Các Giải Pháp Nhằm Nâng Cao Chất Lượng Môn Toán / Top 8 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 4/2023 # Top View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Một Số Biện Pháp Nhằm Nâng Cao Chất Lượng Học Môn Toán 7

Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học môn toán 7A. PHẦN MỞ ĐẦU1) Lý do chọn đề tài:Năm học 2009- 2010 với quyết tâm thực hiện yêu cầu đổi mới nội dung phương pháp dạy và học của thầy và trò. Đảm bảo hướng dẫn và tích cực hoá hoạt động dạy và học, tạo sự chuyển biến thực sự về việc truyền đạt kiến thức và kĩ năng của chương trình học. Bản thân tôi luôn trăn trở làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy học môn Toán và làm cho các em yêu thích môn học này. Đó là lý do để tôi chọn đề tài khoa học này. B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨUI. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH:Trong những năm gần đây, tình hình học sinh học yếu môn Toán chiếm tỉ lệ khá cao. Các em cảm thấy chán nản khi học môn học này bởi nhiều lý do khác nhau. Đây là vấn đề mà hầu như các giáo viên giảng dạy bộ môn Toán đều quan tâm và trăn trở làm thế nào để chất lượng môn Toán được nâng lên và làm thế nào để các em yêu thích môn học này.Chúng ta đã biết môn Toán là một môn khoa học tự nhiên, để học tốt bộ môn này đòi hỏi các em không những chăm học mà cần phải biết tư duy sáng tạo. Do xã là một vùng có nền kinh tế tương đối khó khăn, cha mẹ các em chủ yếu làm nghề nông nên chưa có sự quan tâm, giúp đỡ các em trong việc học. Bên cạnh đó các em ngoài

việc học trên lớp thì về nhà các em phải phụ giúp gia đình trong công việc nhà như làm mộc, khảmø . . . vốn thời gian học của các em đã ít nay càng ít hơn. Nhưng khi các em đầu tư cho việc học của mình thì nguồn tài liệu giúp các em trong công việc học tập cũng còn nhiều hạn hẹp. Thầy cô, bạn bè ở xa nên có những vấn đề khó khăn trong việc học, những vấn đề các em chưa hiểu, chưa rõ các em lại càng không biết hỏi ai. Vốn đã học yếu nay lại càng học yếu hơn. Thực tế năm học chất lượng môn Toán ở khối 7 cụ thể như sau:II. TỒN TẠI VÀ NGUYÊN NHÂN:1. Tồn tại:– Học sinh đến lớp ít thuộc bài cũ và làm bài tập về nhà.– Trong giờ học trên lớp học sinh còn thụ động, ít tham gia các hoạt động lĩnh hội kiến thức.– Chất lượng môn Toán 7 của học sinh ở những năm học trước chưa cao, dẫn đến các môn học khác cũng có chất lượng thấp.– Đạo đức của học sinh ngày càng đi xuống, đặc biệt là trong thời gian gần đây. Vì vậy rèn luyện hạnh kiểm cho học sinh, dạy kiến thức nói chung và kiến thức toán học nói riêng là hai vấn đề có quan hệ tác động qua lại lẫn nhau trong quá trình giáo dục đào tạo.

Giải một bài toán, tiếp thu một kiến thức mới tức là học sinh đã trải qua các thao tác tư duy: phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, cụ thể hóa. Do đó trong quá trình học toán học sinh luôn luôn phải suy nghĩ để hành động tìm ra giải pháp nhằm giải quyết những vấn đề chiếm lĩnh kiến thức mới. Quá trình đó đã rèn luyện khả năng phát triển tư duy trí tuệ ở học sinh. Phải nói môn Toán là môn học đòi hỏi học sinh phải hoạt động, chịu khó suy nghĩ nhiều. Từ đó góp phần phát triển tư duy rất mạnh so với các môn học khác.Phần nhiều học sinh học tốt môn Toán thì học tốt các môn học khác. Bởi lẽ các em đã có những khả năng tư duy toán học thì cũng có thể đủ khả năng để hiểu các vấn đề khác. Qua môn Toán đã rèn lại cho các em những đức tính: Chịu khó, cẩn thận, tỉ mỉ, thận trọng, chính xác, suy luận chặt chẽ … có phương pháp làm việc khoa học, sắp xếp thứ tự hợp lý trước sau để giải quyết vấn đề. Đó là đặc trưng nổi bật của môn Toán trong nhà trường phổ thông.2. Rèn luyện hạnh kiểm cho học sinh, dạy kiến thức nói chung và kiến thức toán học nói riêng là hai vấn đề có quan hệ tác động qua lại lẫn nhau trong quá trình giáo dục đào tạo : Việc rèn luyện hạnh kiểm cho học sinh trong nhà trường cũng là một mặt quantrọng trong công tác giáo dục đào tạo, nó đi song đôi với việc dạy kiến thức cho học sinh. Hai mặt này có tác động qua lại, quan hệ với nhau trong quá trình học tập.Một học sinh có hạnh kiểm tốt tức là biết vâng lời thầy cô giáo, chăm chỉ học tập, biết học hỏi giúp đỡ bạn bè … Đó cũng là một trong những yếu tố cần thiết để giúp học sinh học tập tốt. Trái lại, một học sinh ít chịu nghe lời thầy cô giáo, không chăm chỉ trong học tập, không học hỏi ở bạn bè, trong lớp thường gây ồn ào mất trật tự sẽ ảnh hưởng xấu đến quá trình học tập tiến bộ của các em. Vì vậy hạnh kiểm cũng là một trong những điều kiện quan trọng để thúc đẩy quá trình học tập cho học sinh. Đó cũng

2Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học môn toán 7là một tác động mạnh mẽ để học sinh học tập tiến bộ, nắm kiến thức vững chắc. Đặc biệt, môn Toán cần có sự cố gắng liên tục từ đầu đến cuối để có nền tảng vững vàng học tập tốt các lớp sau này.Một học sinh đã học tốt những môn học nói chung và môn toán nói riêng, tức là học sinh đó đã nắm được các kiến thức tương đối chắc từ đó gây cho học sinh hứng thú trong học tập. Từ đó học sinh có thể tự nhận thức, nhận biết đượcviệc học là cần thiết, đôi khi trở thành nhu cầu tìm tòi, học hỏi. Đó cũng là một yếu tố tích cực để rèn luyện cho học sinh có hạnh kiểm tốt: Siêng năng, chăm chỉ, chịu khó và nghe lời thầy cô giáo.Từ các ý trên ta thấy việc dạy cho học sinh nắm vững chắc kiến thức toán học cũng là một trong những điều kiện quan trọng để rèn luyện hạnh kiểm học sinh trong nhà trường. Làm sao trong quá trình dạy học chúng ta không để cho học sinh có chiều hướng bị tụt hậu về kiến thức vì như vậy thường kéo theo tụt hậu về hạnh kiểm. Chúng ta, với tinh thần trách nhiệm của mình cố gắng giúp học sinh có chiều hướng phát triển liên tục, vững chắc. Từng bước trong quá trình dạy học cũng là đã rèn luyện hạnh kiểm đi song song trong quá trình học tập của từng đối tượng học sinh. Có như vậy mới đảm bảo tính giáo dục toàn diện trong nhà trường, đặc biệt là lứa tuổi học sinh THCS hình thành nhân cách các em vào giai đoạn ban đầu.3.Kế hoạch dạy ở lớp:Vấn đề dạy một tiết Toán đạt tốt, học sinh nắm vững kiến thức của một tiết học thì việc đầu tư vào một giáo án là không thể thiếu được trong quá trình dạy học. Do đặc điểm của môn Toán là một môn học rất gần gũi với thực tế đời sống nên người giáo viên phải linh hoạt, sáng tạo trong từng tiết dạy của mình để làm nổi rõ sự kết hợp, gắn bó của Toán học với cuộc sống hàng ngày. Ngôn ngữ phải dễ hiểu để học sinh dễ nhìn nhận, chiếm lĩnh tri thức mới. Với phương pháp dạy học mới hiện nay, chúng ta cần thiết kế một hệ thống câu hỏi logic, gợi mở từ câu đầu tiên đến câu cuối cùng để học sinh tự tìm kiếm ra kiến thức mới. Từ đó kiến thức mới sẽ được học sinh khắc sâu , nhớ lâu và sẽ gây hứng thú trong học tập.Dạy môn toán cần dạy cho học sinh nắm chắc các khái niệm, các qui ước, các ký hiệu, các tính chất … Nó là mấu chốt để học sinh khỏi mơ hồ, lẫn lộn giữa cái này với cái khác, có suy nghĩ lệch lạc, quan niệm tách rời xa với thực tế đời sống. Chẳng hạn, dạy về chu vi một hình, học sinh phải biết chu vi một hình là gì ? Tại sao hình vuông lại lấy (cạnh x 4) còn chu vi hình chữ nhật lại tính (dài + rộng )x2… Các vấn đề đó rất gần gũi với đời sống, nếu chúng ta không để ý tới thì đôi khi học sinh chỉ thực hành một cách máy móc, rập khuôn các công thức do vậy mau quên, kiến thức Toán học không được sâu sắc.Khi dạy Toán cần có đồ dùng dạy học trực quan, nếu có điều kiện cần phát huy mặt này. Chẳng hạn khi dạy bài ” Tính chất ba đường trung tuyến của tam giác ” từng học sinh phải có thước thẳng để học sinh nắm chắc cách đo, kích thước của mỗi đơn vị độ dài, một tam giác bằng giấy, mảnh giấy kẻ ô vuông; giáo viên cũng cần chuẩn bị các dụng cụ như: Thước thẳng, tam giác, giấy kẻ ô vuông… Khi dạy tiết thực hành ngoài trời xác định khoảng cách giữa hai địa điểm A và B trong đó có một địa điểm nhìn thấy nhưng không đến được, giáo viên phải chuẩn bị giác kế để học sinh biết giác kế là gì ? Đặt giác kế tại điểm A vạch theo đường xy vuông góc với AB tại A, ta phải đặt giác kế ra sao, dùng thước dây xác định E là trung điểm của AD trên mặt đất như thế nào ?…

3Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học môn toán 7Để tạo tình huống gây trí tò mò cho học sinh khi dạy chứng minh định lí ” Tổng các góc trong một tam giác bằng 1800“, giáo viên phải chuẩn bị thước đo góc và bảng phụ có vẽ sẵn các tam giác có nhiều hình dạng khác nhau. Vào đầu tiết học giáo viên cho lần lượt một số học sinh lên đo các góc của tam giác. Gợi ý cho các em phát hiện một điều thú vị là ” Tổng các góc trong một tam giác bằng 1800 “. Lúc này đặt vấn đề cần thiết chứng minh điều thú vị đó.Vì vậy đầu tư vào việc chuẩn bị đồ dùng trực quan cho một tiết dạy là hết sức cần thiết để học sinh hiểu được kiến thức một cách sâu sắc, sát với thực tế, hiểu được các kiến thức đó có được do đâu ? Dựa trên cơ sở nào ?… Còn rất nhiều các vấn đề khác nếu được đầu tư chu đáo sẽ tạo nên một tiết học hấp dẫn, dễ học và gây hứng thú cho học sinh trong học tập.Một vấn đề cần thiết nữa đặt ra là khi dạy một tiết học người giáo viên phải nắm bắt kịp thời số học sinh hiểu bài và chưa kịp hiểu bài. Từ đó có biện pháp giúp đỡ số học sinh chưa kịp hiểu bài. Sau mỗi tiết học đều phải có phần củng cố và luyện tập; bằng những câu hỏi trọng tâm, cơ bản tiết học người giáo viên phải quan sát từng đối tượng học sinh; chú ý đến học sinh yếu, cá biệt để nắm bắt tình hình tiếp nhận kiến thức trong nội dung bài học; bài luyện tập tại lớp cần được nâng dần từ dễ đến khó, từ những bài toán rất đơn giản đến phức tạp. Ngoài ra người giáo viên phải tính đến việc kiểm tra một lúc được nhiều học sinh; nhất là yêu cầu tối thiểu những nội dung cần đạt được. Chẳnghạn khi dạy bài ” Luỹ thừa của một số hữu tỉ” giáo viên phải đưa ra một số bài tập nâng cao dần như sau:Thực hiện các phép tính sau:a) 23 b) (- 5)3

µ µ0 080 ; 45A B= =Với bài tập này học sinh vận dụng trực tiếp định lí 1 và định lí 2 để giải: Bài tập 1: Áp dụng định lí 1, ta có: Trong:ABC AB BC AC∆ < <hay 2cm < 4cm < 5cm

⇒ AC < AB < BC Qua bài tập này giáo viên rút ra nhận xét cho học sinh thấy: Trong một tam giác nếu biết độ dài ba cạnh của tam giác thì ta có thể so sánh ba góc của tam giác đó và nếu biết số đo hai góc của một tam giác thì ta có thể so sánh ba cạnh của tam giác đó.Sau khi học sinh nắm được bài tập này, giáo viên cho một bài tập nâng cao hơn như sau:Ba bạn Hạnh, Nguyên, Trang đi đến trường theo ba con đường AD, BD, CD ( hình vẽ sau). Biết rằng ba điểm A, B, C cùng nằm trên một đường thẳng và ·ACD

là góc tù. Hỏi ai đi xa nhất, ai đi gần nhất ? Hãy giải thích ?5CBAMột số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học môn toán 7

Để giúp đỡ nhau trong học tập, học sinh khá giúp học sinh yếu, giáo viên có thể tạo ra các cặp học tập khá yếu. Trong những lúc rãnh rỗi, trong những giờ giải lao, kể cả ở nhà chỗ nào chưa hiểu bạn yếu có thể hỏi bạn khá. Khi đã tổ chức làm thì phải có những hình thức tuyên dương điển hình, khuyến khích thi đua với nhau, có kiểm tra việc tiến bộ của học sinh yếu với mục đích các em đều học được môn Toán và có phong trào học tập sôi nổi.Tóm lại trong quá trình dạy học sự nhiệt tình, chịu khó, tinh thần trách nhiệm của người giáo viên là đều không thể thiếu được để dạy nâng cao chất lượng học tập cho học sinh. Nhưng đó cũng chỉ là một mặt, là điều kiện cần nhưng chưa đủ để học sinh đạt chất lượng cao. Phải có sự kết hợp, vận dụng sáng tạo trong phương pháp dạy học nhất là phương pháp dạy học mới hiện nay. Người giáo viên cần chú ý trong từng trường hợp, từng đối tượng học sinh để học sinh tự lực của mình có điều kiện phát triển khả năng tư duy, chiếm lĩnh kiến thức.4.Kế hoạch ra bài tập về nhà:Môn Toán là môn học rất cần đến việc thực hành, luôn luôn phải có sự kết hợp với nhau giữa lý thuyết và thực hành. Qua thực hành mới củng cố được lý thuyết, khắc sâu kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán và phát triển tư duy. Ở phạm vi SGK sau mỗi bài học đều có một lượng bài tập để học sinh thực hành, luyện tập nhưng đôi khi còn ít, hệ thống bài tập chưa đủ cho học sinh yếu tập làm quen từ những bài tập rất dễ để từng bước nâng dần giải những bài tập khó hơn. Do đó trong từng tiết dạy người giáo viên có thể ra thêm bài tập tùy tình hình lớp học để học sinh có điều kiện tiếp xúc với khâu thực hành và nội dung bài tập phong phú hơn.Những số tiết cơ bản trong chương trình rất cần thiết. Vì vậy vấn đề luyện tập thật nhiều để học sinh nhớ lâu, củng cố lý thuyết được bền vững là rất cần thiết. Nếu khâu thực hành làm ít thì rõ ràng kiến thức chóng quên hơn, lí thuyết không được khắc sâu đậm nét. Chẳng hạn khi dạy cộng, trừ, nhân, chia số hữu tỉ ở học sinh lớp 7, cần có lượng bài tập thật nhiều để qua bài tập học sinh mới được khắc sâu kiến thức. Khi dạy học sinh mới giải toán hình, nếu học sinh ít giải bài tập, ngại thực hành

8Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học môn toán 7báo về gia đình kịp thời những sai sót, … của học sinh cho gia đình biết. Từ đó gia đình cho biết ý kiến, giáo viên mới dò theo ý đó mà xử lý phù hợp Tất cả những kế hoạch phối hợp nêu trên giúp chúng ta giáo dục các em một cách toàn diện. Phải có mối liên kết với nhau giữa tất cả các giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm và gia đình đó là phương pháp đánh bao vây vào một mục tiêu, chỉ có con đường bị tê liệt và hòa vào quỹ đạo. Buộc các em phải cố gắng vươn lên trong học tập bên cạnh đó có sự giúp đỡ của bạn bè, của thầy cô giáo, việc học trở thành rất cần thiết cho các em mang lại nhiều điều thú vị và bổ ích.IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:– Sau khi áp dụng chuyên đề này thì kết quả học kì I môn Toán khối 7 năm học 2009 – 2010 đạt kết quả như sau: Giỏi Khá Trung bình Yếu KémC. KẾT LUẬN

Trong tình hình chất lượng học sinh hiện nay tất cả các môn nói chung và môn Toán nói riêng, học sinh yếu kém càng ngày càng nở ra, học sinh khá giỏi càng ngay bị co lại. Là người giáo viên đứng trước tình hình đó phải trăn trở suy nghĩ tìm nguyên nhân chính, cơ bản dẫn đến kết quả nêu trên, để có biện pháp thích đáng, hữu hiệu, tìm ra giải pháp tối ưu nhất để nâng dần chất lượng, đảm bảo yêu cầu của cấp trên.Theo tôi nghĩ việc nâng cao chất lượng dạy học không thể chỉ xét đến một mặt nào đó mà phải nhìn trên quan điểm toàn cục, đồng bộ trên mọi mặt. Về phía giáo viên phải có sự nhiệt tình, phải có năng lực, phải có đầu tư cao cho từng tiết dạy. Về phía học sinh đã đi vào quỹ đạo nội quy, trật tự, kỉ cương của lớp học, của nhà trường hay chưa ? Một điều cần thiết trước tiên để dạy đạt chất lượng là phải xây dựng một tập thể lớp có tổ chức, có kỉ cương, tất cả các thành viên đều hoạt động theo quỹ đạo đó. Nếu một phần tử nào đó chưa hòa mình vào quỹ đạo kịp cũng buộc đầu quay theo quỹ đạo để trở thành một lớp học có nề nếp, im lặng, trật tự. Giáo viên vào lớp tự nhiên thấy hứng thú, hưng phấn, say mê trong công tác dạy học của mình.Trong thời gian tới bản thân sẽ cố gắng thực hiện đầy đủ, nhiều hơn nữa những gì đã trăn trở trước tình hình chất lượng môn Toán hiện nay. Làm sao các em đều học được môn Toán, môn Toán trở thành một môn học rất gần gũi với các em. Các em không ngại giải bài tập, xem đó là khâu thực hành cần thiết để giúp các em phát triển tư duy, trí tuệ, tính chịu khó, cần cù, làm đến nơi đến chốn không bỏ dở giữa chừng. Tính suy luận logic, chính xác, chặt chẽ là cơ hội để rèn luyện bản thân, rèn luyện nhân cách của con người bước vào tương lai đầy niềm tin và hy vọng. 9Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học môn toán 710

Một Số Biện Pháp Nhằm Nâng Cao Chất Lượng Dạy Học Môn Toán (Phần Giải Toán) Ở Tiểu Học

Như chúng ta đã biết giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên.

Môn toán là một môn học chiếm một vị trí rất quan trọng và then chốt trong nội dung chương trình các môn học bậc tiểu học .Các kiến thức kĩ năng của môn toán ở tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống, chúng rất cần cho người lao động, rất cần thiết để học các môn học khác ở tiểu học và các lớp trên. Môn toán giúp học sinh nhận biết các mối quan hệ về số lượng và hính dạng không gian của thế giới hiện thực .Nhờ đó mà học sinh có phương pháp nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh và biết cách hoạt động có hiệu quả trong đời sống. Môn toán góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề .Nó góp phần phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo, nó đóng góp vào việc hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng của người lao động như: cần cù, cẩn thận , có ý chí vượt khó khăn, làm việc có kế hoạch, có nề nếp và tác phong khoa học.

Xuất phát từ vị trí quan trọng của môn toán, qua thực tế giảng dạy và nghiên cứu nhiều năm ở tiểu học, để góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn toán đặc biệt nội dung giải toán có văn bản thân tôi đã đúc rút và tổng kết đ­­ược một số bài học kinh nghiệm sau đây . Mời các bạn cùng tham khảo. Thứ nhất: Những kinh nghiệm trong quá trình thực hiện chư­ơng trình và SGK. Những tiết học toán trong SGK là những tiết học rất quan trọng, nhằm cung cấp cho các em học sinh những yêu cầu cơ bản nhất mà chương trình đặt ra.Bằng hình ảnh trực quan sinh động và phư­­ơng pháp sư phạm của giáo viên, các em dần dần nắm chắc kiến thức, rèn luyện các kĩ năng,…. Việc nắm chắc kiến thức phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức ban đầu của học sinh. Giáo viên cần xuất phát từ những vấn đề rất cụ thể, chi tiết; học sinh phải nắm đ­­ược bản chất của vấn đề, các em phải có nền kiến thức đại trà vững chắc rồi mới đến ngọn là giải quyết các bài toán ở mức độ cao hơn. Để làm đ­ược điều đó giáo viên cần: – Tổ chức tốt các hoạt động học tập trong các tiết học để học sinh giải quyết tốt các bài tập trong sách giáo khoa. Học sinh phải hiểu sâu sắc vấn đề, nắm chắc kiến thức và vận dụng tốt vào thực hành.

– Thời lư­ợng dành cho thực hành, luyện tập trong mỗi tiết học chiếm từ 60%-70%, nên ta cần tận dụng đặc điểm này để tăng c­ường thực hành, giúp học sinh hình thành và phát triển các kĩ năng toán học, giải quyết về cơ bản các nhiệm vụ thực hành ngay trong các tiết toán tại lớp.

– Giáo viên cần giúp học sinh nắm chắc, thuộc lòng các quy tắc, các công thức tính mà SGK đã cung cấp. Có kĩ năng vận dụng công thức , quy tắc vào giải quyết các bài toán trong SGK phần thực hành.

– Giáo viên nên chuyển nội dung từng tiết dạy học toán thành các phiếu học tập hay phiếu thực hành (nếu có điều kiện) để phát huy tính chủ động và sáng tạo của HS, nêu cao hiệu quả và tăng năng suất học tập. Trong quá trình biên soạn các phiếu học tập, GVnên tích hợp nhiều nội dung giáo dục gắn với thực tế và gần gũi thu hút đ­ược hứng thú của HS, có thể sử dụng một số tranh ảnh, hình vẽ ngộ nghĩnh để minh hoạ cho các bài tập thêm sinh động, có thể thiết kế các bài tập dưới dạng bài tập trắc nghiệm, các trò chơi hay câu đố vui toán học mà không làm biến dạng nội dung cơ bản của môn toán, góp phần tăng thêm gia vị cho môn toán để các em tiếp thu bài tốt hơn.

– Khi HS đã hoàn thành tốt các bài tập trong SGK , GV cần dần từng b­ước hình thành ở các em cách suy luận sáng tạo, biết giải các bài toán đó theo các cách khác nhau. Thứ hai: Những kinh nghiệm trong việc sử dụng ph­ương pháp, hình thức tổ chức dạy học. Để chuyển tải đư­ợc những kiến thức khoa học tới cho học sinh, GV phải sử dụng các ph­ương pháp và hình thức tổ chức dạy học. Việc nắm bắt kiến thức của học sinh phụ thuộc rất nhiều vào cách thức và phư­ơng pháp giảng dạy của giáo viên.

Trong xu thế dạy học hiện nay, GV không còn là ngư­ời truyền thụ tri thức theo một chiều , học sinh thụ động tiếp thu và làm theo. Ng­ười GV cần căn cứ vào vốn sống, khả năng hiểu biết của HS để thiết kế các hoạt động nhằm giúp HS tự phát hiện và giải quyết vấn đề d­ưới sự trợ giúp của các bạn trong nhóm, trong lớp hay của GV. GV trở thành ng­ười thiết kế ngư­ời tổ chức h­ướng dẫn các hoạt động,.. còn HS là ngư­ời thi công, ng­ười trực tiếp hoạt động để tìm tòi kiến thức.

Trên cơ sở đó GV giúp các em biết tổng hợp để rút ra những nhận xét, những quy tắc hay những kết luận cần thiết. Khi giảng dạy các kiến thức mới, dạng toán mới GV cần chú ý các bư­ớc sau đây:

*Ph­ương pháp chung: Tự phát hiện – Tự giải quyết – Tự chiếm lĩnh

* Các b­ước cụ thể:

B­ước 1: Làm nảy sinh nhu cầu nhận thức của HS (Làm xuất hiện vấn đề và tạo cho học sinh có nhu cầu tìm hiểu vấn đề đó)

B­ước 2: Tổ chức các hoạt động học tập (theo cá nhân, theo nhóm hay cả lớp)

Bư­ớc 3: Hư­ớng dẫn học sinh trình bày ý kiến tr­ước nhóm, tr­ước lớp.

Bư­ớc 4: Hư­ớng dẫn học sinh nhận xét , đánh giá ,bổ sung.

B­ước 5: Giáo viên hệ thống, kết luận vấn đề, hư­ớng dẫn học sinh trình bày (GV chốt lại các vấn đề quan trọng)

B­ước 6: Tổ chức cho học sinh luyện tập, thực hành, rèn các kĩ năng.

* Lư­u ý: Để triển khai các b­ước trên một cách có hiệu quả cần có sự trợ giúp của các phư­ơng tiện và đồ dùng dạy học, do đó trong quá trình tổ chức các họat động học tập của HS giáo viên cần sử dụng các đồ dùng dạy học sao cho phù hợp và mang tính hiệu quả cao. PPDH ở tiểu học phải phát huy đ­ược tính tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo của HS, phù hợp với đặc tr­ưng môn học, đặc điểm đối t­ượng học sinh và điều kiện của lớp học . GV cần chủ động lựa chọn, vận dụng phối kết hợp các ph­ương pháp dạy học để phát huy hiệu quả cao nhất.

Thứ ba: Những bước tiếp theo sau khi học sinh đã biết cách giải một dạng toán. Mỗi bài Toán là sự kết hợp đa dạng của các khái niệm, các mối quan hệ toán học, đòi hỏi học sinh phải biết xác lập đ­ược các mối quan hệ giữa các dữ liệu của bài toán: Biết so sánh, phân tích, tổng hợp. Trên cơ sở đó, lựa chọn đ­ược cách giải quyết tốt nhất. Như­ chúng ta đã biết, đ­ường lối chung để hư­ớng dẫn học sinh giải một bài toán ở Tiểu học, thư­ờng gồm các bư­ớc như­: Nghiên cứu tìm hiểu bài toán, thiết lập quan hệ giữa các dữ liệu để tóm tắt bài toán, lập kế hoạch giải bài toán, trình bày bài giải và kiểm tra kết quả.Tuy nhiên, trong quá trình dạy học, nếu giáo viên chỉ dừng lại ở các b­ước trên thì coi nh­ư mới hoàn thành xong việc tổ chức hư­ớng dẫn cho học sinh giải một bài toán. Điều quan trọng là sau khi học sinh giải xong bài toán đó, giáo viên cần làm gì, cần khai thác những gì từ bài toán để một mặt củng cố được cách giải, một mặt phải phát huy hết khả năng tư­ duy, sự sáng tạo của học sinh khi học toán. Tôi xin đ­ưa ra một số kinh nghiệm sau đây:

– Nâng cao mức độ khó dễ của bài toán: Trên cơ sở học sinh đã nắm chắc, hay đã củng cố tốt đ­ược cách giải khái quát của bài toán, giáo viên cần nâng dần mức độ của bài toán đó nhằm kiểm tra khả năng vận dụng của các em vào các tình huống khác nhau nhằm rèn kỹ năng, kỹ xảo giải toán, gây hứng thú học tập và phát huy khả năng của từng em.

– Tìm nhiều cách giải khác nhau cho bài toán: Biện pháp này nhằm giúp học sinh có thể vận dụng các kiến thức đã học vào giải quyết bài toán theo các hư­ớng khác nhau.Trong chư­ơng trình tiểu học học sinh đã đ­ược trang bị một khối l­ượng khá lớn về các công cụ giải toán .

Trong mỗi bài toán có thể chứa đựng rất nhiều các cách giải khác nhau, nên thông qua mỗi bài toán đó GV có thể củng cố cho học sinh rất nhiều các ph­ương pháp giải toán đã học. Đối với HS tiểu học các em đã đ­ược làm quen với nhiều dạng toán cơ bản .

Từ việc vẽ sơ đồ cụ thể các em dễ dàng tìm ra đ­ược lời giải bài toán . Tuy nhiên không phải lúc nào cũng vẽ đ­ược sơ đồ của bài toán , do vậy việc biến đổi các bài toán để đưa về các dạng quen thuộc cũng là một ph­ương pháp rất đặc trư­ng trong dạy toán tiểu học.

– Tìm h­ướng giải quyết bài toán có nhiều khả năng xảy ra Biện pháp này bên cạnh giúp HS củng cố kĩ năng giải toán, phát triển tư­ duy, ở mức độ cao hơn còn đòi hỏi các em phải biết tìm tòi giải quyết tất cả các khả năng có thể xảy ra để tìm hết các đáp số của bài toán, biết loại trừ các khả năng không phù hợp.

– Giải quyết bài toán ng­ược với các bài toán đã giải: Khi giải xong một bài toán, nếu giáo viên đặt ra các bài toán ng­ược và yêu cầu học sinh tìm cách giải, sẽ có tác dụng rất tốt trong việc phát huy khả năng sáng tạo của các em trong việc vận dụng cách giải của bài toán vừa làm làm cơ sở để giải các bài toán ngư­ợc.

– Tổ chức cho học sinh lập đề toán theo sơ đồ tóm tắt cho sẵn rồi giải: Mục đích của hoạt động này là nhằm giúp học sinh căn cứ vào sơ đồ tóm tắt cho sẵn để nhận diện dạng toán cơ bản, để từ đó có thể tự lập một đề toán tư­ơng ứng với sơ đồ tóm tắt đó rồi tự trình bày bài giải. Với hoạt động này sẽ nhằm phát huy vốn sống, vốn hiểu biết và khả năng diễn đạt ngôn ngữ khi học toán của các em. Giúp các em biết lựa chọn và đ­ưa các vấn đề trong cuộc sống vào làm nền cho đề toán của mình.

– Tổ chức cho học sinh tìm dữ kiện còn thiếu hay các dữ kiện thừa trong các bài toán. Việc làm này không những củng cố , khắc sâu cách giải các dạng toán mà còn có tác dụng rất tốt trong việc phát triển t­ư duy cho học sinh. B­ước đầu hình thành ở các em cách t­ư duy của một nhà phát minh , nhà khoa học trong t­ương lai.

Thứ tư: Những kinh nghiệm trong việc mở rộng phát triển và nâng cao kiến thức . Việc mở rộng và nâng cao kiến thức phải trên cơ sở học sinh đã nắm chắc các kiến thức cơ bản.Biết sử dụng các kiến thức cơ bản một cách linh hoạt , sáng tạo.Biết kích thích, gợi mở để các em có nhu cầu vận dụng kiến thức đó.Có nh­ư vậy việc nâng cao kiến thức mới thực sự phát huy được hiệu quả cao.

– Khi phát triển , mở rộng và nâng cao kiến thức cho học sinh , giáo viên cần xuất phát từ các bài toán đơn giản , dễ hiểu.Qua mỗi bài, hay hệ thống bài ,giáo viên cần cho học sinh khái quát chung được cách giải. Giúp các em hiểu sâu , nhớ lâu và hình thành kĩ năng giải các bài toán đó.

– Cần khai thác triệt để các dạng toán quen thuộc ẩn chứa trong mỗi bài toán, giúp học sinh có kĩ năng biến đổi hay kĩ năng suy luận để đ­­ưa bài toán về dạng quen thuộc.Phát huy tối đa khả năng tìm tòi , sáng tạo của các em trư­­ớc mỗi bài toán. Hạn chế tối đa việc sử dụng phư­­ơng pháp đại số khô cứng.

– Khi học sinh đã nắm chắc cách giải thông thư­­ờng,giáo viên nên khuyến khích học sinh tìm nhiều cách giải khác, nhằm phát huy khả năng của các em,gây hứng thú học tập , học sinh học giỏi không mất thời gian chờ đợi những học sinh học kém hơn .

– GV cần thiết kế đư­ợc các bài tập phù hợp cho các đối t­ượng học sinh trong lớp, sao cho nội dung dạy học vừa sức , không bị quá tải song vẫn phát huy đ­ược khả năng sáng tạo và năng khiếu của học sinh.

Thứ năm: Những kinh nghiệm trong việc tổ chức kiểm tra đánh giá học sinh Đánh giá học sinh là một khâu rất quan trọng nhằm: Nắm đư­ợc năng lực tiếp thu bài của học sinh trong lớp để đặt ra yêu cầu học tập đối với từng học sinh : yêu cầu cao hơn đối với học sinh giỏi, yêu cầu ở mức độ cơ bản đối với học sinh trung bình và yếu. Thu thập thông tin phản hồi về cách dạy của GV để điều chỉnh sao cho phù hợp, bổ khuyết những điểm yếu của học sinh.Có nhiều phư­ơng pháp đánh giá kết quả học tập của học sinh , ph­ương pháp đánh giá nào cũng có ư­u điểm và như­ợc điểm, không có phương pháp nào là hoàn hảo mọi mặt, do đó không nên cực đoan đề cao hoặc bác bỏ một ph­ương pháp nào mà phải nghiên cứu chúng thấu đáo để sử dụng đúng lúc, đúng chỗ. Trong quá trình dạy học GV cần sử dụng nhiều phư­ơng pháp đánh giá một cách đa dạng như­:

– Sử dụng bài kiểm tra tự luận.Dạng bài kiểm tra này có rất nhiều ư­u điểm nên đ­ược sử dụng phổ biến. Để đ­ược điểm cao học sinh phải giải đư­ợc bài toán , đồng thời phải biết trình bày bài giải , nghĩa là các em phải thể hiện nhiều kĩ năng . Tuy nhiên dạng bài này cũng có những như­ợc điểm nhất định việc đánh giá phụ thuộc phần nào vào ý nghĩ chủ quan của GV, tốn nhiều thời gian cho việc chấm bài của GV, phạm vi kiến thức đ­ược kiểm tra không đ­ược nhiều.

– Sử dụng bài kiểm tra trắc nghiệm: Khác với các bài tập tự luận , khi trình bày bài giải đòi hỏi học sinh phải có sự lập luận chặt chẽ , câu trả lời và phép tính phải hợp lý, trình bày một cách lô gíc .Các bài tập trắc nghiệm chỉ đòi hỏi học sinh vận dụng các kiến thức đã học một cách sáng tạo và nhanh nhạy để tìm ra đáp số đúng ,đáp số sai hay bài giải đúng , bài giải sai .Giúp cho giáo viên trong một thời gian ngắn có thể kiểm tra đ­­ược nhiều kiến thức của học sinh. Chính vì vậy loại bài tập này rất thu hút sự nhiệt liệt h­­ưởng ứng của học sinh , nó là một hình thức thay đổi không khí giờ học toán và góp phần rất tốt trong việc tạo hứng thú học tập cho học sinh .

– GV cần sử dụng nhiều công cụ đánh giá khác nhau để có thể đánh giá đúng HS một cách khách quan:Kiểm tra vấn đáp, kiểm tra viết (Gồm kiểm tra ngắn, kiểm tra một tiết). Trong các bài kiểm tra viết cần kết hợp cả bài tập trắc nghiệm và bài tập tự luận, các bài tập cần sắp xếp theo thứ tự từ dễ đến khó và có đủ loại bài đại diện cho các kiến thức kĩ năng cơ bản nhất.

– GV cần vận dụng cách đánh giá theo nhiều chiều: GV đánh giá học sinh, học sinh đánh giá lẫn nhau và nêu cao ý thức tự đánh giá ở mỗi học sinh. Với những kinh nghiệm trên, sau nhiều năm vận dụng, tôi nhận thấy chất lượng dạy học môn toán (phần giải toán có văn) đã đạt được những thành tích đáng kể .

Học sinh nắm chắc kiến thức hơn, có hào hứng trong học tập, biết vận dụng các kiến thức một cách sáng tạo vào giải quyết các bài toán thực tế, tạo cho các em một sức bật mới trong nhận thức và hành động.

toantieuhoc.com sưu tầm

Kế Hoạch Nâng Cao Chất Lượng Môn Toán

PHÒNG GD&ĐT HỮU LŨNGTrường THCS Hòa Sơn

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMĐộc Lập – Tự do – Hạnh phúc

Hòa Sơn, ngày 25 tháng 9 năm 2010

KẾ HOẠCHNÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN TOÁN

Họ và tên: Từ Văn NghiêmTổ: Khoa học – Tự nhiênTrường THCS Hòa SơnHuyện Hữu Lũng-Tỉnh Lạng Sơn

I.Căn cứ xây dựng kế hoạch:– Công văn 659/PGD &ĐT-CM V/v tổ chức hội thảo ” Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông năm học 2010 – 2011 và giai đoạn 2010 – 2015″– Căn cứ vào kế hoạch chỉ đạo của BGH ngày: 16/9/2010V/v thực hiện công văn 659/PGD &ĐT-CM V/v tổ chức hội thảo ” Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông năm học 2010 – 2011 và giai đoạn 2010 – 2015″-Căn cứ vào kế hoạch chỉ đạo của tổ chuyên môn ngày 17/9/2010 V/v chỉ đạo của BGH16/9/2010V/v thực hiện công văn 659/PGD &ĐT-CM V/v tổ chức hội thảo ” Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông năm học 2010 – 2011 và giai đoạn 2010 – 2015″.-Căn cứ vào kết quả khảo sát chất lượng đầu năm.– Căn cứ vào nhiệm vụ được phân công.II. Thực trạng chất lượng giáo dục:Thực trạng:-Chất lượng giáo dục thấp, tỉ lệ HSKG chưa cao, trong những năm học gần đây không có HSG cấp huyện.-Tình trạng HS1Thuận lợi:-BGH có kế hoạch chỉ đạo sát sao,thông suốt từ tổ chuyên môn đến giáo viên.-Hầu hết giáo viên đạt trình độ chuẩn.-Trẻ khỏe, có năng lực ,tâm huyết với nghề, và có trình độ tin học.– Học sinh đi học đúng độ tuổi, được trang bị đầy đủ vở và SGK 2. Khó khăn:-Hầu hết HS xuất thân trong gia đình làm nghề nông cho nên các em chưa đầu tư thời gian vào việc học.-Phụ huynh HS chưa thực sự quan tâm đến việc học của con.-Nhận thức việc học tập của các em chưa đồng đều vì ý thức HS chưa cao.-Tình trạng HS bỏ học vẫn xảy ra thường xuyên3.Nguyên nhân:a.Về phía HS:-Quá lười học.-HS diễn đạt nghèo vốn từ.-Nhận thức chậm-Không ham đọc sách.-Chưa có kiến thức tổng hợp.-Chưa biết cách tự học, tiếp thu kiến thức một cách thụ động.-Sa vào các tệ nạn xã hội: Chát, game.– Thời gian để học sinh ôn luyện quá ngắn

b.Về phía giáo viên:

-Phương pháp giảng dạy của một số giáo viên chưa thực sự phù hợp với mọi đối tượng HS.– GV chưa đầu tư thời gian cho bài dạy. – Chưa tìm tài liệu phù hợp với đối tượng HS (Khi ôn luyện HSG), thời gian ôn luyện ngắn.– Chưa khai thác triệt để thiết bị dạy học.– GV còn trẻ nên chua có nhiều kinh nghiệm trong công tác giảng dạyc.Phân phối chương trình.– Chưa phù hợp, số tiết ôn tập cuối chương còn ít nên chất lượng bài kiểm tra chưa cao.d.Sách giáo khoa.-Bài tập vận dụng cuối mỗi bài học còn hạn chế.

III. Những mục tiêu, chỉ tiêu, biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục,nâng cao học sinh khá giỏi. 1. Mục tiêu: – Nâng cao chất lượng giáo dục, tỉ lệ học sinh khá giỏi, giảm tối đa học sinh yếu kém 2. Chỉ tiêu: * Môn to¸n 6:

Stt Số hsGiỏiKháTBYếuTừ TB trở lênSLTỉ lệSLTỉ lệSLTỉ lệSLTỉ lệSLTỉ lệ17245,62534,73041,61318,15981,9

3. Biện pháp nâng cao chất lượng giáo dụca.Về phía giáo viên.-GV tìm hiểu hs, phân loại hs .-Hướng dẫn hs cách tự học, quan tâm, lắng nghe thấu hiểu hs bằng tình thương của người thầy.-Phụ đạo HSYK, bồi dưỡng HSKG.-Tổ chuyên môn dự giờ trao đổi kinh nghiệm phương pháp dạy học tích cực, thống nhất phương pháp giảng dạy.Sinh hoạt theo cụm trường để học hỏi lẫn nhau.-Tích cực học hỏi để nâng cao trình

Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Môn Toán Ở Trường Thcs Vĩnh Thới

I. LÝ DO CHỌN CHUYÊN ĐỀ

-Tình trạng học sinh học yếu môn Toán ở cấp THCS đang là một thực tế đáng lo ngại và là nỗi băn khoăn,trăn trở của nhiều giáo viên dạy toán.

-Tuy cùng hưởng thụ một nội dung chương trình giáo dục giống nhau, nhưng mỗi học sinh đều có sự phát triển về thể chất và trí tuệ khác nhau,có điều kiện hoàn cảnh và sự quan tâm chăm sóc ở gia đình khác nhau, có động cơ và thái độ học tập khác nhau,môi trường giáo dục khác nhau thì năng lực học tập,khả năng tiếp thu kiến thức của mỗi học sinh cũng phải khác .

-Có nhiều nguyên nhân làm học sinh học yếu môn toán,song nguyên nhân chính là học sinh chưa có phương pháp học tập đúng đắn,có nhiều lỗ hổng về kiến thức,kĩ năng.Chính vì vậy, tình trạng học sinh học yếu môn toán ngày càng tăng và nguy hiểm hơn là sự kéo dài từ năm này sang năm khác làm cho các em ngày càng hổng kiến thức nhiều hơn.

-Tôi rất hiểu và thông cảm trước những khó khăn của các em nên Tôi thiết nghĩ cần phải nghiên cứu,tìm ra giải pháp khắc phục tình trạng trên mới có thể nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn, tạo cho học sinh niềm say mê học tập nhất là môn Toán. Chính vì vậy nên Tôi chọn chuyên đề: “Giải pháp nâng cao chất lượng môn Toán”

II. THỰC TRẠNG:

– Học sinh phần đông sợ bộ môn toán vì phải đối mặt với những công thức, những định lí khô khan.

-Học sinh ngại khó, thiếu kiên nhẫn trong quá trình học toán dẫn đến việc thường xuyên không học bài và làm bài tập ở nhà.

-Đa số học sinh chưa biết cách học môn toán như thế nào cho hiệu quả.

-Gia đình học sinh chưa quan tâm đúng mức đến con em mình.

-Đôi khi giáo viên cũng thiếu kiên nhẫn đối với học sinh học yếu.

Đối với bộ môn toán:

– Từ 5,0 điểm trở lên: 61 / 154 .Tỉ lệ: 39,61 % (giảm 24,2% so với năm học trước). Cụ thể:

9/1 : 37 / 39 (94,87%). Trong đó có 8 học sinh 10 điểm

9/2: 8 / 27 (29,63%)

9/3 : 5 / 31 (16,13%)

9/4: 6/ 28 (21,43%)

9/5: 5 / 29 (17,24%)

– Điểm bình quân môn toán là 4,78. Xếp hạng 10/12

– Điểm yếu, kém: 93/ 154. Tỉ lệ: 60,39 %. Trong đó yếu: 41 hs. Kém: 52 hs. Không có hs điểm 0

9/2: yếu: 12; kém: 7

9/3: yếu: 12; kém : 14

9/4: yếu: 8; kém: 14

9/5: yếu: 8; kém: 16

III. NGUYÊN NHÂN

– Nhận thức của phụ huynh về việc học của con em mình chưa cao, nuông chìu con, sợ con mình học mệt nên chưa động viên con mình trong vấn đề học tập

– Học sinh học yếu mất căn bản sinh ra chán nãn, thiếu kiên nhẫn nên buông xuôi không hợp tác tới đâu thì tới

– Một số học sinh do khả năng có hạn, học trước quên sau dẫn đến kiến thức bị hạn hẹp không đạt chuẩn quy định

– Học sinh có quá nhiều quyền nên dẫn đến ỉ lại, chưa thật sự coi trọng việc học

– Giáo viên cũng chưa mạnh dạn dùng hết những phương pháp để uốn nắn những học sinh cá biệt

IV. GiẢI PHÁP

1. GIẢI PHÁP TÂM LÝ – Để học sinh yêu thích môn học của mình,tôi đã tạo sự gần gũi với các em từ những tiết học đầu tiên,chú ý đến những học sinh có hoàn cảnh khó khăn,động viên các em bằng cách kể những gương học tập vượt khó mà các em có thể học tập.Luôn tạo cho các em niềm tin. -Có thể khiển trách khi các em chưa ngoan nhưng không quên dành lời khen khi các em có tiến bộ chút ít.– Việc đánh giá nhận xét học sinh phải công bằng,khách quan và công tâm,công khai kết quả sau các giờ kiểm tra,cần phải có nhận xét bài làm của học sinh.– Để bài giảng hay, tiết học của mình thêm sinh động tôi luôn tìm ra cách giảng gần gũi nhất, dễ hiểu nhất để học sinh có thể tiếp thu dễ dàng.

Ví dụ: Khi học bài “Tỉ số lượng giác” để học sinh dễ thuộc công thức:

Tôi dạy học sinh bài thơ: “Sin đi học (nghĩa là đối chia huyền)

Cosin không hư (nghĩa là kề chia huyền)

Tang đoàn kết (nghĩa là đối chia kề)

Cotang kết đoàn” (nghĩa là kề chia đối)

Học sinh vừa thuộc công thức toán mà còn học được bài học đạo đức khi đến lớp

-Tìm ra giải pháp hữu hiệu cho riêng mình để hạn chế học sinh yếu kém môn toán

-Kiên trì, nhẫn nại và hy sinh thời gian cho những học sinh yếu

-Có cái nhìn lạc quan hơn khi dạy những học sinh yếu kém

-Hình thành nề nếp và kỷ cương trong các tiết dạy từ đầu năm học để quản lý học sinh tốt hơn.

-Quan tâm con em mình nhiều hơn nữa trong việc học tập

-Kết hợp tốt với nhà trường trong việc giáo dục các em

-Tư vấn và giúp đỡ giáo viên trong việc dạy học sinh yếu

-Cảm thông, động viên, chia sẻ với những bức xúc của giáo viên khi dạy học sinh yếu.