng với NaCl trong môi trường acid tạo ra cloruahem (hemin). Phản ứng này được sử dụng trong pháp y.

Globin là một prôtêin gồm bốn chuỗi polypeptid giống nhau từng đôi một. Hemoglobin người bình thường là HbA gồm hai chuỗi α và hai chuỗi β. Hemoglobin thời kỳ bào thai là HbF gồm hai chuỗi α và hai chuỗi γ.

Sự bất thường của các chuỗi globin sẽ làm thay đổi đặc điểm sinh lý của phân tử Hb. Ví dụ, trong bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm, acid amin valin thay thế cho glutamic tại một vị trí trong mỗi chuỗi β làm HbA trở thành HbS.

Nồng độ hemoglobin của người bình thường là:

Nam : 13,5-18 g/100ml (g%); Nữ : 12-16 g/100ml (g%)

Trẻ em : 14-20 g/100ml (g%)

Ở một số loài động vật hàm lượng Hb như sau: lợn 10,6 g%; bò cái 11,0 g%; ngựa 13,6 g%. Ở động vật Hb chứa sắt giống nhau khoảng 0,33%. Cứ 1 nguyên tử gam sắt kết hợp được tối đa 1 phân tử gam O 2. Lượng O 2 này đủ cho nhu cầu hoạt động bình thường cảu cơ thể.

– Chức năng vận chuyển khí

Hồng cầu vận chuyển oxy từ phổi đến tổ chức nhờ phản ứng sau :

Trong đó oxy được gắn lỏng lẻo với ion Fe++. Ðây là phản ứng thuận nghịch, chiều phản ứng do phân áp oxy quyết định. Trong phân tử Hb, oxy không bị ion hoá mà nó được vận chuyển dưới dạng phân tử O 2. HbO 2 có màu đỏ tươi đặc trưng cho máu động mạch.

* Khi hít phải không khí nhiều CO (carbon monoxide), hemoglobin sẽ kết hợp CO để tạo ra carboxyhemoglobin theo phản ứng :

Ái lực của Hb đối với CO gấp 210 lần đối với oxy, vì vậy một khi đã kết hợp với CO thì Hb không còn khả năng vận chuyển oxy nữa.

Dấu hiệu đầu tiên là da đỏ sáng, bệnh nhân rơi vào trạng thái kích thích, rồi buồn ngủ, hôn mê và tử vong.

Khí CO thường được sinh ra khi đốt cháy nhiên liệu không hoàn toàn. Ðiều trị bằng cách đưa bệnh nhân ra khỏi môi trường nhiều CO, đồng thời cho thở oxy phân áp cao để tái tạo lại oxyhemoglobin. Lượng CO trong không khí là chỉ số đo mức độ ô nhiễm môi trường.

* Khi máu tiếp xúc với những thuốc hoặc hoá chất có tính oxy hoá, ion Fe++ trong nhân heme chuyển thành Fe+++ và hemoglobin trở thành methemoglobin không còn khả năng vận chuyển oxy. Methemoglobin khi hiện diện trong máu nhiều sẽ gây triệu chứng xanh tím. Tình trạng này xảy ra khi ngộ độc một số dẫn chất của anilin, sulfonamide, phenacetin, nitroglycerin, nitrate trong thực phẩm …

+ Vận chuyển khí carbonic

Hồng cầu vận chuyển CO2 từ tổ chức về phổi theo phản ứng sau:

CO 2 được gắn với nhóm NH 2 của globin. Ðây cũng là phản ứng thuận nghịch, chiều phản ứng do phân áp CO 2 quyết định. HbCO 2 có màu đỏ thẫm, đặc trưng cho máu tĩnh mạch. Chỉ khoảng 20% CO 2 được vận chuyển dưới hình thức này, còn lại là do muối kiềm của huyết tương vận chuyển.

– Hemoglobin có tính chất đệm. Hệ đệm hemoglobin là một trong các hệ đệm quan trọng của máu, đó là hệ đệm HHb/KHb và hệ đệm HHbCO 2/KHbO 2.

Ðời sống trung bình của hồng cầu trong máu ngoại vi là 120 ngày. Theo thời gian, màng hồng cầu sẽ mất dần tính mềm dẻo và cuối cùng hồng cầu sẽ vỡ khi đi qua các mao mạch nhỏ của lách. Hemoglobin phóng thích ra từ hồng cầu vỡ sẽ bị thực bào bởi các đại thực bào cố định của gan, lách và tuỷ xương.

Ðại thực bào sẽ giải phóng sắt vào máu. Sắt này cùng với sắt từ thức ăn do ruột non hấp thu, được vận chuyển dưới dạng transferrin đến tuỷ xương để tạo hồng cầu mới, hoặc đến gan và các mô khác để dự trữ dưới dạng ferritin và hemosiderin.

Phần porphyrin của heme sẽ được chuyển hoá qua nhiều giai đoạn trong đại thực bào để tạo thành sắc tố bilirubin, chất này được giải phóng vào máu, đến gan rồi bài tiết vào mật. Sự chuyển hoá của bilirubin sẽ được nghiên cứu kỹ trong chương tiêu hoá.

Ngoài ra phần globin của hemoglobin được chuyển hoá như các prôtêin khác trong cơ thể tạo thành các acid amin, sau đó được sử dụng để tổng hợp các prôtêin cho cơ thể. Theo GT Sinh lí ĐV và người

Cấu Tạo Ruột Non Người Phù Hợp Với Chức Năng Hấp Thụ Dinh Đưỡng

Chúng ta đã biết ruột non không chỉ là nơi tiến hành biến đổi () chủ yếu thức ăn về mặt hóa học ( tiêu hóa hóa học) thành những hợp chất dinh dưỡng đơn giản mà còn là nơi diẽn ra quá trình hấp thụ các sản phẩm đó nên dặc điểm cấu tạo của ruột thể hiện sự thích nghi cao độ với chức năng này.

Ruột tuy là đoạn dài nhất trong ống tiêu hóa nhưng cũng chỉ dài khoảng 3m, đường kính của ruột non khoản 2,5cm. Nhưng bề mặt hấp thụ thì rất lớn, vì trong lớp niêm mạc ruột có nhiều nếp gấp chạy vòng, cao đến 10mm nằm suốt từ tá tràng đến giữa đoạn hồi tràng. Các nếp gấp này làm tăng bề mặt hấp thụ của ruột và là cho dưỡng chấp chuyển vận chậm, vừa đi vừa được trộn đều với dịch tiêu hóa ở ruột phối hợp với sự co bóp của các lớp cơ dọc và cơ vòng thành ruột, giúp cho sự biến đổi hóa học của thức ăn được triệt để, tạp điều kiện cho hấp thụ được dễ dàng.

Niêm mạch ruột ngoài có nếp gấp, trên bề mặt còn nổi lên các lông ruột xếp sít nhau tư như một tấm thảm nhung với các sợi lông cao 0,5 – 1mm. Thảm lông này dày nhất ở tá tràng và giảm dần khi chuyển xuống hồi tràng. Trong mỗi lông ruột có một mạng mao mạch máu bao quanh một mao mạch bạch huyết, tham gia vào sự tiếp nhận các chất hấp thụ (sản phẩm của quá trình tiêu hóa).

Các lông ruột được bao quanh bằng một lớp tế bào biểu bì xếp sít nhau, gồm hai loại:

Tế bào biểu bì trụ là tế bào hấp thụ.

Tế bào tiết chất nhầy nằm xen kẽ.

Các tế bào hấp thụ của lông ruột, trên đỉnh hướng về ống ruột các các lông cực nhỏ cao khoảng 1μm (micrômet) như lông bàn chải.

Nhờ ba cấp độ cấu trúc nêu trên của nêm mạch ruột ( nếp gấp nêm mạc ruột, lông ruột và lông cực nhỏ) đã làm cho bề mặt hấp thụ các sản phẩm tiêu hóa của ruột người nói riêng và các động vật nói chung tăng lên rất nhiều.

Chuyên Đề Phân Tích Cấu Tạo Phù Hợp Với Chức Năng Của Tim Và Hệ Mạch Ở Người

CHUYÊN ĐỀ: PHÂN TÍCH CẤU TẠO PHÙ HỢP VỚI CHỨC NĂNG CỦA TIM VÀ HỆ MẠCH Ở NGƯỜI Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong – Nam Định I. PHẦN MỞ ĐẦU Chuyển hóa vật chất và năng lượng ở từng đơn vị cấu trúc và chức năng của cơ thể, tế bào là mặt bản chất của sự sống và được thể hiện thông qua trao đổi chất thường xuyên với môi trường ngoài nhờ sự tham gia của các hệ cơ quan trong cơ thể. Trong đó, hệ tuần hoàn đống vai trò rất quan trọng, nó cho phép dòng máu phân phối oxigen và các chất dinh dưỡng, đồng thời loại bỏ các chất thải trên khắp cơ thể. Một hệ tuần hoàn gồm ba thành phần cơ bản là dịch tuần hoàn, hệ thống các mạch máu được ví như những “ống nối” và một bơm cơ là quả tim. Tim tạo sự tuần hoàn nhờ sử dụng năng lượng chuyển hóa để làm tăng áp suất thủy tĩnh của dịch tuần hoàn, dịch này sau đó chảy qua một vòng các mạch máu và trở về tim. Tim và hệ thống mạch máu có cấu tạo hoàn toàn phù hợp để thực hiện được chức năng đó. Trong quá trình giảng dạy chương chuyển hóa vật chất và năng lượng ở động vật, việc phân tích chỉ rõ cấu tạo phù hợp với chức năng là một trong những mục tiêu kiến thức và kĩ năng quan trọng mà học sinh giỏi cần đạt được. Các tài liệu về sinh lí động vật đều có đề cập đến vấn đề này nhưng chỉ dừng lại ở việc trình bày cấu tạo và chức năng của tim, hệ mạch chứ chưa phân tích một cách đầy đủ, hệ thống sự phù hợp giữa cấu tạo và chức năng của chúng. Bên cạnh đó trong các đề thi học sinh giỏi đều rất chú trọng đến vấn đề này Do đó chúng tôi lựa chọn viết chuyên đề “phân tích cấu tạo phù hợp với chức năng của tim và hệ mạch ở người”. Rất mong nhận được sự góp ý tận tình của các bạn đồng nghiệp để chuyên đề hoàn thiện hơn II. NỘI DUNG A/ Cấu tạo phù hợp với chức năng của tim 1/ Chức năng của tim: Tim có chức năng như một cái bơm hút và đẩy máu chảy trong hệ tuần hoàn. Tim là động lực chính vận chuyển máu trong hệ tuần hoàn 2/ Cấu tạo phù hợp với chức năng của tim a/ Cấu tạo tim * Tim là một túi cơ rỗng có vách ngăn chia thành hai nửa riêng biệt là nửa phải và nửa trái. Mỗi nửa tim có hai ngăn: một tâm nhĩ ở trên và một tâm thất ở dưới. Thành tim gồm ba lớp. Ngoài cùng là màng liên kết, ở giữa là lớp cơ dày, trong cùng là lớp nội mô gồm các tế bào dẹt. + Thành tâm nhĩ mỏng hơn nhiều so với thành tâm thất, vì nhiệm vụ chủ yếu của nó là thu nhận máu và co bóp để đẩy máu xuống tâm thất. Còn tâm thất có nhiệm vụ tống máu vào phổi đi nuôi cơ thể.

+ Thành của hai tâm thất cũng không hoàn toàn giống nhau. Thành tâm thất trái dày hơn thành của tâm thất phải vì áp lực cần thiết để tống máu chảy trong vòng tuần hoàn nhỏ (khoảng 30 mmHg) nhỏ hơn rất nhiều so với áp lực tống máu vào vòng tuần hoàn lớn (khoảng 12 mmHg) Hệ thống van tim cấu tạo cũng rất phù hợp với chức năng tạo áp lực cho dòng máu và giúp máu di chuyển một chiều + Giữa tâm nhĩ và tâm thất có van nhĩ thất đảm bảo cho máu chỉ chảy một chiều từ tâm nhĩ xuống tâm thất. Giữa tâm nhĩ phải và tâm thất phải là van ba lá. Giữa tâm nhĩ trái và tâm thất trái là van hai lá. Van hai lá chắc chắn hơn van ba lá, phù hợp với lực co bóp mạnh của tâm thất trái. + Ngoài ra, giữa các tâm thất và động mạch chủ, động mạch phổi còn có van thất động (van bán nguyệt hoặc van tổ chim). + Chất bao ngoài van tim có bản chất là mucoprotein. + Van tim có cấu tạo bởi mô liên kết, không có mạch máu, một đầu gắn cố định vào mấu lồi cơ ở thành trong của tâm thất bằng các dây chằng, một đầu gắn với bờ ngăn tâm nhĩ với tâm thất của tim * Tim được bao bọc bởi màng tim ( màng bao tim). Trong màng có một ít dịch giúp giảm ma sát khi tim co bóp * Tim có hệ thống các mạch máu cung cấp oxi và các chất dinh dưỡng đến nuôi các tế bào cơ tim b/ Cấu tạo của tế bào cơ tim Mô cơ tim được biệt hóa một cách rất đặc biệt để phù hợp với chức năng co bóp của tim và chiếm gần 50% khối lượng của tim. + Cơ tim vừa có tính chất của cơ vân, vừa có tính chất của cơ trơn. Các sợi cơ tim cũng có những vân ngang như sợi cơ vân, ngoài ra nhân không nằm ở gần màng mà nằm ở giữa sợi cơ. + Sợi cơ tim ngắn (dài 50-100μm, đường kính 10-20μm) phân nhánh, dày để chịu được áp lực cao khi bơm máu. + Ngoài ra trong sợi cơ tim có rất nhiều ti thể để cung cấp đủ năng lượng cho sợi cơ khi hoạt động. Đặc biệt trong sợi cơ tim có Mioglobin để dự trữ oxi. + Mạng cơ tương kém phát triển so với cơ xương. Các ống ngang T lớn hơn ở cơ xương và lấy ion Canxi bổ sung ở ngoại bào khi bị kích thích. Các sợi cơ tim được nối với nhau bởi các đĩa nối cách nhau chỉ khoảng 2 nm tạo thành một khối hợp bào. + Tại đây điện trở của màng rất thấp nên hưng phấn có thể truyền qua dễ dàng từ sợi cơ này sang sợi cơ khác. Vì vậy khi một tế bào cơ tim hưng phấn thì sóng hưng phấn nhanh chóng truyền đến toàn bộ các sợi cơ của tim.

+ Ở giữa là lớp cơ trơn có cơ vòng ở ngoài, cơ dọc ở trong và các sợi đàn hồi. Số lượng sợi đàn hồi ở các động mạch lớn nhiều hơn các tiểu động mạch, do đó các động mạch lớn ở gần tim có tính đàn hồi cao hơn so với các động mạch ở xa tim + Trong cùng là lớp nội mô gồm các tế bào dẹt gắn trên màng liên kết mỏng làm cho lòng động mạch trơn, nhẵn giúp giảm ma sát với dòng máu đồng thời có tác dụng làm cho tiểu cầu không thể bám vào thành mạch tránh gây ra đông máu – Động mạch lớn có tính đàn hồi cao hơn động mạch nhỏ do có nhiều sợi đàn hồi, ít sợi cơ trơn. Điều này làm cho máu chảy liên tục trong hệ mạch – Động mạch nhỏ có tính co thắt cao hơn động mạch lớn do có ít sợi đàn hồi, nhiều sợi cơ trơn. Diều này giúp cho động mạch nhỏ có khả năng điều hòa lượng máu đến mao mạch – Lòng động mạch thường nhỏ hơn lòng các tĩnh mạch tương đương do đó tốc độ máu chảy trong động mạch nhanh hơn b/ Cấu tạo phù hợp với chức năng của tĩnh mạch – Lòng tĩnh mạch bao giờ cũng rộng hơn lòng của động mạch tương đương nên tốc độ dòng máu trong tĩnh mạch chậm hơn trong động mạch và lượng máu chứa trong hệ thống tĩnh mạch nhiều hơn lượng máu chứa trong hệ thống động mạch, chiếm khoảng 70-85% tổng số máu của cơ thể – Thành tĩnh mạch cũng có cấu tạo tương tự như thành động mạch nhưng mỏng hơn. Điểm khác nhau cơ bản giữa tĩnh mạch và động mạch là lớp giữa của động mạch rất dày còn lớp giữa của tĩnh mạch có cấu tạo rất đơn sơ, mỏng mảnh nên hấu như không có khả năng co bóp và khả năng đàn hồi cũng rất kém. Với cấu tạo lòng mạch rộng và thành mạch mỏng giúp tĩnh mạch thu hồi máu dễ dàng – Trong lòng các tĩnh mạch lớn mà máu chảy ngược chiều trọng lực có các van tổ chim bám vào thành tĩnh mạch. Các van này ngăn cản không cho máu chảy ngược trở lại, đảm bảo cho máu chảy một chiều từ tĩnh mạch về tim c/ Cấu tạo phù hợp với chức năng của mao mạch – Đây là những mạch máu nhỏ nhất, dài khoảng 0,3 mm và lòng của chúng hẹp đến mức chỉ vừa đủ để cho một hồng cầu đi qua nên mắt thường không nhìn thấy được. Đường kính trung bình khoảng 8 μm. – Thành mỏng (chỉ dày 0,2 μm) chỉ được cấu tạo bởi một lớp tế bào biểu bì dẹt xếp không khít nhau. Trên thành mao mạch có nhiều lỗ nhỏ và các túi ẩm bào nên quá trình trao đổi chất có thể diễn ra rất dễ dàng. Thành mao mạch như một màng thấm chọn lọc các chất. – Do có tổng tiết diện lớn nhất nên tốc độ máu chảy qua mao mạch là chậm nhất (0,5 mm/giây) thuận lợi cho trao đổi chất ở mao mạch diễn ra được hiệu quả.Tùy mức độ trao đổi chất của từng cơ quan mà số lượng, hình dáng, kích thước mao mạch có sự khác nhau. Ví dụ số mao mạch trên 1mm2 trong cơ tim nhiều hơn trong cơ vân 2 lần

Dạng câu hỏi trắc nghiệm:

Câu 1: Tăng áp lực trong tâm thất của tim ở động vật có vú dẫn đến việc: A. đóng tất cả các van tim

B. đóng các van bán nguyệt

C. mở van hai là và ba lá

D. mở các van bán nguyệt

Câu 2:Sau khi luyện tập thể dục thể thao mọt cách tích cực, huyết tương của máu chảy trong loại mạch nào sau đây sẽ chứa nhiều ion bicacbonat nhất? A. Tĩnh mạch phổi

B. Tĩnh mạch chủ

C. Động mạch cửa gan

D. Động mạch thận

Câu 3: Từ tâm nhĩ phải sang tâm thát phải của tim, máu phải đi qua A. van động mạch phổi

B. van 3 lá

C. van 2 lá

D. van động mạch chủ

Câu 4: Sợi đàn hồi trong thành động mạch chủ có tác dụng: A. điều hòa dung lượng máu chảy trong mạch B. làm cho dòng máu chảy liên tục C. làm cho máu chảy mạnh và nhanh hơn D. làm tăng huyết áp khi tim bơm máu vào động mạch Câu 5: Cơ tim không co cứng vì nó có: A. hệ dẫn truyền tự động

B. thời gian trơ tuyệt đối dài

C. xi náp điện

D. hô hấp hiếu khí

Câu 6: Thành của mạch máu nào chỉ có một lớp tế bào? A. Động mạch lớn

B. Động mạch nhỏ

C. Tĩnh mạch

D. Mao mạch

Câu 7: Trong các câu sau, câu nào sai Bình thường trong cơ thể, máu chảy theo chiều: A. từ tĩnh mạch về tâm nhĩ

B. từ tâm nhĩ xuống tâm thất

C. từ tâm thất vào động mạch

D. từ động mạch về tâm nhĩ

Câu 8: Máu chảy trong động mạch nhờ yếu tố nào? A. Sức đẩy của tim

B. Tác dụng của trọng lực

C. Sức hút của lồng ngực

D. Tác dụng của các van tổ chim

Câu 9: Cơ tim có đặc điểm nào? A. Nguyên sinh chất có vân ngang

B. Nhân nằm giữa sợi cơ

C. Giữa các sợi cơ có cầu nối

D. Cả ba đặc điểm trên

Câu 10: Các số đo sau đây thu được từ một bệnh nhân nam: Nhịp tim = 70 lần/phút Tĩnh mạch phổi chứa 0,24 ml O2/ml Động mạch phổi chứa 0,16 ml O2/ml Lượng oxi tiêu thụ bởi toàn cơ thể = 500 ml/phút Lưu lượng máu do tim bệnh nhân đó tạo ra là bao nhiêu? A. 1,65 lít/phút

B. 4,55 lít/phút

C. 5,0 lít/phút

D. 6,25 lít/phút

Dạng câu hỏi tự luận

Câu 1. Nêu định nghĩa và nguyên nhân của mạch đập? Đáp án: Định nghĩa và nguyên nhân của mạch đập: + Mạch đập : áp lực của máu tác động không đều lên thành động mạch + Nguyên nhân: Do hoạt động bơm máu của tim và sự đàn hồi của thành động mạch (tim co mạch dãn, tim dãn mạch co lại….) Quá trình co dãn của thành mạch tạo thành làn sóng qua các phần mạch khác nhau. Câu 2. Trình bày cấu tạo của cơ tim phù hợp với chức năng ? Đáp án a. Cơ tim có cấu tạo giống cơ vân nên co bóp khoẻ  đẩy máu vào động mạch. – Mô cơ tim là mô được biệt hoá, bao gồm các tế bào cơ tim phân nhánh và nối với nhau bởi các đĩa nối tạo nên 1 mạng lưới liên kết với nhau dày đặc  xung thần kinh truyền qua tế bào nhanh, làm cho tim hoạt động theo quy luật “tất cả hoặc không có gì”. – Các tế bào cơ tim có giai đoạn trơ tuyệt đối dài đảm bảo cho các tế bào cơ tim có 1 giai đoạn nghỉ nhất định để hồi sức co cho nhịp co tiếp theo  làm cho tim hoạt động suốt đời.

– Trong tế bào cơ tim có sắc tố miôglôbin có khả năng dự trữ O 2 cung cấp cho hoạt động của tim khi lượng O2 do máu cung cấp bị thiếu. Câu 3: Sóng mạch là gì ? Vì sao sóng mạch chỉ có ở động mạch mà không có ở tĩnh mạch? Đáp án: – Sóng mạch: nhờ thành động mạch có tính đàn hồi và sự co dãn của gốc chủ động mạch (mỗi khi tâm thất co tống máu vào) sẽ được truyền đi dưới dạng sóng gọi là sóng mạch. – Sóng mạch còn gọi là mạch đập, phản ánh đúng hoạt động của tim. Sóng mạch chỉ có ở động mạch mà không có ở tĩnh mạch vì động mạch có nhiều sợi đàn hồi còn tĩnh mạch thì ít sợi đàn hồi hơn Câu 4: Giải thích tại sao huyết áp ở mao mạch phổi rất thấp (khoảng 10mmHg) nhỏ hơn huyết áp ở mao mạch các mô khác Đáp án: – Do cấu tạo thành tâm thất trái dày hơn thành tâm thất phải – Lượng máu bơm ra từ 2 tâm thất là như nhau – Thành động mạch chủ dày hơn thành động mach phổi – Áp lực cần thiết giữ cho máu chảy trong vòng tuần hoàn phổi khoảng 30 mmHg trong khi đó trong vòng tuần hoàn lớn khoảng 120 mmHg Câu 5: Người bị hẹp van nhĩ thất (van nhĩ thất mở không hết cỡ) hoặc hở van nhĩ thất (van nhĩ thất đóng không kín) thì thể tích tâm thu và nhịp tim có thay đổi không? Giải thích? Đáp án: Người bị hẹp van nhĩ thất (van nhĩ thất mở không hết cỡ) hoặc hở van nhĩ thất (van nhĩ thất đóng không kín) thì thể tích tâm thu và nhịp tim thay đổi, cụ thể: – Hẹp van nhĩ thất làm cho lượng máu từ tâm nhĩ xuống tâm thất ít đi, kết quả làm cho máu bơm lên động mạch mỗi lần giảm. Hở van nhĩ thất làm cho lượng máu từ tâm thất bơm lên động mạch ít đi làm thể tích tâm thu giảm vì khi tim co một phần máu từ tâm thất qua van nhĩ thất trở lại tâm nhĩ. – Thể tích tâm thu giảm nên nhịp tim sẽ tăng lên đảm bảo đưa đủ máu đến các cơ quan, duy trì hoạt động của cơ thể Câu 6: a. Ở người khi van nhĩ thất hở ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động tuần hoàn. b. Đặc điểm của thành và lòng tĩnh mạch, ý nghĩa của đặc điểm đó. Đáp án: a. Van nhĩ thất là van giữa tâm nhĩ và tâm thất . nếu van bị hở khi tim co bóp van này sẽ đóng không chặt một lượng máu nhỏ trở lên tâm nhĩ. Áp lực tim yếu làm áp lực máu lên động mạch yếu, lưu lượng ít huyết áp giảm, vận tốc máu chậm

b. Thành tĩnh mạch mỏng, hẹp, lòng rộng  Giúp máu dồn từ các cơ quan về đủ thời gian và dễ dàng hơn Câu 7: a. So với người bình thường, khi nghỉ ngơi vận động viên thể thao có nhịp tim và lưu lượng tim như thế nào? Tại sao? b. Động mạch của người không có van nhưng tĩnh mạch lại có van, giải thích tại sao? Đáp án a. Nhịp tim giảm, lưu lượng tim vẫn như bình thường Giải thích: Cơ tim của vận động viên khỏe hơn nên thể tích tâm thu tăng. Nhờ thể tích tâm thu tăng nên nhịp tim giảm đi vẫn đảm bảo được lưu lượng tim, đảm bảo lượng máu cung cấp cho các cơ quan b. Tĩnh mạch phần dưới cơ thể có van:do huyết áp trong tĩnh mạch thâp, máu có xu hướng rơi xuống phía dưới. Van tĩnh mạch ngăn không cho máu xuống phía dưới, chỉ cho máu đi theo một chiều về phía tim. Huyết áp trong động mạch cao làm cho máu chảy trong mạch nên không cần van Câu 8: a. Nêu đặc điểm của mao mạch phù hợp với chức năng của chúng? Giải thích tại sao bình thường ở người chỉ có chừng 5% tổng số mao mạch là luôn có máu chảy qua? b. Tại sao nút nhĩ – thất làm chậm sự truyền đạt xung điện từ nút xoang nhĩ tới các tâm thất lại là vấn đề quan trọng Đáp án: a. Đặc điểm: + Mao mạch có đường kính rất nhỏ đủ chỉ để cho các tế bào hồng cầu di chuyển theo một hang nhằm tối đa hóa việc trao đổi các chất với dịch mô. + Mao mạch chỉ được cấu tạo tử 1 lớp tế bào không xếp sít nhau nhằm giúp cho 1 số chất cần thiết và bạch cầu có thể dễ ra vào mao mạch nhằm thực hiện chức năng vận chuyển các chất và bảo vệ cơ thể. Giải thích: Số lượng mao mạch trong các cơ quan là rất lớn nhưng chỉ cần khoảng 5% số mao mạch có máu lưu thông là đủ, số còn lại có tác dụng điều tiết lượng máu đến các cơ quan khác nhau theo các nhu cầu sinh lý của cơ thể nhờ cơ vòng ở đầu các động mạch máu nhỏ trước khi tới mao mạch b. Xung chậm khoảng 0,1 giây trước khi lan tỏa tiếp tới thành tâm thất. Sự chậm lại này cho phép tâm nhĩ tống hết máu hoàn toàn trước khi tâm thất co Câu 9: Hãy giải thích tại sao hai nửa quả tim của người có cấu tạo không giống nhau ở các buồng tim làm mất sự đối xứng ?

Đáp án Cấu tạo của hai nửa quả tim không đối xứng do: + Vòng tuần hoàn nhỏ xuất phát từ tâm thất phải đến hai lá phổi rồi trở về tâm nhĩ trái của tim. + Đoạn đường này tương đối ngắn nên áp lực đẩy máu của tâm thất phải không cao chỉ khoảng 30mmHg, do đó thành tâm thất phải tương đối mỏng. + Vòng tuần hoàn lớn xuất phát từ tâm thất trái đến tất cả các cơ quan trong cơ thể. + Đoạn đường này dài, cần 1 áp lực đẩy máu rất cao của tâm thất trái (khoảng 120mmHg), do đó thành tâm thất rất dày + Do cấu tạo không cân xứng giữa hai nửa quả tim, nhất là giữa hai tâm thất nên khi tâm thất phải co làm cho tim vặn sang bên trái, hiện tượng này làm mất sự cân xứng giữa hai nửa tim. Câu 10: Động mạch có những đặc tính sinh lý giúp nó thực hiện tốt nhiêm vụ của mình ? Đáp án – Tính đàn hồi: Động mạch đàn hồi, dãn rộng ra khi tim co đẩy máu vào động mạch. Động mạch co lại khi tim dãn + Khi tim co đẩy máu vào động mạch, tạo cho động mạch 1 thế năng. Khi tim dãn, nhờ tính đàn hồi động mạch co lại, thế năng của động mạch chuyển thành động năng đẩy máu chảy tiếp + Nhờ tính đàn hồi của động mạch mà máu chảy trong mạch thành dòng liên tục mặc dù tim chỉ bơm máu vào động mạch thành từng đợt + Động mạch lớn có tính đàn hồi cao hơn động mạch nhỏ do thành mạch có nhiều sợi đàn hồi hơn -Tính co thắt: Là khả năng co lại của mạch máu + Khi động mạch co thắt, lòng mạch hẹp lại làm giảm lượng máu đi qua. Nhờ đặc tính này mà mạch máu có thể thay đổi tiết diện, điều hòa được lượng máu đến các cơ quan + Động mạch nhỏ có nhiều sợi cơ trơn ở thành mạch nên có tính co thắt cao Câu 11: a.Cấu tạo của tim ảnh hưởng như thế nào đến chất lượng máu đi nuôi cơ thể? b.Ở người, tim của một thai nhi có một lỗ giữa tâm thất trái và tâm thất phải. Trong một số trường hợp lỗ này không khép kín hoàn toàn trước khi sinh. Nếu lỗ này đã không được phẫu thuật sửa lại thì nó ảnh hưởng tới nồng độ O2 máu đi vào tuần hoàn hệ thống của tim như thế nào? c. Nhân dân ta thường nói : ” Khớp đớp tim”. Em hãy giải thích cơ sở khoa học của câu nói trên. Đáp án a.. Cấu tạo của tim ảnh hưởng đến chất lượng máu: tim 3 ngăn ở lưỡng cư  máu pha nhiều, tim 3 ngăn một vách hụt ở bò sát  máu pha ít, tim 4 ngăn ở chim và thú  máu không pha.

Sinh Lý Máu: Hồng Cầu Có Cấu Tạo Và Chức Năng Như Thế Nào ?

Hồng cầu trưởng thành có dạng đĩa, hai mặt lõm bao quanh bởi một màng bán thấm, không có nhân, có đường kính khoảng 7,2mm, bề dày ở ngoại vi là 2,2mm, ở trung tâm là 1mm trong có các sợi xơ và một chất màu gọi là huyết cầu tố (Hemoglobin viết tắt là Hb)Thể tích một hồng cầu là 83mm3 (femtolit)

Các giảng viên tại Trường Trung cấp Y Khoa Pasteur chỉ ra rằng, tỷ lệ thành phần của hồng cầu bao gồm các thành phần sau:

Các thành phần

Nước 67,00%

Hemoglobin 28,00%

Lipid các loại (lecitin, cholesterol) 0,30%

Các chất khác có chứa nitơ (enzym, protein, glutation) 2,00%

Urê 0,02%

Các chất vô cơ (K+) 1,20%

Hồng cầu có một cấu trúc đặc biệt với nhiều thành phần khác nhau. Nó gồm một nền do protein và lipid tạo nên. Đa số lipid đều kết hợp với protein tạo thành lipoprotein. Trong nền còn có glucose, clorua, phosphat… Nền và màng chiếm 2 -5% trọng lượng hồng cầu. Giữa các mắt của nền có hemoglobin. Hai thành phần quan trọng nhất của hồng cầu được nghiên cứu nhiều đó là màng hồng cầu và hemoglobin. Màng hồng cầu mang nhiều kháng nguyên nhóm máu. Hemoglobin là thành phần quan trọng trong sự vận chuyển khí của máu

Sinh lý máu ở người trưởng thành, ở máu ngoại vi có 3,8 x 1012 hồng cầu/lít (đối với nữ) và 4,2 x1012 hồng cầu/lít (đối với nam). Trẻ mới sinh, ở ngày đầu số lượng hồng cầu rất cao (6,0 x1012 hồng cầu/lít). Sau đó, do hiện tượng tan máu, số lượng hồng cầu giảm dần. Trẻ em dưới 15 tuổi có số lượng hồng cầu thấp hơn người trưởng thành 0,1 – 0,2 x 1012 hồng cầu/lít. Số lượng hồng cầu ổn định ở tuổi trưởng thành.

Nguồn gốc và các giai đoạn phát triển của hồng cầu

Các tuần đầu của thai nhi hồng cầu có nhân được lá thai giữa sản xuất. Từ tháng thứ hai trở đi gan, lách, sau đó là hạch bạch huyết cũng sản xuất ra hồng cầu có nhân. Từ tháng thứ 5 của kỳ phát triển thai, tuỷ xương bắt đầu sản xuất hồng cầu và từ đó trở đi, tuỷ xương là nơi duy nhất sinh ra hồng cầu. Sau tuổi 20 các tuỷ xương dài bị mỡ hoá, còn tuỷ xương xốp như xương sống, xương sườn, xương ức, xương chậu sản xuất hồng cầu. Vì vậy tuổi già dễ bị thiếu máu hơn.

Tế bào tuỷ xương là tế bào gốc vạn năng có khả năng duy trì nguồn cung cấp tế bào gốc và phát triển thành tế bào gốc biệt hoá để tạo ra các dòng khác nhau của tế bào máu (theo thuyết một nguồn gốc). Tế bào gốc biệt hoá sinh ra hồng cầu được gọi là đơn vị tạo cụm của dòng hồng cầu: C.F.U.E (Colony forming unit erythrocyt).

Hệ thống enzym nội bào hồng cầu luôn luôn tổng hợp ATP từ glucose để duy trì tính đàn hồi của màng tế bào, duy trì vận chuyển ion qua màng, giữ cho sắt luôn luôn có hoá trị 2, đồng thời ngăn cản sự oxy hoá protein trong hồng cầu.

Một phần hồng cầu tự huỷ trong máu, còn đại bộ phận hồng cầu bị huỷ trong tổ chức võng – nội mô của lách, gan, tuỷ xương. Hemoglobin được giải phóng ra bị thực bào ngay bởi các đại thực bào lách, gan, tuỷ xương. Đại thực bào giải phóng sắt vào máu và nó được vận chuyển dưới dạng ferritin. Phần porphyrin của hem trong đại thực bào được chuyển thành sắc tố bilirubin giải phóng vào máu, rồi qua gan để bài tiết theo mật.

Các nguyên liệu cần thiết cho quá trình sinh hồng cầu

Như các bạn sinh viên Y Dược đều biết rằng để tạo thành hồng cầu, trong cơ thể có hai quá trình song song: sự tạo thành tế bào hồng cầu và sự tổng hợp hemoglobin. Đây là các quá trình rất phức tạp, đòi hỏi nhiều nguyên liệu như protein, cholin, thymidin, acid nicotinic, thiamin, pyridoxin, acid folic, vitamin B12, Fe++, nhiều enzym và chất xúc tác cho quá trình tổng hợp này.

Vitamin B12 và acid folic rất cần cho quá trình tổng hợp thymidintriphosphat, một trong các thành phần quan trọng của DNA. Thiếu vitamin B12 và acid folic sẽ làm giảm DNA, tế bào sẽ không phân chia và không trưởng thành được.Lúc này các nguyên hồng cầu trong tuỷ xương có kích thước lớn hơn bình thường, được gọi là nguyên bào khổng lồ. Tế bào to ra là vì lượng DNA không đủ nhưng lượng RNA lại tăng dần lên hơn bình thường, tế bào tăng tổng hợp hemoglobin hơn và các bào quan cũng nhiều hơn. Các hồng cầu trưởng thành sẽ có hình bầu dục không đều, màng mỏng hơn và đời sống sẽ ngắn hơn (chỉ bằng 1/3 – 1/2 thời gian của hồng cầu bình thường). Nhu cầu vitamin B12 là 1 – 3 mg/24h. Trong khi đó sự dự trữ vitamin B12 của gan có thể gấp 1000 lần nhu cầu của cơ thể trong một ngày.

Thành phần thứ 2, không kém phần quan trọng là sắt (Fe). Sắt được hấp thu theo đường tiêu hoá vào máu. Trong máu, sắt được kết hợp với một globulin là apotransferrin để tạo thành transferrin vận chuyển trong huyết tương con người.

Đặc tính duy nhất của transferrin là nó gắn rất mạnh với receptor màng tế bào nguyên hồng cầu. Trong tế bào, transferrin giải phóng sắt vào ty lạp thể. Tại đây diễn ra quá trình tổng hợp hem. Mỗi ngày một người trưởng thành cần 1mg Fe. Phụ nữ cần sắt nhiều gấp đôi so với nam giới vì bị mất máu qua máu kinh nguyệt. Sắt bị thải hàng ngày qua phân và mồ hôi.

Theo Y học lâm sàng thì khi cơ thể thừa sắt, gan giảm sản xuất apoferritin làm cho apoferritin trong máu và mật giảm và cũng làm giảm hấp thu sắt. Trong tình huống ăn quá nhiều sắt, sắt vào máu nhiều dẫn đến lắng đọng hemosiderin trong các tế bào võng – nội mô, gây độc hại cho tế bào này.

Sự điều hoà quá trình sinh hồng cầu

Các bạn sinh viên Y sĩ đa khoa, Điều dưỡng đa khoa, Bác sĩ đa khoa nên biết rằng, số lượng hồng cầu ở máu ngoại vi được điều hoà hằng định nhằm cung cấp đủ oxy cho tế bào hoạt động. Sự tăng trưởng và sinh sản của các tế bào gốc được kiểm soát bởi các protein kích thích tăng trưởng.

Erythropoietin do thận sản xuất ở dạng chưa hoạt động gọi là erythogenin. Nhờ kết hợp với một globulin (do gan sản xuất) erythogenin chuyển thành erythropoietin hoạt động. Erythropoietin có tác dụng: kích thích quá trình chuyển C.P.U.E thành tiền nguyên hồng cầu và kích thích chuyển nhanh các hồng cầu non thành hồng cầu trưởng thành.

Màng hồng cầu chính là một màng bán thấm. Nước có thể qua màng hồng cầu khi áp xuất thẩm thấu bên trong và bên ngoài hồng cầu khác nhau. Các nhà khoa học xác định sức bền hồng cầu bằng dung dịch muối NaCl nhược trương có nồng độ khác nhau từ 0,02% một ( phương pháp Hamberger).

ysidakhoa.net – Sưu tầm

Hồng cầu trong dung dịch muối NaCl nhược trương bị trương to lên và vỡ ra do nước từ dung dịch muối vào trong hồng cầu.Khi hồng cầu vỡ, hemoglobin giải phóng vào dung dịch và làm cho nó có màu hồng. Một số hồng cầu bắt đầu vỡ trong dung dịch muối NaCl nhược trương 0,44%. Nồng độ muối NaCl 0,44% được gọi là sức bền tối thiểu của hồng cầu. Toàn bộ hồng cầu vỡ hết trong dung dịch NaCl nhược trương 0,34%. Nồng độ muối NaCl 0,34% được gọi là sức bền tối đa của hồng cầu. Sức bền của hồng cầu giảm trong bệnh vàng da huỷ huyết, tăng lên sau cắt lách