Chuyện Người Con Gái Nam Xương

Chuyện người con gái Nam Xương

Bài giảng: Chuyện người con gái Nam Xương – Cô Nguyễn Dung (Giáo viên VietJack)

I. Đôi nét về tác giả

– Nguyễn Dữ – có sách phiên âm là Nguyễn Tự (chưa rõ năm sinh năm mất)

– Quê quán: Ông là người huyện Trường Tân, nay là Thanh Miện – Hải Dương

– Nguyễn Dữ sống vào nửa đầu thế kỉ XVI, là thời kì Triều đình nhà Lê bắt đầu khủng hoảng, các tập đoàn phong kiến Lê, Mạc, Trịnh tranh giành quyền lực, gây ra những cuộc nội chiến kéo dài

– Sự nghiệp sáng tác: Ông học rộng tài cao nhưng chỉ làm quan một năm rồi cáo về, sống ẩn dật ở vùng núi Thanh Hóa. Đó là cách phản kháng của nhiều tri thức tâm huyết đương thời

II. Đôi nét về tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương

1. Hoàn cảnh sáng tác

“Chuyện người con gái Nam Xương” thuộc tác phẩm Truyền kì mạn lục (ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền), được viết ở thế kỉ XVI. Chuyện người con gái Nam Xương có nguồn gốc từ truyện cổ dân gian “Vợ chàng Trương”, là thiên thứ 16 trong 20 truyện của Truyền kì mạn lục

2. Tóm tắt

Vũ Nương tên thật là Vũ Thị Thiết, là cô gái thùy mị nết na, tư dung tốt đẹp, lấy Trương Sinh con nhà khá giả nhưng vô học, vũ phu. Cuộc sống vợ chồng chưa được bao lâu thì Trương Sinh phải đi lính. Mẹ chồng nàng vì nhớ thương con mà bệnh nặng qua đời, một mình Vũ Nương gánh vác mọi thứ, tự sinh con một mình đặt tên là Đản. Để bù đắp cho con sự thiếu thốn tình cha, đêm đến Vũ Nương chỉ bóng mình trên vách và bảo đó là cha Đản. Khi Trương Sinh trở về nhất quyết bé Đản không chịu nhận cha và nói cha đản thường đến vào buổi tối. Lúc này Trương Sinh nghi ngờ vợ bèn mắng nhiết đánh đuổi nàng, Vũ Nương hết lời giải thích minh oan nhưng chành đều không tin, rồi nàng gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Ít lâu sau bé Đản chỉ bóng Trương Sinh trên tường và bảo đó là cha Đản thì Trương Sinh mới thấu nỗi oan của vợ. Cùng làng Trương Sinh có Phan Lang vì đã cứu thần rùa Linh Phi nên được trả ơn. Trong một bữa tiệc dưới thủy cung, Phan Lang nhận ra Vũ Nương. Nghe Phan Lang kể chuyện nhà, Vũ Nương nhớ chồng con da diết và xin nói với Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng, nàng sẽ trở về. Khi Trương Sinh lập đàn giải oan thì Vũ Nương có hiện lên nhưng chỉ nói vài câu rồi biến mất.

3. Giá trị nội dung

– Khẳng định vẻ đẹp tâm hồn truyền thống của người phụ nữ Việt Nam

– Niềm cảm thương cho số phận bi kịch của họ đòng thời lên án tố cáo các lễ giáo phong kiến vô nhân đạo, các hủ tục hà khắc trong chế độ phong kiến đương thời.

4. Giá trị nghệ thuật

– Truyện viết bằng chữ Hán

– Kết hợp những yếu tố hiện thực và yếu tố kì ảo, hoang đường với cách kể chuyện , xây dựng nhân vật thành công

III. Dàn ý phân tích Chuyện người con gái Nam Xương

I. Mở bài

– Giới thiệu một vài nét chủ yếu nhất về tác giả Nguyễn Dữ: Một tác giả học rộng tài cao nhưng bất đắc chí

– Giới thiệu về tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương: Là một trong hai mươi truyện ngắn của Truyền kì mạn lục

II. Thân bài

1. Nhân vật Vũ Nương

a. Vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương

– Vẻ đẹp trước khi lấy chồng: là một người con gái “tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp” ⇒ một vẻ đẹp chuẩn mực

– Trong cuộc sống vợ chồng:

+ Giữ gìn khuôn phép, không để vợ chồng thất hòa ⇒ Tạo dựng và giữ gìn hạnh phúc gia đình

– Khi tiển chồng đi lính:

+ Dặn dò cẩn thận, đầy tình nghĩa, thủy chung

+ Nàng không mong chồng khi trở về mang “ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ” mà chỉ mong chồng bình yên → ko màng danh lợi

– Khi xa chồng:

+ Đảm đang: Là người mẹ hiền, dâu thảo.

+ Là người vợ thuỷ chung yêu chồng tha thiết: hằng đêm vẫn chỉ vào bóng mình và bảo với con đó là cha nó để vơi đi nỗi nhớ chồng

+ Tận tình, chu đáo rất mực yêu thương con

+ Khi mẹ chồng mất, nàng lo ma chay chu tất

⇒ Là người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu người phụ nữ

– Khi bị chồng vu oan:

+ Phân trần để chồng hiểu tấm lòng thủy chung của mình.

+ Nói lên nỗi đau đớn, thất vọng vì không hiểu.

+ Thất vọng tột cùng, nàng chọn cái chết để bày tỏ tấm lòng mình.

⇒ Vũ Nương là người phụ nữ xinh đẹp, nết na, hiếu thảo, chung thủy, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình

b. Số phận bi kịch của Vũ Nương

– Nguyên nhân của nỗi oan khuất và cái chết bi thảm của Vũ Nương

+ Cuộc hôn nhân không bình đẳng, chiến tranh phi nghĩa

+ Tính Đa nghi của Trương Sinh

+ Lời nói ngây ngô của đứa trẻ con

– Ý nghĩa:

+ Tố cáo chiến tranh, xã hội phong kiến trọng quyền uy người đàn ông và kẻ giàu

+ Bày tỏ niềm cảm thương của tác giả với người phụ nữ

2. Nhân vật Trương Sinh

– Là người không có học thức

– Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần không bình đẳng

– Có tính đa nghi, trở về rất buồn vì mẹ mất.

– Cách xử sự của Trương Sinh khi nghe lời bé Đản nói thể hiện sự hồ đồ, độc đoán ⇒ chính sự ghen tuông mù quáng của Trương Sinh là một nguyên nhân dẫn đến cái chết oan nghiệt của Vũ Nương.

⇒ Tác giả phê phán sự ghen tuông mù quáng, bày tỏ sự cảm thông và ngợi ca người phụ nữ đức hạnh mà phải chịu nhiều đau khổ, bất hạnh.

3. Những yếu tố kì ảo

– Những yếu tố kì ảo trong tác phẩm:

+ Chuyện Phan Lang nằm mộng thả rùa

+ Cuộc gặp gỡ giữa Phan Lang và Vũ Nương dưới thủy cung

+ Vũ Nương hiện về giữa uy nghi

⇒ Là những yếu tố hoang đường nhưng vẫn rất thực và gần gũi

– Ý nghĩa:

+ Hoàn chỉnh nét đẹp của Vũ Nương

+ Kết thúc có hậu

+ Không giảm tính bi kịch của tác phẩm, mà tăng giá trị tố cáo và niềm thương cảm của tác giả đối với số phận bi thảm của người phụ nữ

III. Kết bài

– Khái quát những nét nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm: Cách dẫn dắt: khéo léo, tăng tính bi kịch, lời thoại và lời tự bạch khắc họa sâu thêm tính cách nhân vật, các yếu tố kì ảo, kết hợp tự sự với trữ tình…

– Đây là một tác phẩm mang giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc

Bài giảng: Chuyện người con gái Nam Xương – Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k6: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Các bài Soạn văn lớp 9 siêu ngắn được biên soạn bám sát câu hỏi sgk Ngữ Văn lớp 9 Tập 1, Tập 2 giúp bạn dễ dàng soạn bài Ngữ Văn 9 hơn.

tac-gia-tac-pham-lop-9.jsp

Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật Của Chuyện Người Con Gái Nam Xương

b) Giá trị nhân đạo Chuyện người con gái Nam Xương

Là nhà văn đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam quan tâm đến số phận của người phụ nữ: chia sẻ, cảm thông với nỗi bất hạnh, hiểu thâu những nỗi oan trái mà người phụ nữ phải gánh chịu. Nguyễn Dữ đã tìm đến với họ, đồng cảm trước nỗi đau và ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của họ. Vì vậy mỗi hình ảnh câu chữ chính là Lấm lòng, tình thương của ông. Chuyện người con Nam Xương là một minh chứng cho trái tim giàu tình yêu thương của Nguyễn Dữ.

Trong truyện, ông đã ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương. Là người phụ nữ thuỳ mị, nết na, đảm đang, tháo vát. Là người con hiếu nghĩa. Là người vợ thủy chung, khi chồng ở nhà: giữ gìn khuôn phép; khi chồng đi lính: thương nhớ, không ham danh vọng tiền tài, chỉ mong “hai chữ bình yên” với thú vui “nghi gia, nghi thất”; nhớ chồng, chỉ bóng của mình trên vách để an ủi mình và con lúc vắng chồng; “ba năm giữ gìn một tiết, tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”. Khi bị chồng nghi oan, không thể giãi bày, nàng đã lấy cái chết để chứng minh cho lấm lòng trong trắng, thủy chung. Trong lòng nàng không gì khác ngoài lòng yêu chồng, thương con.

Tác giả còn xót thương, thông cảm với nỗi oan ức của người phụ nữ. Trong khi chế độ phong kiến coi thường quyền sống của người phụ nữ, không hề quan tâm đến nỗi khổ của họ, nguyện vọng của họ thì Nguyễn Dữ đã đề cập đến nỗi khổ ấy, xót thương cho nỗi oan ấy. Tác giả đề cao khát vọng của họ, muốn họ được tôn trọng. Chi tiết cuối truyện, việc Vũ Nương trở về trên bến Hoàng Giang lộng lẫy, sang trọng, lúc ẩn, lúc hiện sau đó mờ dần rồi biến mất, đã phản ánh ước mơ, nguyện vọng của nhân dân lao động về lẽ sống công bằng: người bị oan thì phải được minh oan, dù việc đó xảy muộn màng khi họ đã chết. Chi tiết còn khẳng định cái tốt, cái thiện được tôn vinh, cái đẹp được khẳng định.

c. Kết bài.

– Khẳng định tác phẩm thực sự là áng văn mẫu mực tiêu biểu cho Truyền kì man lục của Nguyễn Dữ, vừa mang giá ưị hiện thực lại vừa chứa chan tinh than nhân đạo. – Suy nghĩ của bản thân.

Đặc Sắc Nội Dung, Giá Trị Nghệ Thuật Chuyện Người Con Gái Nam Xương

Đọc bài Chuyện người con gái Nam Xương của tác giả Nguyễn Dữ và nêu lên giá trị nội dung cũng như giá trị nghệ thuật của tác phẩm này. Gợi ý để các em hiểu tác phẩm hơn.

1. Tác giả – Tác phẩm

Về tác giả Nguyễn Dữ, hiện chưa biết năm sinh năm mất, ông sống khoảng thế kỷ XVI, người huyện Trường Tân (thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay). Ông là học trò Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, với học thức cao rộng, làm quan dưới triều đình nhà Lê. Tuy nhiên chỉ làm quan một năm rồi ông về ở ẩn. Truyền kì mạn lục là tác phẩm nổi tiếng của ông được viết bằng tiếng Hán. Đây là tác phẩm ghi chép tản mạn lại những điều kì lạ vẫn được lưu truyền, thể hiện quan niệm sống và tấm lòng của ông trước cuộc đời.

Chuyện người con gái Nam Xương là tác phẩm nằm trong tập truyện “Truyền kì mạn lục” của ông. Truyện kể về người con gái Vũ Nương với số phận bi kịch, thảm thương trong xã hội đương thời. Qua đó cũng thấy được sự đau xót và tiếc thương của tác giả cho số phận người con gái trong xã hội phong kiến xưa.

2.Bố cục

Tác phẩm được chia thành ba phần:

Phần 1: từ đầu đến “như đối với cha mẹ đẻ mình” – Cuộc sống của Vũ Nương, phẩm hạnh người con gái khi chồng đi chiến đấu

Phần 2: tiếp đến “nhưng việc đã trót qua rồi” – Nỗi oan ức của nhân vật Vũ Nương

Phần 3: Còn lại – Sự thật phơi bày, nỗi oan được hóa giải.

3. Đặc sắc nội dung

Nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương là người con gái đẹp người đẹp nết nhưng lại có số phận bi thảm, oan khuất. Tác giả đã thể hiện sự thương cảm đối với số phận người phụ nữ trong xã hội xưa nhưng cũng lên tiếng khen ngợi vẻ đẹp truyền thống của họ.

Câu chuyện còn có nhiều yếu tố kì ảo, hoang đường nhưng đã phản ánh chân thực được xã hội thời phong kiến khắc nghiệt, cổ hủ đối với thân phận người phụ nữ.

4. Giá trị nghệ thuật

“Chuyện người con gái Nam Xương” là tác phẩm hay với những giá trị nghệ thuật đặc sắc.

– Trước hết phải kể đến nghệ thuật xây dựng cốt truyện: tác giả đã dựa vào cốt truyện có sẵn từ dân gian, sau đó thêm vào nhiều tình tiết giúp truyện trở nên hấp dẫn, kịch tính. Mặc dù có nhiều yếu tố kì lạ những truyện vẫn tự nhiên, lôi cuốn người đọc.

– Nghệ thuật xây dựng nhân vật: mỗi nhân vật trong truyện đều có những tính cách riêng thể hiện qua lời nói, đối thoại hoặc những đoạn độc thoại. Từ nhân vật người mẹ, đến cậu bé Đản đều mang đậm chất ngôn ngữ riêng thể hiện tính cách nhân vật, giúp câu chuyện thêm sinh động.

– Dùng nhiều phương thức biểu đạt: truyện không chỉ là kể đơn thuần mà còn kết hợp cả yếu tố biểu cảm. Kể chuyện xen lẫn biểu cảm, đây là cách thức kể chuyện độc đáo giúp tác giả lôi cuốn người đọc vào các tình tiết mà không hề khô khan.

– Một nghệ thuật đặc sắc làm nên thành công cho tác phẩm phải kể đến là cách tác giả xây dựng tình tiết câu chuyện ly kì hấp dẫn. Hình ảnh “cái bóng” được cho là nút thắt giúp câu chuyện phát triển đến đỉnh điểm một cách hết sức tự nhiên.

-Giá trị hiện thực và nhân đạo được thể hiện sâu sắc qua câu chuyện:

Chuyện người con gái Nam Xương tác giả đã phê phán xã hội phong kiến cũ cổ hủ, hà khắc đã vùi dập thân phận người phụ nữ đồng thời đề cao những phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương đại diện cho người phụ nữ xưa thủy chung, đẹp người đẹp nết.

Phân Tích Những Đặc Sắc Nghệ Thuật Trong Chuyện Người Con Gái Nam Xương Của Nguyễn Dữ

Phân tích những đặc sắc nghệ thuật trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ

Mở bài:

Xây dựng thiên truyện Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ đã vận dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật đắc sắc. Nhà văn đã xây dựng tính cách nhân vật theo thủ pháp quen thuộc của truyện cổ dân gian, để cho nhân vật trực tiếp bộc lộ bản chất, tính cách bằng những hành động cụ thể. Từ tình huống độc đáo, nhà văn tạo dựng kịch tính truyện gây cấn, kịch liệt.

Thân bài:

Thắt nút truyện bằng yếu tố bất ngờ. Một câu nói ngây thơ nghe như thật của trẻ thơ mà gây bão tố dây chuyền trong cuộc đời. Bão tố nghi kị trong đầu óc nam quyền độc đoán, thiếu trí tuệ; bão tố bất hòa dữ dội phá tan hạnh phúc của một gia đình êm ấm. bão tố oan khiên phá nát cuộc đời của một người con gái trong trắng, phải kết thúc bi thảm trên một dòng sông. Gỡ nút cũng bất ngờ bằng nột câu nói trẻ thơ non dại (khi chỉ cái bóng của chàng Trương trên vách: “cha Đản lại đến kia kìa” thì bao nhiêu oan khiên gây thảm kịch trong phút chốc bỗng được sáng tỏ.

Có thể nói, chi tiết cái bóng được xây dựng rất khéo vừa phù hợp với cách nhìn, cách miêu tả thơ ngây cảu trẻ con vừa khiến cho một người hay đa nghi như Trương Sinh tưởng lầm rằng đó là người đàn ông đêm đêm đến dan díu cùng vợ mình. Chi tiết cái bóng thắt mở câu chuyện cùng với bản tính đa nghi của Trương Sinh đã gây nên cái chết bi thảm cho Vũ Nương.

Truyện có những đoạn đối thoại và những lời tâm linh của nhân vật được sắp xếp đúng chỗ, làm cho câu chuyện trở nên sinh động, góp phần khắc họa diễn biến tâm lí và tính cách nhân vật. Lời nói của bà mẹ Trương Sinh nhân hậu, từng trải. Lời lẽ của Vũ Nương bao giờ cũng chân thành, dịu dàng, mềm mỏng, có lí, có tình. Đó là lời của người phụ nữ hiền thục, đoan chính. Lời của bé Đản hồn nhiên, ngây thơ, thật thà.

Chuyện đáng lẽ có kết thúc ở đoạn “gỡ nút” truyện, chàng Trương tỉnh ngộ, thấu hiểu nỗi oan của vợ. Nhưng Nguyễn Dữ đã thêm phần Vũ Nương trở về dương thế, gặp chồng trong thoáng chốc. So với truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, Nguyễn Dữ đã tái tạo, thêm thắt nhiều tình tiết mới lạ, hấp dẫn đem đếm cho truyện những giá trị tư tưởng và thẩm mĩ mới. Chi tiết ấy làm tăng thêm sức hấp dẫn của truyện và hoàn chỉnh tính cách nhân vật Vũ Nương, thỏa mãn ước mơ của nhân dân là “ở hiền gặp lành”, người tốt sẽ được đền bù. Dù có bị oan thì cuối cùng sẽ được giải oan, giúp cho truyện kết thúc có hậu.

Trong truyện, có rất nhiều những yếu tố kì ảo tập trung ở phần sau của truyện như con rùa mai xanh được Phan Lang cứu, Vũ Nương được ở lại Thủy cung, rồi hiện về với kiệu hoa rực rỡ trên sông… Đó là những tình tiết kì ảo, không có thực nhưng đã tạo ra một thế giới nghệ thật lung linh huyền ảo, làm cho câu chuyện trở nên sinh động, hấp dẫn, ẩn chứa trong đó là biết bao mơ ước tốt đẹp của nhà văn dành cho những ngường bất hạnh.

Kết bài:

Chuyện người con gái Nam Xương mãi mãi được coi là áng “thiên cổ kì bút” (bút lạ ngàn đời), nó không chỉ thể hiện văn tài lỗi lạc của Nguyễn Dữ mà còn nói lên tấm lòng nhân đạo của ông thương cảm cho cuộc đời, số phận bất hạnh cảu người phụ nữ trong xã hội cũ. Có thể nói, ông đã xây dựng thành công nhân vật Vũ Nương người con gái là hiện thân cho những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ trong xã hội thời phong kiến: nết na, đức hạnh; đảm đang, tháo vát; thương chồng thương con nhưng cuộc đời lại gặp nhiều cảnh ngộ éo le, ngang trái để từ đó ông lên án gay gắt xã hội đương thời với những hủ tục khắt khe đã chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của biết bao người phụ nữ đáng thương vô tội. Đúng như Nguyễn Du đã từng nói:

“Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. (Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Giáo Dục Nghệ Thuật Với Phát Triển Con Người

Năm 2008, công trình khoa học Nghiên cứu chỉ số phát triển con người () của Việt Nam được công bố. Trong lời giới thiệu mở đầu, GS.. Phạm Minh Hạc xác định mục đích giáo dục luôn hướng tới sự phát triển con người bền vững trong bối cảnh nền kinh tế thị trường ( kinh tế đơn thuần), đồng thời giải thích phát triển con người bền vững trở thành một trong những khái niệm trung tâm trong thời đại ngày nay. Yêu cầu ngày càng nâng cao vai trò con người với tư cách thành viên trong xã hội tri thức, đang đòi hỏi mỗi cá nhân đầy đủ khả năng về trình độ chuyên môn hóa cao, điều này trở thành tiêu chí giáo dục ở tất cả quốc gia trong đó có Việt Nam. Bằng con đường giáo dục, con người có kiến thức nghề nghiệp (vốn trí tuệ), các chương trình đào tạo giải quyết nguồn vốn con người tương lai một cách toàn diện. Mục đích giáo dục hướng tới sự thúc đẩy cao nhất năng lực, điều kiện để mọi người cùng cống hiến, góp phần phát triển chung xã hội, đồng thời là cơ sở hình thành lối sống trách nhiệm vì lợi ích cộng đồng, nâng cao ý thức lòng tự hào dân tộc, tình yêu quê hương đất nước.

Chiến lược phát triển con người là chính sách hoạch định quan trọng bậc nhất, nội dung giáo dục hướng với mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, giàu mạnh, con người là nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định công cuộc – ở Việt Nam. Như vậy phát triển con người Việt Nam đầu thế kỷ XXI với nội hàm đầy đủ trí lực, tâm lực, thể lực được toàn diện hóa và cụ thể hóa, xác định nhiệm vụ giáo dục như văn kiện đại hội IX Đảng Cộng Sản Việt Nam (04-2001) chỉ rõ phát triển kinh tế trí thức, phát triển con người trở thành mục tiêu trung tâm của tất cả các mục tiêu, do đó giáo dục, khoa học công nghệ là công cụ chính sách hàng đầu.

Lúc sinh thời, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng luôn quan tâm tới sự nghiệp giáo dục. Năm 2008, cuốn sách Giáo dục- đào tạo, quốc sách hàng đầu, tương lai của một dân tộc, tập hợp những bài nói, viết của cố thủ tướng về giáo dục Việt Nam, trong đó cố thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định: giáo dục đào tạo là nhân tố có tầm quan trọng bậc nhất, góp phần không chỉ làm nên sự nghiệp của một con người mà còn là động lực làm nên lịch sử của cả một dân tộc[2]. Như vậy, giáo dục là hoạt động mang tính xã hội, tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển đất nước, đóng vai trò hình thành con người trí- đức- thể- mỹ toàn diện. Giáo dục định hướng mỗi cá nhân vào nhiệm vụ phục vụ lợi ích chung, làm ra của cải vật chất, phồn vinh của dân tộc. Với ý nghĩa trên, giáo dục là sự nghiệp đào tạo đặc biệt quan trọng đối với thế hệ trẻ, đây là nguồn tri thức tương lai, nhân tài mai sau, như Bác Hồ căn dặn vì lợi ích 10 năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người.

2. Hệ thống giáo dục phổ thông hiện nay gồm 3 cấp học:

– Tiểu học: cung cấp cho học sinh độ tuổi từ 6 đến 11 (từ lớp 1 đến lớp 5) những kiến thức về môi trường sống xung quanh và hiểu biết về xã hội.

– Trung học cơ sở: có độ tuổi từ 11 đến 15 (từ lớp 6 đến lớp 9), tại bậc học này học sinh được cung cấp kiến thức cơ bản về thế giới tự nhiên, xã hội.

– Phổ thông trung học: tiếp nhận học sinh có độ tuổi trung bình từ 15 đến 18 (từ lớp 10 đến lớp 12). Đây là thời kỳ thiếu niên phát triển nhanh về tâm lý, thể lý chuẩn bị chuyển sang tuổi thanh niên. Giai đoạn này, học sinh được trang bị khối lượng lớn kiến thức tự nhiên, xã hộiđể tiếp tục học ở cấp cao hơn hoặc trở thành nguồn lao động phổ thông, tham gia trực tiếp sản xuất sau khi hoàn thành bậc học.

Là bộ phận của giáo dục Việt Nam, chức năng giáo dục nghệ thuật có những đặc điểm chung của giáo dục học, đồng thời mang tính đặc thù chuyên biệt, đào tạo nghệ thuật luôn đi cùng việc phát hiện năng khiếu (âm nhạc, mỹ thuật, múa, kịch quá trình tổ chức dạy và học đòi hỏi sự thiết kế riêng tạo môi trường để tài năng nghệ thuật phát triển nhanh. GS. Phạm Viết Vượng nêu rõ: nền giáo dục của bất cứ quốc gia nào, thời đại nào không những hướng vào việc nâng cao dân trí, mà còn hướng vào quá trình phát hiện và bồi dưỡng nhân tài, và nhân tài là tài sản quý của mỗi quốc giatrong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, khoa học, công nghệ [4]. Cùng với nhiệm vụ nâng cao dân trí, giáo dục nghệ thuật có nhiệm vụ phát hiện và bồi dưỡng nhân tài. Đây là nội dung chuyển tải những giá trị, ý nghĩa chủ yếu mà các loại hình nghệ thuật phát hiện bồi dưỡng tài năng. Đồng thời, với chức năng thẩm mỹ giáo dục nghệ thuật thúc đẩy niềm say mê, lao động sáng tạo, là công cụ hiệu quả nâng cao đời sống tinh thần ngày càng phong phú, như vậy vai trò giáo dục nghệ thuật trong môi trường học đường (cấp 1,2) có những đặc điểm:

– Sử dụng các loại hình nghệ thuật: ca hát, nhảy múa, vẽ tranh, diễn kịch… định hướng thiếu niên, nhi đồng (tiểu học, trung học cơ sở) nhằm giáo dục nhân cách, định hình lối ứng xử theo chuẩn mực đạo lý truyền thống Việt Nam.

– Trang bị cho học sinh những kiến thức, hiểu biết phổ thông về thế giới quan, nhân sinh quan thông qua giá trị nghệ thuật Việt Nam và trên thế giới, góp phần hình thành thói quen, hành vi văn minh trong xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XXI.

– Bằng nghệ thuật, trẻ em được giáo dục toàn diện trí- đức- thể- mỹ, sớm phát huy lối tư duy chủ động, tinh thần tự giác.

Trong bối cảnh hiện nay, chức năng nghệ thuật học đường chủ yếu định hướng học sinh cảm thụ cái đẹp, qua đó xây dựng lối sống hướng thiện. Từ tiểu học đến trung học cơ sở, các em được cung cấp kiến thức tối thiểu, đại trà các môn âm nhạc, mỹ thuật. Những hiểu biết ban đầu về nghệ thuật rất có ích, giúp trẻ em nhanh chóng phát triển tư duy tưởng tượng, suy luận theo phương pháp liên hệ, so sánh giữa thế giới trong nghệ thuật với cuộc sống hàng ngày, điều này cho thấy các loại hình nghệ thuật cần thiết phải phổ cập trong hệ thống giáo dục quốc dân. Những nước có nền giáo dục phát triển ở châu Âu luôn ý thức, tạo điều kiện để học sinh tham gia các bộ môn nghệ thuật, bởi học nghệ thuật sẽ nâng cao hơn năng lực cảm thụ xã hội, hình thành cách sống cân bằng, hài hòa.

Là đất nước có nền văn hiến sớm phát triển, qua mỗi thời kỳ đều sản sinh những tài năng kiệt xuất, người Việt ngay khi sinh ra đã sống trong hát ru, chuyện cổ tích, thần thoại, những câu ca dao, điều này là cơ sở của lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết chống giặc ngoại xâm. Cuối thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX, truyện Kiều thuộc dòng thơ nôm bác học đã đi vào đời sống hàng ngày, được dân chúng làng quê, thành thị đón nhận và thuộc lòng, dù đa số chưa biết chữ. Mọi người không chỉ ngâm Kiều, bói Kiều mà còn lẩy Kiều (một lối hát nói phổ biến ở đồng bằng sông Hồng), nhiều người không chỉ lẩy Kiều xuôi theo bản Nôm mà còn lẩy ngược từ câu cuối về câu đầu tiên, truyện Kiều trở thành hình thức đức dục truyền miệng, răn dạy hiệu quả. Đây là cách giáo dục sử dụng nghệ thuật âm nhạc dân gian hướng tới lối sống cộng đồng, tình làng nghĩa xóm giàu tính nhân văn thời đó.

3. Trong công cuộc phát triển đất nước, giáo dục nghệ thuật Việt Nam đóng vai trò đa dụng trong đời sống xã hội. Âm nhạc, mỹ thuật là môn học ở bậc tiểu học và trung học cơ sở. Những kết quả nghiên cứu cho thấy giáo dục nghệ thuật đóng góp quan trọng vào quá trình hình thành nhân cách, trí tuệ con người Việt Nam. Thông qua âm nhạc, hội họa, các em cảm thụ rõ ràng quê hương đất nước, hình ảnh bờ tre, ruộng lúa, biển rộng, sông núihiện hữu với vẻ đẹp gần gũi, thân thuộc. Không chỉ vậy, mối quan hệ gia đình đầy ý nghĩa và bền chặt khi hát lên những bài hát về tình yêu thương bố mẹ, ông bà, anh chị em. Sự gắn bó huyết thống, ruột thịt có ảnh hưởng lớn đến các em, tạo nên sự ổn định, vững vàng tâm lý từ lúc còn thơ đến tuổi trưởng thành, làm nền tảng cho mối quan hệ, ứng xử xã hội mai sau.

Như vậy, giáo dục nghệ thuật có giá trị ý nghĩa sau:

– Giáo dục nghệ thuật có chức năng thẩm mỹ, định hướng con người tới chân- thiện- mỹ với những giá trị truyền thống của dân tộc, hình thành nhân cách chủ động, linh hoạt, trân trọng cái tốt, cái đẹp trong cuộc sống hàng ngày.

– Sử dụng các loại hình nghệ thuật, giáo dục tính nhân văn, vì cộng đồng, hoàn thiện bản thân và trở thành người có tài năng, đem lại lợi ích cho xã hội.

Các loại hình nghệ thuật trong môi trường giáo dục học đường là sự cần thiết đối với tuổi thiếu niên, nhi đồng. Âm nhạc, hội họa, múa, diễn kịchđóng góp tích cực đào tạo con người toàn diện trong bối cảnh Việt Nam cần nguồn nhân lực vừa có tài vừa có đạo đức nghề nghiệp, do đó nghệ thuật là cơ sở tạo nhân cách biểu lộ qua ứng xử trong sinh hoạt. Sự hiểu biết đa dạng kích thích mạnh mẽ ý thức nên làm điều tốt đẹp cho mọi người, tránh điều xấu xa có hại đến bản thân, xã hội. Khi tham gia trực tiếp vào hoạt động nghệ thuật, các em sẽ tự điều chỉnh hành vi, tìm đến lẽ phải, chân lý, rút ra những bài học về lối sống có văn hóa, từ đó phẩm chất cá nhân: tính cách, năng lực được bộc lộ và sớm hình thành. Có thể thấy, nghệ thuật học đường không chỉ trong giờ học mà còn diễn ra mọi lúc mọi nơi, như hoạt động vui chơi theo nhóm, trong tập thể với bạn bè cùng lứa, qua đó tính tích cực, sáng tạo của trẻ em sớm phát triển. Nói tóm lại, để hình thành nhân cách tốt, ngay từ khi cắp sách tới trường, môi trường giáo dục trong đó giáo dục nghệ thuật đóng vai trò quan trọng sự trưởng thành của trẻ em.

Song song với các môn tự nhiên, xã hội, học nghệ thuật giúp các em tăng cường thụ cảm về thế giới nội tâm, đời sống tinh thần phong phú, nhanh chóng phát triển, mở mang trí tuệ. Các hình khối, màu sắc hội họa luôn thu hút các em tìm hiểu, tạo hiệu ứng so sánh giữa tranh và cuộc sống. Âm nhạc vang lên, đem lại giá trị ý nghĩa trong mối liên hệ giữa lời ca và mối quan hệ xã hội, hình ảnh trong nghệ thuật luôn hiện lên vẻ đẹp hướng đến chân- thiện- mỹ đầy xúc cảm. Đó chính là giá trị mà nghệ thuật có được, giống như ống kính vạn hoa kích thích khả năng tưởng tượng đầy ước mơ và hoài bão. Trong cuốn sách (xuất bản năm 1929 ở Luân ), tác giả Jean đưa ra lý thuyết về sự phát triển các nguyên nhân của suy nghĩ ở trẻ em. Ông cho rằng mọi sinh vật đều cố gắng để đạt tới trạng thái cân bằng với môi trường sống của mình, thăng bằng giữa yếu tố nhận thức bản thân với sự vật, hiện tượng xã hội đang diễn ra. Nghệ thuật chứa đựng hàm số tạo đà phát triển trí tuệ theo các hướng:

– Tư duy được tổ chức thúc đẩy sáng tạo đạt tới sự thăng bằng giữa cá nhân với cộng đồng.

– Cảm thụ nghệ thuật tốt giúp trí tuệ hình thành phản ứng chuỗi giai đoạn, có thể đạt tới khả năng dự đoán trước, tổng hợp thành ý nghĩa, năng lực bản thân.

Nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt trong giáo dục, bởi sự tác động và ảnh hưởng lớn đến quá trình hình thành nhân cách, phát triển trí tuệ mỗi con người, đặc biệt đối với lứa tuổi thiếu niên, nhi đồng.Xét cho cùng, nghệ thuật là chìa khóa phát huy cao độ phẩm chất cá nhân nhìn từ góc độ xã hội, triết học duy vật biện chứng chỉ rõ nguồn gốc sự phát triển con người tồn tại trong quá trình sinh sống của trẻ em, mọi tác động bên ngoài đều bị khúc xạ bởi cái bên trong của đứa trẻ[3]. Giai đoạn từ nhi đồng (tiểu học), thiếu niên (trung học cơ sở) là sự tiếp nối từ ấu thơ, mẫu giáo, đồng thời là giai đoạn kế tiếp tuổi thanh niên, trung niên, tuổi già. Sự phát triển trí tuệ không đi theo con đường bằng phẳng mà có những bước nhảy vọt theo tiến trình phát triển ngày càng cao trong tư duy. Cái bên trong chính là sự nhận thức, tư duy minh mẫn, khỏe mạnh về tinh thần cùng thể chất. Để đạt tới sự hài hòa, phát triển đồng đều, nghệ thuật là cầu nối, công cụ hữu hiệu giúp trẻ em phát triển nhanh trí lực, tâm lực, thể lực, có đời sống lành mạnh, trở thành người có ích cho xã hội, là nguồn nhân lực tương lai trong công cuộc – ở Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, chính sách phát triển con người toàn diện đòi hỏi sự nghiệp giáo dục cần cải cách nhanh hơn, phù hợp với tình hình thực tế của đất nước.

4. Lời kết: nghệ thuật là tấm gương phản ánh trung thực đời sống xã hội loài người, do đó dạy học nghệ thuật trong tiểu học, trung học cơ sở có tính cấp thiết, không thể thiếu, bởi yêu cầu phát triển toàn diện con người Việt Nam đầu thế kỷ XXI. Nghệ thuật không chỉ là bài dạy và học trên lớp, mà mục đích cao cả nhất là hướng tới sự phát triển toàn diện trí- đức- thể- mỹ. Với chức năng vai trò đặc thù, các loại hình nghệ thuật đang đóng góp tích cực vào quá trình hình thành con người mới ở Việt Nam, nguồn nhân lực bền vững vừa kế thừa truyền thống phẩm chất ưu việt chân thành, mộc mạc, giản dịnhưng đầy dũng cảm, thông minh trong thời đại Hồ Chí Minh.