Câu Thơ Thứ Hai Của Bài Qua Đèo Ngang Sử Dụng Biện Pháp Nghệ Thuật Nào

Câu Thơ Thứ Hai Của Bài Qua Đèo Ngang Sử Dụng Biện Pháp Nghệ Thuật Nào, Câu Thơ Rải Rác Biên Cương Mồ Viễn Xứ Sử Dụng Những Biện Pháp Nghệ Thuật , Câu Thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ Đã Sử Dụng Biện Pháp Nghệ Thuật Nào, Câu Thơ Một Mùa Xuân Nho Nhỏ Đã Sử Dụng Biện Pháp Nghệ Thuật Nào, Câu Thơ Quả Dừa – Đàn Lợn Con Nằm Trên Cao Sử Dụng Biện Pháp Nghệ Thuật Nào, Câu Thơ Bác Nằm Trong Giấc Ngủ Bình Yên Sử Dụng Biện Pháp Nghệ Thuật Gì, Câu Thơ Sương Chùng Chình Qua Ngõ Đã Sử Dụng Biện Pháp Nghệ Thuật Nào, Hãy Phân Tích Giá Trị Của Các Biện Pháp Nghệ Thuật Được Sử Dụng Trong Khổ , Câu Thơ Cuối Trăng Nhòm Khe Cửa Ngắm Nhà Thơ Sử Dụng Biện Pháp Nghệ Thuật Gì, Câu Thơ Nào Sử Dụng Bút Pháp Nghệ Thuật ước Lệ Tượng Trưng, Nghệ Thuật Chiến Dịch Chiến Thuật Của Đảng Qua 2 Cuộc Chiến Chống Pháp Mĩ, Nội Dung Nghệ Thuật Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá, Nghệ Thuật Nội Dung Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá, Giáo Trình Công Nghệ Chế Biến Sữa Và Các Sản Phẩm Từ Sữa. Nhà Xuất Bản Khoa Học Kỹ Thuật. 2008, Hãy Giải Thích Cơ Sở Của Biện Pháp Kỹ Thuật Sau Phải Làm Đất Thật Tơi Xốp, Câu Thơ Nào Trong Bài Thơ ông Đồ Sử Dụng Thành Công Nghệ Thuật Tả Cảnh Ngụ , Hãy Phân Tích Dụng ý Nghệ Thuật Của Hệ Thống Câu Hỏi Trong Bài Thơ Đây Thôn , Quy Định Kỹ Thuật Về Thăm Dò, Đánh Giá Trữ Lượng Đá Khối Sử Dụng Làm ốp Lát Và Mỹ Nghệ, Noi Dung, Bien Phap Xay Dung Chi Uy, Chi Bo Tsvm; Cong Tac Giao Duc, Quan Ly Ren Luyen Va Phat Trien, Noi Dung, Bien Phap Xay Dung Chi Uy, Chi Bo Tsvm; Cong Tac Giao Duc, Quan Ly Ren Luyen Va Phat Trien, Khóa Luận Tốt Nghiệp: Một Số Biện Pháp Marketing Nâng Cao Hiệu Quả Xuất Khẩu Hàng Thủ Công Mỹ Nghệ, 4 Nội Dung 7 Biện Pháp Xây Dựng Chính Quy, 1 Bài Thơ Có Sử Dụng Biện Pháp Nói Quá, Câu Thơ Gần Xa Nô Nức Yến Anh Đã Sử Dụng Biện Pháp Tu Từ Gì, Câu Thơ Nào Sau Đây Sử Dụng Biện Pháp Tu Từ ẩn Dụ, Phương Pháp Ngang Trong Nhân Trắc Học Máy Mac, Phương Pháp Ngang Trong Nhân Trắc Học, Câu Thơ Rừng Mơ ôm Lấy Núi Sử Dụng Biện Pháp Tu Từ Gì, Bài Giảng Biện Pháp Sử Dụng Cải Tạo Và Bảo Vệ Đất, Câu Thơ Nào Sau Đây Sử Dụng Biện Pháp Tu Từ Hoán Dụ, Phương Pháp Ngang Trong Nghiên Cứu Nhân Trắc Học May Mặc, Đơn Yêu Cầu áp Dụng Biện Pháp Khẩn Cấp Tạm Thời, Biện Pháp Phòng Ngừa Rủi Ro Tín Dụng, Phuong Phap Ngang Trong Nghiê Cuu Nhân Trac Hoc Nghanh May, Bài Thi Dừng Xe Ngang Dốc, Nội Dung Bài Qua Đèo Ngang, Câu Thơ Giếng Nước Gốc Đa Nhớ Người Ra Lính Sử Dụng Biện Pháp Tu Từ Nào, Hãy Kể Tên Một Số Món ăn Được Chế Biến Bằng Phương Pháp Không Sử Dụng Nh, 5 Câu Thơ Giếng Nước Gốc Đa Nhớ Người Ra Lính Sử Dụng Biện Pháp Tu Từ Nào, Hãy Kể Tên Và Cho Ví Dụ Các Phương Pháp Chế Biến Thực Phẩm Có Dùng Nhiệt, Câu Thơ Lũ Bướm Vàng Lơ Đãng Lướt Bay Qua (anh Thơ) Có Sử Dụng Biện Pháp Tu Từ Nào, Mẫu Số 5 Bảng Tổng Hợp Số Liệu áp Dụng Các Biện Pháp Xử Lý Hành Chính, Nghị Quyết Hướng Dẫn áp Dụng Biện Pháp Khẩn Cấp Tạm Thời, Thầy/cô Đã Có Những Biện Pháp Gì Để Thu Hút Học Sinh Làm Quen Và Hứng Thú Học Tập Với Nội Dung Các B, Biện Pháp Tổ Chức Thực Hiện Xây Dựng Thôn Bản Vững Mạnh, Đề Tài: Các Biện Pháp Quản Lý Nhằm Đẩy Mạnh ứng Dụng Cntt Trong Dạy Học Tại Trường Thpt Hoà Phú, Chi, Đề Tài: Các Biện Pháp Quản Lý Nhằm Đẩy Mạnh ứng Dụng Cntt Trong Dạy Học Tại Trường Thpt Hoà Phú, Chi, Đề Tài: Các Biện Pháp Quản Lý Nhằm Đẩy Mạnh ứng Dụng Cntt Trong Dạy Học Tại Trường Thpt Hoà Phú, Chi, Nghệ Thuật Bon Sai, Văn Học & Nghệ Thuật Anh Ngữ, Nghệ Thuật Phòng The, Nghệ Thuật Quyến Rũ, Xếp Sách Nghệ Thuật, Nghệ Thuật Xem Tướng, Ngon Ngu Nghe Thuat, Công Nghê Kĩ Thuật ôtô , Nghệ Thuật Lãnh Đạo, Nghệ Thuật Của Bài Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc, Ky Thuat San Xuat Rau Cong Nghe Cao, Chuyên Đề Công Nghệ Kỹ Thuật ô Tô, Nghệ Thuật Điêu Khắc, Quannieemj Nghệ Thuật Về Con Người Của Nam Cao, ý Nghĩa Tài Liệu Văn Học Nghệ Thuật, Quan Niệm Nghệ Thuật Là Gì, Chủ Đề Nghệ Thuật Diễn Thuyết, Nghệ Thuật Chủ Yếu Của Văn Bản “sống Chết Mặc Bay” Là Gì, Bài Giảng Nghệ Thuật Đàm Phán, Nghệ Thuật Bán Hàng Đỉnh Cao, Luận Văn Về Nghệ Thuật Lãnh Đạo, Bản Khai Lý Lịch Trích Ngang Dùng Để Xác Định Hàng Thừa Kế, Khi Điều Khiển Xe Sử Dụng Hộp Số Cơ Khí Vượt Qua Rãnh Lớn Cắt Ngang Mặt Đường, Người Lái Xe Cần, Luận án Tiến Sĩ Nghệ Thuật Thẩm Mỹ, Bài Tập Làm Văn Kể Về Một Buổi Biểu Diễn Nghệ Thuật, Bài Tập Làm Văn Về Buổi Biểu Diễn Nghệ Thuật, Quan-niem-nghe-thuat-ve-con-nguoi-cua-nam-cao, Ngành Công Nghệ Kĩ Thuật Môi Trường Sgu, Quản Lý Nhà Nước Về Tác Phẩm Văn Học Nghệ Thuật, Tiểu Luận Nghệ Thuật Lãnh Đạo, Nghệ Thuật Hoạt Động Chính Trị, Kinh Thánh Về Nghệ Thuật Lãnh Đạo, Bài Văn Mẫu Kể Về Một Buổi Biểu Diễn Nghệ Thuật, Bài Thuyết Trình Xếp Sách Nghệ Thuật, Quan Niệm Nghệ Thuật Về Con Người, Giáo Trình Học Xăm Hình Nghệ Thuật, Giáo Trình Xăm Hình Nghệ Thuật, Câu Thơ Ai Biết Tình Ai Có Đậm Đà Đạt Hiệu Quả Nghệ Thuật Như Thế Nào, Mẫu Đơn Xin Cấp Phép Biểu Diễn Nghệ Thuật, Chương Trình Đào Tạo Công Nghệ Kỹ Thuật ô Tô, Phong Cách Ngôn Ngữ Nghệ Thuật, Nghe Giảng Pháp Luân Đại Pháp, Bài Thiết Trình Xếp Sách Nghệ Thuật Hình Chữ S, Hãy Phân Tích Giá Trị Của Một Số Đặc Điểm Nghệ Thuật Thường Có Của Tục, Luận Văn Quản Lý Nhà Nước Về Tác Phẩm Văn Học Nghệ Thuật, Địa Chỉ Trường Sư Phạm Nghệ Thuật Trung ương, Thuyết Trình Về Sếp Sách Nghệ Thuật Lăng Bác, Bài Thuyết Trình Xếp Sách Nghệ Thuật Hình Chữ S, Giáo án Phong Cách Ngôn Ngữ Nghệ Thuật, Hãy Kể Tên Một Số Công Trình Nghệ Thuật Dân Gian Mà Em Biết, Bài Thuyết Trình Về Xếp Sách Nghệ Thuật Hình Chữ S, Thuyết Trình Về Xếp Sách Nghệ Thuật Hình Chữ S,

Câu Thơ Thứ Hai Của Bài Qua Đèo Ngang Sử Dụng Biện Pháp Nghệ Thuật Nào, Câu Thơ Rải Rác Biên Cương Mồ Viễn Xứ Sử Dụng Những Biện Pháp Nghệ Thuật , Câu Thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ Đã Sử Dụng Biện Pháp Nghệ Thuật Nào, Câu Thơ Một Mùa Xuân Nho Nhỏ Đã Sử Dụng Biện Pháp Nghệ Thuật Nào, Câu Thơ Quả Dừa – Đàn Lợn Con Nằm Trên Cao Sử Dụng Biện Pháp Nghệ Thuật Nào, Câu Thơ Bác Nằm Trong Giấc Ngủ Bình Yên Sử Dụng Biện Pháp Nghệ Thuật Gì, Câu Thơ Sương Chùng Chình Qua Ngõ Đã Sử Dụng Biện Pháp Nghệ Thuật Nào, Hãy Phân Tích Giá Trị Của Các Biện Pháp Nghệ Thuật Được Sử Dụng Trong Khổ , Câu Thơ Cuối Trăng Nhòm Khe Cửa Ngắm Nhà Thơ Sử Dụng Biện Pháp Nghệ Thuật Gì, Câu Thơ Nào Sử Dụng Bút Pháp Nghệ Thuật ước Lệ Tượng Trưng, Nghệ Thuật Chiến Dịch Chiến Thuật Của Đảng Qua 2 Cuộc Chiến Chống Pháp Mĩ, Nội Dung Nghệ Thuật Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá, Nghệ Thuật Nội Dung Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá, Giáo Trình Công Nghệ Chế Biến Sữa Và Các Sản Phẩm Từ Sữa. Nhà Xuất Bản Khoa Học Kỹ Thuật. 2008, Hãy Giải Thích Cơ Sở Của Biện Pháp Kỹ Thuật Sau Phải Làm Đất Thật Tơi Xốp, Câu Thơ Nào Trong Bài Thơ ông Đồ Sử Dụng Thành Công Nghệ Thuật Tả Cảnh Ngụ , Hãy Phân Tích Dụng ý Nghệ Thuật Của Hệ Thống Câu Hỏi Trong Bài Thơ Đây Thôn , Quy Định Kỹ Thuật Về Thăm Dò, Đánh Giá Trữ Lượng Đá Khối Sử Dụng Làm ốp Lát Và Mỹ Nghệ, Noi Dung, Bien Phap Xay Dung Chi Uy, Chi Bo Tsvm; Cong Tac Giao Duc, Quan Ly Ren Luyen Va Phat Trien, Noi Dung, Bien Phap Xay Dung Chi Uy, Chi Bo Tsvm; Cong Tac Giao Duc, Quan Ly Ren Luyen Va Phat Trien, Khóa Luận Tốt Nghiệp: Một Số Biện Pháp Marketing Nâng Cao Hiệu Quả Xuất Khẩu Hàng Thủ Công Mỹ Nghệ, 4 Nội Dung 7 Biện Pháp Xây Dựng Chính Quy, 1 Bài Thơ Có Sử Dụng Biện Pháp Nói Quá, Câu Thơ Gần Xa Nô Nức Yến Anh Đã Sử Dụng Biện Pháp Tu Từ Gì, Câu Thơ Nào Sau Đây Sử Dụng Biện Pháp Tu Từ ẩn Dụ, Phương Pháp Ngang Trong Nhân Trắc Học Máy Mac, Phương Pháp Ngang Trong Nhân Trắc Học, Câu Thơ Rừng Mơ ôm Lấy Núi Sử Dụng Biện Pháp Tu Từ Gì, Bài Giảng Biện Pháp Sử Dụng Cải Tạo Và Bảo Vệ Đất, Câu Thơ Nào Sau Đây Sử Dụng Biện Pháp Tu Từ Hoán Dụ, Phương Pháp Ngang Trong Nghiên Cứu Nhân Trắc Học May Mặc, Đơn Yêu Cầu áp Dụng Biện Pháp Khẩn Cấp Tạm Thời, Biện Pháp Phòng Ngừa Rủi Ro Tín Dụng, Phuong Phap Ngang Trong Nghiê Cuu Nhân Trac Hoc Nghanh May, Bài Thi Dừng Xe Ngang Dốc, Nội Dung Bài Qua Đèo Ngang, Câu Thơ Giếng Nước Gốc Đa Nhớ Người Ra Lính Sử Dụng Biện Pháp Tu Từ Nào, Hãy Kể Tên Một Số Món ăn Được Chế Biến Bằng Phương Pháp Không Sử Dụng Nh, 5 Câu Thơ Giếng Nước Gốc Đa Nhớ Người Ra Lính Sử Dụng Biện Pháp Tu Từ Nào, Hãy Kể Tên Và Cho Ví Dụ Các Phương Pháp Chế Biến Thực Phẩm Có Dùng Nhiệt, Câu Thơ Lũ Bướm Vàng Lơ Đãng Lướt Bay Qua (anh Thơ) Có Sử Dụng Biện Pháp Tu Từ Nào, Mẫu Số 5 Bảng Tổng Hợp Số Liệu áp Dụng Các Biện Pháp Xử Lý Hành Chính, Nghị Quyết Hướng Dẫn áp Dụng Biện Pháp Khẩn Cấp Tạm Thời, Thầy/cô Đã Có Những Biện Pháp Gì Để Thu Hút Học Sinh Làm Quen Và Hứng Thú Học Tập Với Nội Dung Các B, Biện Pháp Tổ Chức Thực Hiện Xây Dựng Thôn Bản Vững Mạnh, Đề Tài: Các Biện Pháp Quản Lý Nhằm Đẩy Mạnh ứng Dụng Cntt Trong Dạy Học Tại Trường Thpt Hoà Phú, Chi, Đề Tài: Các Biện Pháp Quản Lý Nhằm Đẩy Mạnh ứng Dụng Cntt Trong Dạy Học Tại Trường Thpt Hoà Phú, Chi, Đề Tài: Các Biện Pháp Quản Lý Nhằm Đẩy Mạnh ứng Dụng Cntt Trong Dạy Học Tại Trường Thpt Hoà Phú, Chi, Nghệ Thuật Bon Sai, Văn Học & Nghệ Thuật Anh Ngữ,

Bài Thơ Qua Đèo Ngang

Bài thơ: Qua Đèo Ngang

Bài giảng: Qua đèo ngang – Cô Trương San (Giáo viên VietJack)

Nội dung bài thơ: Qua Đèo Ngang I. Đôi nét về tác giả Bà Huyện Thanh Quan

– Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, sống ở thế kỉ XIX, chưa rõ năm sinh, năm mất

– Quê quán: làng Nghi Tàm, nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội

– Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Ninh), tỉnh Thái Bình, do đó mà có tên gọi Bà Huyện Thanh Quan

– Bà là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại ngày xưa, hiện còn để lại sáu bài thơ Đường luật.

– Thơ bà thể hiện lòng yêu mến cảnh quan thiên nhiên, đất nước và tâm sự u hoài trước thế sự đổi thay. Tác phẩm nào của bà cũng buồn thương da diết, trang nhã và rất điêu luyện

II. Đôi nét về tác phẩm Qua Đèo Ngang

1. Hoàn cảnh ra đời

Bài thơ được sáng tác khi bà từ trên đường từ Bắc Hà vào Huế nhận chức “Cung Trung giáo tập”

2. Bố cục (4 phần )

– Phần 1 (hai câu đề): Cái nhìn chung về cảnh vật Đèo Ngang

– Phần 2 (hai câu thực): Cuộc sống của con người ở Đèo Ngang

– Phần 3 (hai câu luận): Tâm trạng của tác giả

– Phần 3 (hai câu kết): Nỗi cô đơn đến tột cùng của tác giả

3. Giá trị nội dung

bài thơ “Qua Đèo Ngang” cho thấy cảnh tượng Đèo Ngang thoáng đãng mà heo hút, thấp thoáng có sự sống của con người nhưng còn hoang sơ, đồng thời, thể hiện nỗi nhớ nước, thương nhà, nỗi buồn thầm lặng, cô đơn của tác giả

4. Giá trị nghệ thuật

– Thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật

– Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình

– Sử dụng từ láy gợi hình gợi cảm và nghệ thuật đối lập, đảo ngữ

III. Dàn ý phân tích tác phẩm Qua Đèo Ngang

I. Mở bài

– Giới thiệu về tác giả Bà Huyện Thanh Quan (tiểu sử, sự nghiệp sáng tác, đặc điểm sáng tác…)

– Giới thiệu về bài thơ “Qua Đèo Ngang” (hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật…)

II. Thân bài

1. Cái nhìn chung về cảnh vật Đèo Ngang

– Thời gian: xế chiều – thời điểm dễ gợi nên nỗi buồn cô đơn, sự trống vắng

– Không gian: Đèo Ngang – một con đèo hùng vĩ, phân chia hai tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh, là ranh giới phân chia Đàng Trong và Đàng Ngoài ngày xưa

– Cảnh vật:

+ Các sự vật: cỏ cây, lá, đá, hoa

+ Động từ: chen – lẫn vào nhau, không ra hàng ra lối, động từ “chen” chen vào giữa hai câu thơ gợi cảnh tượng rậm rạp, hoang sơ

⇒ Cảnh vật đầy sức sống nhưng hoang sơ, rậm rạp và hắt hiu

2. Cuộc sống con người ở Đèo Ngang

– Sử dụng từ láy có giá trị gợi hình: lom khom, lác đác – gợi cảm giác thưa thợt, ít ỏi

– Nghệ thuật đảo ngữ:

+ Lom khom … tiều vài chú

+ Lác đác … chợ mấy nhà

⇒ Nhấn mạnh sự nhỏ bé, ít ỏi, nhỏ nhoi của sự sống ở giữa cảnh vật thiên nhiên rộng lớn, hoang sơ

⇒ Hình ảnh con người hiện lên thưa thớt, ít ỏi làm cho cảnh vật thêm hoang vắng, tiêu điềi. Qua đó, gợi cảm giác buồn hiu, vắng lặng của tác giả

3. Tâm trạng của tác giả

– Âm thanh của chim quốc quốc, gia gia: nghệ thuật lấy động tả tĩnh, chơi chữ. Tiếng chim quốc, chim gia gia nhớ nước, thương nhà cũng chính là tiếng lòng của tác giả thiết tha, da diết nhớ nhà, nhớ quá khứ của đất nước

– Câu thơ như một tiếng thở dài của tác giả

⇒ Tâm trạng nhớ nước, nhớ nhà, nhớ quê hương của tác giả. Đó cũng chính là tâm trạng hoài cổ của nữ sĩ

4. Nỗi cô đơn tột cùng của tác giả

– Con người nhỏ bé, lẻ loi, cô đơn, một mình đối diện với cả vũ trụ bao la, rộng lớn

– “Một mảnh tình riêng, ta với ta”: một nỗi buồn, một nỗi cô đơn không có ai để se chia, san sẻ

⇒ Tâm trạng cô đơn, trống vắng, lẻ loi một mình đối diện với chính mình giữa vũ trụ bao la, rộng lớn

III. Kết bài

– Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác giả:

+ Nội dung: Cảnh tượng Đèo Ngang thoáng đãng mà heo hút, thấp thoáng sự sống của con người và tâm trạng nhớ nước, thương nhà và nỗi cô đơn của tác giả

+ Nghệ thuật: thể thơ thất ngôn bát cú, sử dụng từ láy, nghệ thuật đảo ngữ…

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k8: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Các bài Soạn văn lớp 7 siêu ngắn được biên soạn bám sát câu hỏi sgk Ngữ Văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 giúp bạn dễ dàng soạn bài Ngữ Văn 7 hơn.

tac-gia-tac-pham-lop-7.jsp

Nội Dung Nghệ Thuật Bố Cục Của Bài Thơ Qua Đèo Ngang Lớp 7

Bà Huyện Thanh Quan (1805-1848), tên thật Nguyễn Thị Hinh; nhà thơ nổi tiếng trong giai đoạn cận đại của văn học nước nhà. Bà là người huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây (nay thuộc quận Tây Hồ), Hà Nội.

Bà Huyện Thanh Quan các tác phẩm đều viết theo chữ Nôm, thể Đường luật. Một số tác phẩm nổi tiếng của bà như:

– Qua chùa Trấn Bắc – Qua Đèo Ngang – Chiều hôm nhớ nhà – Tức cảnh chiều thu – Cảnh đền Trấn Võ

Nhận xét của chuyên gia:

GS. Dương Quảng Hàm:

Thơ Nôm của bà chủ yếu tả cảnh, tỏ tình, vừa là người có học thức nghĩ đến nhà, đến nước. Lời văn trang nhã, điêu luyện.

GS. Thanh Lãng:

Thơ Bà Huyện Thanh Quan đầy chất thơ. Lời thơ của bà có sự điêu luyện, gọt giũa, đẹp như một bức tranh cổ.

Tác giả bài thơ Qua đèo ngang chính là nữ thi sĩ tài giỏi Bà Huyện Thanh Quan. Tác giả sáng tác bài thơ này trong hoàn cảnh đi xa nhà vào Huế nhậm chức theo lệnh nhà vua. Khi đi qua đèo Ngang (địa giới tự nhiên nằm giữa hai tỉnh Hà Tĩnh – Quảng Bình) dừng chân nghỉ ngơi tác giả đã viết bài thơ này.

Bài thơ bài thơ cho thấy sự hoang vắng, khung cảnh u buồn đồng thời tác giả có nhiều nỗi buồn và nhớ quê hương.

Nội dung bài Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan thể hiên được tâm trạng cô đơn, nỗi hoài cổ của nhà thơ trước cảnh vật Đèo Ngang. Qua Đèo Ngang còn là bài thơ hay cho thấy sự yêu mến non sông, đất nước của nữ thi sĩ.

Cảnh vật đèo Ngang trong buổi chiều tà đã được tác giả mô tả vô cùng hoang sơ, tiêu điều cũng đã thể hiện được nỗi buồn cô đơn, nỗi sầu nhân thế của nhà thơ Bà Huyện Thanh Quan.

Bố cục bài thơ được chia làm 4 phần như sau: Phần 1 (hai câu đề): cảnh vật Đèo Ngang qua góc nhìn chung. Phần 2 (hai câu thực): Hoạt động của con người Đèo Ngang Phần 3 (hai câu luận): Tâm trạng chất chứa của tác giả. Phần 3 (hai câu kết): nỗi cô đơn và trống vắng của tác giả.

Bài thơ Qua đèo Ngang được bà viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật vần trắc. Một thể thơ phổ biến trong thời điểm bấy giờ.

– Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát, tâm trạng buồn, sâu lắng.

– Tác giả sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình.

– Dùng nhiều các biện pháp nghệ thuật ẩn chứa bên trong như phép đối xứng, đảo trật tự cú pháp, lối chơi chữ, sử dụng các từ láy, sử dụng các từ đồng âm khác nghĩa,…rất hay.

– Dùng nghệ thuật đối: đối ý qua tâm trạng của chính tác giả: nhớ – thương; nước- nhà, đau lòng- mỏi miệng.

– Đối thanh, lối chơi chữ đồng âm khác nghĩa: cuốc cuốc= quốc= đất nước, gia gia= nước nhà.

Phân Tích Bài Thơ Qua Đèo Ngang

Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan

Văn mẫu phân tích bài thơ Qua đèo Ngang Phân tích Qua đèo Ngang bài văn mẫu số 1

Bà Huyện Thanh Quan một trong những nữ văn sĩ nổi tiếng của văn học trung đại Việt Nam. Thơ văn bà để lại cho hậu thế không còn nhiều, trong đó nổi tiếng nhất là phải kể đến bài Qua đèo Ngang. Đây là bài thơ tả cảnh ngụ tình, bộc lộ nỗi niềm, tâm trạng của bà khi trên đường vào kinh đô Huế nhận chức.

Mở đầu bài thơ là bức tranh phong cảnh thấm đẫm nỗi buồn hiu quạnh:

Bước đến đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá, lá chen hoa

Hai câu thơ mở ra không gian, thời gian nghệ thuật quen thuộc trong thơ trung đại, đây đồng thời cũng là nét đặc trưng phong cách của Bà Huyện Thanh Quan: chiều tà và bóng hoàng hôn. Thời gian là buổi chiều nhưng không phải là lúc đầu hôm mà là chiều tà, thời điểm chuyển giao giữa chiều và tối, ánh nắng chỉ còn nhạt nhòa và sắp lặn. Không gian mênh mông, rộng lớn, với cả trời, non, nước nhưng tất cả đều im ắng, vắng lặng đến rợn ngợp.

Trong không gian đó, hình ảnh cây cối, hoa cỏ hiện lên có phần hoang dại, chúng chen chúc nhau mọc lên. Từ “chen” gợi sức sống mãnh liệt của muôn loài trước cái cằn cỗi của đất đai, cái khắc nghiệt của thời tiết. Đồng thời từ này còn gợi lên thiên nhiên có phần hoang dã, vô trật tự. Không gian và thiên nhiên cây cỏ hòa quyện vào nhau càng làm sâu đậm thêm ấn tượng về mảnh đất hoang vu.

Bức tranh được điểm thêm hơi thở, sự sống của con người:

Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Những tưởng rằng với sự xuất hiện của sự sống con người quang cảnh sẽ bớt vắng lặng, cô đơn hơn nhưng thực tế lại không phải vậy. Sự xuất hiện của con người trái lại càng khiến cảnh vật thêm phần heo hút, hoang vắng hơn. Nghệ thuật đảo ngữ nhấn mạnh vào dáng “lom khom” của những chú tiều, cái “lác đác” của mấy ngôi nhà ven sông kết hợp các từ chỉ số lượng ít ỏi “vài”, “mấy” khiến cho hình bóng con người đã nhỏ lại càng nhỏ hơn, cuộc sống đã hiu quạnh lại càng hiu quạnh hơn. Bức tranh về một thế giới cô liêu hiện lên rõ hơn bao giờ hết. Nhìn lại cả hai câu thơ ta thấy chúng có đầy đủ các yếu tố của một bức tranh sơn thủy, hữu tình: núi, sông, tiều phu, chợ. Thế nhưng những yếu tố ấy khi hợp lại với nhau và khúc xạ qua cảm nhận của nhà thơ lại gợi lên một miền sơn cước hiu quạnh, heo hút.

Bốn câu thơ cuối nói lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả: “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc/ Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”. Những âm thanh của cuốc kêu cũng chính là nỗi lòng của Bà Huyện Thanh Quan. Tài dùng chữ của bà đã đạt đến độ điêu luyện: chữ quốc là nước đồng âm với chữ cuốc tức con chim, chữ gia là nhà gần âm với từ chữ đa là chim đa đa. Chữ vừa ghi âm thanh nhưng đồng thời còn bộc lộ tâm trạng, ý tứ của tác giả, qua đó làm nổi bật tâm trạng, nỗi niềm của nữ sĩ. Vì phải xa quê hương, vào miền đất mới nhận chức nên bà nhớ nhà, nhớ gia đình. Còn nhớ nước tức là bà đang nhớ về quá khứ huy hoàng của triều đại cũ. Hai chữ nhớ nước, thương nhà được tác giả đảo lên đầu câu càng nhấn mạnh và làm nổi bật nỗi niềm của bà.

Hai câu thơ cuối bộc lộ trực tiếp nỗi niềm cô đơn khắc khoải của nhà thơ: “Dừng chân đứng lại trời, non, nước/ Một mảnh tình riêng ta với ta”. Không gian mênh mông khiến con người lại càng trở nên bé nhỏ, cô đơn hơn. Sự vật tưởng là hòa quyện, gắn kết với nhau mà thực chất lại đang chia lìa đôi ngả, trời, non, nước được tách biệt với nhau bằng những dấu phẩy, đó là cái nhìn mang tính tâm trạng của chính tác giả. Câu thơ cuối như là một lời khẳng định trực tiếp nỗi cô đơn đó “một mảnh tình” “ta với ta”. Đại từ “ta” không còn mang ý nghĩa chỉ chung, cộng đồng mà là cá nhân, chỉ một mình tác giả. Trong hai câu kết, tất cả là một sự gián cách, là một thế giới riêng, cô đơn đến tuyệt đối.

Không chỉ đặc sắc về nội dung, tác phẩm còn là điển hình mẫu mực về nghệ thuật cổ điển Đường thi. Bà sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú, chuẩn mực về niêm, luật, đối, ngôn ngữ trau chuốt, mượt mà mặc dù đã được Việt hóa. Sử dụng thành công đảo ngữ, chơi chữ. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình xuất sắc, tả cảnh vật mà bộc lộ nỗi niềm, tâm trạng của tác giả.

Qua bài thơ Qua đèo Ngang ta không chỉ ấn tượng bởi nghệ thuật tài tình, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển đường thi và chất dân dã của dân tộc, mà còn bị cuốn hút bởi nội dung. Bức tranh phong cảnh đèo Ngang hiu quanh, mênh mông đã thể hiện tâm trạng buồn bã, nỗi niềm nhớ nước, thương nhà của tác giả.

: Phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm Qua đèo ngang

Phân tích Qua đèo Ngang bài văn mẫu số 2

Có nơi đâu đẹp tuyệt vời Như sông như núi, như người Việt Nam

Câu thơ thể hiện niềm kiêu hãnh, tự hào về non sông đất trời Việt Nam. Thiên nhiên trên quê hương ta có vẻ đẹp mộng mơ, chan hoà sức sống. Chính vì vậy, thiên nhiên luôn là dề tài bất tận của thi ca. Lúc thì lung linh, huyền diệu như trong mộng, lúc lại rực rỡ, kiêu sa tựa ánh mặt trời. Nhưng đồng thời, cảnh vật cũng sẽ nhuốm màu ảm đạm, thê lương dưới ánh mắt của các nhà thơ mang một tâm sự u hoài khi sáng tác một bài thơ tức cảnh. Vì thế, đại thi hào Nguyễn Du đã từng nói: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Câu thơ thật thích hợp khi ta liên tưởng đến bà Huyện Thanh Quan với bài thơ Qua đèo Ngang.

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà.

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa Lom khom dưới núi, tiều vài chú Lác đác bên sông, chợ mấy nhà Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia Dừng chân đứng lại, trời non, nước Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Phải hiểu rõ và yêu quý bài thơ mới thấy hết được tài năng cũng như tư tưởng luôn hướng về quê hương đất nước và gia đình của bà Huyện Thanh Quan. Ai dám bảo rằng người phụ nữ trong xã hội phong kiến không có được những tình cảm thiêng liêng đó?

Chỉ mới đọc hai câu đầu của bài thơ thôi là ta đã nhận ngay ra một nỗi buồn xa vắng:

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá, lá chen hoa

Câu thơ xuất hiện cụm từ “bóng xế tà” và sự hiện diện của điệp từ “chen” cùng cách gieo vần lưng “lá, đá” đã tạo nên sự cô đơn, tĩnh mịch. Từ “tà” như diễn tả một khái niệm sắp tàn lụa, biến mất. Yếu tố thời gian làm cho câu thơ thêm phần buồn bã. Ca dao cũng đã có câu:

Vẳng nghe chim vịt kêu chiều Bâng khuâng nhớ mẹ, chín chiều ruột đau

Thế mới biết, những tình cảm cao quý của mỗi người dường như gặp nhau ở một điểm. Đó chính là thời gian. Mà quãng thời gian thích hợp nhất để bộc lộ sự nhớ nhung khắc khoải chính là lúc chiều về. Ở bài thơ Qua đèo Ngang, tác giả bỗng dâng lên cảm xúc man mác khi bà bắt gặp ánh hoàng hôn bao phủ cảnh vật ở Hoành Sơn. Cảnh vật đã buồn lại trống vắng hơn bởi điệp từ “chen” ở câu thứ hai. Nó làm cho người đọc thơ bỗng cảm nhận được sự hoang vắng của đèo Ngang lúc chiều tà, bóng xế mặc dù nơi đây rất đẹp: có cỏ cây, đá, lá, hoa. Vì ở đây vắng vẻ quá nên thi sĩ đã phóng tầm mắt để tìm kiếm một chút gì gọi là sự sống linh động. Và kìa, phía xa xa dưới chân đèo xuất hiện hình ảnh:

Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông, chợ mấy nhà

Câu thơ gợi cho tả hình dung trong ánh hoàng hôn lạnh lẽo, mấy người tiều phu đang đốn củi, mấy quán chợ xiêu xiêu trong gió. Đảo ngữ đưa hai từ láy lom khom, lác đác lên đầu câu đã được tác giả sử dụng như nhấn mạnh thêm sự u hoài ở đây. Nhà thơ đi tìm một sự sống nhưng sự sống đó lại làm cho cảnh vật héo hắt, buồn bã hơn, xa vắng hơn. Sự đối lập vốn có của hai câu thực khiến cho cảnh trên sông, dưới núi thêm rời rạc, thưa thớt. Từ vài, mấy như càng nói rõ thêm sự vắng vẻ ở nơi này. Trong sự hiu quạnh đó, bỗng nhiên vẳng lên tiếng kêu đều đều, man mác của loài chim quốc quốc, chim gia gia trong bóng hoàng hôn đang buông xuống.

Từ ghép đau lòng, mỏi miệng khiến cho ta có cảm giác tha thiết, ray rứt. Cụm từ “nhớ nước, thương nhà” là nỗi niềm của con chim quốc, chim gia gia do tác giả cảm nhận được hay chính là nghệ thuật ẩn dụ để nói lên tâm sự từ trong sâu thẳm tâm hồn của nữ sĩ? Nghệ thuật chơi chữ “quốc quốc gia gia” phải chăng là Tổ quốc và gia đình của Bà Huyện Thanh Quan hồi đó?

Sự song song về ý, về lời của hai câu thơ trong phần luận của bài thơ này nhằm nhấn mạnh tình cảm của bà Huyện Thanh Quan đối với Tổ quốc, gia đình trước cảnh thật là khéo léo và tài tình. Từ thực tại của xã hội đương đời mà bà đang sống cho đến cảnh thực của đèo Ngang đã khiến cho tác giả sực nhớ đến mình và tâm sự:

Dừng chân dứng lại trời non nước Một mảnh tình riêng ta với ta.

Câu kết của bài, ta cảm thấy nhà thơ có tâm sự u hoài về quá khứ. Dừng lại và quan sát bà chỉ thấy: trời, non, nước. Vũ trụ thật rộng lớn, xung quanh bà là cả một bầu trời với núi, với sông khiến cho con người cảm thấy mình bé nhỏ lại, đơn độc, trống vắng, ở đây, chỉ có một mình bà ta với ta, lại thêm mảnh tình riêng cho nước, cho nhà trong huyết quản đã làm cho cõi lòng nhà thơ như tê tái. Vũ trụ bao la quá! Con người cô đơn quá! Tất cả lại được diễn tả dưới ngòi bút tài hoa của người nữ sĩ nên bài thơ là bức tranh đặc sắc. Cụm từ “ta với ta” như một minh chứng cho nghệ thuật điêu luyện trong sáng tác thơ ca của bà Huyện Thanh Quan. Bởi vì cũng “ta với ta” nhưng nhà thơ Nguyễn Khuyến lại nói:

Bác đến chơi đây ta với ta

Lại là sự kết hợp của hai người: tuy hai mà một, tuy một mà hai. Còn bà Huyện lại:

Một mảnh tình riêng ta với ta.

đã tô đậm thêm sự lẻ loi, đơn chiếc của mình. Qua câu thơ, ta như cảm nhận sâu sắc hơn nỗi niềm tâm sự của tác giả trước cảnh tình quê hương…

Từ xưa đến nay, có nhiều nhà thơ tả cảnh đèo Ngang nhưng không ai thành công bằng bà Huyện Thanh Quan vì trong tác phẩm của bà có cả tâm hồn, tình cảm, nỗi lòng và tài năng của một cây bút tuyệt vời. Cả bài thơ được gieo vần “a” như chính tâm sự hoài cổ của tác giả. Chúng ta không tìm thấy dù chỉ một chút gọi là sự ồn ào trong cách miêu tả. Tất cả chỉ là sự trầm lắng, mênh mang như chính tâm sự của tác giả.

Lời thơ nghe xao xuyến, bồi hồi làm cho người đọc xúc động cũng chính là những cảm xúc sâu lắng của bà Huyện Thanh Quan khi đặt chân lên đèo Ngang trong khung cảnh miền núi khi hoàng hôn buông xuống. Cũng những cảm xúc ấy, ta sẽ gặp lại khi đọc bài Chiều hôm nhớ nhà của bà với câu:

Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn Tiếng ốc xa đưa, vẳng trống dồn.

Để tỏ lòng biết ơn đối với nhà thơ xưa đã cho ta những phút giây có được tình cảm tốt đẹp xuất phát từ đáy tâm hồn, từ sự rung cảm thật sự, người đời đã đặt một tên làng, một tên đường: Bà Huyện Thanh Quan để mãi mãi ghi nhớ tài năng cũng như tư tưởng tuyệt vời của người, nữ sĩ đối với non sông, đất nước một thời đã qua.

Phân tích Qua đèo Ngang bài văn mẫu số 3

Ai đã từng một lần đi trên con đường xuyên Việt, hẳn đều biết đến đèo Ngang. Đây là một đèo khá dài và khá cao, nằm vắt ngang sườn núi cheo leo, hiểm trở của khúc cuối dãy Hoành Sơn, trước khi đâm ra biển. Lên đến đỉnh đèo, du khách sẽ được thưởng thức cảnh đẹp tuyệt vời của thiên nhiên hùng vĩ: núi non trùng điệp, đại dương bao la, trời cao thăm thẳm. Đèo Ngang là ranh giới tự nhiên giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình. Thuở xưa, bao người vào kinh đô Huế để thi cử hay làm việc cho triều đình phong kiến đã đi qua đèo này rồi lâng lâng xúc cảm trước vẻ đẹp của nó mà làm thơ ca ngợi. Bà Huyện Thanh Quan nhân dịp từ Thăng Long vào Huế nhậm chức Cung trung giáo tập (dạy dỗ các cung nữ trong cung) đã sáng tác bài Qua đèo Ngang.

Đằng sau bức tranh phong cảnh thiên nhiên là tâm trạng của nữ sĩ: cô đơn, nhớ nhà và hoài niệm về một thời đại huy hoàng đã qua. Có thể coi đây là bài thơ hay nhất trong những bài thơ sáng tác về thắng cảnh này.

Câu phá đề đơn giản chỉ là lời giới thiệu về thời điểm tác giả đặt chân đến đèo Ngang:

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,

Đó là lúc mặt trời đang lặn, phía tây chỉ còn chút nắng hắt những tia sáng yếu ớt lên nền trời đang sẫm dần. Thời điểm này rất dễ gợi buồn trong lòng người, nhất là đối với kẻ lữ thứ tha hương.

Tuy vậy, trời vẫn còn đủ sáng để nhà thơ nhận ra thiên nhiên nơi đây đẹp như một bức tranh thủy mặc:

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Cỏ cây, hoa lá chen nhau mọc bên đá núi. Có cái gì đó như linh hồn của tạo vật thấp thoáng sau từng chữ. Điệp từ chen, các vế đối: cây chen đá, lá chen hoa miêu tả sức sống mãnh liệt của một vùng rừng núi hoang vu. Cảnh đẹp thì có đẹp nhưng nhuốm màu buồn bã, quạnh hiu, thiếu hơi ấm con người. Những bông hoa rừng đây đó không đủ làm sáng, làm vui bức tranh núi non lúc ngày tàn, đêm xuống.

Trên bối cảnh thiên nhiên bao la ấy thấp thoáng bóng dáng con người và hơi hướng cuộc sống nhưng cũng chỉ ít ỏi, mờ nhạt, xa vời:

Lom khom dưới núi tiều vài chú, Lác đác bên sông chợ mấy nhà.

Con mắt tinh tế của nhà thơ phát hiện ra nét đặc trưng của người và cảnh trước tiên nên bà đã dùng nghệ thuật đảo ngữ để nhấn mạnh đặc trưng ấy. Dáng vẻ lom khom của mấy chú tiều hái củi sườn non làm cho con người vốn đã nhỏ bé lại càng thêm nhỏ bé trước thiên nhiên cao rộng. Cái chợ là nơi biểu hiện sức sống của một cộng đồng làng xã, lẽ ra tấp nập đông vui, nhưng ở đây nó chỉ là mấy túp lều xơ xác bên sông…

Bao trùm lên cảnh vật là một nỗi buồn tê tái và nỗi buồn ấy thấm sâu vào lòng người:

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Giữa không gian tĩnh lặng gần như tuyệt đôi ấy bỗng vẳng lên tiếng chim quốc khắc khoải, tiếng chim đa đa não nuột. Đó là những âm thanh có thật mà cũng có thể là tiếng vọng từ tâm trạng chất chứa nỗi buồn thời cuộc của nhà thơ. Mượn bút pháp ước lệ và nghệ thuật chơi chữ (từ đồng âm khác nghĩa) để nói lên lòng mình trước cảnh, đó là tài hoa của nữ sĩ. Tiếng chim kêu không làm cho cảnh vui lên thêm chút nào mà lại làm tăng phần quạnh quẽ, cô liêu. Phải chăng tiếng chim chính là tiếng lòng của kẻ đang mang nặng tâm trạng u buồn, hoài vọng, nhớ nước thương nhà?!

Hồn cảnh, hồn người như có nét tương đồng, cho dù về hình thức hoàn toàn tương phản. Cái bao la, vô tận của non nước tô đậm cái cô đơn, chơ vơ của con người và ngược lại. Vì vậy nên nỗi buồn càng lắng đọng:

Dừng chân đứng lại trời, non, nước, Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Quả là một nỗi buồn lớn lao, thấm thía, khó san sẻ, giãi bày. Nó như kết thành hình, thành khối, thành mảnh tình riêng khiến nhà thơ phải thốt lên chua xót: ta với ta. Chỉ có ta hiểu lòng ta mà thôi! Vì thế nên sự cô đơn càng tăng lên gấp bội.

Bài thơ Qua đèo Ngang tuy ra đời cách đây đã hơn một thế kỉ nhưng giá trị của nó vẫn nguyên vẹn trước thử thách của thời gian. Bao người yêu thơ thuộc lòng bài thơ này và ca ngợi tài năng của tác giả. Thể thơ Đường luật kiểu cách, sang trọng vào tay nữ sĩ đã trở thành gần gũi, dễ hiểu với người đọc bởi ngôn ngữ giản dị, trong sáng và những hình ảnh dân dã quen thuộc. Đọc bài thơ, chúng ta thêm yêu Tổ quốc với bao phong cảnh tuyệt vời và càng trân trọng những tâm lòng ưu ái non sông đất nước.

1. Phân tích đề

– Yêu cầu đề bài: phân tích nội dung, nghệ thuật của bài thơ Qua đèo Ngang

– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: các chi tiết, hình ảnh có trong bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan

– Phương pháp lập luận chính: phân tích

2. Các luận điểm chính cần triển khai

– Luận điểm 1: Cảnh vật đèo Ngang hiện lên hùng vĩ nhưng đậm chất buồn

– Luận điểm 2: Cuộc sống con người ở Đèo Ngang, sự bé nhỏ của con người giữa thiên nhiên

– Luận điểm 3: Nỗi cô đơn tột cùng của tác giả

Lập dàn ý phân tích Qua đèo Ngang

– Giới thiệu bài thơ Qua đèo Ngang và giới thiệu tác giả Bà Huyện Thanh Quan

a. Sáu câu thơ đầu miêu tả Cảnh đèo Ngang

+ Thời điểm tả cảnh ở đây là buổi xế chiều

+ Nhà văn miêu tảnh vật được miêu tả: là cây, lá, đá, hoa,…

+ Tác giả miêu tả những âm thanh của con quốc quốc, con gia gia

+ Có thể thấy được chính cảnh đèo ngang rất hoang sơ và hùng vĩ

+ Thêm với đó chính là hình ảnh con người lom khon, khắc họa sự nhỏ bé của con người trước thiên nhiên hùng vĩ biết bao nhiêu.

b. Hai câu thơ cuối: Miêu tả tâm trạng của nhà thơ

Chính tâm trạng của nhà thơ, buồn nhớ và cô đơn

Miêu tả có những hình ảnh rất đối lập

Khẳng định được vẻ đẹp của bài thơ.

1, Mở bài

– Giới thiệu về tác giả Bà Huyện Thanh Quan (tiểu sử, sự nghiệp sáng tác, đặc điểm sáng tác…)

– Giới thiệu về bài thơ “Qua Đèo Ngang” (hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật…)

2, Thân bài * Cái nhìn chung về cảnh vật Đèo Ngang

– Thời gian: xế chiều – thời điểm dễ gợi nên nỗi buồn cô đơn, sự trống vắng

– Không gian: Đèo Ngang – một con đèo hùng vĩ, phân chia hai tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh, là ranh giới phân chia Đàng Trong và Đàng Ngoài ngày xưa

– Cảnh vật:

+ Các sự vật: cỏ cây, lá, đá, hoa

+ Động từ: chen – lẫn vào nhau, không ra hàng ra lối, động từ “chen” chen vào giữa hai câu thơ gợi cảnh tượng rậm rạp, hoang sơ

⇒ Cảnh vật đầy sức sống nhưng hoang sơ, rậm rạp và hắt hiu

* Cuộc sống con người ở Đèo Ngang

– Sử dụng từ láy có giá trị gợi hình: lom khom, lác đác – gợi cảm giác thưa thợt, ít ỏi

– Nghệ thuật đảo ngữ:

+ Lom khom … tiều vài chú

+ Lác đác … chợ mấy nhà

⇒ Nhấn mạnh sự nhỏ bé, ít ỏi, nhỏ nhoi của sự sống ở giữa cảnh vật thiên nhiên rộng lớn, hoang sơ

⇒ Hình ảnh con người hiện lên thưa thớt, ít ỏi làm cho cảnh vật thêm hoang vắng, tiêu điều. Qua đó, gợi cảm giác buồn hiu, vắng lặng của tác giả

* Tâm trạng của tác giả

– Âm thanh của chim quốc quốc, gia gia: nghệ thuật lấy động tả tĩnh, chơi chữ. Tiếng chim quốc, chim gia gia nhớ nước, thương nhà cũng chính là tiếng lòng của tác giả thiết tha, da diết nhớ nhà, nhớ quá khứ của đất nước

– Câu thơ như một tiếng thở dài của tác giả

⇒ Tâm trạng nhớ nước, nhớ nhà, nhớ quê hương của tác giả. Đó cũng chính là tâm trạng hoài cổ của nữ sĩ

* Nỗi cô đơn tột cùng của tác giả

– Con người nhỏ bé, lẻ loi, cô đơn, một mình đối diện với cả vũ trụ bao la, rộng lớn

– “Một mảnh tình riêng, ta với ta”: một nỗi buồn, một nỗi cô đơn không có ai để se chia, san sẻ

⇒ Tâm trạng cô đơn, trống vắng, lẻ loi một mình đối diện với chính mình giữa vũ trụ bao la, rộng lớn

3, Kết bài

– Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm:

+ Nội dung: Cảnh tượng Đèo Ngang thoáng đãng mà heo hút, thấp thoáng sự sống của con người và tâm trạng nhớ nước, thương nhà và nỗi cô đơn của tác giả

+ Nghệ thuật: thể thơ thất ngôn bát cú, sử dụng từ láy, nghệ thuật đảo ngữ…

Chi tiết sơ đồ tư duy phân tích bài Qua đèo Ngang

Kiến thức mở rộng

– Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được sáng tác khi tác giả từ trên đường từ Bắc Hà vào Huế nhận chức “Cung Trung giáo tập”

– Nội dung bài thơ:

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà, Cỏ cây chen đá, lá chen hoa. Lom khom dưới núi tiều vài chú, Lác đác bên sông chợ mấy nhà. Nhớ nước, đau lòng con cuốc cuốc, Thương nhà, mỏi miệng cái da da. Dừng chân đứng lại: trời, non, nước, Một mảnh tình riêng, ta với ta.

– Bố cục (4 phần):

+ Phần 1 (hai câu đề): Cái nhìn chung về cảnh vật Đèo Ngang

+ Phần 2 (hai câu thực): Cuộc sống của con người ở Đèo Ngang

+ Phần 3 (hai câu luận): Tâm trạng của tác giả

+ Phần 3 (hai câu kết): Nỗi cô đơn đến tột cùng của tác giả

– Một số nhận định về bài thơ Qua đèo Ngang và Bà Huyện Thanh Quan

“Trong bài Qua đèo Ngang, hai câu thơ xuất sắc nhất là hai câu thơ sau cùng. Hai câu này vừa kết thúc bài thơ, vừa mở ra một chân trời cảm xúc mới.”

(Tế Hanh)

” Ở tất cả những bài thơ viết bằng luật Đường của bà, niêm luật đều chặt chẽ mà không có cảm giác gò bó, xếp đặt, câu thơ trang nhã, từ ngữ chải chuốt và chọn lọc công phu. Bà là một trong những nhà thơ nữ nổi tiếng nước ta.”

(Nguyễn Lộc, Từ điển Văn học)

“Những bài thơ Nôm của bà truyền lại có ít, phần nhiều là thơ tả cảnh, tả tình, nhưng bài nào cũng hay và tỏ ra bà là người có tính tình đoan chính, thanh tao, một người có học thức, thường nghĩ tới nhà, tới nước. Lời văn rất trang nhã, điêu luyện.”

(Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu)

3 Bài Văn Phân Tích Bài Thơ Qua Đèo Ngang

Đề bài: Phân tích bài thơ Qua đèo ngang- Bà huyện thanh quan

3 bài văn mẫu Phân tích bài thơ Qua đèo ngang- Bà huyện thanh quan

1. Phân tích bài thơ Qua đèo ngang- Bà huyện thanh quan, mẫu số 1:

Trong nền văn học hiện đại nếu như chúng ta bắt gặp sự sắc sảo, mạnh mẽ, bứt phá trong thơ của Hồ Xuân Hương thì chắc hẳn rằng sẽ thấy được sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ “Qua đèo Ngang” tiêu biểu cho phong cách ấy.

Bài thơ “Qua đèo Ngang” được sáng tác khi tác giả vào Phú Xuân (Huế) nhận chức và đi qua đèo này. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn man mác, nhớ nhà, nhớ quê hương và thương cho thân gái nơi đường xa.

Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú với cấu trúc đề, thực, luận kết. Chỉ 8 câu thơ nhưng nó đã diễn tả được hết cái thần thái, cái hồn của cảnh vật cũng như của con người khi đứng trước cảnh trời núi hiu quạnh và lòng người man mác như thế này.

Hai câu đề gợi lên trước mắt người đọc khung cảnh hoang sơ nơi đèo Ngang:

Bước tới đèo Ngang bóng xế tàCỏ cây chen lá, lá chen hoa

Không gian và thời gian ở đèo Ngang được tác giả thể hiện qua từ “bóng xế tà”. Có thể nói đây là thời gian là cảm xúc trong lòng người dường như nặng nề, gợi buồn, gợi sầu hơn. Trong ca dao, dân ca, chúng ta vẫn bắt gặp thời điểm chiều tả để đặc tả nỗi buồn không biết bày tỏ cùng ai. Mắt trời xuống núi, hoàng hôn sắp bao phủ lấy nơi này. Cảm giác cô đơn, lạc lõng. Cảnh vật thiên nhiên nơi đây dường như quạnh quẽ đến nao lòng. Chỉ có cỏ cây và hoa. Điệp từ “chen” dường như đã làm tăng thêm tính chất hiu quạnh của địa danh này. Hoa lá đang quấn quýt lấy nhau, bám chặt nhau để sống, sinh sôi.

Lom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhà

Đến hai câu thực thì mới thấp thoáng hình ảnh con người, nhưng cũng chỉ là “tiều vài chú”. Hóa ra chỉ là một vài chú tiều bé nhỏ đi nhặt củi ở dưới chân núi. Mặc dù có sự sống nhưng mong manh và hư vô quá. Với phép đảo trật tự cú pháp ở hai câu thơ này, Bà Huyện Thanh Quan đã một lần nữa nhấn mạnh sự hoang sơ, hịu quạnh của đèo Ngang. Việc sử dụng hai từ láy “lom khom” và “lác đác” vừa chỉ hoạt động gánh củi vất vả vừa chỉ ước tính số lượng cụ thể. Những hình ảnh ước lệ trong thơ Bà Huyện Thanh Quan đã lột tả hết thần thái cũng như cảm xúc của tác giả lúc đó. Những sự sống hiếm hoi, lẻ loi và mong manh đang chờn vờn ở ngay trước mắt nhưng xa lắm. Muốn tìm bạn để tâm sự cũng trở nên khó khăn.

g

Những bài Phân tích bài thơ Qua đèo ngang- Bà huyện thanh quan hay nhất

Sang đến hai câu thơ luận thì cảm xúc và tâm sự của tác giả bỗng nhiên trỗi dậy

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốcThương nhà mỏi miệng cái da da

Điệp âm “con cuốc cuốc” và “cái da da” đã tạo nên âm hưởng dìu dặt, du dương nhưng vô cùng não nề thấm đến tâm can. Người lữ khách đường xa nghe vẳng vẳng tiếng cuốc và da da kêu mà lòng quạnh hiu, buồn tái tê. Thủ pháp lấy động tả tĩnh của tác giả thật đắc điệu, trên cái nền tĩnh lặng, quanh quẽ bồng nhiên có tiếng chim kêu thực sự càng thêm não nề và thê lương. Nghe tiếng cuốc, tiếng da da mà tác giả “nhớ nước” và “thương nhà”. Thương cảnh nước nhà đang chìm trong cảnh loạn lạc, gia đình li tan; thương cho thân gái phải xa nhà quạnh hiu, đơn độc. Nỗi lòng của bà huyện thanh quan như sâu thẳm tầng mây, trùng trùng điệp điệp không dứt.

Hai câu thơ kết thì cảm xúc và nỗi niềm của tác giả được đẩy lên đỉnh điểm

Dừng chân nghỉ lại trời non nướcMột mảnh tình riêng ta với ta

Chỉ bốn chữ “dừng chân nghỉ lại” cũng đã khiến người đọc cảm thấy da diết, bồn chốn đến não nề. Cảnh trời nước mênh mông, vô tận nhưng con người thì bé nhỏ khiến cho tác giả thấy mình lạc lõng và không một nơi bấu víu. Đất trời rộng lớn, tác giả chỉ cảm thấy còn “một mảnh tình riêng”. Và cái mảnh tình con con ấy cũng chỉ có “ta với ta”. Nỗi buồn dường như trở nên cực độ, buồn thấu tận tâm can, buồn nghiêng ngả trời đất.

Bài thơ “Qua đèo Ngang” với giọng điệu da diết, trầm bổng, du dương và những thủ pháp nghệ thuật độc đáo đã mang đến cho người đọc cảm xúc khó quên. Dư âm của bài thơ dường như còn vang vọng đâu đây.

2. Phân tích bài thơ Qua đèo ngang- Bà huyện thanh quan, mẫu số 2:

Có nơi đâu đẹp tuyệt vờiNhư sông như núi, như người Việt Nam

Câu thơ thể hiện niềm kiêu hãnh, tự hào về non sông đất trời Việt Nam. Thiên nhiên trên quê hương ta có vẻ đẹp mộng mơ, chan hoà sức sống. Chính vì vậy, thiên nhiên luôn là dề tài bất tận của thi ca. Lúc thì lung linh, huyền diệu như trong mộng, lúc lại rực rỡ, kiêu sa tựa ánh mặt trời. Nhưng đồng thời, cảnh vật cũng sẽ nhuốm màu ảm đạm, thê lương dưới ánh mắt của các nhà thơ mang một tâm sự u hoài khi sáng tác một bài thơ tức cảnh. Vì thế, đại thi hào Nguyễn Du đã từng nói: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Câu thơ thật thích hợp khi ta liên tưởng đến bà Huyện Thanh Quan với bài thơ Qua đèo Ngang.

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà.

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa Lom khom dưới núi, tiều vài chú Lác đác bên sông, chợ mấy nhà Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia giaDừng chân đứng lại, trời non, nướcMột mảnh tình riêng, ta với ta.

Phải hiểu rõ và yêu quý bài thơ mới thấy hết được tài năng cũng như tư tưởng luôn hướng về quê hương đất nước và gia đình của bà Huyện Thanh Quan. Ai dám bảo rằng người phụ nữ trong xã hội phong kiến không có được những tình cảm thiêng liêng đó?

Chỉ mới đọc hai câu đầu của bài thơ thôi:

Bước tới đèo Ngang bóng xế tàCỏ cây chen đá, lá chen hoa

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang, văn mẫu tuyển chọn

là ta đã nhận ngay ra một nỗi buồn xa vắng.

Câu thơ xuất hiện cụm từ bóng xế tà và sự hiện diện của điệp từ chen cùng cách gieo vần lưng lá, đá đã tạo nên sự cô đơn, tĩnh mịch. Từ tà như diễn tả một khái niệm sắp tàn lụa, biến mất. Yếu tố thời gian làm cho câu thơ thêm phần buồn bã. Ca dao cũng đã có câu:

Vẳng nghe chim vịt kêu chiềuBâng khuâng nhớ mẹ, chín chiều ruột đau

Thế mới biết, những tình cảm cao quý của mỗi người dường như gặp nhau ở một điểm. Đó chính là thời gian. Mà quãng thời gian thích hợp nhất để bộc lộ sự nhớ nhung khắc khoải chính là lúc chiều về. Ở bài thơ Qua đèo Ngang, tác giả bỗng dâng lên cảm xúc man mác khi bà bắt gặp ánh hoàng hôn bao phủ cảnh vật ở Hoành Sơn. Cảnh vật đã buồn lại trống vắng hơn bởi điệp từ chen ở câu thứ hai. Nó làm cho người đọc thơ bỗng cảm nhận được sự hoang vắng của đèo Ngang lúc chiều tà, bóng xế mặc dù nơi đây rất đẹp: có cỏ cây, đá, lá, hoa. Vì ở đây vắng vẻ quá nên thi sĩ đã phóng tầm mắt để tìm kiếm một chút gì gọi là sự sống linh động. Và kìa, phía xa xa dưới chân đèo xuất hiện hình ảnh:

Lom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông, chợ mấy nhà

Câu thơ gợi cho tả hình dung trong ánh hoàng hôn lạnh lẽo, mấy người tiều phu đang đốn củi, mấy quán chợ xiêu xiêu trong gió. Đảo ngữ đưa hai từ láy lom khom, lác đác lên đầu câu đã được tác giả sử dụng như nhấn mạnh thêm sự u hoài ở đây. Nhà thơ đi tìm một sự sống nhưng sự sống đó lại làm cho cảnh vật héo hắt, buồn bã hơn, xa vắng hơn. Sự đối lập vốn có của hai câu thực khiến cho cảnh trên sông, dưới núi thêm rời rạc, thưa thớt. Từ vài, mấy như càng nói rõ thêm sự vắng vẻ ở nơi này. Trong sự hiu quạnh đó, bỗng nhiên vẳng lên tiếng kêu đều đều, man mác của loài chim quốc quốc, chim gia gia trong bóng hoàng hôn đang buông xuống.

Từ ghép đau lòng, mỏi miệng khiến cho ta có cám giác tha thiết, ray rứt. Từ nhớ nước, thương nhà là nỗi niềm của con chim quốc, chim gia gia do tác giả cảm nhận được hay chính là nghệ thuật ẩn dụ để nói lên tâm sự từ trong sâu thẳm tâm hồn của nữ sĩ? Nghệ thuật chơi chữ quốc quốc gia gia phải chăng là Tổ quốc và gia đình của Bà Huyện Thanh Quan hồi đó?

Sự song song về ý, về lời của hai câu thơ trong phần luận của bài thơ này nhằm nhấn mạnh tình cảm của bà Huyện Thanh Quan đối với Tổ quốc, gia đình trước cảnh thật là khéo léo và tài tình. Từ thực tại của xã hội đương đời mà bà đang sống cho đến cảnh thực của đèo Ngang đã khiến cho tác giả sực nhớ đến mình và tâm sự:

Dừng chân dứng lại trời non nướcMột mảnh tình riêng ta với ta.

Câu kết của bài, ta cảm thấy nhà thơ có tâm sự u hoài về quá khứ. Dừng lại và quan sát bà chỉ thấy: trời, non, nước. Vũ trụ thật rộng lớn, xung quanh bà là cả một bầu trời với núi, với sông khiến cho con người cảm thấy mình bé nhỏ lại, đơn độc, trống vắng, ở đây, chỉ có một mình bà ta với ta, lại thêm mảnh tình riêng cho nước, cho nhà trong huyết quản đã làm cho cõi lòng nhà thơ như tê tái. Vũ trụ bao la quá! Con người cô đơn quá! Tất cả lại được diễn tả dưới ngòi bút tài hoa của người nữ sĩ nên bài thơ là bức tranh đặc sắc. Từ ta với. ta như một minh chứng cho nghệ thuật điêu luyện trong sáng tác thơ ca của bà Huyện Thanh Quan. Bởi vì cũng ta với ta nhưng nhà thơ Nguyễn Khuyến lại nói:

Bác đến chơi đây ta với ta

Lại là sự kết hợp của hai người: tuy hai mà một, tuy một mà hai. Còn bà Huyện lại:

Một mảnh tình riêng ta với ta.

Đã tô đậm thêm sự lẻ loi, đơn chiếc của mình. Qua câu thơ, ta như cảm nhận sâu sắc hơn nỗi niềm tâm sự của tác giả trước cảnh tình quê hương…

Từ xưa đến nay, có nhiều nhà thơ tả cảnh đèo Ngang nhưng không ai thành công bằng bà Huyện Thanh Quan vì trong tác phẩm của bà có cả tâm hồn, tình cảm, nỗi lòng và tài năng của một cây bút tuyệt vời. Cả bài thơ được gieo vần “a” như chính tâm sự hoài cổ của tác giả. Chúng ta không tìm thấy dù chỉ một chút gọi là sự ồn ào trong cách miêu tả. Tất cả chỉ là sự trầm lắng, mênh mang như chính tâm sự của tác giả.

Lời thơ nghe xao xuyến, bồi hồi làm cho người đọc xúc động cũng chính là những cảm xúc sâu lắng của bà Huyện Thanh Quan khi đặt chân lên đèo Ngang trong khung cảnh miền núi khi hoàng hôn buông xuống. Cũng những cảm xúc ấy, ta sẽ gặp lại khi đọc bài Chiều hôm nhớ nhà của bà với câu:

Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hônTiếng ốc xa đưa, vẳng trống dồn.

Để tỏ lòng biết ơn đối với nhà thơ xưa đã cho ta những phút giây có được tình cảm tốt đẹp xuất phát từ đáy tâm hồn, từ sự rung cảm thật sự, người đời đã đặt một tên làng, một tên đường: Bà Huyện Thanh Quan để mãi mãi ghi nhớ tài năng cũng như tư tưởng tuyệt vời của người, nữ sĩ đối với non sông, đất nước một thời đã qua.

3. Phân tích bài thơ Qua đèo ngang- Bà huyện thanh quan, mẫu số 3:

Xã hội phong kiến luôn có sự chèn ép, ràng buộc tự do của những người phụ nữ bất hạnh, chỉ sống phụ thuộc, không làm chủ cho bản thân mình. Xã hội hiện đại bây giờ, phụ nữ luôn được tôn trọng, bình đẳng, không phân biệt đối xử như ngày xưa nữa. Tình cảm yêu mến, muốn được bảo vệ hạnh phúc tự do cho mình, cũng không hề kém cạnh các đại nam nhi. Đối với bà Huyện Thanh Quan tuy không đi ra chiến trường chiến đấu, nhưng bà đã gửi gắm tinh thần, sự cổ động mạnh mẽ vào thơ, để tiếp thêm một phần sức mạnh, công lao của mình cho đất nước.

“Qua đèo ngang” gợi lên sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn của bà Huyện Thanh Quan làm tiêu biểu cho phong cách thơ. Bài thơ “Qua đèo ngang” được tác giả sáng tác trong hoàn cảnh vào Phú Xuân(Huế) nhận chức và đi ngang qua đèo này. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn man mác, nhớ nhà, quê hương, thương cho thân người con gái yếu đuối đường xa. Bài thơ được sáng tác theo thể thấy ngôn bát cú. Với 8 câu thơ mà đã thấy được những thần thái, cái hồn trong cảnh vật và con người trước cảnh núi rừng hiu quạnh.

“Bước tới Đèo Ngang bóng xế tàCỏ cây chen lá, đá chen hoa”

Hai câu đề hiện rõ khung cảnh rừng núi hoang sơ lúc “bóng xế tà”. Một cảnh chiều nặng nề làm cho lòng người trở nên u buồn, gợn sầu hơn. Tất cả như gợi lên nỗi nhớ muốn tỏ rõ nỗi lòng mà không ai bầu bạn, sẻ chia. Chỉ có “cây cỏ chen lá, đá chen hoa” hiu quạnh. Điệp từ “chen” khẳng định sức sống mạnh mẽ của cỏ, cây, bấu víu để sinh sôi nảy nở.

“Lom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhà”

Phân tích bài thơ Qua đèo ngang- Bà huyện thanh quan

Đến hai câu thơ tiếp theo thì mới thấy bóng dáng của con người. “người tiều phu” đi lượm củi vẫn tạo cảm giác vô định, “lom khom” từ ngữ nhấn mạnh thể hiện sự vất vả của người tiều phu, phải đi kiếm từng khúc củi, ước tính số lượng cụ thể, sự sống hiếm hoi, xa vời, tìm một người bạn trở nên khó khăn hơn.

Tiếp đến hai câu thơ luận phần nào cảm xúc của tác giả như được thể hiện rõ nét hơn:

“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốcThương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Giữa chốn rừng sâu vắng lặng, vang lên tiếng chim cuốc đau lòng não ruột. Đó cũng có thể là thanh âm thật là hay là tiếng lòng trong tâm trạng nhà thơ. Mượn bút pháp ước lệ và nghệ thuật chơi chữ để nói lên tiếng lòng mình trước cảnh. Tiếng chim kêu làm tăng phần cô quạnh, phải chăng đó là tâm trạng hoài vọng nhớ thương nước nhà?

Cái bao la, vô tận của non nước làm chơi vơi bóng hình một mình giữa thiên nhiên, hồn cảnh – hồn người như hòa lẫn vào nhau, làm nỗi buồn da diết bị lắng đọng cùng.

“Dừng chân đứng lại trời non nướcMột mảnh tình riêng ta với ta”

Tiếng lòng non nước thấm thía, không san sẻ buộc nhà thơ thốt lên giãi bày “ta với ta” nghe chua xót. Chỉ ta mới hiểu được lòng ta, sự cô đơn như tăng lên gấp bội. Dù sầu muội như bà Huyện Thanh Quan vẫn cảm nhận được vẻ đẹp non nước dù nơi dừng chân có vẻ hoang sơ, nhưng đã tô lên vẻ đẹp hùng vĩ, bao la của núi rừng.

Bài thơ “Qua Đèo Ngang” vừa gợi lên một bức tranh về cảnh đẹp thiên nhiên núi rừng hoang sơ, hùng vĩ, vừa gợi ra khung cảnh sống giản dị, đơn sơ mà ấm áp. Từ đó mang lại những cảm xúc, nỗi niềm, riêng tư của tác giả với tình yêu quê hương, đất nước da diết khi xa quê hương, lẻ loi một bóng hình nơi đất khách quê người.

Bên cạnh bài Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, có nhiều bài văn đặc sắc khác mà các em có thể tham khảo như: Phân tích nhận xét: Trong bài Qua đèo Ngang, hai câu thơ xuất sắc nhất là hai câu thơ sau cùng, Tâm trạng tác giả trong bài thơ Qua Đèo Ngang, Cảm nhận bài thơ Qua đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan, Cảnh sắc thiên nhiên đèo Ngang và tâm trạng của người lữ khách xa quê qua bài thơ Qua đèo Ngang.

https://thuthuat.taimienphi.vn/phan-tich-bai-tho-qua-deo-ngang-ba-huyen-thanh-quan-39234n.aspx