Biện Pháp Nghệ Thuật Khổ 1 Đây Thôn Vĩ Dạ / Top 4 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Cảm Nhận Khổ 1 Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ

Cảm nhận khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Hướng dẫn cách làm, lập dàn ý và tham khảo những bài văn mẫu hay phân tích, cảm nhận về khổ thơ đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.

Hướng dẫn cảm nhận khổ 1 bài Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử)

Cảm nhận khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.

1. Phân tích đề

– Yêu cầu: cảm nhận nội dung khổ thơ 1 bài Đây thôn Vĩ Dạ.

– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng : những câu thơ, từ ngữ, chi tiết tiêu biểu trong khổ thơ đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.

– Phương pháp lập luận chính: phân tích, nêu cảm nhận.

2. Hệ thống luận điểm

– Luận điểm 1: Cảm nhận bức tranh thiên nhiên xứ Huế bình yên, thơ mộng.

– Luận điểm 2: Hình ảnh con người xứ Huế đôn hậu, dịu dàng.

3. Lập dàn ý chi tiết

– Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm:

Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tài hoa nhưng không được may mắn trong cuộc sống. Khi ra đi ông để lại một kho tàng văn thơ vô cùng to lớn. Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Hàn Mặc Tử đó là bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ. Bài thơ nói về cảnh nơi thôn Vĩ, nơi có người ông thương.

– Giới thiệu khái quát nội dung khổ thơ đầu: Cảnh đẹp nơi thôn Vĩ được thể hiện rõ nhất qua khổ 1 của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.

b) Thân bài: Cảm nhận khổ đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

* Khái quát về bài thơ:

– Hoàn cảnh ra đời bài thơ:

+ Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được sáng tác vào khoảng năm 1938, in lần đầu tiên trong tập Thơ điên (về sau đổi tên thành Đau thương).

+ Bài thơ được viết khi Hàn Mặc Tử nhận được một tấm bưu thiếp từ người con gái mà nhà thơ thầm thương, Hoàng Thị Kim Cúc.

– Địa danh “thôn Vĩ Dạ” : Vĩ Dạ là một phường thuộc thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.

* Luận điểm 1: Bức tranh thiên nhiên xứ Huế bình yên, thơ mộng.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

– Lời trách móc nhẹ nhàng, duyên dáng, thân tình, cũng có thể là lời nhà thơ tự vấn lòng mình

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.”

– Nhờ ánh nắng, cảnh vật như bừng sáng hơn

+ Những hàng cau thẳng tắp và nắng ban mai tràn ngập không gian

+ Nắng lan tỏa đến khắp nơi, mang một sắc màu đẹp đẽ

– ” nắng mới lên ” : cái nắng sớm ban mai, nhẹ nhàng, tinh khiết

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

– ” mướt “: một trạng thái gợi lên sự sống mơn mởn, mướt mát của cảnh vật

– sắc xanh “như ngọc” mang ý nghĩa tượng trưng cho một làng quê yên bình, trù phú.

* Luận điểm 2: Hình ảnh con người xứ Huế đôn hậu, dịu dàng.

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

– ” lá trúc che ngang mặt chữ điền “: hình ảnh con người hiện lên với nét đôn hậu, dịu dàng.

* Đặc sắc nghệ thuật

– Ngôn ngữ điêu luyện

– Bút pháp vừa lãng mạn vừa tượng trưng

– Câu hỏi tu từ, điệp từ, so sánh, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác…

c) Kết bài:

– Nêu cảm nhận của em về khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ thể hiện tình cảm sâu sắc của tác giả với thành phố Huế mộng mơ. Đồng thời qua đó hình ảnh thiên nhiên Huế được thể hiện hết sức sinh động, đẹp đẽ và sống động.

4. Sơ đồ tư duy cảm nhận khổ 1 bài Đây thôn Vĩ Dạ

Cảm nhận khổ 1 bài Đây thôn Vĩ Dạ mẫu số 1:

Hàn Mặc Tử một nhà thơ tiêu biểu trong phong trào thơ mới 1932-1945 với những tác phẩm tiêu biểu. Các nhà thơ đã hòa mình vào thiên nhiên, gắm nhìn cảnh đẹp quê hương đất nước dù ông đang phải trải qua những đau đớn cảu bệnh tật với mong muốn được gắn bó lâu hơn với cuộc sống này. Đó là một tinh thần đáng ngợi ca và tâm trạng ấy đã được khắc họa rõ trong bài “Đây thôn Vĩ Dạ”. Khổ 1 là bức tranh thôn Vĩ tươi đẹp cùng tâm trạng tiếc nuối của tác giả.

Khổ thơ bắt đầu bằng một câu hỏi: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” câu hỏi vang lên như một lời trách thầm, nhắn nhủ của nhân vật trữ tình trong tâm trạng vời vợi nhớ mong. Câu hỏi đó là của ai mà lại vừa hỏi vừa trách móc vừa nhớ mong nhất định không phải của Hoàng Cúc, không phải của cô gái nào ở thôn Vĩ. Vậy có thể là của ai? Có thể là của Hàn Mặc Tử tác giả đang phân thân để chất vấn chính mình. Câu hỏi đó như xác nhận một sự thật đã lâu rồi tác giả không được về thôn Vĩ hay không biết đến bao giờ có thể trở lại thôn Vĩ một lần nữa. Đó là cái cớ rất giàu chất thơ vừa nhẹ bẫng xót xa để gọi về những kỉ niệm thôn Vĩ. Câu thơ bảy chữ nhưng có tới sáu thanh bằng, thanh trắc duy nhất vút lên cuối câu như một nốt nhấn khiến cho lời thơ nhẹ nhàng mà thấm thía những nỗi niềm tiếc nuối vọng lên da diết khôn nguôi. Từ niêm nhớ thương được khơi nguồn như thế, hình ảnh thôn Vĩ chợt sống dậy trong lòng nhà thơ:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Chỉ ba câu thơ Hàn Mặc Tử đã khắc họa được những nét đực trưng của thiên nhiên xứ Huế. Mỗi câu thơ là một nét vẽ, mỗi chi tiết sống động tạo thành sự khắc họa sống động đẹp đẽ của thôn Vĩ trong hoài niệm.Trước tiên là vẻ đẹp trong trẻo tinh khôi của buổi sớm mai: nắng hàng cau nắng mới lên không phải là cái nắng chang chang dọc bờ sông trắng mà là cái nắng trong trẻo tin khôi của một ngày. Chỉ miêu tả nắng thôi mà đã gợi lên trong lòng người đọc bao nhiêu liên tưởng đẹp. Những cây cau mảnh dẻ vút cao vươn mình đón lấy tia nắng ban mai trong lành ấm áp. Khung cảnh quen thuộc ấy ta có thể bắt gặp ở bất cứ góc sân khoảng trời nào từ miền quê đất Việt thân yêu. Phép luyến láy: nắng hàng cau nắng mới lên làm cho cái nắng như lan tỏa hơn bừng sáng hơn. Điệp từ “nắng” đã vẽ ra một bức tranh ánh nắng trong không gian nắng lan đến đâu vạn vật bừng sáng đến đó từ trên cao tràn xuống thấp và tràn đầy cả khu vườn, thôn Vĩ như được khoác lên một chiếc áo mới thanh tân, tươi tắn.

Đến câu thơ thứ ba là cảnh vườn tược được tắm đẫm trong nắng mai ngời sáng lên như một viên ngọc xang diệu kì: ” Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.” Câu thơ như một tiếng reo đầy ngỡ ngàng thích thú, không phải xanh non xanh biếc mà là xanh như ngọc. Còn gì trong sáng và cao quý hơn ngọc. Cảnh giản dị mà thanh khiết cao sang vô cùng. Phải chăng sương đêm đã gột rửa hết những bụi bặm để khoác lên cây lá tấm áo choàng trong suốt lấp lánh khi nắng lên. Chữ “mướt” tác động mạnh mẽ vào giác quan người đọc ấn tượng vẻ mượt mà loáng mướt của khu vườn. Nhưng cái thần của câu thơ lại dồn cả vào chữ “ai” chỉ một chữ mà khiến cho cảnh đang gần gũi bỗng bọ đẩy ra xa, hư thực khó nắm bắt. Âm hưởng nhẹ bẫng của tiếng này khiến hơi thơ như thoáng xuôi về một cõi hư ảo mơ hồ.Với Hàn Mặc Tử lúc này, đó là thế giới ở ngoài kia, của sự sống ngoài kia chứ không phải thế giới của bệnh tật. Và rất tự nhiên theo mạch cảm xúc, nhắc đến “ai” lập tức nhà thơ nhớ đến hình bóng con người:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Câu thơ kết đoạn là nét cách điệu hóa rất tài tình của Hàn Mặc Tử nhằm ghi lấy hồn Vĩ Dạ. Có lẽ hình ảnh cành trúc đã trở nên quen thuộc khi nhắc đến con người nơi đây, mảnh đất cố đô văn hiến. Con người như hòa vào, như ẩn vào thiên nhiên một vẻ đẹp kín đáo tao nhã. Đó là vẻ đẹp riêng trong mảnh đất cố đô nhưng ngay trong dòng cảm xúc miên man ấy ta đã thấy nỗi buồn man mác xa nỗi thấm vào lòng người. Nhưng cũng có một điều đặc biệt trong thơ Hàn Mặc Tử là vừa có ảnh hưởng thơ ca dân gian vừa có sản phẩm của lối thơ sáng tạo hay vẽ khuôn mặt sau hàng liễu được viết lên bởi mặc cảm chia lìa của con người luôn tự nhận mình đứng ngoài cuộc vui.

Cảm nhận khổ 1 bài Đây thôn Vĩ Dạ là bức tranh cảnh và người xứ Huế vừa trần thế vừa trong sáng, tinh khôi trong tâm trí Hàn Mặc Tử. Qua đó có thể thấy ở Hàn Mặc Tử một tình yêu quê, yêu người tha thiết, và cũng vời vợi nỗi nhớ mong của thi sĩ hướng về cảnh và người thôn Vĩ.

Đọc bài thơ mà khơi gợi trong lòng người tình yêu quê hương, yêu thiên nhiên sâu sắc, yêu con người cảnh vật nơi đây. Từ đó mà dạy chúng ta cách giữ gìn và bảo vệ những thứ xung quanh mình.

Cảm nhận khổ 1 bài Đây thôn Vĩ Dạ mẫu số 2:

Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới. Tuy có cuộc đời nhiều bi thương nhưng qua hồn thơ phong phú, sáng tạo, đầy bí ẩn, người đọc vẫn cảm nhận được một tình yêu đến đau đớn hướng về cuộc đời trần thế của ông. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những sáng tác để đời của Hàn Mặc Tử, đã để lại nhiều dấu ấn khó phai trong lòng người đọc. Chính vì vậy, qua bao nhiêu thế hệ, người ta có ba ý kiến nhận định về bài thơ: đó là bài thơ về tiếng nói trăn trở của mối tình thầm kín; là lời yêu thương vói một miền quê; là niềm khao khát được sống trong niềm sẻ chia, đồng cảm được trở về với cuộc đời. Đoạn thơ đầu của thi phẩm đã thể hiện một cách thật tha thiết, xúc động những tâm tình ấy.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

“Đây thôn Vĩ Dạ” được Hàn Mặc Tử viết khi đang mắc bệnh nan y – bệnh phong, căn bệnh khiến nhiều người xa lánh, hắt hủi ông nên ông luôn mang trong mình nỗi niềm khao khát được sẻ chia, đồng cảm, muốn trở về với cuộc đời. Nằm trong bệnh viện và nhận được tấm bưu thiếp của người con gái ông thầm thương trộm nhớ, Hàn Mặc Tử lấy đó làm cảm hứng để bài thơ được ra đời. Qua đó, ông đã vẽ nên bức tranh phong cảnh và cũng là tâm cảnh, thể hiện nỗi niềm cô đơn của ông về một mối tình đơn phương xa xăm vô vọng. Không chỉ vậy, bài thơ cũng là tấm lòng yêu tha thiết của nhà thơ đối với thiên nhiên, cuộc sống, con người xứ Huế.

Mở bài bài thơ, tác giả đã sử dụng câu hỏi tu từ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?” vừa như một lời chào thân mật vừa như lời trách móc nhẹ nhàng của cô gái thôn Vĩ. Không thô lỗ, bỗ bạ mà hết sức ân cần, tế nhị. Vì thôn Vĩ có em, vì thôn Vĩ là quê hương anh, là nơi thân thiết của anh. Tuy nhiên, có thể hiểu đây là lời tự nhủ, tự trách của tác giả. Ông tự hỏi bản thân sao bấy lâu nay không về thăm lại vùng đất ấy, thôn quê ấy. Ông khao khát được về thăm quê hương, nỗi nhớ thương mảnh đất ấy cứ đau đáu mãi. Ngặt nỗi, lúc ấy Hàn Mặc Tử đang bị bệnh, làm sao có thể trở về được mà cũng có thể mãi không trở về được…

Qua ba câu thơ sau, khung cảnh thiên nhiên và con người hiện lên trong hoài niệm, tưởng tượng của Hàn Mặc Tử rất đỗi bình dị, quen thuộc:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Nắng mới lên là nắng sớm buổi bình minh. Ánh sáng tinh khôi, rực rỡ ấy làm sáng bừng không gian rộng lớn, khoáng đạt của xứ Huế. Điệp từ “nắng” không chỉ thể hiện sự tràn ngập ánh sáng, sức sống mà còn bộc lộn tâm hồn luôn hướng về ánh sáng, hướng về cuộc đời của Hàn Mặc Tử. Câu thơ ấy đã vẽ nên một hàng cau đầy sức sống, mãnh liệt đang vươn lên đón lấy những tia sáng đâu tiên của buổi sớm. Nhớ đến Vĩ Dạ, nhà thơ nhớ đến hàng cau đầu tiên. Bởi lẽ hình ảnh hàng cau, vun vút cao quá đỗi quen thuộc đối với người dân thôn Vĩ. Nhịp thơ 1/3/3 như bước chân khoan thai của bất kì vị khách nào, trầm ngâm nhìn nắng mới lên trên những hàng cau xanh biếc rạng ngời.

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Câu thơ như lời khen ngợi, trầm trồ, ngạc nhiên thốt lên trước vẻ đẹp thanh tao, mơn mởn của cỏ cây, thiên nhiên. Vườn ai ? Phải chăng là vườn nhà em ? Cảnh cũ người xưa nhưng vì lâu chưa về nên mới thốt lên ngỡ ngàng như vậy. Tác giả dùng biện pháp tu từ so sánh “xanh như ngọc” và từ “mướt”, như vậy có thể thấy thôn Vĩ không chỉ xinh đẹp mà còn rất trù phú. Câu hỏi tu từ “Vườn ai mướt quá” như tiếng reo của trẻ thơ, một tiếng reo trong sung sướng, một lời trầm trồ khen ngợi buột ra tự nhiên khi chợt nhận ra vẻ đẹp bất ngờ của khu vườn. Tưởng chừng như nghe thấy tiếng nhựa sống đang chảy trong cây. Tất cả đều rạo rực, đều đầy sức sống. Chỉ có vườn xuân mới xanh mướt, phì nhiêu đến vậy. Hay chỉ có vườn nhà em mới đẹp đẽ, hữu hình đến thế.

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Nhắc đến con gái Huế, người ta nghĩ ngay đến hình ảnh cô gái duyên dáng, thướt tha trong tà áo dài tím mộng mơ cùng chiếc nón lá trắng, dịu dàng, yểu điệu mà tinh tế. “Mặt chữ điền” chỉ tướng mạo phúc hậu, dịu dàng. “Lá trúc che ngang” là một nét vẽ tài tình, gợi lên hình ảnh gương mặt thấp thoáng của thiếu nữ. Một nét vẽ ấy đã miêu tả vẻ đẹp thanh tao, dịu dàng. Một nét vẽ ấy đã vẽ ra dáng vẻ e lệ, ẩn sau lá trúc của người con gái. Và chính hình ảnh cô gái e lệ thấp thoáng sau những lá trúc càng chứng tỏ “vườn ai” và vườn cô gái đứng chỉ là một. Thiên nhiên và con người dưới ngòi bút đầy sắc sảo của Hàn Mặc Tử đã kết hợp hài hòa với nhau tạo nên một bức tranh phong cảnh tươi đẹp, đầy sức sống và có sức hút lạ lùng.

Bằng âm điệu tha thiết, ngọt ngào, sâu lắng, Hàn Mặc Tử đã vẽ nên một bức tranh thôn Vĩ Dạ cho người nghe cảm nhận khổ 1 bài Đây thôn Vĩ Dạ thật mơ mộng, bình dị. Qua đó cho thấy tình yêu to lớn của ông đối với mảnh đất yên bình, trù phú này. Tuy nhiên, ẩn sau mỗi ý thơ là nỗi niềm luyến tiếc, vấn vương về người và cảnh nơi đây. Ông vấn vương, trăn trở về mối tình thầm kín của mình với người con gái thôn Vĩ. Ông vấn vương, thương nhớ về cảnh sắc tươi đẹp của thôn Vĩ. Nhưng tất cả đối với nhà thơ thời điểm ấy chỉ còn là hoài niệm.

Nếu ở khổ một là không gian vui tươi, đầy sức sống thì ở phần còn lại của bài thơ, giọng thơ chùng xuống, ảm đạm hơn nhiều. Chính xác hơn, bắt đầu từ khổ hai, Hàn Mặc Tử đã bộc lộ tâm trạng đau buồn, u uất của mình. Lúc bấy giờ, ông mắc bệnh phong, căn bệnh khiến ông bị mọi người xa lánh. Sống trong lãnh cung của sự chia lìa, tác giả ao ước, khát khao một vị tri âm, tri kỉ. Ông khao khát hơn bao giờ hết về sự sẻ chia, giao cảm. Ông khát khao tình người, tình đời, hạnh phúc. Ông khát khao được trở về cuộc sống bình thường, được trở về thôn Vĩ Dạ. Ông biết căn bệnh hiểm nghèo của mình, biết thời gian minh còn rất ít. Vậy nên nhà thơ vừa như bồn chồn, lo lắng vừa như hy vọng một cái gì đó sẽ rời xa. Đây chính là nỗi niềm ao ước tha thiết cùng nỗi buồn man mác khi tác giả hoài niệm của tác giả. Với những hình ảnh biểu hiện nội tâm, bút pháp lãng mạn đầy sức gợi tả, ngôn ngữ tinh tế, giàu liên tưởng, Hàn Mặc Tử đã họa nên bức tranh nên thơ, tươi đẹp của một miền quê. Và ẩn sau đó không chỉ là tiếng nói trăn trở của mối tình thầm kín hay lời yêu thương với một miền quê mà còn là nỗi niềm khao khát được đồng cảm, được trở về với cuộc đời.

“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bức tranh đẹp về một miền quê đất nước, là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người. Bài thơ như bông hoa rực rỡ giữa rừng hoa của văn học nước nhà. Qua đó cho thấy tâm hồn thanh khiết, yêu đời dù là trong lúc khổ đau, tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử.

Phan Hồ Phúc Ngân – 11A10 – THPT Krongana, Đắk Lắk

Cảm nhận khổ 1 bài Đây thôn Vĩ Dạ mẫu số 3:

Nhà thơ Hàn Mặc Tử được biết đến với sức sáng tạo nhất trong số các nhà Thơ mới. Ông có một cuộc đời ngắn ngủi và đầy bi kịch. Ông là một gương mặt đặc sắc của phong trào Thơ mới. Thơ của Hàn Mặc Tử là tiếng nói của một tâm hồn yêu cuộc sống, yêu cảnh vật, yêu con người nồng nàn và tha thiết. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những bài thơ tiêu biểu của nhà thơ, thể hiện một hồn thơ tha thiết nhưng tuyệt vọng. Khổ thơ đầu tiên của bài mang đến một bức tranh thiên nhiên đầy vẻ đẹp.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được khơi nguồn cảm hứng từ bức ảnh khung cảnh Huế với lời thăm hỏi của một cô gái Vĩ Dạ lúc thi sĩ đang mắc bệnh hiểm nghèo. Có thể xem bài thơ như một lời tỏ tình với cuộc đời, của một hồn thơ tha thiết với cuộc đời. Khổ thơ đầu tiên là cảnh cây vườn thôn Vĩ tươi sáng trong nắng mai với cảnh sắc bình dị mà tinh khôi, đơn sơ mà thanh tú, nghiêng về cõi thực. Cảm xúc ẩn trong cảnh là nỗi ước ao và niềm đắm say mãnh liệt.

Vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên được gợi ra thật đặc biệt:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Câu thơ đầu tiên, độc giả bắt gặp từ “sao”, là một từ để hỏi đứng đầu câu thơ, mở đầu bài thơ. Nó gợi ra sự xao động, băn khoăn của nhân vật trữ tình. Từ “anh” chỉ nhà thơ, thể hiện nhân vật phiếm chỉ trong thơ. Đây là hình thức câu hỏi tu từ, thể hiện một sắc thái gần gũi, dân dã, thể hiện tình cảm chân thật. Khi đọc câu thơ đầu tiên, độc giả sẽ đặt a vấn đề: câu hỏi đó là lời mời mọc, lời trách móc hay đó có phải là lời của cô gái? Đây như là lời của chính tác giả, thể hiện niềm khao khát, lời thúc giục niềm khao khát được về thôn Vĩ. Vì tác giả lâm bệnh nặng mà lại quá khát khao nên bằng tâm tưởng, tác giả đã về thôn Vĩ. Thôn Vĩ hiện ra trong trí nhớ của nhà thơ, cả một thế giới sống đã ùa về, gợi ra trong lòng người bao cảm xúc.

Câu thơ thứ hai, từ “nhìn” là cái cảm nhận được bằng thị giác, rất chân thực. Dường như nhà thơ đang có mặt tại thời điểm nói để chiêm ngưỡng và miêu tả. Tác giả nhận ra sự di chuyển của nắng. Điệp từ “nắng” thể hiện nắng như len lỏi vào bức tranh, tràn trề trong bức tranh. “Nắng mới” là nắng buổi sớm, trong trẻo, tinh khôi, như mang đến luồng sinh khí, mang đến sự sống cho con người. Hình ảnh “hàng cau” lấp lánh trong nắng. Cau là loại cây thân thẳng, trong khu vườn là loại cây đón ánh nắng đầu tiên. Tác giả mở ra một bức tranh khỏe khoắn và tạo cho khu vườn có chiều sâu.

Câu thơ thứ ba góp phần mở ra bức tranh thiên nhiên xứ Huế đẹp. Đại từ “ai” là từ phiếm chỉ, gợi chút mặc cảm của nhà thơ. Từ “mướt” gợi cảm giác xanh non, láng mượt, láng mượt, long lánh, có sự phản quang, có ánh sáng và có sức sống. Từ “quá” như thể hiện một lời reo vui vì ngỡ ngàng trước vẻ đẹp thiên nhiên. Biện pháp nghệ thuật so sánh “xanh như ngọc” thể hiện màu xanh phát ra ánh sáng, tự phát ra ánh sáng của sự sống, cảnh vật như phát ra ánh sáng nội sinh, sức mạnh tràn trề của khu vườn. Bức tranh thiên nhiên xứ Huế đẹp, trong sáng và tràn đầy sức sống.

Câu thơ cuối cùng nêu lên vẻ đẹp của con người xứ Huế. “Mặt chữ điền” để chỉ người có khuôn mặt phúc hậu. Ý thơ gợi ra niềm khao khát của tác giả mong được hòa hợp, giao cảm, được trở về với cuộc sống. Hình ảnh “lá trúc che ngang” khiến khuôn mặt chỉ hiện ra có một nửa, như gợi sự mặc cảm của tác giả. Dù hiểu theo ý thơ như thế nào thì tình cảm của nhà thơ với con người xứ Huế không bao giờ thay đổi.

Cảm nhận khổ đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ. Đó là tiếng lòng yêu đời tha thiết, dù đang có sự đau đớn cả về thể xác lẫn tâm hồn, nhưng tác giả vẫn dành cho đời cái nhìn đầy tin yêu, phải là một con người yêu đời lắm mới mơ tưởng về thôn Vĩ đẹp như vậy. Càng xót xa về số phận của Hàn Mặc Tử bao nhiêu, ta càng trân trọng niềm yêu đời quý giá của tác giả bấy nhiêu.

Cảm nhận khổ 1 bài Đây thôn Vĩ Dạ mẫu số 4:

Trong suốt dòng chảy của nền văn học, đã có không ít văn sĩ, thi sĩ rẽ ngược dòng hoài niệm để tìm về một “miền nhớ”, ví như ” Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu, ” Hai cây phong” của Aitmatov, ” Việt Bắc” của Tố Hữu,… Những mảnh đất ấy không đơn thuần chỉ là một địa danh mà đã trở thành nơi ấp ôm trọn vẹn tiếng lòng xao động của người cầm bút, là một bến đỗ để ngàn năm vỗ về tâm hồn con người. Cũng để ngòi bút của mình tuôn chảy trong nguồn cảm hứng vô tận ấy, đốm lửa cháy mãnh liệt của phong trào Thơ Mới, người khởi xướng ra “Trường thơ Loạn” – Hàn Mặc Tử – đã để lại dấu ấn sâu sắc trên thi đàn Việt Nam với thi phẩm ” Đây thôn Vĩ Dạ “. Bài thơ là cuộc hành trình về thăm chốn cũ trong tâm tưởng của tác giả, thể hiện một hồn thơ đầy thiết tha với cuộc đời và tình yêu chưa bao giờ tắt với mảnh đất và con người xứ sông Hương, núi Ngự. Điều đó được thể hiện rõ nét trong khổ thơ:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Tựa như những thanh âm trong trẻo nhất, êm ái nhất để mở đầu một khúc giao hưởng với nhiều cung bậc, khổ thơ nhẹ nhàng hé mở tâm hồn người đọc để cảm xúc len qua từng câu chữ, ùa vào tâm khảm. Nếu chỉ đọc một cách đơn thuần thì bốn dòng thất ngôn này miêu tả cảnh sắc xứ Huế vốn không còn xa lạ trong thơ ca. Nhưng đặt trong hoàn cảnh sáng tác bài thơ, người đọc lại bắt gặp một tầng ý nghĩa khác. Khi còn làm ở Sở Đạc Điền Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử có gặp gỡ và phải lòng một cô gái Huế tên là Hoàng Thị Kim Cúc. Chưa có dịp bộc bạch nỗi lòng thì thi sĩ họ Hàn mắc bệnh nan y (bệnh phong), phải đến ở trong trại phong Quy Hòa. Năm 1938, Hoàng Cúc gửi tặng ông bức bưu ảnh phong cảnh Huế cùng vài dòng hỏi thăm mà không đề tên. Để tạ lòng cố nhân, cũng là để cõi lòng phiêu bồng trong mộng ảo, Hàn Mặc Tử viết bài thơ ” Đây thôn Vĩ Dạ“.

Ban đầu bài thơ có tên là ” Ở đây thôn Vĩ“. Nếu đặt nhan đề như vậy, người đọc sẽ chỉ bó hẹp trong cảm quan của nhà thơ, rằng đó là một mảnh đất trong quá khứ, nhuốm sắc phong trần của thời gian. Có lẽ cũng bởi vậy mà Hàn Mặc Tử đã thay đổi nhan đề thành ” Đây thôn Vĩ Dạ“. Không chỉ tăng tính nhạc, nhan đề này còn tựa như một lối dẫn quanh co, đưa người đọc băng qua xóm làng, qua bãi bờ để đến với thôn nhỏ mang tên Vĩ Dạ. Từ “đây” mang ý nghĩa nhấn mạnh, vừa để chỉ điểm vị trí, lại vừa thể hiện niềm khao khát chạm đến tình và cảnh. Không phải nơi nào khác mà chính là Huế, chính là thôn Vĩ Dạ. Cũng không phải người nào khác mà là người ông hằng nhớ thương, rung động: “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Phải chăng, chính vì nỗi niềm không thể giãi bày và nỗi đau thể xác, nỗi sầu nhân thế đã là nguồn cảm hứng vô tận cho không chỉ một ” Đây thôn Vĩ Dạ” mà cả tập ” Thơ Điên” (sau đổi thành ” Đau thương “).

Bài thơ được mở ra bằng một lời mời gọi tha thiết:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Ta bắt gặp một địa danh được đặt trang trọng ở cuối câu thơ, cũng là cuối một câu hỏi: “Thôn Vĩ”. “Thôn Vĩ” chính là thôn Vĩ Dạ, mảnh đất mà tác giả luôn ấp ôm trong lòng, luôn khao khát được một lần trở lại. Thôn Vĩ có gì mà nhà thơ yêu mến đến vậy? Địa danh này chỉ là một thôn nhỏ nằm bên bờ sông Hương, cũng có những rặng tre đầu làng, những mái lá liêu xiêu trong ráng chiều lờ mờ khói tỏa, cũng có những cánh đồng xanh mướt thẳng cánh cò bay…, một vẻ đẹp đã trở nên mẫu mực, cổ điển trong thơ ca muôn đời, cũng hết sức quen thuộc ngoài đời thực. Nhưng có lẽ, nơi này đặc biệt hơn bởi ông đã gửi gắm một phần linh hồn ở đó, cũng mang theo một mảnh hồn quê xứ sở, gìn giữ trong tim đến suốt cuộc đời. Dù chỉ lưu lại nơi ấy trong một khoảng thời gian không dài nhưng vì lẽ “tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”, thôn Vĩ chẳng khác nào một bến đỗ để sau bao phong ba của cuộc đời, Hàn Mặc Tử lại trở về trầm mình trong sự vỗ về ấm áp.

Thi sĩ hết sức tài tình khi thổi vào tứ thơ chất Huế rất riêng, đầy ngọt ngào, ý vị. Câu thơ chỉ toàn thanh trắc nhẹ nhàng cất lên khiến người đọc cảm tưởng như có một cô gái Huế đang nhỏ nhẹ mở lời. Cô gái ấy dường như đang mời mọc một cách ý nhị, cũng đang khẽ khàng trách móc chàng thi sĩ sao đã lâu như vậy không “về chơi”. Hai tiếng “về chơi” nghe sao mà chân thành, gần gũi, sao mà thổn thức như tiếng mẹ quê hương gọi đứa con xa trở về! Biết bao nhiêu tình cảm được chở chứa trọn vẹn trong hai chữ giản đơn ấy. Chỉ vậy thôi mà sao ta thấy ý thơ dâng đầy nỗi xót xa. Nào có phải Hàn Mặc Tử không muốn về thăm chốn cũ! Về thăm mảnh đất đã “hóa quê hương” ấy là cả một niềm khao khát đến bỏng cháy, chưa bao giờ nguôi ngoai trong tâm hồn thi sĩ. Ấy vậy mà đến tận lúc cuối đời, ông vẫn chưa một lần được về thăm lại chốn xưa.

Nhà thơ sử dụng câu hỏi tu từ ngay ở câu thơ đầu, khác nào đặt một niềm thắc mắc, dằn vặt xuyên suốt cả thi phẩm. Để rồi ở tứ thơ nào, hình ảnh nào, dù đẹp đến đâu thì người đọc cũng chợt bâng khuâng nhận ra một nỗi nhớ, nỗi sầu ứ nghẹn bên trong.

Bằng ngòi bút tài hoa, Hàn Mặc Tử đã họa lên bức tranh ngôn từ về vẻ đẹp thôn Vĩ Dạ:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Thôn Vĩ Dạ dưới cái nhìn của thi sĩ ngập trong nắng. Vẻ đẹp của làng quê Việt Nam mới chân phương, bình dị làm sao! Bức tranh sơn dầu với quang phổ tỏa ra lấp lánh, nhè nhẹ rơi từng hạt, từng hạt óng ánh vàng vào cõi lòng người đọc. Ta vốn biết đây chẳng phải là cảnh vật do chính tác giả tận mắt trông thấy mà chỉ được điểm xuyết từ những hồi ức trong trí nhớ. Hẳn là tình yêu dành cho xứ Vĩ ấy phải lớn lao đến nhường nào mới có thể khiến những kí ức mờ nhòa trở nên sống động, chân thực đến kì lạ. Hàn Mặc Tử đã phủi đi lớp bụi mờ của thời gian, đem vẻ đẹp từ quá khứ của thôn Vĩ Dạ vượt qua những đớn đau của thể xác, thương tổn của tinh thần để đến thực tại. Chính bởi vậy, người đọc cảm nhận cảnh sắc không chỉ qua thị giác mà còn qua những xúc cảm, rung động của trái tim.

Phải chăng, ngày Hàn Mặc Tử từng đến thăm “quê” trong tiềm thức là một buổi sớm đẹp đến nao lòng? Hay vì thôn Vĩ trong ông quá đẹp đẽ, đến mức nếu hồi tưởng lại không phải là trong một buổi sớm tinh sương thì chẳng có thời khắc nào hơn thế nữa? Có lẽ là cả hai! Trong cùng một câu thơ, chữ “nắng” được lặp lại đến hai lần. Ánh nắng ấy rực rỡ đến độ đong đầy không gian, vương trên vạn vật, chảy tràn sánh vàng tựa mật. Ánh nắng ấy cũng ấm áp đến độ sưởi ấm, thắp lên chút ánh sáng nơi cõi lòng lạnh lẽo của nhà thơ.

Giữa không gian đầy nắng ấy, thẳng tắp vươn lên những thân cau như nét bút muốn khuấy động cả khoảng trời trong trẻo, lắng nghe tiếng chuông chùa Diệu Đế, Thiên Mụ. Miền Trung đầy nắng và gió có hàng cau là điểm nhìn thân thuộc. Trong khu vườn thôn dã, cau là loài cây cao nhất, đón nắng đầu tiên. Bởi vậy, thứ “nắng hàng cau” là thứ nắng trong trẻo nhất, thanh tân nhất, thuần khiết nhất. Cây cau chia đốt thẳng, giống như thước đo tự nhiên cân đong mực nắng trong vườn. Nắng trong tâm tưởng Hàn Mặc Tử là thứ chất lỏng sánh ngọt lành của mẹ thiên nhiên rót đầy vườn, mặt trời càng lên cao, mực chất lỏng ấy càng dâng lên cho đến lúc phủ qua tán cau, cũng là bao trùm cả khu vườn bằng thứ sắc màu lấp lánh của nó.

Các nhà thơ khác trong phong trào Thơ Mới thường miêu tả cảnh vật với vẻ đẹp rượi buồn:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”

(“Tràng giang” – Huy Cận)

Hay:

“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”

(“Đây mùa thu tới” – Xuân Diệu)

Với Hàn Mặc Tử, dù trong rất nhiều bài thơ khác đã bày tỏ một nỗi đau nghẹn ứ, đau thấu tâm can, ấy vậy mà với thôn Vĩ, ông vẫn để ngòi bút tuôn trào trong cảm hứng tươi sáng nhất, đầy sức sống. Đại từ phiếm chỉ “ai” khiến cho câu thơ thêm phần ý vị, mang âm hưởng của điệu Nam Ai, Nam Bình, của điệu hò trên sông Hương. “Vườn ai” không chỉ riêng một khu vườn cụ thể nào mà tựa như theo từng nhịp bước chân của người phiêu lãng, theo dấu cuộc hành trình trong tâm tưởng, hai bên đường đều là những mảnh vườn như thế.

Đắm chìm trong sắc xanh của cây lá miệt vườn, Hàn Mặc Tử chợt nảy ra một sáng tạo nghệ thuật độc đáo: “mướt quá”. “Mướt” là trạng thái mỡ màng, tươi tốt, căng tràn sức sống, ánh lên sắc xanh ngọc bích dưới nắng hồng của bình minh. Hẳn khu vườn phải được chăm sóc hết sức tỉ mỉ, cẩn thận bởi một bàn tay khéo léo. Hay do chính nhà thơ cũng cẩn thận nâng niu, gìn giữ, ươm trồng từng phiến lá trong tâm khảm của mình nên mới có thể thoát lên thành ý thơ đẹp đẽ đến vậy!

Hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” là nét vẽ thần tình tô đậm hồn cây lá trong “vườn ai”, người đọc tưởng như có thể nghe thấy tiếng nhựa sống chuyển mình xôn xao trong tán lá, thấy hương vườn yểu điệu bước ra. Tất cả đều rạo rực, hân hoan một niềm vui tươi mới. Vẻ đẹp được sánh ngang với “ngọc” không chỉ tráng lệ mà còn quý giá vô cùng. Đến sắc xanh dân dã của cỏ hoa cũng có thể trở thành thức ảnh diệu vợi, đẹp tựa phép màu vừa lướt qua, đẹp đến độ thành hình, thành ảnh.

Giữa màu xanh cây lá, thấp thoáng hình bóng con người:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Người con gái xứ Huế thường gắn với tà áo dài tím mộng mơ, chiếc nón bài thơ “mang hình bóng quê hương”,… Nhưng trong thơ Hàn Mặc Tử, thiếu nữ ấy lại e ấp “che ngang” gương mặt sau “lá trúc”. Một nét vẽ rất đẹp họa ra vẻ dịu dàng, duyên dáng và tình tứ của thiếu nữ sông Hương. Người xưa có thanh nữ vịn cành mẫu đơn, giai nhân tựa nhành lan,… nay lại có “mặt chữ điền” ẩn hiện sau cành trúc, lá trúc.

Cây trúc trong thi ca trung đại vốn biểu tượng cho người quân tử. Nơi mảnh vườn “xanh như ngọc” ấy lại có một người con gái nhẹ nhàng, e ấp mượn “lá trúc” “che ngang” gương mặt. Vẻ đẹp ấy thực sự giàu giá trị, vừa hồn hậu, mỏng manh, dịu dàng, lại vừa cứng cáp, tràn đầy sức sống, dẻo dai, bền bỉ, mang cốt cách của tao nhân nghìn xưa.

Khổ 1 của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã kết tinh nhiều giá trị nghệ thuật độc đáo. Thể thơ thất ngôn vừa cổ điển, trang trọng lại vừa chân phương, dạt dào xúc cảm. Hình ảnh thơ tuy chỉ là những kí ức mờ nhòa và qua tấm bưu ảnh nhưng lại hết sức sống động, đẹp đẽ. Ngôn ngữ thơ giản dị mà chọn lọc, hàm súc. Đặc biệt, nhà thơ đã thổi hồn vào cảnh vật, để chúng thay mình giãi bày tâm trạng. Tình và cảnh, cảnh và tình đan xen nhau tạo nên cấu tứ rất riêng, rất “Hàn Mặc Tử”, thể hiện một tình yêu đến đau đớn với cuộc đời trần thế. Từ nơi đầy rẫy đau thương, thi sĩ vẫn dành những gì đẹp đẽ nhất, trong lành nhất để gửi đến xứ Huế yêu thương, gửi đến người con gái ông từng khao khát trao tấm chân tình.

Theo dấu những vần thơ của Hàn Mặc Tử, người đọc như lạc trong cuộc hành trình từ thực tại đến mơ ảo, “vườn thơ Hàn rộng không bờ không bến càng đi xa càng ớn lạnh…” (Hoài Thanh). Dù thời gian đã trôi qua rất lâu song bài thơ ” Đây thôn Vĩ Dạ ” vẫn để lại ấn tượng trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc. Bài thơ là một trong số những tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ thi sĩ họ Hàn, một tâm hồn nhạy cảm với đời, với tình yêu, cuộc sống.

(Trịnh Minh Anh, Lớp 12A1 – THPT Mạc Đĩnh Chi, Hải Phòng)

Cảm nhận khổ 1 bài Đây thôn Vĩ Dạ mẫu số 5:

Hàn Mặc Tử là một trong những cây bút xuất sắc có đóng góp không nhỏ trong phong trào Thơ mới nói riêng và thành tựu thơ ca Việt Nam nói chung, ông còn được nhớ đến là “thi nhân của những mối tình” “khuấy” mãi không thành khối. Với “Đây thôn Vĩ Dạ” ông đã chạm khắc vào tâm khảm muôn triệu trái tim một vần thơ tình yêu đơn phương, thơ mộng mà huyền ảo ở xứ Huế mộng mơ.

Thôn Vĩ Dạ được biết đến như sông Hương, núi Ngự… của xứ Huế. Bởi vậy, không lấy làm ngạc nhiên khi thấy nhiều tên tuổi như Nguyễn Bính, Bích Khuê, Nguyễn Tuân… đều nảy sinh cảm hứng về xứ sở này. Nếu như mỗi tình yêu đều gắn với một thời gian và không gian cụ thể, thì mỗi hình ảnh của nhân vật trữ tình trong bài thơ đều gắn với thiên nhiên và con người thôn Vĩ với những kỉ niệm khó phai mờ.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Đây là lời trách yêu, một sự dỗi hờn thể hiện nỗi ngóng trông da diết của cô gái ở thôn Vĩ. Là lời nói dịu dàng chứa đầy yêu thương ấy chính đã gây xôn xao, đã trở thành giai điệu và phát ra lời nói.

Ở câu thơ thứ hai, Hàn Mặc Tử nhanh chóng có mặt ở không gian Vĩ Dạ. Đây là một cuộc hành trình trong tâm thức nhà thơ:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”

Cái nắng được miêu tả “nhìn nắng hàng cau” song hành với một cái nắng tinh khôi mới mẻ khiến nhà thơ phải reo lên như con trẻ “nắng mới lên”; “nắng” được thắp trên những hàng cau. Du khách thấy được nắng hàng cau và càng đến gần khu vườn càng thấy màu xanh ngọc của là cây. Đôi mắt thi nhân đang ở trên khu vườn thôn Vĩ, như đang muốn xé toạc vòm trời đen để nhìn thấy bình minh nắng mới diệu kì thắp lên từ thôn Vĩ Dạ. Nơi có người mình thương nhớ như là một nơi ẩn chứa phép màu cổ tích.

“Vườn ai mướt qua xanh như ngọc”

Đã “vườn ai mướt quá” lại còn phát hiện ra cái “mướt quá” ấy còn “xanh như ngọc”. Tất cả đều non tơ và xanh như ngọc cho ta cảm nhận không chỉ bằng thị giác mà còn cảm nhận được thanh âm của những chiếc lá ngọc. Vì “vườn ai” có phải chính là vườn em, là ta thấy khuôn mặt của em trong khu vườn ấy. Đọc thơ Hàn Mặc Tử chúng ta bắt gặp nhiều hình tượng, một thế giới vừa thực vừa ảo. Bởi thế, thật khó tin nhưng Hàn Mặc Tử đã gặp lại chính mình với gương mặt chữ điền thời còn là chàng trai trên đất Huế.

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền?”

Thi sĩ của trăng muốn yêu một tình yêu trong trắng, một tình yêu đắm say thì phải trở lại là con người của ngày hôm qua, con người trong quá khứ, hẳn phải là nhà thơ đa tình phong lưu thời còn làm bạn với Huế. Phải chăng Hàn Mặc Tử đang muốn quên mình trong hiện thực phũ phàng để đươc yêu thêm lần nữa, yêu nhiều hơn nữa?

Lá trúc phải chăng đang ngăn cách tình người? Làm “Gió theo lối gió, mây đường mây”, tạo nên “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay” đưa đến tâm trạng hy vọng mong manh mà thất vọng tràn trề: “Có chở trăng về kịp tối nay” và kết lại trong lời trách móc:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà?”

Hàn Mặc Tử đã khắc họa bức tranh vườn quê thôn Vĩ qua nỗi lòng nuối tiếc bâng khuâng về một mối tình dở dang rồi chạm vào tâm khảo lớp lớp thế hệ Việt Nam trong một tâm trạng nhớ thương. Với 4 câu thơ trong khổ thơ đầu, cảnh nói lên tình, tình buồn thấm sâu vào cảnh vật, và nếu đặt khổ thơ trong cảm hứng chung của cả ta mới cảm nhận được đúng tình và ý thi nhân.

Cảm nhận khổ 1 bài Đây thôn Vĩ Dạ mẫu số 6:

“Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như ngôi sao chổi với cái đuôi chói lòa rực rỡ”. Trong làng thơ mới, Hàn Mặc Tử là thi sĩ có diện mạo thơ vô cùng phức tạp và bí ẩn. Thơ Hàn có sự đan xen cả những gì thân thuộc, thanh khiết nhất, cả những gì ghê rợn, ma quái, cuồng loạn nhất… Trong thế giới đó, trăng, hoa, nhạc, hương hòa lẫn với linh hồn, yêu ma. Đằng sau diện mạo thơ hết sức phức tạp ấy, ta thấy hằn lên tình yêu mãnh liệt đến đau đớn hướng về cuộc đời. In trong tập ” Thơ Điên“, “Đây thôn Vĩ Dạ” là những vần thơ tinh khôi trong trẻo trong gia tài Hàn Mặc Tử mà vẫn ẩn chứa tình yêu đau đớn hướng về cuộc đời như thế.

” Đây Thôn Vĩ Dạ ” bắt đầu câu hỏi khá đặc biệt: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”. Mới đọc, ta ngỡ đây là lời hỏi của Hoàng Cúc hay một cô gái Huế nào đó. Nhưng trong bức thư gửi Hàn Mặc Tử, ta không thấy Cúc hỏi như vậy. Vậy đây là lời tự hỏi lòng mình của Hàn Mặt Tử hay nhà thơ đang tưởng tượng ra một lời hỏi như thế? Dù hiểu theo cách nào thì đây cũng là lời hỏi vọng lên từ trái tim của thi sĩ và chất chứa biết bao nhiêu nỗi niềm. Một nỗi nhớ nhung, da diết, một niềm khát khao trở về khắc khoải, một nỗi tiếc nuối đến ngậm ngùi, xót xa. Chữ “về” được nhà thơ dùng khá tinh tế. Nhờ chữ ấy mà ta biết, với Hàn Mặc Tử, Vĩ Dạ là nơi chốn thân thuộc, yêu thương gắn bó biết mấy nhưng chớ chêu thay, càng thân thương bao nhiêu thì nỗi nhớ nhung khát khao càng khắc khoải bấy nhiêu.

Sau lời tự hỏi lòng mình rất tự nhiên, những kí ức về vườn Vĩ Dạ bỗng thức dậy, ùa về trong tâm tưởng của thi sĩ. Vườn Vĩ Dạ vốn đẹp và rất thơ, qua lăng kính của một tình yêu say đắm và tuyệt vọng, vườn Vĩ Dạ càng lộng lẫy hơn, phút chốc trở thành nơi nên thơ đầy quyến rũ: “Nhìn nắng hàng cao, nắng mới lên”. Vĩ Dạ là xứ sở của cau, những hàng cau thẳng tắp, cao vút vươn mình lên đón nắng ban mai là một nét đẹp làm đắm say bao du khách đến đây. Từng có một thời gian gắn bó với thôn Vĩ, nhớ về Vĩ Dạ ngay lập tức, những ấn tượng về nắng hàng cao nắng mới lên bỗng ùa về trong trang thơ của Hàn. Hình ảnh “nắng hàng cau mới lên” gần gũi, giản dị mà hội tụ bao vẻ đẹp tinh khôi, thanh khiết của vườn Vĩ Dạ. Nắng mới lên là nắng ban mai, nắng của buổi bình minh dịu dàng, tinh khôi. Lại là thứ nắng đọng trên những tàu cau xanh mướt đẫm sương đêm nên lại càng thêm lung linh, rạng ngời hơn. Hương nắng mới quyện với hương cau thoang thoảng dịu ngọt, thanh cao biết mấy. Điệp từ “nắng” gợi hình và tạo nhạc. Có cảm giác từng chùm nắng xuyên qua tàu cau nhảy nhót rồi cứ dâng đầy, dâng đầy khắp mảnh vườn. Cả mảnh vườn chan hòa trong biển nắng lung linh. Từ “nắng” đứng đầu hai vế câu thơ khiến lời thơ du dương, ngân nga như một tiếng reo thầm. Có phải chăng trong khoảnh khắc này, vẻ đẹp thanh khiết lộng lẫy của Vĩ Dạ đã mê hoặc Hàn Mặc Tử khiến thi sĩ quên đi thực trạng đau thương này.

Dưới nắng sớm, vườn Vĩ Dạ tắm trong nắng sớm bỗng trở thành chốn nước non thanh tú: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Tính từ “mướt” và hình ảnh so sánh xanh như ngọc đã cộng hưởng tạo nên vẻ đẹp đầy sức lôi cuốn của vườn Vĩ Dạ. Một màu xanh mượt mà, non tơ, óng mả đến nuột nà phủ lên khắp khu vườn. Cả khu vườn tựa như một viên ngọc bích khổng lồ không chỉ rời rợi sắc xanh mà còn tỏa ra ánh sáng xanh non ấy. Trước vẻ đẹp tinh khôi, thanh tú ấy, thi sĩ không thể kìm nén sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên, trầm trồ. Chữ “quá” trong thơ đã dồn nén cảm xúc ấy của thi sĩ. Xong đi liền với sự ngỡ ngàng trầm trồ là nỗi u hoài xót xa. Từ “em” gần gũi thân thương bao nhiêu thì từ “ai” xa vời, mông lung bấy nhiêu. Vườn Vĩ Dạ đẹp lộng lẫy này tưởng như đang hiện ra trước mắt, đang nằm trong tầm tay mà hóa ra lại xa vời vô cùng. Nõ đã thuộc về ai đó, đã thuộc về thế giới ngoài kia. Nó đang tuột khỏi tầm tay mình, nhòa mờ trước mắt mình.

Khép lại khổ thơ đầu tiên là hình ảnh thơ hàm chứa nhiều tầng nghĩa xâu xa: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Hình ảnh thơ này đã châm ngòi cho cuộc tranh luận nảy lửa của giới phê bình nghiên cứu văn học. Người ta đưa ra nhiều cách lí giải khác nhau cho câu thơ này. Tuy nhiên, đặt trong mạch cảm xúc của toàn bài, có thể hiểu câu thơ vừa gợi tả gương mặt của người thôn VĨ và người trở về thôn Vĩ. Trong quan niệm thẩm mĩ của người dân xứ Huế, mặt chữ điền là gương mặt của người phụ nữ phúc hậu, đoan trang:

“Mặt em vuông tựa chữ điền Da em thì trắng, áo xanh mặc ngoài Lòng em có đất, có trời Có câu nhân nghĩa, có lòng thủy chung”

Hiểu thư thế, hình ảnh lá trúc che ngang mặt chữ điền gợi lên vẻ đẹp dịu dàng, duyên dáng, kín đáo, e ấp của người cô gái Huế. Lại có thể hiểu mặt chữ điền ở đây là gương mặt của người trở về thôn Vĩ, và người đó không ai khác chính là Hàn Mặc Tử. Có thể, Hàn Mặc Tử chợt bồi hồi nhớ lại cái ngày xa Huế, mang theo tập ” Gái quê” tìm đến nhà Hoàng Cúc ở Vĩ Dạ mà chỉ dám đứng ngoài vén cành trúc ngóng vọng vào mà thôi. Cũng có thể thi sĩ tưởng tượng ngày được trở về thôn Vĩ nhưng cũng có khác nào kí ức xưa, chỉ dám vén cành trúc che ngang khuôn mặt mà lặng ngắm khu vườn thần tiên. Hàn Mặc Tử thường chỉ dám trở về cuộc đời một cách vụm trộm, thầm kín như vậy. Cảm nhận khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ ẩn trong hình ảnh thơ là cả niềm yêu đời mãnh liệt của một tâm hồn trĩu nặng mặc cảm chia lìa, bị cự tuyệt.

Với Hàn Mặc Tử, vườn Vĩ Dạ chẳng khác nào một thiên đường, một mảnh vườn địa đàng không còn thuộc về mình nữa. Trở về Vĩ Dạ bỗng trở thành một ước muốn quá tầm với, một khát khao quá tầm tay. Cảnh đẹp lộng lẫy mà tình buồn xót xa.

-/-

Với đề bài nêu cảm nhận khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Hàn Mặc Tử bao gồm đầy đủ cả lập dàn ý khổ đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ, các em học sinh cần tìm hiểu kĩ càng để từ đó có thể xây dựng cho mình một bài văn cảm nhận chân thực và giàu ý nghĩa.

Cảm Nhận Khổ Cuối Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ

Tài liệu hướng dẫn làm văn cảm nhận khổ thơ cuối bài Đây thôn Vĩ Dạ gồm gợi ý cách làm, lập dàn ý chi tiết cùng tuyển tập top 3 bài văn hay phân tích, cảm nhận về nội dung khổ cuối của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử).

Cùng tham khảo ngay…

Hướng dẫn làm bài cảm nhận khổ thơ cuối bài Đây thôn Vĩ Dạ

Cảm nhận khổ cuối của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra… Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà?”

1. Phân tích đề

– Yêu cầu: nêu cảm nhận về khổ thơ cuối của bài Đây thôn Vĩ Dạ.

– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng : từ ngữ, chi tiết tiêu biểu trong khổ thơ cuối bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.

– Phương pháp lập luận chính: phân tích, cảm nhận.

2. Hệ thống luận điểm

– Luận điểm 1: Cảm nhận về nội dung khổ cuối

– Luận điểm 2: Cảm nhận về giá trị nghệ thuật của khổ thơ.

a) Mở bài

– Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm:

+ Hàn Mặc Tử (1912 – 1940) là một nhà thơ gặp nhiều bi thương trong cuộc sống nhưng hồn thơ của ông lại luôn dồi dào nguồn cảm hứng sáng tạo.

+ Đây thôn Vĩ Dạ là bức tranh đẹp và thơ mộng về thôn Vĩ Dạ, thể hiện nỗi buồn cô đơn của nhà thơ trong một mối tình xa xăm, vô vọng. Qua đó thể hiện tấm lòng thiết tha của nhà thơ với thiên nhiên, cuộc sống và con người.

– Giới thiệu khổ thơ cuối: là sự bộc lộ những tâm trạng và sự hoài nghi của nhân vật trữ tình, nhưng nổi bật lên là niềm khát khao được sống, được giao hòa cùng với thiên nhiên và con người ở xứ Huế.

b) Thân bài * Cảm nhận về nội dung khổ thơ cuối

– Tâm trạng nhà thơ đầy mộng ảo:

– Tâm trạng hoài nghi, suy tư về cuộc đời và tình người:

+ Đại từ phiếm chỉ “ai” càng làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng trong một tâm hồn tha thiết yêu thương đối với con người và cuộc đời.

* Cảm nhận về giá trị nghệ thuật

– Hình ảnh “khách đường xa” gợi lên nỗi nhớ và khát khao được gặp lại người xưa, chốn cũ của nhân vật trữ tình.

– Điệp ngữ (khách đường xa, ai): sự chìm đắm trong vô thức với khát vọng được gặp lại cố nhân (khách đường xa), sự ngậm ngùi tiếc nuối (ai).

– Điệp ngữ “khách đường xa” được lặp lại hai lần như chứa đựng hai tâm trạng, hai cung bậc cảm xúc khác nhau. Đó là khát vọng: mơ về khách đường xa, mơ được gặp lại người xa, cảnh cũ (mơ khách đường xa); là thực tại: sự vô vọng khi có quá nhiều khát vọng, mơ ước không thể trở thành hiện tại (khách đường xa).

– Đại từ phiếm chỉ (ai), đại từ (đây): làm bật lên cảm giác của sự vô định và hoài nghi của nhân vật trữ tình.

– “Ở đây” nhằm chỉ về không gian hiện thực nơi xứ Huế hay là không gian tâm tưởng, không gian nơi tác giả đang đắm chìm trong đau thương, tuyệt vọng.

– Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” : để hỏi người mà cũng để hỏi mình, vừa gần gũi nhưng cũng xa xôi, vừa hoài nghi nhưng cũng giận hờn, trách móc.

– Từ “nhân ảnh” : từ Hán – Việt duy nhất được tác giả sử dụng trong bài, có sự dự cảm về chính cuộc đời của tác giả.

– Nhịp thơ 4/3 ( Mơ khách đường xa khách đường xa) tạo ra sự khác biệt với luật thơ của những câu thơ thất ngôn.

– Ngôn từ trong sáng, giản dị, giàu sức tạo hình và có sức biểu cảm tinh tế.

– Nghệ thuật cực tả (sắc trắng) : tạo nên vẻ đẹp thanh khiết, trinh nguyên của nhân vật “em” nhưng đồng thời cũng làm bật lên sự bất lực về thị giác, bất lực về tâm hồn của một trái tim khi phải xa cách cuộc sống thực ngoài kia.

c) Kết bài

– Khái quát lại giá trị nội dung, nghệ thuật của khổ thơ cuối bài:

+ Giá trị nội dung: nỗi lòng hướng về xứ Huế sau bao nhiêu năm xa cách trong sự mờ nhòa giữa hiện thực và mộng ảo của nhân vật trữ tình.

+ Giá trị nghệ thuật: sử dụng những biện pháp tu từ hiệu quả làm toát lên được những cung bậc, tâm trạng của nhân vật trữ tình.

– Gợi mở vấn đề.

4. Sơ đồ tư duy cảm nhận khổ thơ cuối bài Đây thôn Vĩ Dạ

Với dàn ý chung về đề bài cảm nhận khổ cuối bài Đây thôn Vĩ Dạ, các em học sinh đã có thể thử hình dung được những ý chính trong bài. Ngoài ra, Đọc tài liệu cũng tổng hợp những bài văn mẫu cảm nhận khổ cuối của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất cho các em tham khảo về cấu tứ và ngôn từ trong cách hành văn cảm nhận. “Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra.”

Top 3 bài văn hay cảm nhận khổ cuối bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Cảm nhận khổ cuối Đây thôn Vĩ Dạ bài số 1:

Hàn Mặc Tử một trong ba nhà thơ đỉnh cao của phong trào thơ mới, là nhà thơ tài hoa nhưng bạc mệnh. Các tác phẩm của ông đều được sáng tác với một hồn thơ mãnh liệt nhưng luôn quằn quại trong đau đớn, luôn có sự giằng xé giữa tâm hồn và thể xác. Đặc biệt bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ đầy tâm trạng của ông giằng cho người mình yêu. Khổ thơ cuối bài là dòng tâm trạng mơ hồ, kì ảo.

Từ giọng khắc khoải da diết ở khổ 2 thì sang khổ 3 đã chuyển thành giọng gấp gáp, khấn khoản, niềm khao khát được gắn liền với hình bóng cụ thể:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra.”

Hình bóng cụ thể lúc đầu là khách đường xa, lúc sau là em với tà áo trắng tinh khôi. Hình tượng giai nhân từ khách đường xa mà dần dần thành em với giấc mộng dài say đắm. Khách đã xa vời mà giờ đây khách đường xa lại càng xa xôi diệu vời mà gắn với nó là “mơ” lại càng hư ảo. Có phải những hình bóng ấy dù đẹp nhưng nó vẫn thuộc về thế giới ngoài kia của quá khứ và với thi sĩ nó chỉ hiện hữu bằng một giấc mơ dài. Hàn Mặc Tử với mong muốn gặp được khách, gặp được giai nhân nhưng mong muốn ấy của ông sẽ không trở thành hiện thực bởi chỉ trong mơ ông mới dám mơ ước về điều ấy.

Ở câu thơ thứ hai thì “áo em trắng quá”. Từ “quá” chung sắc thái biểu cảm tiếng kêu phát hiện trầm trồ ngỡ ngàng về vẻ đẹp giai nhân hiện hữu. Sắc trắng hiện ra không ít hai lần: trong văn học trung đại thì đó là cái trắng tang tóc, cái màu trắng đau thương, buồn dường như nói về sự ra đi, chia tay. Còn trong văn học hiện đại thì đó là một sắc trắng mới, tràn đầy màu sắc và tươi trẻ hơn. Đó là cái trắng tinh khôi, tinh khiết. Quả thực Hàn Mặc Tử đã có một quan niệm mới mẻ, một quan niệm thẩm mĩ cách tân, hiện đại.

Đó là sắc màu tinh khiết thánh thiện. Nó gắn với một kí ức xa xôi về người con gái gắn với sắc màu tinh khiết “nhìn không ra” cực tả sắc áo vừa gợi vẻ đẹp xa vời khó nắm bắt như thực mà lại như mơ nghĩa là có một nét vè đẹp mà nhà thơ mãi tôn thờ đang tuột dần khỏi tầm tay. Đúng lúc hình bóng giai nhân hiện về rõ nét nhất trong tâm tưởng, lung linh nhất thì lại tuyệt vọng nhất. Nhà thơ mượn giấc mơ nhưng lại nói về cái thực đang diễn ra trong tâm hồn con người.

Nhưng đến hai câu thơ cuối:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà.”

Chủ thể trữ tình trở về với thế giới thực của mình từ thế giới ngoài kia đầy xót xa với thực tại đau thương, đầy chia lìa với sự ám ảnh của cái chết:

“Tôi đang còn đây hay ở đâu Ai đem tôi bỏ xuống trời sâu.”

Hoặc:

“Trời hỡi bao giờ tôi chết đi Bao giờ tôi hết được yêu vì.”

Trong “Đây thôn Vĩ Dạ” sự trở lại của “sương khói mờ nhân ảnh”. Nó là sương khói của thực tại xứ Huế hay là sương khói của dòng thời gian khiến cho tất cả trở nên xa vời hư ảo “mờ nhân ảnh”. Cau hỏi “Ai biết tình ai có đậm đà?” đã kết lại bài thơ một cách đầy khắc khoải. “Ai” động từ phiếm chỉ vang lên khiến câu thơ xa vắng có chút hụt hẫng có thể là tác giả hay người con gái. Chỉ biết rằng nó khép bài thơ lại trong nỗi buồn mênh mang khắc khoải đầy xót xa trong khát khao khôn nguôi về tình đời, tình người.

Câu thơ cuối có thể hiểu theo hai cách. Đó là người con gái xứ Huế có biết tình cảm của nhà thơ sâu đậm đến đâu hay nhà thơ có biết cô gái cũng có tình cảm với mình. Nhưng hiểu theo cách nào vẫn là chia sẽ thấu hiểu và được yêu thương dẫu cô đơn, đớn đau tuyệt vọng nhưng không thôi khao khát. Nhưng dù tuyệt vọng dù cô đơn đau đớn nhưng tác giả vẫn không nguôi đầy khát khao. Hàn Mặc Tử dù đang phải đối mặt với bệnh tật, trải qua những đớn đau nhưng không bao giờ ông tuyệt vọng mà luôn mong về một cuộc sống mới, khát khao được sống.

Cảm nhận về khổ cuối bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ ta như chạm đến trái tim người đọc thấu hiểu được những ước mơ, khát vọng mà Hàn Mặc Tử muốn có dù nó rất đời thường nhưng với tác giả nó vô cùng thiêng liêng. Khổ thơ đã dạy ta cách trân trọng cuộc sống này hơn.

Cảm nhận khổ cuối Đây thôn Vĩ Dạ bài số 3:

Trong phong trào thơ mới, Hàn Mặc Tử là hiện tượng thơ kì lạ nhất, “một giọng thơ độc đáo không chia sẻ âm hưởng với bất kì ai”. Viết thơ để trải niềm đau trên mảnh giấy mỏng manh, đi đến tận cùng đau thương, thơ Hàn Mặc Tử thực sự là “huyết lệ” của một linh hồn trước giờ hấp hối sắp chia phôi. Tuy nhiêm, bên cạnh những vần thơ huyết lệ, Hàn Mặc Tử vẫn có những tiếng thơ tinh khôi như ánh ban mai, trong trẻo như nước suối đầu nguồn. Rút ra từ tập “Thơ điên”, “Đây thôn Vĩ Dạ” là những vần thơ tinh khôi trong trẻo trong gia tài Hàn Mặc Tử nhưng vẫn ẩn chứa tình yêu đau đớn hướng về cuộc đời. Nếu khổ thơ đầu tiên diễn tả vườn Vĩ Dạ buổi ban mai, khổ thứ hai là đêm trăng xứ Huế cùng với những mặc cảm, chia lìa, xa cách thì khổ thơ thứ ba lại nói về hình bóng khách đường xa va nỗi niềm mơ tưởng của thi sĩ:

Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

Bị cuộc đời tuyệt giao, nhưng Hàn Mặc Tử không bao giờ chịu tuyệt tình. Càng chia lìa, càng bị cuộc đời bỏ rơi, thi sĩ càng yêu đời thiết tha, đắm say đến đau đớn. Ao ước trở về thôn Vĩ không thành, thi sĩ lại mơ tưởng đến người thương thôn Vĩ: “Mơ khách đường xa, khách đường xa”. Thật xót xa trong giấc mơ, người thương đã thành khách đường xa. Lời gọi “khách đường xa, khách đường xa” chất chứa biết bao nhiêu mặc cảm chia li, xa cách. Nỗi cách chở chia li như nhân lên trùn trùng qua nghệ thuật điệp liên tiếp 4/3. Ta tưởng như trong giấc mộng của thi sĩ, bóng dáng người lính vừa chợt hiện lên đã mờ dần, khuất xa, mất hút. Người tình xưa như đang chạy trốn ta vậy. Câu thơ tự sự mà mang âm diệu của tiếng nấc nghẹn ngào, của lời than chới với, hụt hẫng.

Trong giấc mơ của thi sĩ, bóng hình em hiện lên thật ám ảnh: “Áo em trắng quá nhìn không ra”. Áo em lẫn vào sương khói nên không nhìn thấy, không rõ? Có lẽ không phải vậy. Câu thơ chỉ là một cách cực tả sắc trắng tuyệt đối, trắng đến lạ lùng của thi sĩ mà thôi. Cực tả vốn là một thiên hướng của Hàn Mặc Tử. Hơn nữa, những nàng thơ trong cõi thơ của Hàn luôn hiện ra với vẻ đẹp lí tưởng trinh bạch, thanh khiết và vẻ đẹp ấy bao giờ cũng được biểu lộ bằng sắc áo trắng tinh khôi. Ví như vẻ đẹp thanh khiết của cô gái đồng trinh đã được cực tả bằng hình ảnh: “Chết rồi xiêm áo trắng như tinh”. Vẻ đẹp trinh bạch của người chị trong trang văn “Chơi giữa mùa trăng” cũng được thi sĩ gợi tả bằng áo trắng: “Tôi bỗng thấy chị tôi có vẻ thanh thoát và tinh khôi như pho tượng đức bà Maria. Sao đêm nay chị tôi đẹp thế này. Mà vận áo quần bằng hàng trắng nữa, trông thanh sạch quá đi”. Vậy, cực tả sắc trắng lạ lùng của người con gái Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử muốn gửi gắm tâm sự gì? Phải chăng đó là niềm đắm say tột bậc trước vẻ đẹp tinh khôi, trinh nguyên, thanh tiết đến tuyệt vời của người mình yêu dấu. Cùn với vườn ngọc, trăng huyền ảo, hính bóng trinh nguyên của người khách đường xa đã hợp thành thế giới ngoài kia, lộng lẫy, quyến rũ. Nhưng cũng giống như những hoài niệm về vườn Vĩ Dạ lúc hửng đông, sông nước xứ Huế đêm trăng đi liền với niềm đắm say tột bậc là nỗi đau thương đến xót xa. Câu thơ không chỉ đơn giản là lời thú nhận bất lực về thị giác mà là bất lực về tâm hồn của một trái tim phải cách xa cuộc đời ngoài kia cả nghìn thế giới, cả một tầm tuyệt vọng.

Mơ tưởng về người thôn Vĩ, thi sĩ không sao thoát khỏi nỗi đau thương, hình ảnh người tình xa càng lộng lẫy thì khoảng cách càng đẩy xa vời vợi. Cuối cùng, thi sĩ đành ngậm ngùi mà trở về với thực tại: “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”. “Ở đây” là không gian nào, Vĩ Dạ mộng mơ hay trại phong lạnh lẽo, là lãnh cung chia lìa mà ngày đêm thi sĩ đang một mình chống chọi ác quái. Ở đây sương khói mịt mù, vùi lấp cả bóng người. Sương khói nào mà lại có sức phủ ghê gớm đến vậy. Đó chỉ có thể là sương khói của thời gian xa cách đằng đẵng, của không gian xa cách nghìn trùng, của mối tình đơn phương vô vọng, của mặc cảm chia lìa. Những lớp sương khói mịt mù, trùng trùng ấy đã phủ kín hình ảnh, bóng ảnh. Thành thử, thi sĩ ơ nơi này mà như không còn tồn tại nữa. Trong câu thơ như có tiếng người khổ đau của kiếp người lãng quên:

Tôi đang ở đây hay ở đâu Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu

Mọi thứ trên cõi đời này đều quay lưng với Hàn Mặc Tử. Chỉ có chút tình kia là sợi dây duy nhất níu buộc thi sĩ với cuộc đời. Thế mà cái tình kia cũng mong manh, xa với lắm: “Ai biết tình ai có đậm đà”. Đại từ phiếm chỉ “ai” được sử dụng linh hoạt biến hóa đem đến cho câu thơ những hàm nghĩa phong phú, thú vị. Có thể hiểu thơ là “Em có biết tình anh vẫn đậm đà”. Hiểu thư thế, câu thơ là lời khẳng định tình cảm tha thiết, sâu đậm mà thi sĩ luôn dành cho người em Vĩ Dạ. Ẩn sau lời bày tỏ tha thiết ấy là chút giận hớn trách móc. Sao em vô tâm không thấu hiểu lòng anh. Lại có thể hiểu ý thơ theo hướng khác: “Anh nào có biết tình em có đậm đà hay không?”. Theo hướng này, câu thơ đưa ra như một lời hỏi đầy hoài nghi, một tiếng thở dài ngậm ngùi chua xót. Và nói có thể chính là câu trả lời cho câu hỏi buôn ra từ đầu bài thơ:

(lời hỏi) Sao anh không về chơi thôn Vĩ? (lời đáp) Ai biết tình ai có đậm đà?

Ao ước khát khao đến cháy long được trở về Ví Dạ nhưng anh không thể về Vĩ Dạ vì anh nào có biết tình em có đậm đà. Những lời hỏi áy cứ xoáy xâu vào lòng người đọc một nỗi buồn xót xa. Tình yêu mãnh liệt mà vô vọng đau đớn khi hướng về cuộc đời trần thế đã được thể hiện một cách cảm động trong những câu thơ cuối.

Khép lại ” Đây thôn Vĩ Dạ“, ta mới thấu được tình cảnh của thi sĩ. Không chỉ xúc động lòng người bởi tính khắc khoải, xót xa, ” Đây thôn Vĩ Dạ ” còn mê hoặc người đọc bởi vẻ đẹp của thơ. Cảm nhận khổ thơ cuối bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ với ngôn từ trong sáng, giàu sức tạo hình và có sức biểu cảm tinh tế, chạm tới trái tim. Cảnh sắc thiên nhiên liên tục, không tuân theo tính thống nhất về không gian và thời gian nhưng vẫn gây ấn tượng cho người đọc. Tất cả tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm cũng nhưng làm bật lên ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử. Quả không sai, khi có ai đó tưng nói:

Cảm nhận khổ cuối Đây thôn Vĩ Dạ bài số 3:

Hàn Mặc Tử – thi nhân của những mối tình “khuấy” mãi không thành khối, ông yêu nhiều nhưng chỉ nhận lại sự đắng cay, bẽ bàng trong những cuộc tình. Cuộc đời ông niềm vui thì ít mà chỉ toàn nỗi cô đơn, đau buồn. Mọi nỗi niềm tâm tư Hàn Mặc Tử đều gửi vào trong thơ. Thơ ông quằn quại trong đớn đau, thấm đẫm nước mắt và có phần điên loạn. Giữa những vần thơ ma quái, kì dị ấy vẫn có những vần thơ thật trong sáng tinh khôi đó chính là kiệt tác “Đây thôn Vĩ Dạ”. Đặc biệt là khổ thơ cuối ánh lên niềm khát khao tình đời, tình người của thi nhân mạnh mẽ nhất những cũng thật xót xa.

Nếu khổ thơ đầu mở ra khung cảnh thiên nhiên trong trẻo đẹp say đắm lòng người của Vĩ Dạ tắm mình trong ánh nắng buổi ban mai. Tiếp đến khổ thơ thứ hai là cảnh sông nước, mây trời trong đêm trăng huyền ảo trên dòng Hương giang hư hư thực thực với những mặc cảm đớn đau, nuối tiếc tuột cùng của thi nhân khi sắp phải xa lìa cõi đời. Để những sông trăng, thuyền trăng đã đưa Hàn Mặc Tử vào cõi mơ đầy huyền ảo ở khổ thơ cuối. Đây cũng là khổ thơ thấm đẫmtình người, khao khát được sống của nhà thơ.

Bị cuộc đời tuyệt giao, bỏ rơi nhưng Hàn Mặc Tử không quay lưng lại với cuộc đời, mà ông càng thiết tha với đời nhiều hơn. Thực tại quá đớn đau, nghiệt ngã, thi nhân đành tìm niềm an ủi trong cõi mộng. Bao trùm khổ thơ thứ ba là một màu sắc hư vô. Thật thật, giả giả khó lòng phân tách đâu là thực đâu là mơ. Tình yêu đối với con người và thiên nhiên nhiên xứ Huế sâu đậm, ám ảnh nhà thơ đến những giây phút cuối đời. Nhưng căn bệnh hiểm nghèo, quái ác đôi khi làm nhà thơ như không còn tỉnh táo, không phân biệt đâu là hiện thực đâu là giấc mơ:

“Mơ khách đường xa khách đường xa”

Nhà thơ đang chìm vào trong cõi mộng, trong trạng thái vô thức “mơ”. Điệp ngữ “khách đường xa” được lặp lại hai lần, lần lặp thứ hai chữ “mơ” đã được bỏ đi khiến cho câu thơ như ẩn chứa hai tâm trạng, hai cung bậc cảm xúc khác nhau: lần đầu là khát vọng, lần sau là thực tại. Khát vọng là mơ về khách đường xa, mơ một lần được gặp lại người xưa, cảnh cũ nhưng hiện thực càng mơ, càng mong, càng khao khát lại càng xa, xa mãi đến vô vọng, không thể còn một lần nào gặp gỡ.

Câu thơ thứ hai: “Áo em trăng quá nhìn không ra” trong không gian hư ảo khó phân biệt đó, hình ảnh “áo em trắng quá” làm thi nhân vừa choáng ngợp, nghẹn ngào, vừa xót xa, tiếc nuối dù khao khát đến cháy bỏng được chiêm ngưỡng tà áo em trắng tinh khôi thuở nào, những bệnh tật đã làm cho thi nhân chẳng còn chút tỉnh táo, lạc mất vào cõi hư không “nhìn không ra”, không rõ đấy là màu trắng của áo em hay là màu của tâm tưởng, của những kỉ niệm xưa cũ.

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”, “ở đây” có thể là không gian hiện thực nơi xứ Huế vốn nhiều nắng, nhiều mưa, nơi sương khói hư ảo nhưng cũng có thể lại chính là không gian tâm tưởng, không gian nơi tác giả đang đắm chìm trong đau thương, tuyệt vọng đến cùng cực để rồi thốt lên một câu hỏi, chẳng có câu trả lời “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Một câu hỏi tu từ chứa đựng bất an, hoài nghi về tình người của con người xứ Huế. Liệu sau quãng thời gian xa cách, liệu với căn bệnh hiểm nghèo, người dân xứ Huế vẫn thương yêu, trìu mến hay là đã lãng quên mình, xa lánh, ruồng rẫy thi nhân. Câu thơ cuối cũng chính là câu trả lời cho câu thơ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Nhà thơ ao ước được trở về nơi xưa, được gặp lại cố nhân nhưng “Cảnh xưa còn đó, lòng người đổi thay”. Câu thơ khép lại bải thơ trong nỗi hoài nghi, tuyệt vọng nhưng vẫn thấy ở đó là niềm khát khao của thi nhân với tình người, với trần thế chẳng thể nào lụi tàn.

Khổ thơ cuối đượm buồn, mang màu sắc ảo ảnh vừa có chút hoài nghi, trách móc, vừa chứa chan niềm tha thiết với cuộc đời, với con người của một tâm hồn cô đơn ham sống, khát khao sống đến mãnh liệt.

Với những hình ảnh thơ độc đáo, đẹp, gợi cảm, ngôn ngữ giàu tâm trạng, âm điệu, nhịp thơ trong sáng, thiết tha kết hợp với nghệ thuật nhân hóa, so sánh, những câu hỏi tu từ xuyên suốt bài thơ, Hàn Mặc Tử đã phác họa ra một khung cảnh thiên nhiên và con người xứ Huế đầy sức sống, một bức tranh toàn bích hòa quyện giữa cõi thực và cõi ảo, giữa tâm tưởng và ước mong. Qua việc để cho người đọc cảm nhận khổ thơ cuối của bài Đây thôn Vĩ Dạ, tác giả muốn bộc lộ tình yêu mãnh liệt của mình với thiên nhiên, với con người cùng niềm ham sống, khát khao sống của mình.

Sáng tác bài thơ trong hoàn cảnh cái chết cận kề. Song cái ta bắt gặp vẫn là tình yêu, niềm gắn bó tha thiết với thiên nhiên, con người và sự sống. Cành làm ta đồng cảm, mến phúc trước nghị lực sống phi thường, vượt lên trên hoàn cảnh nghiệt ngã của biết bao phũ phàng, ruồng rẫy để sống, đề cống hiến.

Giữa giây phút cận kề với cái chết,của sự hoảng loạn và tuyệt vọng nhưng khát khao cháy bỏng Hàn Mặc Tử đã để lại, đã cống hiến cho đời những vần thơ hoàn mĩ đến tuyệt bích “Đây thôn Vĩ Dạ”. Ra đời cách đây gần tám thập kỉ những những vần thơ đầy suy tư, khắc khoải ấy vẫn làm hàng triệu trái tim độc giả cùng thổn thức, cùng xót xa và cùng hoài niệm với thi nhân. Thật vậy, chỉ một phút thăng hoa cũng đủ để tạo nên một trang tuyệt bút.

Thế Giới Nghệ Thuật Trong Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Của Hàn Mặc Tử

B. DÀN BÀI CHI TIẾT

1. Mở bài

Giới thiệu khái quát về tác giả Hàn Mặc Tử

Hàn Mặc Tử (1912 – 1940), tên thật là Nguyễn Trọng Trí

Quê ở làng Lệ Mỹ, tổng Võ Xá – Phong Lộc – Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.

Là một trong những cây bút tài năng của phong trào Thơ Mới

Dẫn dắt vấn đề :

Thế giới nghệ thuật trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử là một thế giới với những hình ảnh thơ mộng, ngôn từ tinh tế,…

2. Thân bài

Định nghĩa: Thế giới nghệ thuật là gì?

Khái niệm: Thế giới nghệ thuật xuất hiện từ yêu cầu muốn tiếp cận tác phẩm văn học trong dạng chỉnh thể (từ những năm 70 của thế kỉ XX). Theo ngành Thi pháp học: “Thế giới nghệ thuật là khái niệm chỉ chỉnh thể của sáng tác nghệ thuật (một tác phẩm một loại hình sáng tác của một tác giả, một trào lưu). Thế giới nghệ thuật nhấn mạnh sáng tác nghệ thuật là một thế giới riêng được sáng tạo ra theo nguyên tắc tư tưởng và nghệ thuật khác với thế giới thực tại vật chất hay thế giới tâm lí của con người mặc dù nó phản ánh thế giới ấy. Thế giới nghệ thuật có không gian riêng, thời gian riêng, có qui luật tâm lí riêng, có quan hệ xã hội riêng, quan niệm đạo đức, thang bậc giá trị riêng…chỉ xuất hiện một cách ước lệ trong sáng tác nghệ thuật(…). Như vậy, mỗi thế giới nghệ thuật có một mô hình nghệ thuật trong việc phản ánh thế giới… Mỗi thế giới nghệ thuật ứng với một quan niệm về thế giới một cách cắt nghĩa về thế giới… Như vậy, khái niệm thế giới nghệ thuật giúp ta hình dung tính độc đáo về tư duy nghệ thuật của sáng tạo nghệ thuật có cội nguồn trong thế giới quan văn hóa chung, văn hóa nghệ thuật và cá tính sáng tạo của nghệ sĩ. (Từ điển thuật ngữ văn học, Lê Bá Hán – Trần Đình Sử – Nguyễn Khắc Phi, tr.201-202)

Thế giới nghệ thuật trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Nhìn từ góc độ không – thời gian (Chronotope): bài thơ gồm ba khổ nhưng giữa ba khổ không hề có sự liên kết với nhau theo tính liên tục của không gian và thời gian.

Thời gian trong bài thơ tồn tại không có tính liên tục mà bị đứt nối, ngắt quãng: cảnh thôn Vĩ vào buổi sáng tinh mơ (khổ 1), cảnh đêm trăng (khổ 2) và sự vô thức, không đoán định về mặt thời gian (khổ cuối).

Không gian cũng không tuân theo một trình tự nào. Không gian trong bài thơ là không gian của sự chia lìa, không gian giữa thực và hư của hai vùng đất: xứ Vĩ Dạ và vùng đất Qui Nhơn.

⇒ Vậy bài thơ liên kết với nhau như thế nào? Nó được liên kết thông qua mạch cảm xúc được vận động một cách nhất quán trong dòng ý thức, suy tưởng của nhân vật trữ tình. Đây là nét độc đáo của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.

Tính hàm súc, mới lạ của ngôn từ, các biện pháp tu từ:

Đại từ phiếm chỉ “Ai”

Câu hỏi tu từ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”, “Có chở trăng về kịp tối nay?” và “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Những câu hỏi không cần phải có câu trả lời nhưng nó lại chứa đựng biết bao sự đau đớn, hoài nghi và bế tắc nhưng cũng đầy niềm hy vọng, khát khao của nhân vật trữ tình.

Hình ảnh đầy chất thơ và gợi cảm: Hình ảnh gần gũi, nên thơ của thôn Vĩ: nắng sớm, hàng cau, khu vườn, lá trúc, bến nước, con thuyền, trăng,… (khổ 1); Hình ảnh của sự chia lìa: gió, mây, dòng nước, hoa bắp, trăng (khổ 2); Hình ảnh đầy mộng ảo, mơ hồ (khổ 3).

Nhịp thơ: có sự đứt gãy bất thường (câu thơ thất ngôn thường ngắt nhịp 2/2/3 những lại được ngắt nhịp 4/3).

⇒ Nhịp điệu và hình ảnh thơ: gợi lên những ý nghĩa mới trong văn học.

3. Kết bài

Tóm tắt lại những nét đặc sắc về thế giới nghệ thuật của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.

Sự kết nối bài thơ không nằm trong logic thông thời theo trật tự không – thời gian tuyến tính mà nằm ở sự chuyển biến tâm trạng của nhân vật trữ tình.

Sử dụng linh hoạt và có hiệu quả các biện pháp tu từ: ẩn dụ, đại từ, câu hỏi tu từ,…

Gợi mở thêm vấn đề: ngoài bài thơ Đây thông Vĩ Dạ, thế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc tử cũng là một trong những đề tài được nhiều người quan tâm.

C. BÀI VĂN MẪU

Đề bài: Nét nghệ thuật trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Hàn Mặc Tử là một hiện tượng thơ kì lạ vào bậc nhất của phong trào Thơ mới. Đọc thơ Hàn thi sĩ ta bắt gặp một tâm hồn tha thiết yêu cuộc sống, yêu thiên cảnh, yêu con người đến khát khao, cháy bỏng: một khát vọng sống mãnh liệt đến đau đớn tột cùng. Trong thơ Hàn, nhiều bài thơ mang khuynh hướng siêu thoát vào thế giới siêu nhiên, tôn giáo…nhưng đó là hình chiếu ngược của khát vọng sống, khát vọng giao cảm với đời. Một số bài thơ cuối đời của thi sĩ họ Hàn còn đan xen những hình ảnh ma quái – dấu ấn của sự đau đớn giày vò về thể xác lẫn tâm hồn. Đó là sự khủng hoảng tinh thần, bế tắc và tuyệt vọng trước cuộc đời. Nhưng dù được viết theo khuynh hướng nào, thơ Hàn Mặc Tử vẫn là những vần thơ trong sáng, lung linh, huyền ảo, có một ma lực với sức cuốn hút diệu kì đối với người yêu thơ Hàn Mặc Tử.

Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiên phong trong việc cách tân thi pháp của phong trào Thơ mới. Thế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử là một thế giới đa dạng, nhiều sắc màu, Hàn Mặc Tử đã đưa vào Thơ mới những sáng tác độc đáo, những hình tượng ngôn từ đầy ấn tượng, gợi cảm giác liên tưởng và suy tưởng phong phú. Ngoài bút pháp lãng mạn, nhà thơ còn sử dụng bút pháp tượng trưng và yếu tố siêu thực.

Tiếp cận với thế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử là cảm nhận được tính hàm súc, mới lạ của ngôn từ, hình ảnh thơ, tính đa nghĩa tạo sinh của văn bản thơ, tính điêu luyện trong cách tổ chức, cấu trúc tác phẩm và tính mơ hồ khó hiểu. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ có thể xem là một chủ âm trong cây đàn thơ muôn điệu của Hàn Mặc Tử.

Thế giới nghệ thuật là chỉnh thể của hình thức văn học. Văn bản ngôn từ xét về một mặt chỉ là biểu hiện của hình thức bề ngoài của tác phẩm. Tác phẩm trọn vẹn xuất hiện như, một thế giới nghệ thuật, một khách thể thẩm mĩ. Dùng từ “thế giới” để chỉ tác phẩm văn học là có cơ sở khoa học, bởi thuật ngữ “thế giới nghệ thuật” thỏa mãn các ý nghĩa của khái niệm “thế giới”: chỉ sự thống nhất vật chất của các biểu hiện đa dạng; có giới hạn về không – thời gian; phạm vi tác động cứ các qui luật chung, chứng tỏ có một trật tự thống nhất cho toàn bộ; có tính đầy đủ về các qui luật nội tại; là một kiểu tồn tại, thực tại.

Thế giới nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của con người. Tuy nhiên, việc xác định thế giới nghệ thuật như thế nào thì chưa có ý kiến thống nhất. Từ khái niệm “thế giới” nêu trên có thể hiểu “thế giới nghệ thuật” là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ chỉ có trong tác phẩm văn học nói riêng và trong tác phẩm nghệ thuật nói chung, trong cảm thụ của người tiếp nhận, ngoài ra không tìm thấy ở đâu cả. Thế giới nghệ thuật mang tính cảm tính, có thể cảm thấy được và là một kiểu tồn tại đặc thù trong chất liệu và trong cảm nhận của người thưởng thức, là sự thống nhất của mọi yếu tố đa dạng trong tác phẩm. Tóm lại, thế giới nghệ thuật hiểu một cách khái quát là tập hợp tất cả các phương thức, hình thức nghệ thuật biểu hiện mà nhà văn sử dụng để phản ánh và sáng tạo hiện thực.

Hồi còn làm ở Sở đạc điền Bình Định, Hàn Mặc Tử có một mối tình đơn phương với Hoàng Thị Kim Cúc – con gái của chủ sở, người Huế. Mối tình chưa được mặn nồng thì Hàn Mặc Tử vào Sài Gòn làm báo nhưng lòng vẫn nuôi hi vọng ở mối tình đơn phương đó. Khi trở lại Qui Nhơn thì Hoàng Cúc đã theo cha về Huế nên thi sĩ rất đau khổ. Về sau khi Hàn mắc bệnh hiểm nghèo, phải xa lánh mọi người để chữa bệnh, Hoàng Cúc đã gửi cho Hàn một tấm thiếp kèm vài lời động viên. Trên tấm thiếp là một bức tranh phong cảnh in hình dòng sông với cô gái chèo thuyền, bên dưới là những cành trúc lòa xòa, phía xa xa là ráng trời, có thể là rạng đông hay hoàng hôn. Nhận được tấm thiệp ở mộtxóm vắng Bình Định -nơicách li để chữa bệnh – nơi rất xa xứ Huế, Hàn Mặc Tử đã nghẹn ngào. Tấm thiếp như một chất xúc tác tác động mạnh mẽ đến hồn thơ Hàn Mặc Tử. Những ấn tượng về xứ Huế đã được đánh thức cùng với niềm yêu đời vô bờ bến. Thi sĩ liền cất bút viết bài thơ này trong một niềm cảm xúc dâng trào.

Nội dung tự thân của bài thơ đã vượt ra khỏi khuôn khổ của một kỉ niệm riêng tư. Được gợi hứng từ tấm thiếp nhưng bài thơ không đơn thuần là những lời vịnh cảnh, vịnh người từ tấm thiếp mà đó là tiếng lòng đầy uẩn khúc của một tình yêu cháy bỏng nhưng vô vọng; một niềm khát vọng sống, thiết tha gắn bó với cuộc đời, nhất là lúc nhà thơ đang mắc phải căn bệnh hiểm nghèo.

Đến với thế giới nghệ thuật của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là đến với một thế giới nghệ thuật đầy cá tính sáng tạo, mang những nét riêng, nét dị biệt của một hồn thơ đau thương, đa sầu, đa cảm trước thiên nhiên, cuộc sống và con người.

Trước tiên, nhìn từ góc độ không – thời gian nghệ thuật, bài thơ liên kết với nhau không tuân theo tính liên tục của thời gian và tính duy nhất của không gian: cảnh vườn thôn Vĩ tươi sáng trong ánh mai với cảnh sắc bình dị mà tinh khôi, đơn sơ mà tinh tế, nghiêng về cảnh thực; cảnh sông nước đêm trăng huyền ảo, thực hư xem lẫn vào nhau chập chờn chuyển hóa và hình bóng “khách đường xa” nơi chốn khói sương mông lung, cảnh chìm trong mộng ảo. Không – thời gian nghệ thuật của bài thơ được sáng tạo mang tính chủ quan gắn với tâm lí và cảm quan của nhà thơ.

Thời gian trong bài thơ tồn tại không có tính liên tục, bị đứt nối, ngắt quãng: cảnh thôn Vĩ vào buổi sớm tinh mơ, cảnh sông nước đêm trăng và cuối bài thơ chỉ còn là thời gian vô thức, không xác định. Thời gian trong Đây thôn Vĩ Dạ như một dòng chảy nhưng đứt nối của một nỗi niềm thiết tha gắn bó với đời, khát vọng sống đến khắc khoải.

Thời gian nghệ thuật là một biểu tượng thể hiện một quan niệm thẩm mĩ của nhà văn về cuộc đời và con người. Thời gian trong Đây thôn Vĩ Dạ đã thể hiện quan niệm của Hàn Mặc Tử về thế thái nhân sinh. Cuộc đời là một chuỗi thời gian đứt gãy, chắp nối và cuối cùng tan vào hư vô.

Mở đầu bài thơ, thời gian bắt đầu một ngày mới “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”, cảnh vật tràn đầy sức sống. Thời gian thường vận động theo dòng vận động tuyến tính, một chiều. Thế nhưng, nét khác là thời gian trong bài thơ không liên tục mà ngắt quãng. Thời gian mở đầu là buổi sớm tinh khôi nhưng đột ngột chuyển sang đêm trăng đầy mong ngóng, lo âu, buồn đến nao lòng và kết thúc trong thời gian mộng ảo, không xác định. Sự đứt nối thời gian trong bài thơ như một nỗi niềm tâm sự của nhà thơ về cuộc đời và kiếp sống mong manh, đứt đoạn của con người, của Hàn Mặc Tử – một kiếp người dang dở tình duyên và sự nghiệp văn chương.

Thời gian của bài thơ không mang tính liên tục còn không gian lại không tuân theo tính duy nhất. Không gian trong Đây thôn Vĩ Dạ là không gian của sự chia lìa. Không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học là mô hình thế giới độc lập, có tính chủ ý và mang ý nghĩa tượng trưng của tác giả, là không gian tinh thần của con người, là không gian sống mà con người cảm thấy trong tâm tưởng. Không gian nghệ thuật là loại không gian Topos, là không gian cảm giác được, là không gian nội cảm chứ không phải như không gian mặt phẳng kiểu Euclip. Không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống. Do đó, không thể qui không gian trong Đây thôn Vĩ Dạ về không gian địa lí hay không gian vật lí, vật chất.

Không gian trong bài thơ là không gian xứ Huế và không gian một vùng quê Bình Định xa vời, cách trở, huyền hồ “mờ nhân ảnh”. Hai không gian nhuốm màu cách biệt như mối tình đơn phương dang dở của Hàn – Hoàng khiến ta chạnh lòng nhớ lại hai không gian li biệt khi Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều -một cuộc chia li đầy xót xa, đau đớn:

Người lên ngựa kẻ chia bào Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san

Nhưng dù sao Hàn Mặc Tử vẫn chờ đợi và nuôi mầm hi vọngcho mối tình tuyệt vọng ấy. Hai không gian xa xôi, ngăn cách ấy không phải vì không gian địa lí nào mà đó là sự cách trở của hai tâm hồn, là nỗi niềm thổn thức của Hàn thi sĩ. Không gian ở đây được soi chiếu qua lăng kính cảm xúc chủ quan của nhà thơ.

Tóm lại, cả bài thơ liên kết với nhau không theo một trật tự nào của không gian và thời gian. Nhưng về mạch cảm xúc thì vận động nhất quán trong cùng dòng tâm tư: đó là lòng yêu đời, lòng ham sống mãnh liệt những đầy uẩn khúc của một hồn thơ, lòng thiết tha với cảnh vật, với con người và cuộc sống. Vì thế, bố cục tuy có vẻ “đầu Ngô mình Sở” những lại liền mạch, liền khổ. Đây là một nét độc đáo của tác phẩm.

Thế giới nghệ thuật trong bài thơ còn thể hiện ở sự lựa chọn và sử dụng các phương tiện ngôn ngữ nghệ thuật để miêu tả hiện thực và nội tâm một cách sinh động và sâu sắc. Mở đầu bài thơ, tác giả đã khai thác có hiệu quả biện pháp tu từ truyền thống – câu hỏi tu từ:

Với thế giới nghệ thuật ấy, Hàn Mặc Tử đã có những đóng góp mới lạ, tạo một phong cách riêng, một thi pháp riêng, một quan niệm nghệ thuật riêng cho Trường thơ loạn nói riêng và cho Thơ mới nói chung. Đây thôn Vĩ Dạ đã trải qua hơn bảy mươi năm thăng trầm cùng kịch sử văn học nhưng nó vẫn giữ nguyên giá trị. Đây cũng là một trong những bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Hàn Mặc Tử đầy tài năng nhưng tiếc thay đoản mệnh!

Như vậy với đề bài Thế giới nghệ thuật trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, HỌC247 đã giúp các em lập dàn ý chi tiết và bài văn mẫu để các em có thể dễ dàng nắm được cách triển khai một bài văn theo dạng đề nghị luận văn học. Qua đó, các em cũng thấy được những nét nghệ thuật đặc sắc như tính hàm súc, mới lạ của ngôn từ, hình ảnh thơ; tính đa nghĩa tạo sinh của văn bản; tính điêu luyện trong cách tổ chức, cấu trúc tác phẩm; tính mơ hồ khó hiểu của một bài thơ mang hơi hướng của sự phá cách trong sáng tác của Hàn Mặc Tử nói riêng và các nhà thơ trên thi đàn văn học nói chung.

Mod Ngữ Văn biên tập và tổng hợp

Cảm Nhận Khổ 2 Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Của Hàn Mặc Tử

Nếu như thơ trung đại gắn liền với những điều lớn lao, ước lệ thì thơ Mới gắn liền với những cảm xúc cá nhân. Có thể thấy giai đoạn 1932-1945 là giai đoạn nở rộ của cái tôn cá nhân người nghệ sĩ. Nhà thơ Hàn Mạc Tử đã nói rằng: ” tôi làm thơ nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng”. Về cơ bản thơ ông luôn hướng tới quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật nhưng cái đẹp trong thơ ông lại riêng biệt, nó là nét đẹp kì dị, đau thương đan xen với những thứ hư ảo. Thiên nhiên trong thơ ông cũng vậy, nhuốm màu tâm trạng, như thực mà như mơ:

Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buôn thiu hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay?

Cảm nhận khổ 2 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn mặc Tử

Mở đầu khổ thơ với hình ảnh ” gió” và “mây”:

Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thui hoa bắp lay

Gió và mây luôn luôn gắn bó với nhau ” gió thổi mây bay” nhưng trong khổ thơ này hai sự vật ấy lại chia làm đôi ngả. Câu thơ tách thành hai vế khác nhau, mở đầu vế thứ nhất là hình ảnh gió khép lại cũng gió, mở đầu vế thứ hai là mây thì kết thúc cũng là mây. Từ đó ta thấy “gió” và “mây” như những kẻ xa lạ, quay lưng với nhau. Những thứ vốn dĩ không thể tách rời thì hồn thơ Hàn Mạc Tử đã chia cắt những thứ không thể cắt ấy. Dòng nước cũng chỉ là một vật vô tri vô giác trong tự nhiên nhưng với biện pháp nhân hóa ” dòng nước buồn thiu” khiến nó trở nên có những cảm xúc buồn, vui của con người. Điệu chảy ” buồn thiu” của dòng sông Hương lững lờ yên tĩnh như điệu làn êm ả. Và dường như sự chảy trôi vô định của dòng nước thấm đẫm nỗi buồn li tán của sự vận động giữa mây và gió cũng có thể là sự mặc cảm chia lìa của Hàn Mạc Tử lây lan sang cảnh vật. Như Nguyễn Du đã nói ” người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Trên dòng sông Hương xứ Huế ấy là những “hoa bắp lay” khẽ lay động ở đôi bờ, rất nhẹ và rất khẽ, đặt cùng gió, mây, nước hoa bắp “lay” ấy trong ca dao và cũng gặp cái buồn ấy trong thơ , trong nỗi buồn của người chinh phụ. Sông Hương vốn đẹp đẽ và thơ mộng đã bao đời đi vào thơ ca Việt nam thế mà bây giờ lại “buồn thiu” – một nỗi buồn sâm thẳm, không nói nên lời. Mặt nước buồn hay chính là con sóng lòng “buồn thiu” của thi nhân đang dâng lên không sao giấu nổi. Lòng sông buồn, bãi bờ của nó còn sầu hơn. “Hoa bắp lay” gợi tả những hoa bắp xám khô héo, úa tàn đang “lay” rất khẽ trong gió. Hai câu thơ đã mở ra bức tranh thiên nhiên ảm đạm nỗi buồn hiu hắt mang dự cảm về hạnh phúc chia li nhuốm màu chia lìa, sự sống mệt mỏi yếu ớt. Thi sĩ tạo ra hình ảnh này không phải bằng thị giác mà bằng cái nhìn của tâm trạng, tâm hồn mang mặc cảm của một người luôn gắn bó thiết tha với đời mà đang có nguy cơ phải chia lìa.

Hai câu thơ tiếp là nỗi nhớ, là hoài niệm của nhân vật trữ tình về sông nước, đêm trăng và tâm trạng xót xa, nuối tiếc:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay?

Cảnh sông nước được miêu tả gắn với hình tượng trăng. Sông trở thành sông trăng, thuyền trở thành thuyền trăng, bến trở thành bến trăng gợi không khí mơ hồ huyền ảo, đẹp một cách thơ mộng làm cho không gian nghệ thuật ở đây càng thêm hư ảo, mênh mang. Dòng sông của hiện thực đã trở thành dòng sông của cõi mộng. Cảnh vật đã được ảo hóa gợi lên cảm giác chơi vơi trong tâm trạng của nhà thơ. Hình ảnh con thuyền cô đơn nằm trên bến sông trăng là một hình ảnh sáng tạo độc đáo của tác giả, nó mang theo những nỗi niềm của thi sĩ. Nếu mọi vật đang trong thế chia lìa, li tán thì chỉ có trăng là đi ngược lại với tất cả để trở về với thi sĩ. Tâm hồn nhà thơ đang rợn ngợp trong nỗi cô đơn, tưởng như mình bị bỏ rơi bên bờ quên lãng. Trong khoảnh khắc ấy thi sĩ chỉ còn biết mong đợi một hình ảnh duy nhất là trăng. Câu cuối cùng là câu hỏi ẩn chứa biết bao nỗi niềm khắc khoải, lo âu bởi quỹ thời gian còn lại rất ngắn ngủi mà trăng thì vẫn quá xa xôi. Tâm trạng trữ tình phấp phỏng, lo âu được thể hiện qua từ “kịp” vừa như mong chờ hi vọng một cái gì đó đang rời xa, biết khi nào trở lại. Điều đó đã khiến thời gian “tối nay” càng trở nên ngắn ngủi, như một giới hạn trong quỹ thời gian ít ỏi còn lại của thi nhân. Qua hai câu thơ ta thấy được bức tranh thiên nhiên sông nước xứ Huế buồn hiu hắt trong đêm trăng chở nặng nỗi niềm ưu tư của thi nhân. Tất cả bức tranh ấy thể hiện qua một câu hỏi tu từ da diết và khắc khoải. Trăng đã đi vào thơ Hàn Mặc Tử như một nhân vật huyền thoại, một nơi chốn để tâm hồn thi sĩ được phiêu diêu, thoát tục.

Nhập mật khẩu để xem tiếp.