Biện Pháp Rèn Kĩ Năng Sống Cho Học Sinh Tiểu Học / Top 12 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Một Số Biện Pháp Rèn Kĩ Năng Sống Cho Học Sinh Tiểu Học

Thực tế việc giáo dục KNS đã được đưa vào mục tiêu cụ thể từng môn học, bài học, tiết học. Để giáo dục KNS có hiệu quả cao, theo tôi, chúng ta cần tổ chức tốt các biện pháp sau:

+ Biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp: GV cần dạy học theo hướng phát huy tính độc lập, sáng tạo của học sinh gắn với thực tiễn, có tài liệu bổ trợ phong phú, sử dụng thiết bị dạy học và ứng dụng CNTT trong dạy học, luôn tạo cho các em tính chủ động, tích cực, hứng thú trong học tập; phát huy tính sáng tạo, tạo được bầu không khí cởi mở thân thiện của lớp, của trường. Trong giờ học, giáo viên cần tạo cơ hội cho các em được nói, được trình bày trước nhóm bạn, trước tập thể, nhất là các em còn hay rụt rè, khả năng giao tiếp kém qua đó góp phần tích lũy KNS giao tiếp, trao đổi, ứng sử với mọi người xung quanh cho các em. Giúp HS biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến người khác, biết đặt câu hỏi với thầy cô giáo và người lớn các vấn đề chưa hiểu rõ, biết nói ra chủ kiến, chính kiến của mình.

+Biện pháp rèn kĩ năng tự chăm sóc bản thân: HS Tiểu học cần có khả năng chăm sóc bản thân: tự lập trong việc mặc quần áo, đi giày dép, ăn uống, vệ sinh cá nhân… Ngoài ra HS Tiểu học cần phân biệt những loại thực phẩm an toàn và những loại thực phẩm có hại cho sức khỏe, đồng thời cũng phỉa biết ăng các loại thực phẩm có đủ chất cho sự phát triển cơ thể.

+ Biện pháp rèn luyện kĩ năng qua môn đạo đức: giảng dạy môn Đạo đức, nhất là hình thành các hành vi đạo đức ở tiết 2. Giáo dục kĩ năng sống môn đaọ đức nhằm bước đầu trang bị cho các em kĩ năng sống cần thiết ở lứa tuổi tiểu học giúp các em biết sống và ứng xử phù hợp trong các mối quan hệ với những người thân trong gia đình với thầy cô giao, bạn bè và những người xung quanh, cộng đồng, quê hương, đất nước và môi trường thiên nhiên. Thông qua giáo dục kĩ năng sống của môn đạo đức giúp các em bước đầu biết sống tích cực, chủ động, lành mạnh, tự tin, biết hợp tác, có kỉ luật, có mục đích, có kế hoạch, sống gọn gàng ngăn nắp. Giáo dục các em trở thành người con ngoan trong gia đình, là học sinh tích cực trong nhà trường là công dân tốt của xã hội. GVCN làm tốt công tác kiểm tra đánh giá phân loại hạnh kiểm của HS.

+ Kĩ năng kiềm chế cảm xúc của bản thân: giúp HS kiềm chế cảm xúc làm chủ bản thân, trang bị cho các em khả năng vượt qua sợ hãi, kiềm chế sự nóng giận.

* Để thực hiện được các biện pháp trên GV cần:

+ GVCN phải làm tốt công tác chủ nhiệm mà nhà trường phân công, thường xuyên thay đổi các hình thức sinh hoạt lớp, luân phiên nhau cho các em làm lớp trưởng, tổ trưởng, không nên trong năm học chỉ để một em làm lớp trưởng qua đó giúp các em tự tin và chủ động công việc mạnh bạo hơn trong giao tiếp. Với học sinh tiểu học, thầy cô giáo là người mẹ hiền thứ hai của các em, các em luôn luôn nghe lời dạy bảo và làm theo những gì thầy cô dạy, thầy cô giáo phải là tấm gương sáng về đạo đức, nhất là tấm gương về các ứng xử văn hóa, chuẩn mực trong lời nói và việc làm. Giáo dục KNS cho HS sẽ khó hơn khi chính thầy cô không phải là một tấm gương.

+ GV hướng dẫn các em có ý thức trong các buổi chào cờ đầu tuần. Từ đó đánh giá xếp loại nền nếp, học tập, các hoạt động giáo dục trong tuần, triển khai kế hoạch tuần tới của BGH nhà trường mà cần thay đổi hình thức buổi lễ chào cờ một cách sáng tạo, rèn luyện các kỹ năng cho học sinh. Chẳng hạn như để các em được thay mặt lớp trực đánh giá, nhận xét thêm phần giao lưu với toàn trường qua các tiết mục văn nghệ, kể chuyện, câu đố, trò chơi… do chính các em đứng ra tổ chức dưới sự giúp đỡ và hướng dẫn của GVCN.

+ Xây dựng trường, lớp xanh- sạch- đẹp- an toàn. Trong đó cần chú trọng tạo môi trường tự nhiên gần gũi với cuộc sống như trồng vườn cây thuốc nam, các câu khẩu hiệu ở các cây xanh, bồn hoa để thông qua đó mà giáo dục ý thức BVMT ở các em. Ngoài ra, nhà trường cần phối hợp với gia đình, các tổ chức xã hội trong và ngoài nhà trường để cùng góp phần giáo dục KNS cho các em. + Tổ chức các buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp, các cuộc thi bằng các hình thức như Rung chuông vàng, Đối mặt…; Hàng năm nhà trường tổ chức cho các em tham quan, dã ngoại, du lịch như cha ông ta đã nói: “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”.

Dạy KNS cho HS Tiểu học trong giai đoạn hiện nay là một yêu cầu cấp thiết. Ngoài các hoạt động ngoại khóa hay trong các tiết chào cờ đầu tuần thì giáo viên cần lồng ghép trong từng bộ môn như giáo dục Đạo đức, Tiếng Việt, TN và XH… .Thời lượng dạy kĩ năng sống hiện nay còn hạn hẹp nên các em chưa được trang bị dạy đủ các kĩ năng sống. Đó là điều còn khó khăn và lúng túng cho giáo viên trong việc rèn kĩ năng sống cho HS.

Phan Thị Minh Nguyệt

Phan Thi Minh Nguyet @ 21:14 03/11/2019 Số lượt xem: 215

Skkn Một Số Biện Pháp Rèn Kĩ Năng Sống Cho Học Sinh Lớp 3

“Kỹ năng sống” là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. { Có thể nói kỹ năng sống chính là nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Người có kỹ năng sống phù hợp sẽ luôn vững vàng trước những khó khăn, thử thách; biết ứng ứng xử, giải quyết vấn đề một cách tích cực và phù hợp; họ thường thành công hơn trong cuộc sống, luôn yêu đời và làm chủ cuộc sống của chính mình. Ngược lại người thiếu kỹ năng sống thường bị vấp váp, dễ bị thất bại trong cuộc sống.} (GDKNS trong cỏc mụn học ở Tiểu học – Tài liệu dành cho giỏo viờn lớp 3.)

Nhưng thực trạng hiện nay, việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh ở các trường tiểu học cũn hạn chế, chưa có nét chuyển biến rừ rệt, vỡ tư tưởng của phụ huynh và giáo viên chỉ chú trọng vào việc dạy kiến thức văn hóa, việc dạy và rèn kĩ năng sống cho các em cũn mang tớnh hỡnh thức cho cú. Giáo dục kĩ năng sống chưa được quan tâm đúng mức nên đa phần học sinh ở cỏc cấp học phổ thụng và cả những học sinh tốt nghiệp các trường đại học kĩ năng sống cũn hạn chế, nhiều em hành xử những việc cơ bản nhất cũng khụng biết, một số học sinh cũn có tính ích kỉ không đoàn kết với bạn, nhiều em nói tự do với thái độ cử chỉ chưa lễ phép với người lớn , chớnh vỡ thế trong những năm gần đây vấn đề bạo lực học đường cú nguy cơ gia tăng, học sinh vi phạm pháp luật xuất hiện ở rất nhiều lứa tuổi, điều này là nỗi lo của phụ huynh, thầy cô và cả xó hội.

GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 3 1. Mở đầu: 1.1: Lớ do chọn đề tài: "Kỹ năng sống" là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. { Có thể nói kỹ năng sống chính là nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Người có kỹ năng sống phù hợp sẽ luôn vững vàng trước những khó khăn, thử thách; biết ứng ứng xử, giải quyết vấn đề một cách tích cực và phù hợp; họ thường thành công hơn trong cuộc sống, luôn yêu đời và làm chủ cuộc sống của chính mình. Ngược lại người thiếu kỹ năng sống thường bị vấp váp, dễ bị thất bại trong cuộc sống.} (GDKNS trong cỏc mụn học ở Tiểu học - Tài liệu dành cho giỏo viờn lớp 3.) Nhưng thực trạng hiện nay, việc giỏo dục kĩ năng sống cho học sinh ở cỏc trường tiểu học cũn hạn chế, chưa cú nột chuyển biến rừ rệt, vỡ tư tưởng của phụ huynh và giỏo viờn chỉ chỳ trọng vào việc dạy kiến thức văn húa, việc dạy và rốn kĩ năng sống cho cỏc em cũn mang tớnh hỡnh thức cho cú. Giỏo dục kĩ năng sống chưa được quan tõm đỳng mức nờn đa phần học sinh ở cỏc cấp học phổ thụng và cả những học sinh tốt nghiệp cỏc trường đại học kĩ năng sống cũn hạn chế, nhiều em hành xử những việc cơ bản nhất cũng khụng biết, một số học sinh cũn cú tớnh ớch kỉ khụng đoàn kết với bạn, nhiều em núi tự do với thỏi độ cử chỉ chưa lễ phộp với người lớn, chớnh vỡ thế trong những năm gần đõy vấn đề bạo lực học đường cú nguy cơ gia tăng, học sinh vi phạm phỏp luật xuất hiện ở rất nhiều lứa tuổi, điều này là nỗi lo của phụ huynh, thầy cụ và cả xó hội. 1.2. Mục đớch nghiờn cứu: - Giỳp học sinh cú hành vi thúi quen ứng xử cú văn húa, hiểu biết và chấp hành phỏp luật, - Giỳp học sinh cú khả năng thớch ứng với mụi trường xung quanh, tự chủ, độc lập, tự tin khi giải quyết cỏc vấn đề. - Trang bị cho học sinh cỏc kĩ năng cơ bản: Học để biết, Học để làm, Học để tự khẳng định mỡnh và học để cựng chung sống. 1.3. Đối tượng nghiờn cứu: - Nghiờn cứu tài liệu cú liờn quan đến việc rốn kĩ năng sống cho học sinh tiểu học . - Nghiờn cứu thực trạng việc giỏo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 3A, trường Tiểu học thị trấn Nga Sơn, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Húa. 1.4. Phương phỏp nghiờn cứu: * Phương phỏp nghiờn cứu lớ luận: - Đọc cỏc tài liệu cú liờn quan đến rốn kĩ năng sống cho học sinh lớp 3. * Phương phỏp nghiờn cứu thực tiễn: - Quan sỏt tỡnh hỡnh thực tế việc rốn luyện kĩ năng sống tại nhà trường. - Dự giờ đồng nghiệp. *Phương phỏp thực nghiệm: - Vận dụng những kinh nghiệm dạy tại lớp. - Rỳt kinh nghiệm tại trường. 2. Nội dung sỏng kiến: 2.1. Cơ sở lớ luận: 2.1.1:Kỹ năng sống là gỡ? Kỹ năng sống là quỏ trỡnh tỏc động sư phạm cú mục đớch, cú kế hoạch nhằm hỡnh thành năng lực hành động tớch cực, cú liờn quan đến kiến thức và thỏi đụ, giỳp cỏ nhõn cú ý thức bản thõn, giao tiếp, quan hệ xó hội, thực hiện cụng việc, ứng phú hiệu quả với cỏc yờu cầu thỏch thức cuộc sụng hàng ngày. KNS được hỡnh thành nhiều cỏch khỏc nhau, tựy thuộc vào mụi trường sống và giỏo dục. 2.1.2: Vai trũ của giỏo dục kỹ năng sống: Trẻ em như một tờ giấy trắng, những gỡ được vẽ bờn trong tờ giấy trắng đú sẽ tồn tại với trẻ đến suốt đời. Chỳng ta vẽ thỏi độ, trẻ sẽ được thỏi độ. Chỳng ta vẽ nhõn cỏch, trẻ sẽ hỡnh thành nhõn cỏch. Tiểu học là khoảng thời gian tốt nhất để vẽ nờn con người của trẻ, bởi đú là lứa tuổi trẻ mờ khỏm phỏ và dễ tiếp thu nhất trong đời. Rốn kỹ năng sống ở bậc tiểu học khụng chỉ giỳp trẻ hỡnh thành nờn những hành vi tớch cực và khả năng nghi với mọi hoàn cảnh cuộc sống, tạo nờn bản lĩnh của người thành cụng sau này, mà cũn giỳp trẻ tự tin hơn để khỏm phỏ và tận hưởng cuộc sống một cỏch trọn vẹn. Vậy, làm thế nào để chúng ta giáo dục kỹ năng sống cho học sinh? {Giỏo dục KNS là giỏo dục cỏch sống tớch cực trong xó hội hiện đại, là xõy dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thúi quen tiờu cực trờn cơ sở giỳp người học cú cả kiến thức, giỏ trị, thỏi độ và cỏc kĩ năng thớch hợp. Giỏo dục KNS là một quỏ trỡnh giỏo dục cú mục đớch, cú kế hoạch và biện phỏp cụ thể, là một quỏ trỡnh lõu dài, phức tạp, đũi hỏi nhiều lực lượng tham gia, trong đú nhà giỏo dục đúng vai trũ cố vấn, nhà tổ chức, hướng dẫn, khuyến khớch và động viờn người học.}( Giỏo dục KNS trong cỏc mụn học ở Tiểu học - Tài liệu dành cho giỏo viờn lớp 3) và để thực hiện tốt Quyết định số 2994/QĐ-BGDĐT ngày 20/7/2010 của Bộ Giỏo dục và Đào tạo triển khai giỏo dục kĩ năng sống trong một số mụn học và hoạt động giỏo dục ở cỏc cấp học, dựa trờn cơ sở những định hướng nhằm tăng cường giỏo dục kĩ năng sống trong cỏc mụn học cho cỏc cấp học trong hệ thống giỏo dục phổ thụng, trong nhiều năm gần đõy tụi cũng rất quan tõm đến việc dạy kỹ năng sống cho học sinh thụng qua lồng ghộp vào cỏc mụn học và cỏc tài liệu về giỏo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học song hiệu quả chưa đạt như mong muốn. 2. 2.Thực trạng của việc rốn kĩ năng sống trong trường tiểu học Thị Trấn Nga Sơn. 2. 2. 1: Cụng tỏc chỉ đạo, triển khai và tổ chức thực hiện: Trong những năm gần đõy, thực hiện cỏc văn bản chỉ đạo của cỏc cấp ngành về việc giỏo dục kĩ năng sống cho học sinh. Ban giỏm hiệu trường tiểu học Thị trấn Nga Sơn đó rất chỳ trọng, quan tõm sõu sỏt đối với việc giỏo dục kĩ năng sống cho học sinh bằng cỏch tổ chức học chuyờn đề lồng ghộp kỹ năng sống vào cỏc mụn học và tổ chức rất nhiều cỏc hoạt động ngoài giờ lờn lớp, hàng thỏng ban giỏm hiệu nhà trường kiểm tra kế hoạch của giỏo viờn tổng phụ trỏch đội xõy dựng , nhưng vẫn cũn một bộ phận khụng nhỏ giỏo viờn chưa nắm vững tầm quan trọng của việc giỏo dục kĩ năng sống cho học sinh. Bởi vỡ: - Giỏo viờn chưa nắm hết bản chất, nội dung, vai trũ của giỏo dục kĩ năng sống đối với học sinh tiểu học. Giỏo viờn cũn mơ hồ trong việc giỏo dục kĩ năng sống cho học sinh, hiểu một cỏch đơn giản: dạy kĩ năng sống là liờn hệ, là tuyờn truyền giỏo dục lồng ghộp trong cỏc bài học ở cỏc mụn học nếu cú liờn quan. - Trong kế hoạch bài dạy của giỏo viờn đó cú lồng phần nội dung giỏo dục kĩ năng sống, nhưng sơ sài, qua loa, chiếu lệ. 2.2.2.Về phớa học sinh: Học sinh lớp 3A trường tiểu học Thị Trấn đa phần là học sinh xó ngoài và cú 100% học sinh ăn bỏn trỳ, con của cỏc gia đỡnh cú điều kiện khỏ giả, bố mẹ đều là cỏn bộ cụng chức nhà nước hoặc là những người đang làm kinh doanh nờn cuộc sống vật chất của cỏc em rất đầy đủ, mỗi gia đỡnh chỉ cú một đến hai con nờn cỏc em được ụng bà, bố mẹ cưng chiều, chăm súc từng li từng tớ, cỏc em cần gỡ đều được ụng bà, bố mẹ đỏp ứng đầy đủ, do điều kiện cụng việc nhiều nờn thời gian mà bố mẹ gần gũi để chia sẻ những vướng mắc trong sinh hoạt hàng ngày của cỏc em cũn ớt, bố mẹ chỉ quan tõm đến việc văn húa của con em mỡnh, cỏc mặt giỏo dục khỏc đều phú mặc cho giỏo viờn và nhà trường. Chớnh vỡ vậy, học sinh lớp tụi rất tự tin về kiến thức văn húa, cũn trong sinh hoạt hàng ngày nhiều em thiếu nhiều kỹ năng sống như: Kĩ năng giao tiếp: khụng cú thúi quen chào hỏi, tự giới thiệu mỡnh với người khỏc, thậm chớ cú nhiều em cũn khụng dỏm núi hoặc khụng biết núi lời xin lỗi khi cỏc em làm sai, cũn chơi một số trũ chơi nguy hiểm trong nhà trường, Một số học sinh gặp thầy cụ giỏo khỏc trong và ngoài nhà trường khụng chào hỏi. Kĩ năng hợp tỏc: Một bộ phận học sinh cỏc kĩ năng nghe núi, đọc, viết, chia sẻ trong nhúm, núi trược đỏm đụng cũn hạn chế. Kĩ năng ra quyết định: Một bộ phận học sinh cũn cú biểu hiện, việc làm khụng lành mạnh với bạn trong trường: ăn cắp vặt, gỏn ghộp đụi, núi tục, ăn quà Kĩ năng tự phục vụ: nhiều em chưa biết soạn sỏch vở theo thời khúa biểu, khụng biết cầm chổi quột lớp, khụng biết nhổ cỏ, dọn vệ sinh lớp học, sõn trường, vệ sinh cỏ nhõn, vệ sinh an toàn thực phẩm của một số em chưa cao 2.2.3 Kết quả khảo sỏt kĩ năng sống của học sinh: Với những thực trạng trờn, sau một thỏng theo dừi học sinh, tụi đó phõn nhúm, đỏnh giỏ về thực hiện kĩ năng sống của lớp 3A do tụi chủ nhiệm (tại thời điểm thỏng 10 đầu năm 2018 ) như sau: Sĩ số Kĩ năng giao tiếp - Hũa nhập cuộc sống Kĩ năng học tập, lao động, vui chơi Tốt Đạt Chưa đạt Tốt Đạt Chưa đạt SL % SL % SL % SL % SL % SL % 33 5 15,1 16 48,6 12 36,3 7 21,2 8 24,3 18 54,5 Như vậy, qua bảng số liệu trờn việc quan tõm đến cụng tỏc giỏo dục kĩ năng sống cho học sinh đạt được mục tiờu giỏo dục toàn diện là việc làm rất thiết. Mà việc hỡnh thành cho học sinh kĩ năng sống là nhiệm vụ của gia đỡnh, nhà trường và xó hội. Đối với học sinh tiểu học, vai trũ của nhà trường trong việc giỏo dục kĩ năng sống cho học sinh là vụ cựng quan trọng. Vỡ vậy, để nõng cao hiệu quả giỏo dục kĩ năng sống cho học sinh vai trũ của người giỏo viờn chủ nhiệm là quyết định. Chớnh vỡ vậy tụi đó tỡm tũi, nghiờn cứu, vận dụng một số biện phỏp " Giỏo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 3" . 2.3.NHỮNG GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾTVẤN ĐỀ { Việc giỏo dục kỹ năng sống trong nhà trường được thực hiện thụng qua dạy học cỏc mụn học và tổ chức cỏc hoạt động giỏo dục nhưng khụng phải là lồng ghộp, tớch hợp thờm KNS vào nội dung cỏc mụn học và hoạt động giỏo dục; mà theo một cỏch tiếp cận mới, đú là sử dụng cỏc phương phỏp và kỹ thuật dạy học tớch cực để tạo điều kiện, cơ hội cho học sinh được thực hành, trải nghiệm KNS. Với cỏch tiếp cận này, sẽ khụng làm nặng nề, quỏ tải thờm nội dung cỏc mụn học và hoạt động giỏo dục; mà ngược lại, cũn làm cho giờ học và hoạt động giỏo dục trở nờn nhẹ nhàng hơn, thiết thực và bổ ớch hơn đối với học sinh. Vỡ vậy, người giỏo viờn cần phải nắm được nội dung giỏo dục KNS cho học sinh trong nhà trường.} ( Giỏo dục KNS - Tài liệu dành cho giỏo viờn lớp 3, trang 27.) Giải phỏp 1: Nghiờn cứu kĩ chương trỡnh, phõn loại kĩ năng sống, phõn nhúm học sinh theo từng kỹ năng sống: Khi tham gia vào bất kỳ hoạt động nào phục vụ cho cuộc sống đều đũi hỏi chỳng ta phải cú những kỹ năng tương ứng. Rốn luyện KNS cho học sinh là nhằm giỳp cỏc em rốn luyện kĩ năng ứng xử thõn thiện trong mọi tỡnh huống; thúi quen và kĩ năng làm việc theo nhúm, kĩ năng hoạt động xó hội; Giỏo dục cho học sinh thúi quen rốn luyện sức khỏe, ý thức tự bảo vệ bản thõn, phũng ngừa tai nạn giao thụng, đuối nước và cỏc tệ nạn xó hội. Đối với HS tiểu học việc hỡnh thành cỏc KN cơ bản trong học tập và sinh hoạt là vụ cựng quan trọng, ảnh hưởng đến quỏ trỡnh hỡnh thành và phỏt triển nhõn cỏch sau này. Theo đú kĩ năng sống được chia thành 2 loại: Kỹ năng cơ bản và kỹ năng nõng cao. + Kĩ năng cơ bản gồm: Kĩ năng nghe, núi, đọc, viết, mỳa, hỏt, đi, đứng, chạy, nhảy v.v + Kĩ năng nõng cao là sự kế thừa và phỏt triển cỏc kĩ năng cơ bản dưới một dạng thức mới hơn. Nú bao gồm: Cỏc kỹ năng tư duy logic, sỏng tạo, suy nghĩ nhiều chiều, phõn tớch, tổng hợp, so sỏnh, nờu khỏi niệm, đặt cõu hỏi v.v Ở tiểu học, đối với cỏc lớp đầu cấp, kĩ năng cơ bản được xem trọng, cũn cỏc lớp cuối cấp nõng dần cho cỏc em về kỹ năng nõng cao. Để giỏo dục kĩ năng sống cho học sinh đạt kết quả tốt thỡ giỏo viờn phải nghiờn cứu xõy dựng đặt ra cỏc yờu cầu cụ thể với từng lứa tuổi học sinh. Từ đú, qua cụng việc giảng dạy cũng như cỏc hoạt động hàng ngày, giỏo viờn cần phải theo dừi sỏt sao để phõn định cỏc nhúm học sinh cũn hạn chế. Theo đú, chỳng ta cần tập trung rốn luyện cho cỏc em 2 nhúm kỹ năng sống sau đõy: Nhúm 1: Kỹ Năng giao tiếp - hũa nhập cuộc sống: - Cỏc em biết giới thiệu về bản thõn, về gia đỡnh, về trường lớp học và bạn bố thầy cụ giỏo. - Biết chào hỏi lễ phộp trong nhà trường, ở nhà và ở nơi cụng cộng. - Biết núi lời cảm ơn, xin lỗi. Thực tế trong nhà trường, thụng qua mụn Đạo đức, cỏc hoạt động tập thể HS được dạy cỏch lễ phộp nhưng khi đi vào thực tế, nhiều em thiếu kỹ năng giao tiếp, khụng cú thúi quen chào hỏi, tự giới thiệu mỡnh với người khỏc, thậm chớ cú nhiều em cũn khụng dỏm núi hoặc khụng biết núi lời xin lỗi khi cỏc em làm sai. - Biết phõn biệt hành vi đỳng sai, phũng trỏnh tai nạn. Đõy là kĩ năng quan trọng mà khụng phải em nào cũng xử lý được nếu chỳng ta khụng rốn luyện thường ngày. Nhúm 2: Kĩ năng trong học tập, lao động - vui chơi giải trớ: - Cỏc kĩ năng nghe, đọc, núi, viết, kĩ năng quan sỏt, kĩ năng đưa ra ý kiến chia sẻ trong nhúm. - Kĩ năng giữ gỡn vệ sinh cỏ nhõn, vệ sinh chung. - kĩ năng kiểm soỏt tỡnh cảm - kĩ năng kỡm chế thúi hư tật xấu sở thớch cỏ nhõn cú hại cho bản thõn và người khỏc. - Kĩ năng hoạt động nhúm trong học tập vui chơi và lao động. Dựa vào tõm lớ lứa tuổi, đối với học sinh lớp 3, kĩ năng sống cần rốn luyện đú là: { Kĩ năng tự phục vụ. Kĩ năng giao tiếp. Kĩ phũng trỏnh tai nạn thương tớch. Kĩ năng đảm nhận trỏch nhiệm. Kĩ năng quản lớ thời gian. Kĩ năng hợp tỏc.}( Bài tập thực hành kĩ năng sống 3) Giải phỏp 2. Làm tốt cụng tỏc bồi dưỡng, tuyờn truyền nhằm nõng cao nhận thức về vai trũ của giỏo dục kĩ năng sống cho bản thõn, phụ huynh của lớp phụ trỏch. Muốn giỏo dục kĩ năng sống cho học sinh cú hiệu quả, trước hết bản thõn giỏo viờn phải hiểu và nắm vững vai trũ của giỏo dục kĩ năng sống với học sinh tiểu học. Vỡ vậy, khi nhà trường triển khai cỏc đợt tập huấn, bản thõn tụi tớch cực tham gia học tập, bờn cạnh đú tụi đó khụng ngừng tự tỡm tũi nghiờn cứu tài liệu, dự giờ để học hỏi cỏc đồng nghiệp về giỏo dục kĩ năng sống cho học sinh và tự nhận thức về giỏo dục kĩ năng sống đối với học sinh tiểu học là vụ cựng quan trọng. Chớnh vỡ sự tự học, tự bồi dưỡng như vậy, bản thõn tụi tự nhận thấy rằng việc giỏo dục kĩ năng sống cho học sinh khụng phải tự một mỡnh làm được mà phải cú phối hợp với phụ huynh học sinh lớp phụ trỏch. Vỡ vậy, tụi đó tuyờn truyền về tầm quan trọng của việc giỏo dục kĩ năng sống giỳp cho cỏc bậc phụ huynh nõng cao được nhận thức để cựng phối hợp với giỏo viờn giỏo dục cỏc em đạt kết quả tốt nhất. Đõ̀u năm học, tụi nghiờn cỏc tài liệu rốn kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học, do Bụ̣ Giáo dục - Đào tạo triển khai, qua đó giúp tụi hiờ̉u được rằng chương trỡnh học chớnh khoỏ thường cho trẻ tiếp xỳc từ từ với cỏc kiến thức văn hoỏ trong suốt năm học, cũn thực tế học sinh sẽ học tốt nhất khi cú được cỏch tiếp cận một cỏch cõn bằng, biết cỏch phỏt triển cỏc kĩ năng nhận thức, cảm xỳc và xó hội. Vì thờ́, khi học sinh tiếp thu được những kĩ năng giao tiếp xó hội và cỏc hành vi ứng xử cơ bản trong nhúm bạn, thỡ cỏc em sẽ nhanh chúng sẵn sàng và cú khả năng tập trung vào việc học văn hoỏ một cỏch tốt nhất. - Trong buổi họp phụ huynh đầu năm học của lớp, tụi chia sẻ cho phụ huynh hiểu được cỏc phương phỏp rốn cho cỏc em học ở nhà và đó triển khai cỏch đỏnh giỏ học sinh tiểu học theo thụng tư 22 vỡ trong thụng tư cú cỏch đỏnh giỏ phẩm chất, năng lực để phụ huynh cựng kết hợp theo dừi đỏnh giỏ về con em mỡnh. - Trước khi hội nghị phụ huynh đầu năm, tụi đó tỡm hiểu, sưu tầm tài liệu để trao đổi cựng với phụ huynh về một số kỹ năng sống cơ bản cần rốn luyện cho học sinh. Vớ dụ: Trao đổi cựng với phụ huynh một số kĩ năng sống cơ bản của con em mỡnh như: + Kĩ năng tự phục vụ: Giỳp cỏc biết tự phục vụ bản thõn như trang phục đỳng quy định của nhà trường, biết soạn sỏch vở, biết vệ sinh cỏ nhõn, làm những việc vừa sức mỡnh. + Kĩ năng giao tiếp: Cần giỳp cỏc em về cỏch chào hỏi, núi lời cảm ơn, xin lỗi, biết quan tõm giỳp đỡ, chia sẻ với mọi người trong học tập và sinh hoạt + Kĩ năng tự nhận thức: Đối với học sinh lớp 3, giỳp cho cỏc em nhận thức đỳng việc học tập ở lớp, ở nhà như thế nào? Nờn chơi những trũ chơi cú lợi, trỏnh những trũ chơi nguy hiểm + Kĩ năng tỡm kiếm sự hỗ trợ: Giỳp học sinh ý thức được nhu cầu cần giỳp đỡ, xỏc định được địa chỉ hỗ trợ tin cậy, cung cấp thụng tin đầy đủ, rừ ràng và ngắn gọn. + Kĩ năng hợp tỏc: Giỳp học sinh biết chia sẻ trỏch nhiệm, biết cam kết và làm việc cú hiệu quả với những thành viờn khỏc trong nhúm, tụn trọng những quyết định chung của nhúm - Hàng ngày ở trờn lớp, tụi đó tạo ra cỏc nhúm học tập theo từng đối tượng để học sinh được đỏnh giỏ lẫn nhau. Giỏo viờn tập trung đỏnh giỏ sự tiến bộ của học sinh, coi trọng sự động viờn khuyến khớch học sinh để giỳp học sinh tớch cực và vượt khú trong học tập, rốn luyện, giỳp học sinh phỏt huy tất cả những khả năng đảm bảo cụng bằng, kịp thời và khỏch quan theo đỳng thụng tư 22. Học sinh học tập theo nhúm. - Bản thõn tụi tự nhận thấy, khi đi sõu nghiờn cứu giỏo dục kĩ năng sống cho học sinh thỡ cần phải kiờn trỡ, tõm huyết, dành nhiều thời gian cho cụng việc thỡ mới cú kết quả như mong muốn. Vỡ giỏo dục kĩ năng sống đúng một vai trũ vụ cựng quan trọng đối với việc hỡnh thành phỏt triển con người toàn diện. + Học sinh chuyển biến rừ rệt về nề nếp, vệ sinh cỏ nhõn, ý thức chấp hành, lễ phộp chào hỏi, vui chơi an toàn, thõn thiện tự tin, tất cả học sinh lớp tụi chủ nhiệm mạnh dạn tham gia học tập vui chơi Giải phỏp 3. Lồng ghộp giỏo dục kỹ năng sống thụng qua cỏc mụn học. Để giỏo dục kĩ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả, ngoài việc thực hiện kế hoạch hoạt động theo chỉ đạo của nhà trường, tụi đặc biệt quan tõm đến việc dạy lồng ghộp giỏo dục kĩ năng sống cho học sinh thụng qua cỏc mụn học trong trường. Đõy là việc làm mà khụng phải giỏo viờn nào cũng quan tõm. Giỏo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 3 thụng qua cỏc mụn học được đưa vào mục tiờu cụ thể từng mụn học, bài học mà tập trung nhiều nhất là mụn Tiếng Việt, mụn Đạo đức và mụn Tự nhiờn và Xó hội. Bản thõn tụi đó chỳ ý từ khõu soạn bài, tụi đó nghiờn cứu kĩ nội dung từng bài học và chọn nội dung giỏo dục kỹ năng sống phự hợp để đưa vào từng hoạt động trong bài dạy. a) Giỏo dục kĩ năng sống cho học sinh thụng qua mụn Đạo đức: Nội dung mụn đạo đức chứa nhiều nội dung liờn quan đến kĩ năng sống như kĩ năng giao tiếp, kĩ năng bày tỏ ý kiến, kĩ năng tự phục vụ và quản lớ thời gian.Vỡ vậy, bất cứ nội dung bài đạo đức nào cũng hàm chứa những hành vi đạo đức giỏo dục hướng tới hành vi chuẩn mực, thúi quen của học sinh. Qua mụn Đạo đức cũn rốn cho học sinh kĩ năng biết giữ lời hứa, đảm nhận trỏch nhiệm về việc làm của mỡnh, kỹ năng tự phục vụ bản thõn khụng phụ thuộc vào người lớn chủ

Skkn Một Số Biện Pháp Rèn Kĩ Năng Giao Tiếp Cho Học Sinh Lớp 4 Trường Tiểu Học Nga Yên

1.1. Lý do chọn đề tài Nước ta đang đứng trước ngưỡng cửa của cuộc cách mạng 4.0, một cuộc cách mạng có tốc độ phát triển nhanh chưa từng có trong lịch sử, có tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực, đặc biệt là ngành giáo dục. Nền giáo dục nước nhà sẽ có thay đổi một cách sâu rộng từ môi trường giáo dục, vai trò của người làm công tác giáo dục đến việc tiếp thu kiến thức của người được giáo dục. Trong đó, giáo dục Tiểu học được xem là cấp học nền tảng và “Giáo dục Tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự nghiệp phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân chuẩn bị tiếp tục học Trung học cơ sở ”. [1] Trong các kỹ năng sống thì kỹ năng giao tiếp chiếm vị trí quan trọng trong cuộc sống thực tiễn, hoạt động lao động của con người. Kỹ năng giao tiếp không phải do bẩm sinh, di truyền mà có được mà nó được hình thành và phát triển trong quá trình sống, qua hoạt động, qua trải nghiệm, tập luyện, rèn luyện… Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng giáo dục thì cần thiết phải phát triển kỹ năng giao tiếp cho học sinh. Nội dung của giáo dục tiểu học là tập trung vào các môn văn hóa, giáo dục đạo đức, giáo dục kỹ năng sống… trong những nội dung đó giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh chiếm vị trí vai trò quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả của giáo dục tiểu học. Đối với học sinh vùng nông thôn nói chung, học sinh Tiểu học Nga Yên nói riêng, do đặc điểm điều kiện kinh tế, địa lý tự nhiên, môi trường giao tiếp hẹp, do đặc điểm tâm lý học sinh vùng nông thôn nhút nhát, lúng túng, thiếu tự tin, ngại giao tiếp trước người lớn, trước đông người. Chưa có kỹ năng hợp tác, làm việc nhóm, kỹ năng thích ứng, kỹ năng giải quyết vấn đề…. đặc biệt là kiến thức, kỹ năng về cuộc sống còn nghèo nàn. Trong khi đó đời sống của học sinh tiểu học rất cần đến kỹ năng giao tiếp, đó cũng chính là điều kiện để học sinh phát triển một cách toàn diện đáp ứng yêu cầu xã hội ngày nay. Chính vì vậy mà đây cũng chính là lý do tôi lựa chọn đưa ra đề tài: “Một số biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 4 trường Tiểu học Nga Yên”. 1.2. Mục đích nghiên cứu Trong nhiều năm làm công tác giảng dạy và tiếp xúc với phụ huynh, với các em học sinh, tôi nhận thấy kỹ năng giao tiếp của nhiều em học sinh trường Tiểu học Nga Yên còn rất hạn chế, chưa thể đáp ứng theo kịp sự phát triển của thời đại. Vì vậy, mục đích nghiên cứu của tôi là giúp các em có kỹ năng giao tiếp tốt, phù hợp với các tình huống khác nhau trong cuộc sống, góp phần thực hiện tốt việc giáo dục toàn diện nhân cách cho học sinh Tiểu học trong thế kỷ XXI. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Rèn kỹ năng giao tiếp” đối với học sinh lớp 4A của trường Tiểu học Nga Yên – xã Nga Yên, một trường học vùng nông thôn có điều kiện kinh tế khó khăn và đang từng bước đổi mới. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện thành công đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp sau : – Phương pháp suy luận (nghiên cứu tâm lý học sinh Tiểu học và quy luật hình thành nhân cách của học sinh Tiểu học). – Phương pháp điều tra, tổng hợp. – Phương pháp thống kê, phân loại đối tượng học sinh. – Phương pháp thực hành (Tổ chức cho học sinh đóng vai, sinh hoạt theo nhóm, sinh hoạt tập thể, phân loại, xử lý tình huống). – Phương pháp vấn đáp, hội thoại. – Phương pháp quy nạp. 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1.Cơ sở lý luận Kỹ năng giao tiếp: Là tập hợp những quy tắc, nghệ thuật về cách ứng xử, đối đáp được đúc kết qua những kinh nghiệm thực tế, giúp việc giao tiếp được hiệu quả và đạt được mục đích đặt ra trong những trường hợp cụ thể. [2] Kỹ năng giao tiếp bao gồm nhiều loại kỹ năng khác nhau như kỹ năng lắng nghe; kỹ năng giao tiếp bằng mắt, bằng cử chỉ; kỹ năng thuyết trình; kỹ năng diễn đạt; kỹ năng ra quyết địnhTrong trường hợp cụ thể, chúng ta không chỉ sử dụng một kỹ năng nhất định mà cần phối hợp các kỹ năng giao tiếp phù hợp để đạt được mục đích của buổi giao tiếp.  Chính vì vậy, để thực hiện các mục tiêu giáo dục cho học sinh tiểu học thì điều cần thiết là phải hình thành và phát triển ở các em kỹ năng giao tiếp. Dạy cho các em biết cách giao tiếp có hiệu quả chính là dạy cho các em biết cách nhận thức đúng đắn về mình, nhận biết về đối tượng giao tiếp, biết cách tiếp cận với đối tượng giao tiếp và biết bày tỏ thái độ, quan điểm của mình bằng lời nói, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt và bằng cả những việc làm khi cần thiết.  Trong quá trình dạy và học, kỹ năng giao tiếp của các em được thể hiện qua cách trình bày, xử lý tình huống bằng ngôn ngữ, tranh biện, thuyết trình, làm việc nhóm cùng thầy cô và bạn bè trước các vấn đề. Bởi vậy, rèn kỹ năng giao tiếp là đồng thời phát triển kỹ năng nói, nghe; luyện tập cả kỹ năng trao lời, đáp lời trong đời sống học tập và sinh hoạt hàng ngày. Từ những kỹ năng đó sẽ giúp cho các em chững chạc, tự tin, lịch sự, lễ phép và nhanh nhẹn trước các tình huống trong cuộc sống. 2.2. Thực trạng của việc rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 4 trường Tiểu học Nga Yên Trong những năm gần đây, Đảng và nhà nước ta cũng như ngành Giáo dục rất quan tâm đến việc đưa vào chương trình dạy giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học mà trong đó kỹ năng giao tiếp là một trong những kỹ năng rất quan trọng không thể thiếu của mục tiêu giáo dục kỹ năng sống đối với học sinh nói riêng, đối với mỗi con người thời đại mới nói chung, nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội hiện nay. Có kỹ năng giao tiếp thì học sinh mới dễ dàng thực hiện tốt các kỹ năng khác. Tuy nhiên, việc giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh tiểu học vùng nông thôn nói chung và ở trường Tiểu học Nga Yên nói riêng vẫn chưa được quan tâm nhiều. Trong các giờ học việc rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh chưa được chú trọng. Do vậy trong quá trình học tập trên lớp nhiều học sinh không biết cách trả lời hoặc trả lời không đúng trọng tâm vấn đề. Các em ngại nói, ngại tiếp xúc với người lạ. Thiếu tự tin khi giao tiếp với người lớn, thầy cô giáo và bạn bè xung quanh. Khi gặp các tình huống trong cuộc sống nhiều học sinh không có kỹ năng xử lý tốt, thông thường học sinh thu mình lại hoặc cư xử không đúng mực. Trong quá trình học tập trên lớp hay các hoạt động NGLL được tổ chức thì kỹ năng hoạt động nhóm, kỹ năng phối hợp của học sinh chưa cao, nhiều em chưa biết lắng nghe ý kiến của bạn bè… Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng nêu trên nhưng chủ yếu là do các nguyên nhân sau: Trước hết là do nhận thức của giáo viên, phụ huynh về rèn kỹ năng giao tiếp cho các em chưa đúng. Cả giáo viên và phụ huynh đều chỉ chú trọng đến việc dạy kiến thức: đọc tốt, viết tốt, làm toán tốt việc rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh còn mang tính chiếu lệ, đôi khi chỉ tập trung vào một số học sinh nói tốt. Trong khi đó có một số ý kiến cho rằng: hiện nay, chương trình đã quá nặng về dạy kiến thức nên không quan tâm đến việc giáo dục kĩ năng giao tiếp cho các em, một số khác thì đã có sự quan tâm song còn mang tính hình thức, chưa chú trọng đến tất cả mọi đối tượng học sinh.          Bên cạnh đó một số gia đình bố mẹ chỉ mải lo đến việc làm kinh tế mà quên mất gia đình là chiếc nôi của con trẻ, quên đi việc cần tạo một môi trường gia đình đầm ấm, người lớn gương mẫu, quan tâm dạy dỗ trẻ. Có những gia đình hoàn toàn phó mặc việc dạy dỗ con em cho nhà trường. Cũng có những gia đình có điều kiện kinh tế, quá chiều chuộng con cái muốn gì được nấy, ít quan tâm đến việc giáo dục con em kỹ năng giao tiếp với người lớn, bạn bè với cha mẹ, ông bà, thầy cô giáo, với các mối quan hệ xã hội xung quanh mình. Nhiều học sinh được gia đình chiều chuộng dẫn đến các em thiếu các kỹ năng giao tiếp, luôn ỷ lại, phụ thuộc vào người lớn; mỗi khi gặp các tình huống trong thực tế lúng túng không biết xử lý thế nào, hạn chế trong việc tự bảo vệ bản thân mình; hoặc có em được chiều chỉ làm theo ý của mình chứ không làm theo ý người khác. Đặc biệt trong thời kỳ công nghệ 4.0, hầu hết các gia đình đều có các thiết bị điện tử như ti vi, điện thoại, máy tính… lúc rảnh rỗi các em thường chỉ chăm chú xem tivi, lướt điện thoại, hoặc chơi máy tính… dẫn đến các em ngại tiếp xúc, giao tiếp với mọi người xung quanh. Trong tháng đầu tiên của năm học, ngay sau khi nhận lớp tôi đã tiến hành điều tra, theo dõi hoạt động giao tiếp của các em thông qua các giờ dạy trên lớp của mình cũng như trao đổi nắm bắt qua các cô giáo bộ môn và giáo viên tổng phụ trách đội theo dõi trong hoạt động Đội- Sao, kết quả thu được như sau : Học sinh vận dụng thành thạo các kỹ năng giao tiếp trong sinh hoạt hàng ngày Học sinh biết vận dụng nhưng chưa thường xuyên Học sinh chưa biết vận dụng các kỹ năng giao tiếp trong sinh hoạt hàng ngày Ghi chú SL TL SL TL SL TL 5 25% 7 35% 15 40% Tháng 9/2018 Tóm lại: Qua điều tra, theo dõi của bản thân và kết quả điều tra thông tin qua các kênh của giáo viên bộ môn, tổng phụ trách Đội, tôi nhận thấy học sinh lớp 4A còn một tỷ lệ quá lớn giao tiếp chưa đúng, chưa phù hợp với ngữ cảnh kể cả ngôn ngữ, ngữ điệu, sắc thái biểu cảm; cử chỉ, hành động, thái độ chưa lịch sự, có lúc thiếu văn hoá khi giao tiếp. Vì vậy, bản thân tôi rất trăn trở nên đã đề ra các biện pháp giúp học sinh có thái độ đúng, giao tiếp đúng trong các tình huống khác nhau. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh lớp 4A – trường Tiểu học Nga Yên 2.3.1. Nâng cao nhận thức về vai trò của giáo viên đối với việc rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh Tiểu học trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0 Trong thời đại công nghiệp 4.0 vai trò giáo viên ngày càng trở nên phức tạp ở một thế giới thay đổi nhanh chóng, nơi mà tri thức hầu như vô tận. Là thời đại của công nghệ thông tin ở bất cứ nơi nào con người cũng có thể tìm kiếm được tri thức mà không cần đến giáo viên. Xã hội ngày một phát triển, con người ngày ngày cũng theo guồng quay của xã hội, đâu đâu cũng điện thoại thông minh, máy tính bảng và con người ngày càng ít có cơ hội giao tiếp với nhau hơn. Thực tế cho thấy rất nhiều gia đình bố mẹ bận công việc cứ giao cho con một chiếc điện thoại hay máy tính bảng là yên tâm có người trông con hộ không có con quấy nhiễu, bố mẹ thoải mái làm việc của mình. Chính vì lẽ đó mà ngày nay có rất nhiều trẻ em không thích tiếp xúc với mọi người xung quanh, ít có các kỹ năng giao tiếp tối thiểu hàng ngày. Thậm chí có những em học sinh khi bị đi lạc đã không biết cách hỏi thăm đường để về nhà. Hay có rất nhiều trường hợp nhiều trẻ em đang độ tuổi học sinh mắc phải chứng bệnh tự kỷ, tăng động giảm chú ý khi mà hàng ngày các em không được người lớn quan tâm Hoặc cũng có rất nhiều học sinh, sinh viên học rất giỏi ở các nhà trường nhưng khi đi làm thì không làm được việc, điều đó cho thấy hầu hết các em đều thiếu các kỹ năng giao tiếp hàng ngày, thiếu tự tin, thiếu trách nhiệm Trong xu thế hội nhập và phát triển ngày nay của cuộc cách mạng 4.0 thì giáo dục cần phải hướng tới các mục tiêu: “Học để biết, học để làm, học để khẳng định mình và học để chung sống” và đặt ra vấn đề là: kỹ năng nào cần thiết cho mỗi con người để thành công trong công việc và cuộc sống ? Một trong ba kỹ năng toàn cầu đòi hỏi ở một con người hoàn thiện chính là kỹ năng giao tiếp. Mà vai trò của người giáo viên trong giai đoạn hiện nay chính là hướng dẫn người học chứ không còn là người cung cấp tri thức nữa. Chính vì nhận thức rõ tầm quan trọng của các kỹ năng giao tiếp trong xu thế hiện nay là rất cần thiết đối với học sinh, bản thân tôi với trách nhiệm của người giáo viên trong thời đại công nghiệp 4.0 không ngừng tìm hiểu, nghiên cứu về các kỹ năng giao tiếp cần thiết. Đồng thời tôi cũng tìm tòi, tham khảo, ứng dụng các biện pháp để rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh. Trước tiên giáo viên cần giúp cho phụ huynh, học sinh hiểu được: Kĩ năng giao tiếp là những kĩ năng tâm lý-xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc sống, giúp cho cá nhân vững vàng trước cuộc sống có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại Rèn kĩ năng giao tiếp đơn giản là giúp học sinh có cơ hội giao lưu với bạn bè, thầy cô giáo, với xã hội xung quanh mình và có được khả năng ứng phó một cách linh hoạt nhưng đem lại những thuận lợi trong cuộc sống. Dạy kỹ năng giao tiếp cho học sinh nhằm rèn luyện cho các em có thói quen năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội. Sau đó giáo viên phải giúp cho phụ huynh, học sinh hiểu rõ: Kỹ năng giao tiếp không phải là cái có sẵn, con người không phải sinh ra đã có kỹ năng giao tiếp tốt. Mà kỹ năng giao tiếp phải được rèn luyện và hình thành theo một quá trình, hình thành một cách tự nhiên qua những hoạt động, những trải nghiệm trong cuộc sống và qua giáo dục mà có. Việc làm này không phải ngày một ngày hai là có thể xong mà phải làm thường xuyên như: Trao đổi trong các lần họp phụ huynh cả lớp đầu năm, cuối kỳ, cuối năm. Cũng có những phụ huynh bận công việc không tham gia hoặc cũng có những phụ huynh không phối hợp với giáo viên chủ nhiệm, lúc đó bản thân tôi phải gặp gỡ trực tiếp, điện thoại để động viên, trao đổi và khai thông tư tưởng cho phụ huynh, Từ đó giáo viên, phụ huynh, học sinh có thể làm tốt công tác rèn kỹ năng giao tiếp cho các em. 2.3.2. Tăng cường tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học các môn học giúp học sinh rèn kĩ năng giao tiếp:  Ở bậc tiểu học các môn học có chứa nội dung giáo dục kỹ năng giao tiếp rất nhiều, nhất là các môn như: Tiếng Việt; Đạo đức; Khoa học, Tự nhiên xã hội…. Nhiệm vụ của người giáo viên là phải tự giác, tích cực thực hiện giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh qua mỗi giờ học trên lớp. Thông qua các tiết học trên lớp giáo viên giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh. Vậy muốn thông qua hoạt động dạy học mà hướng tới rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh thì người giáo viên phải biết tổ chức các hoạt động học tập làm sao để phát huy được sự tích cực, chủ động, mạnh dạn, tự tin của học sinh trong quá trình học tập. Vậy thì hoạt động nhóm là một hoạt động nếu người giáo viên tổ chức khéo léo sẽ phát huy được các ưu thế mà nó mang lại trong quá trình dạy học. Nó không chỉ giúp học sinh lĩnh hội kiến thức một cách chủ động mà còn là sân chơi giúp cho học sinh thể hiện bản thân, học hỏi bạn bè, khả năng hợp tác, làm việc nhóm. Từ xa xưa ông cha ta đã từng nói: “Học thày không tày học bạn” đây mãi là chân lý đúng đắn. Trong cuộc sống hàng ngày các em học sinh ngoài giao tiếp với cha mẹ, anh em, thầy cô giáo,…. thì thời gian các em học ở trên lớp cùng bạn học là khoảng thời gian mà các em giao tiếp nhiều nhất. Chính vì vậy mà người giáo viên muốn giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh cũng phải nắm bắt tốt cơ hội thông qua phương châm: “Bạn và tôi” để xây dựng cách thức giao tiếp thân thiện trong nhóm. Tổ chức nhóm là nhằm tạo cơ hội cho mọi đối tượng được nói, được trình bày miệng trước tổ, được mạnh dạn trình bày và biết cách trình bày một vấn đề nào đó trước tập thể. Từ đó, giúp các em rèn kỹ năng giao tiếp, biểu hiện thái độ cử chỉ khi trình bày để tăng thêm sức biểu cảm, tăng sức thuyết phục của vấn đề mà mình trình bày, cũng nhờ đó các em tự tin hơn trong giao tiếp, mạnh dạn hơn khi nói trước đông người.  Ví dụ: Trong tiết Kể chuyện, tôi luôn tổ chức cho học sinh kể lại đoạn chuyện, câu chuyện trong nhóm, sau đó kể trước lớp, giúp học sinh rèn kĩ năng mạnh dạn, tự tin trước đám đông, từ đó học sinh nói năng ngày càng lưu loát hơn. Sau khi HS kể xong, tôi mời các em nhận xét, trao đổi về nội dung ý nghĩa câu chuyện, nhận xét về cách thể hiện tính cách của từng nhân vật trong câu chuyện thông qua cử chỉ, điệu bộ, lời kể của bạn để giúp các em tạo cảm giác tự tin khi trao đổi, cách giải quyết một vấn đề có hiệu quả nhất, đặc biệt là giúp các em rèn luyện kỹ năng thể hiện cảm xúc của mình thông qua ngôn ngữ nói và ngôn ngữ hình thể. Hình ảnh học sinh tự tin kể chuyện trước lớp trong tiết Kể chuyện – Trong các tiết Toán, Khoa học, Lịch sử – Địa lý… khi học sinh đánh giá, nhận xét bài làm hoặc câu trả lời của bạn và đưa ra ý kiến hoặc cách làm của mình, các em đã được rèn kĩ năng giao tiếp một cách đúng mực và kĩ năng chia sẻ. Chẳng hạn:  Bạn làm sai, nhận xét là: “Theo tớ, cách giải thế này” chứ không nói là:”Cậu làm sai rồi” hoặc nhận xét một cách không tế nhị.  Hình ảnh học sinh lớp 4A đang đóng vai xử lý tình huống trong tiết Hoạt động NGLL Trong các giờ học Tiếng Việt nói chung, phân môn Tập làm văn nói riêng thể hiện, bộc lộ rõ nét nhất kỹ năng giao tiếp của học sinh thông qua câu văn, đoạn văn. Thông thường, những em giao tiếp tốt thì câu, đoạn văn gãy gọn, trôi chảy và ngược lại. Đối với những bài này, tôi ghi hẳn những câu văn (có khi chưa thành câu) còn sai lên bảng sửa sai ngay. Trong quá trình rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh, tất cả các bài làm văn của học sinh tôi đều chấm rất kỹ, đọc nhiều lần, chữa lỗi bằng mực đỏ. Giờ trả bài cho học sinh, ngoài các bước thông thường như những giáo viên khác, tôi còn tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm yêu cầu học sinh đổi chéo bài, đọc kỹ bài làm của bạn nhiều lần, phát hiện những câu chưa hoàn chỉnh. Giáo viên cùng với học sinh nhận xét, đưa ra phương án sửa lỗi để học sinh biết được vì sao vậy để lần sau không lặp lại. Đồng thời, tôi yêu cầu học sinh viết lại bài văn, khen ngợi biểu dương những học sinh tiến bộ, có câu cú gãy gọn, lời văn phù hợp ngữ cảnh. * Như vậy: Trong các giờ học trên lớp, tôi chú trọng hình thức tổ chức dạy học theo nhóm cho các em học sinh. Bởi học theo nhóm là hình thức giảng dạy đặt học sinh vào môi trường học tập tích cực và việc rèn cho các em các kỹ năng học hợp tác nhóm là hết sức cần thiết, tạo điều kiện để các em có nhiều cơ hội giao lưu, học hỏi lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau, qua đó rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh một cách rất có hiệu quả. Từ việc tổ chức cho học sinh hoạt động học tập theo nhóm như vậy mà học sinh lớp tôi luôn mạnh dạn, tự tin thể hiện bản thân mình trước đông người, biết cách tôn trọng ý kiến bạn bè, giúp đỡ nhau, hỗ trợ lẫn nhau trong học tập, Ngoài ra học sinh còn biết yêu thương, đoàn kết, cùng nhau tiến bộ. 2.3.3. Giáo dục kĩ năng giao tiếp trong sinh hoạt Đội và hoạt động ngoài giờ lên lớp. Hoạt động Đội là hoạt động tập thể có ý nghĩa quan trọng đối với học sinh lớp 4, vì có những em vừa mới được kết nạp vào Đội ở đầu năm lớp 4. Chính hoạt động Đội đã giúp các em thấy mình dường như lớn lên, trưởng thành hơn, vào Đội các em được giao lưu, học hỏi với các bạn đội viên khác trong trường, được hoạt động chung, được tham gia các phong trào, các cuộc thi do Đội tổ chức như: thi văn nghệ, thi phụ trách sao giỏi, thi chúng em là học sinh Tiểu học. Qua hoạt động Đội rèn cho các em nhiều kĩ năng giao tiếp mới đó là giao tiếp với các anh chị Phụ trách Chi đội, các Đội viên, các Sao, giao tiếp với các bạn trong Ban chỉ huy Liên đội, tạo cho các em giao tiếp trong các mối quan hệ đa dạng hơn. Giáo dục các em biết giao tiếp phù hợp trong các tình huống của môi trường mới mà người đội viên tham gia. Giáo dục kĩ năng giao tiếp thôn

Một Số Biện Pháp Rèn Kĩ Năng Đọc Cho Học Sinh Lớp 2

hải kiên trì. Khi học sinh đọc lẫn các tiếng có phụ âm đầu là l, giáo viên dừng lại sửa cho các em bằng cách: hướng dẫn các em đọc đầu lưỡi hơi cong, luồng hơi đi ra bị cản Ví dụ những tiếng có phụ âm đầu n đọc đầu lưỡi thẳng, môi trề, bụng hơi hóp lại. Những tiếng có âm quặt lưỡi như s - x; r - d- gi; tr- ch thì hướng dẫn các em nói tự nhiên cho hay, (không cố gắng đọc nhấn). Nhưng trong Tiếng Việt có phụ âm đầu là r (là phụ âm quặt lưỡi) thì chúng ta đọc không rung. Ví dụ: Như từ: ra vào, rang lạc, rực rỡ, rung rinh. Giáo viên đọc rung những tiếng là tiếng nước ngoài ,ví dụ: Ra đi ô, Ngoài việc sửa chữa trong mỗi tiết Tập đọc và các môn học khác, thì cuối mỗi buổi học tôi còn giao những bài tập đọc nhỏ để học sinh tự luyện đọc ở nhà và về nhà đọc trước bài của ngày hôm sau. Hàng ngày kiểm tra về cách đọc của học sinh và nhận xét. Qúa trình này tôi thực hiện thường xuyên và luôn khuyến khích các em. * Một số mẹo sửa lỗi phát âm l/n * Phát hiện lỗi phát âm: Lỗi thay thế phụ âm đầu /l/-/n/ xảy ra ở ba trường hợp: - Trường hợp 1: Thay thế âm cố định /l/ thành /n/ (ví dụ: "lạnh lẽo" thành 'nạnh nẽo"). - Trường hợp 2: Thay thế âm cố định /n/ thành /l/ (ví dụ: "núi non" thành "lúi lon"). - Trường hợp 3: Thay thế âm bất định, nghĩa là khi đúng khi sai, lẫn lộn không thể phân biệt, ví dụ: "lúa nếp làng" phát âm thành "núa lếp làng". * Cách chữa lỗi phát âm: Bàn về việc trị liệu, sửa chữa và luyện tập để phát âm chuẩn hai âm này, có nhiều cách phân biệt l-n khi nói và viết tiếng Việt. Trong bài viết này, xin giới thiệu một số kĩ thuật (thường được gọi là "mẹo") của một số nhà ngôn ngữ tiếng Việt đã gợi ý trong nhiều tài liệu ngôn ngữ tiếng Việt khác nhau. Ngoài ra, với chuyên môn về trị liệu âm ngữ, sẽ đề cập đến những cách phân biệt l-n trong khi nói và viết tiếng Việt dưới góc độ âm ngữ trị liệu tiếng Việt ở một bài viết khác. + Mẹo phân biệt viết con chữ l-n: Để cho dễ phân biệt về con chữ khi viết, mẹo "l cao, n thấp" được sử dụng để mô tả chiều cao của hai con chữ thể hiện hai âm này. Nhưng nhiều người đã biến tấu thành mẹo "n thấp, n cao" hoặc "l thấp, l cao" dựa vào cách phát âm của chính mình. Thực chất, mẹo này chỉ phần nào giúp phân biệt khi viết con chữ hơn là khi nói. Ngược lại, khi bị biến tấu, mẹo này lại làm cho người nói càng lẫn hơn khi phát ngôn + Mẹo phân biệt l-n khi nói và viết theo quy tắc cấu tạo âm tiết tiếng Việt Mẹo thứ nhất: Trong âm tiết, /l/ chỉ đứng trước âm đệm nhưng /n/ thì không (trừ trường hợp đặc biệt "noãn bào"). Ví dụ, những từ sau phải phát âm là l: cái loa, chói lòa, loan phượng, vết dầu loang, nói lưu loát, luẩn quẩn, loắt choắt, loanh quanh, luật pháp, luyến tiếc, Mẹo thứ hai: Khi không xác định được là /l/ hay /n/ trong một từ láy vần mà phụ âm này xuất hiện ở tiếng thứ nhất thì đó chắc chắn là phụ âm /l/. Có thể liệt kê ra các từ láy vần bắt đầu bằng phụ âm /l/ như sau: lệt bệt, lò cò, lộp độp,lúi húi, lai dai, lơ mơ, lã chã, lăng xăng, lon ton, lai rai, lởn vởn, lênh khênh, lăng nhăng, luẩn quẩn, lằng nhằng, loằng ngoằng, Theo danh sách đầy đủ thì kiểu láy vần bắt đầu bằng /l/ như trên có khoảng hơn 300 từ. Mẹo thứ ba: Khi không xác định được là /l/ hay /n/ trong một từ láy vần mà phụ âm đầu của tiếng thứ nhất là /z/ (gi,d) và phụ âm này xuất hiện ở tiếng thứ hai thì đó chắc chắn là phụ âm /n/, ví dụ: gian nan, gieo neo, Mẹo thứ tư: Khi không xác định được là /l/ hay /n/ trong một từ láy vần mà phụ âm này xuất hiện ở tiếng thứ hai và phụ âm đầu của âm tiết thứ nhất không phải là /z/ (gi, d) thì đó là phụ âm /l/ (trừ trường hợp: khúm núm, khệ nệ,), ví dụ: cheo leo, khoác lác, Mẹo thứ năm: Khi không xác định được là /l/ hay /n/ trong từ láy vần mà tiếng thứ nhất khuyết phụ âm đầu thì phụ âm đầu của tiếng thứ hai là /n/, ví dụ: ăn năn, ảo não, áy náy, Mẹo thứ sáu: Những từ không phân biệt được là /l/ hay /n/ nhưng đồng nghĩa với một từ khác viết với /nh/ thì viết là /l/, ví dụ: lăm le- nhăm nhe; lố lăng-nhố nhăng; lỡ làng - nhỡ nhàng;lài-nhài; lời-nhời; lầm-nhầm, Mẹo thứ bẩy: Trong từ láy phụ âm đầu thì cả hai tiếng trong từ láy đó phải cùng là một phụ âm. Do vậy, chỉ cần biết một tiếng bắt đầu bằng /l/ hay /n/ mà suy ra tiếng kia: Ví dụ: đều là l: lung linh, long lanh, lạnh lùng, Đều là n: no nê, nõn nà, núng nính, Mẹo liệt kê hệ thống từ vựng có phụ âm đầu /l/ và /n/ theo bẩy mẹo kể trên đã hệ thống hóa được một lượng từ vựng nhất định để người sử dụng không nhầm lẫn khi nói và viết. Đây còn là một nguồn tư liệu rất tiện ích cho các nhà trị liệu ngôn ngữ-lời nói, giáo viên và những người lớn khác sử dụng trong chương trình luyện tập phát âm hoặc chương trình phát triển ngôn ngữ cho cả trẻ em và người lớn. 2. Luyện đọc ngắt giọng Qua điều tra thực tế tôi thấy ở học sinh lớp 2 nói chung chưa biết cách đọc ngắt giọng. Để học sinh biết ngắt giọng trong khi đọc, trước hết phải hướng dẫn các em đọc đúng. Từ việc đọc đúng đó sẽ hướng dẫn các em đọc đúng cách ngắt giọng. Muốn đạt được điều đó cần phải dựa vào nghĩa và quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng, từ để ngắt hơi cho đúng. Khi đọc tuyệt đối không được tách từ ra làm hai, không tách từ chỉ loại với danh từ nó đi kèm theo. Không tách giới từ với danh từ đi sau nó, không tách quan hệ từ là với danh từ đi sau nó. Ví dụ: Không được đọc ngắt giọng: Tự xa/ xưa thủa nào Trong rừng/ xanh sâu thẳm (Gọi bạn - Tiếng Việt 2 tập 1 trang 28) Hay: Con ve cũng/ mệt vì hè nắng oi Mẹ là/ ngọn gió của con suốt đời. (Mẹ - Tiếng Việt 2 tập 1 trang 101) Mà phải đọc: Tự xa xưa / thủa nào Trong rừng xanh / sâu thẳm Con ve cũng mệt / vì hè nắng oi Mẹ là ngọn gió / của con suốt đời. Khi đọc các bài văn xuôi cũng vậy, việc ngắt giọng phải phù hợp với dấu câu. Nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn ở dấu chấm, trùng hợp với danh giới ngữ đoạn.Trên thực tế học sinh thường mắc lỗi ngắt giọng ở những câu văn dài có cấu trúc phức tạp hoặc mắc lỗi ngay ở câu ngắn. Nhưng các em chưa nắm được quan hệ ngữ pháp giữa các từ. Ví dụ: Ông già bẻ bó đũa một/ cách dễ dàng Dê trắng thương/ bạn quá Bàn tay mẹ/ quạt mẹ đưa gió về Vì vậy trước khi giảng một bài cụ thể giáo viên cần dự tính những chỗ học sinh hay ngắt giọng sai để xác định điểm cần luyện ngắt giọng. Ví dụ: Bài: Dậy sớm Tinh mơ / em thức dậy Rửa mặt / rồi đến trường Núi giăng hàng / trước mặt Phải lưu ý về cách ngắt nhịp vì theo dự tính học sinh sẽ ngắt Tinh mơ em / thức dậy Rửa mặt rồi / đến trường Núi giăng / hàng trước mặt Trong khi đó xét về mặt ý nghĩa và lí thuyết trọng âm hai câu đầu ngắt nhịp 2/3 và câu sau ngắt nhịp 3/2. Bên cạnh dạy học sinh ngắt giọng thể hiện đúng quan hệ ngữ nghĩa, ngữ pháp còn cần phải dạy ngắt giọng biểu cảm, nhằm gây ấn tượng về cảm xúc, nhằm tập trung sự chú ý của người nghe vào những từ ngữ mang trọng âm ngữ nghĩa. Ví dụ: Đó là chỗ ngừng lâu hơn trong các câu thơ cuối bài: Mẹ / là ngọn gió của con suốt đời. 3. Luyện đọc nhấn giọng Qua việc giảng dạy và thực tế trên lớp, để giúp học sinh đọc diễn cảm, đọc nhấn giọng người giáo viên cần phải thực hiện các nội dung sau: Chuẩn bị kĩ cho việc dạy nhấn giọng. Tìm hiểu kĩ nội dung bài dạy để hiểu rõ và cảm thụ sâu sắc bài, giúp học sinh đọc có hiệu quả hơn. Bài đọc trong sách giáo khoa của giáo viên cần nghi vắn tắt cách đọc, cách ngắt nhịp, cách nhấn giọng, sắc thái tình cảm đọc. Ví dụ : Bài: "Quà của Bố" ( Tiếng Việt 2- tập 1 trang 106) Đọc chậm rãi diễn tả hình ảnh về người bố, nhấn giọng ở các từ tả về món quà của người bố. Bài: Thương ông (Tiếng Việt 2- tập 1 trang 83) Ở bài này giáo viên hướng dẫn học sinh đều đọc ở nhịp 2/2, các câu thơ đọc giọng vui, cần ghi rõ từ nhấn mạnh (hoặc gạch chân) những đoạn câu cần ghi trọng âm, kí hiệu ngắt ( / ), nghỉ ( Trong từng bài giáo viên sẽ dự tính những lỗi học sinh sẽ mắc, giọng đọc cả bài, đoạn cần nhấn mạnh, tốc độ đọc. Giáo viên cần chuẩn bị đồ dùng dạyhọc. Phương tiện trực quan chủ yếu trong giờ Tập đọc là bài đọc và ngôn ngữ của giáo viên. Vì vậy, giáo viên cần sử dụng triệt để sách giáo khoa để học phân môn Tập đọc đạt kết quả tốt. Đồ dùng dạy học thông thường trong tiết Tập đọc là tranh mẫu và một số vật thực mô hình để giảng từ và ý. Ngoài ra giáo viên cần chuẩn bị bảng phụ để ghi nội dung bài, ý, câu thơ cần luyện đọc. Tuy nhiên khi lên lớp còn có nhiều tình huống mới mẻ cần xử lý. Song theo tôi sự chuẩn bị của giáo viên càng chu đáo thì lên lớp sẽ chủ động và sáng tạo hơn rất nhiều, giờ dạy sẽ đạt kết quả hơn mong đợi. Hướng dẫn học sinh cảm thụ văn học, đọc và cảm thụ là hai khâu có quan hệ mật thiết với nhau . Cảm thụ tốt giúp cho việc đọc của học sinh tốt hơn. Tuy nhiên , đối với học sinh lớp 2 đọc đúng, đọc diễn cảm chưa cao nên việc đọc đúng của học sinh cần chú trọng hơn. Ở đây viêc đọc ngắt giọng, nhấn giọng được chú ý vào những học sinh đã đọc tốt và yêu cầu đọc ở cuối kì I. Khi học sinh đã đọc chuẩn, nhanh thì trong mỗi tiết học tôi không cảm thụ thay học sinh, mà khêu gợi vốn hiểu biết sẵn có của học sinh phát huy tư tưởng của các em để tái hiện được bức tranh mà tác giả vẽ lên bằng ngôn ngữ sinh động. Ví dụ: Bài: Sáng kiến của bé Hà ( Tiếng Việt 2 tập 1 trang 78) Theo em bé Hà có những sáng kiến gì? Hà đã tặng ông món quà gì? Bé Hà trong truyện là một cô như thế nào? Với những câu hỏi trên cùng với những câu hỏi gợi ý nội dung bài học sinh sẽ tìm ra cách đọc thích hợp để diễn tả được cái không khí tưng bừng của cả gia đình bé Hà. Bên cạnh đó một trong những biện pháp để bồi dưỡng học sinh cảm thụ văn học là làm bài tập có hiệu quả. Để hướng tới đọc diễn cảm có sáng tạo, khi giảng bài trên lớp giáo viên cần hướng dẫn luyện đọc diễn cảm. Tuy nhiên chính nội dung này đã quy định ngữ điệu của nó, nên không thể áp đặt sẵn giọng đọc của bài. Ngược lại điều này phải kết hợp luôn tự nhiên của học sinh đưa ra sau khi hiểu sâu sắc và biết diễn đạt dưới sự hướng dẫn của cô giáo. Để hình thành kĩ năng đọc diễn cảm học sinh cần phải: + Biết thở sâu chỗ ngừng nghỉ để lấy hơi đọc. + Rèn cường độ giọng đọc ( luyện đọc to) + Luyện đọc đúng + Đọc diễn cảm đúng. Trong khâu luyện đọc, tôi tiến hành theo hai bước: Ví dụ: Dùng một gạch xiên ( / ) đánh dấu ngắt; hai gạch xiên ( Ví dụ: Ngày xưa ở làng kia, có hai em bé ở với bà. Ba bà cháu rau cháo nuôi nhau tuy vất vả nhưng cảnh nhà lúc nào cũng đầm ấm. (Bà cháu- Tiếng Việt 2- tập 1 trang 86) Với những câu có nhiều cách đọc, giáo viên nêu vấn đề cho nhiều em nêu ra cách đọc và giúp các em nhận ra cách đọc đúng, đọc diễn cảm (đọc ngắt giọng, đọc nhấn giọng) Đọc toàn bài - đây là bước thực hiện sau khi học sinh đã đọc theo từng đoạn. Đọc toàn bài giúp học sinh cảm thụ một cách tổng thể sắc thái của nội dung tác phẩm. Ở bước này giáo viên cần động viên khuyến khích cách đọc biểu lộ tình cảm riêng, tích cực trong đổi mới phương pháp giáo dục dạy học. Ngoài những biện pháp trên người giáo viên có thể kết hợp nội dung luyện đọc lồng ghép với trò chơi như: Thả thơ, truyền điện, chạy tiếp sức 4. Luyện đọc diễn cảm Muốn rèn cho các em đọc diễn cảm thì trước hết phải rèn cho các em đọc đúng, đọc ngắt giọng và nhấn giọng đã. Đọc diễn cảm là đọc văn bản sao cho giọng điệu phù hợp với tình huống miêu tả trong văn bản, thể hiện được tình cảm, thái độ, đặc điểm của nhân vật hay tình cảm, thái độ của tác giả đối với nhân vật và nội dung miêu tả trong văn bản. Đọc diễn cảm có nhiều mức độ: - Biết nhấn mạnh các từ quan trọng trong câu. Ví dụ: Trong bài Cây dừa - Tiếng Việt 2 tập 2 trang 88 có câu Cây dừa xanh toả nhiều tàu Dang tay đón gió, gật đầu gọi trăng. Khi đọc giáo viên phải lưu ý học sinh đọc nhấn giọng ở các từ ngữ gợi tả, gợi cảm như: toả, dang tay, gật đầu. - Biết thể hiện ngữ điệu (Sự thay đổi cao độ, trường độ của giọng đọc) phù hợp với từng loại câu (câu kể, câu hỏi, câu cảm, câu khiến). - Biết đọc giọng phân biệt lời kể của tác giả và lời nhân vật. - Biết đọc phân biệt lời của của các nhân vật. Ví dụ : Trong bài Tập đọc " Một trí khôn hơn trăm trí khôn" - Tiếng Việt 2 tập 2 trang 31- Khi đọc giọng Chồn lúc hợm hĩnh, lúc thất vọng, cuối truyện lại rát chân thành. Còn giọng Gà Rừng lúc khiêm tốn, lúc bình tĩnh, tự tin. Biết thể hiện ngữ điệu phù hợp với tình huống miêu tả trong đoạn văn hoặc văn bản . Chương 3: Kiểm chứng Vận dụng các biện pháp đã nêu trên tôi đã tiến hành dạy thực nghiệm như sau: Lớp tôi nghiên cứu chính là lớp tôi đang chư nhiệm. Đó là đối tượng lớp 2B Trường Tiểu học Nguyễn Lượng Thái..Bài thực nghiệm: Tôi đã chọn bài: Voi nhà. - Sở dĩ tôi mạnh dạn chọn bài này vì đây là bài văn xuôi, học sinh sẽ đọc hay sai cả phát âm , ngắt giọng và nhấn giọng. Song đây lại là bài văn rất hay bởi nội dung thật gần gũi với học sinh. - Trong quá trình dạy học tôi luôn áp dụng những biện pháp trên vào giảng dạy. Sau đó tôi dã tiến hành khảo sát học sinh như sau: Kiểm tra miệng: Em hãy đọc đúng các từ sau: Rú ga, vục, khựng lại, thu lu, lừng lững, lúc lắc, quặp chặt vòi, huơ vòi, lững thững Em hãy đọc đúng đoạn văn sau: Nhưng kìa, con voi quặp chặt vòi vào đầu xe và co mình lôi mạnh chiếc xe qua vũng lầy. Lôi xong, nó huơ vòi về phía lùm cây rồi lững thững đi theo hướng bản Tun. Đáp án bài 2: Nhưng kìa, /con voi quặp chặt vòi vào đầu xe /và co mình lôi mạnh chiếc xe qua vũng lầy. 2.Kết quả Tôi đã tiến hành khảo sát học sinh theo nội dung trên và thấy rằng kết quả đọc đúng, đọc ngắt giọng và nhấn giọng dẫn đến dọc diễn cảm của học sinh được nâng cao nhiều so với kết quả đầu năm, số lỗi mà học sinh mắc phải đã giảm đi nhiều nhất là sai về phụ âm đầu l/ n; vần ưng Chất lượng của giờ dạy sau thực nghiệm như sau: Lớp Sĩ số Luyện phát âm Ngắt giọng Nhấn giọng Đọc diễn cảm Đúng Chưa đúng Đúng Chưa đúng Đúng Chưa đúng Đúng Chưa đúng SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % 2A1 38 30 78,9 8 21,1 28 73,7 10 26,3 28 73,7 10 26,3 20 52,6 18 47,4 Qua tiết dạy Tập đọc bài Voi nhà nhằm rèn kĩ năng đọc đúng, đọc ngắt giọng, nhấn giọng và đọc diễn cảm cho học sinh lớp 2, tôi thu được một số kết quả sau: - Nâng cao được trình độ của giáo viên: Giáo viên phải dành nhiều thời gian nghiên cứu, tham khảo các tài liệu hướng dẫn, sách giáo khoa để dạy phù hợp với trình độ của học sinh. Đặc biệt trong khi dạy phân môn Tập đọc nói chung với các phân môn khác trong trường Tiểu học nói chung, người giáo viên cần phải có tính kiên trì, tỉ mỉ, có cách giảng truyền cảm để hướng dẫn các em cặn kẽ từng bài, từng phân môn, thu hút sự hứng thú học tập của học sinh. Qua đó giáo viên được tư duy khoa học, tạo niềm say mê đối với nghề nghiệp của người giáo viên. Phần III. KẾT LUẬN I. Đánh giá chung: - Trong giao tiếp, trong học tập, trong công tác hàng ngày, con người luôn phải học hỏi, tiếp thu nền văn minh của xã hội loài người. Vậy mà trong những kinh nghiệm cuộc sống, những thành tựu về văn hóa, khoa học, xã hội những tư tưởng tình cảm của các thế hệ đi trước và của xã hội đương thời thì phần lớn đơn vị ghi lại bằng chữ viết. Do vậy nếu không biết đọc thì con người không thể tiếp thu nền văn minh của nhân loại, không có niềm vui, hạnh phúc với đúng nghĩa của nó trong xã hội hiện tại. Chính vì vậy dạy học là một việc làm vô cùng quan trọng ở Tiểu học, trong các giờ học của các môn học nói chung và ở phân môn Tập đọc nói riêng việc đọc đúng, hay cho học sinh là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Bởi có đọc được thì học sinh mới có thể học các môn khác. - Để học sinh có khả năng đọc đúng, hay, diễn cảm thì người giáo viên phải dạy cho học sinh đọc đúng, đọc diễn cảm ngay từ những lớp đầu cấp. Nhưng không phải bằng cách tăng thời gian luyện đọc mà coi trọng chất lượng đọc, mà phải xác định nội dung đọc, hiểu như nhau. Xác định được ngữ liệu nội dung từng đoạn của bài để xác định các yếu tố nghệ thuật và giá trị của chúng trong diễn đạt nội dung. Giáo viên phải là người đọc mẫu chuẩn, hay. Dạy phải tỉ mỉ, kiên trì, nhẹ nhàng. Việc đưa ra hệ thống phiếu bài tập phải đảm bảo các yêu cầu, phải thực hiện được mục đích, học sinh phải chiếm lĩnh được một ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và trong học tập. Khi giảng dạy cần chú ý đến nội dung bài tập đọc. Những bài có yếu tố văn cần có những bài tập giúp học sinh phát hiện ra những giá trị tác dụng của chúng trong tác phẩm. II. Hiệu quả. Đề tài " Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2"giúp học sinh pháp âm đúng, chuẩn, đọc đúng ngữ liệu, ngắt giọng đúng và hay. Khi dạy giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian và có đầy đủ sách giáo khoa, sách giáo viên và phải chuẩn bị cả về đồ dùng dạy học phục vụ cho bài dạy đó thì tiết học mới có hiêụ quả cao. Mặc dù còn khó khăn trong trong quá trình thực hiện phương pháp nhưng nếu khắc phục được tôi nghĩ đây là một việc làm rất thiết thực trong quá trình nâng cao chất lượng đọc cho học sinh, góp phần lớn vào mục tiêu giáo dục Tiểu học. III.Ý kiến đề xuất. Trước thực tế giảng dạy trong năm học qua nhằm mục đích nâng cao chất lượng dạy học cũng như việc rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 2 trong phân môn tập đọc. Tôi xin đưa ra một vài kiến nghị sau: - Khi trẻ bắt đầu đến trường, giáo viên cùng với gia đình, nhà trường, xã hội phải giáo dục và rèn kỹ năng đọc cho các em một cách hiệu quả nhất. - Mỗi giáo viên , cần dành nhiều thời gian hơn vào việc nghiên cứu, vận dụng các phương pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh sao cho tốt hơn, hiệu quả hơn. - Cần tổ chức, tạo điều kiện cho giáo viên tham gia học hỏi, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy trong và ngoài trường theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học. Với đề tài " Một số biên pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2" tôi hi vọng rằng giúp các em nâng cao khả năng đọc của mình .Từ đó rèn cho các em biết: Đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm. Thực hiện đề tài này do hạn chế về trình độ nên tôi chỉ đưa ra một số vấn đề nho nhỏ.Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của Ban giám hiệu nhà trường, cũng như của các bạn đồng nghiệp để đề tài thêm hoàn chỉnh và chất lượng hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! An Bình, ngày 15 tháng 01 năm 2019 Người thực hiện Ninh Thị Thúy PHẦN IV: PHỤ LỤC Hướng dẫn dạy tập đọc trong trường Tiểu học. Tạp chí Giáo dục và Thời đại. Sách Tiếng Việt các lớp 1, 2