Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Dạy Học Môn Sinh Học Cấp Thcs

Chất lượng ở các lớp học thường thấp và không ổn định. Thực tế là đầu năm học chất lượng rất thấp, cuối năm học chất lượng được nâng lên rõ rệt nhưng sau 2 tháng nghỉ hè tất cả lại quay về điểm xuất phát. Hiện tượng này vẫn lặp đi lặp lại nhiều năm nay nhưng chưa có cách giải quyết hiệu quả. Qua quá trình giảng dạy , học tập và đúc rút kinh nghiệm, tôi mạnh dạn chỉ ra những nguyên nhân và đề ra một số biện pháp nhằm khắc phục tình trạng trên như sau:

* Về phía giáo viên:

– Có thể phương pháp dạy học chưa phù hợp với các đối tượng học sinh có trình độ khác nhau( lớp có nhiều đối tượng học sinh), chưa thực sự quan tâm đến tất cả học sinh trong cả lớp mà chỉ chú trọng một số em học khá, giỏi; giáo viên chưa thật tâm lý, chưa động viên khéo léo kịp thời đối với những tiến bộ của học sinh dù nhỏ.

– Xem nhẹ dẫn đến không khắc sâu kiến thức cơ bản , các kĩ năng cần thiết như: Kỹ năng phân tích, liên kết các các dữ liệu kiến thức, kĩ năng vẽ hình, viết giả thiết, kết luận, liên hệ thực tế….

– Không nắm chắc đối tượng dẫn tới đề cao quá mức đối với học sinh, dẫn tới hiện tượng: Dạy lướt (nghĩ học sinh nắm được rồi), thích chữa bài tập khó bỏ qua bài tập dễ, trung bình, mà không chú ý tới khắc sâu kiến thức cơ bản cho học sinh.

– Chưa tạo được không khí học tập thân thiện vì yêu cầu cao của giáo viên . Giáo viên chưa phối kết hợp tốt với giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh.

* Về phía học sinh:

– Chất lượng đầu vào thấp. Chẳng hạn một số em vào lớp 6 khả năng đọc ,viết, tính toán chưa thành thạo.

– Có quá nhiều lỗ hổng kiến thức vì vậy HS dễ chán nản và không ham thích học tập.

– Một số em lười học, thiếu sự chuẩn bị chu đáo dụng cụ học tập dẫn tới không nắm được các kĩ năng cần thiết trong việc học và vận dụng vào việc giải quyết các vấn đề ở các môn học.

– Một số em thiếu tìm tòi, sáng tạo trong học tập, không có sự phấn đấu vươn lên, có thói quen chờ đợi lười suy nghĩ hay dựa vào giáo viên, bạn bè hoặc xem lời giải sẵn trong sách giải một cách thụ động.

* Về phía phụ huynh:

– Sự quan tâm của một số phụ huynh đối với việc học của con em mình còn hạn chế. Đặc biệt, có những phụ huynh của những em học sịnh yếu không bao giờ kiểm tra sách vở của các em, phó thác việc học tập của các em cho nhà trường.

– Sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin cùng với internet với các dịch vụ vui chơi, giải trí hấp dẫn đã lôi cuốn các em.

– Thông thường, phần kiểm tra bài cũ được giáo viên tiến hành ở đầu giờ. Đây là việc làm theo đúng tiến trình dạy học.

– Tuy nhiên, sự lặp đi lặp lại cách làm đó sẽ khiến học sinh nhàm chán, đôi khi gây áp lực, tạo sự căng thẳng cho học sinh trong suốt tiết học hôm đó.

– Theo tôi giáo viên có thể lồng ghép các câu hỏi kiểm tra kiến thức đã học trong quá trình dạy bài mới để làm giảm bớt đi sự căng thẳng không đáng có.

– Ví dụ : Khi dạy mục I bài 29. Hấp thụ chất dinh dưỡng và thải phân (Sinh 8) , giáo viên có thể treo tranh phóng to về Cấu tạo trong của ruột non. Sau đó yêu cầu học sinh nhắc lại cấu tạo của ruột non phù hợp với chức năng tiêu hóa; kiểm tra kiến thức của học sinh về cấu tạo của ruột non, sau đó nhận xét và cho điểm.

– Trong một giờ học, nếu ngay từ phần vào bài giáo viên đã tạo ra sự hứng thú cho học sinh, chắc chắn trong những phút tiếp theo, các em sẽ hào hứng hơn với những hoạt động do giáo viên tổ chức.

– Do đó phần vào bài có vai trò quan trọng đến hoạt động dạy cũng như kích thích quá trình tiếp thu kiến thức của học sinh trong một tiết dạy.

– Kinh nghiệm của tôi để có cách dẫn dắt vào bài mới hấp dẫn hơn là: Mở đầu bằng một câu chuyện vui; mở đầu bằng một đoạn phim hay hình ảnh; hay mở đầu bằng một câu chuyện li kì, hấp dẫn…

– Một điều cần lưu ý là: đặt vấn đề hay góp phần làm tăng tính hấp dẫn cho bài học, tạo hứng thú cũng như làm cho không khí học tập trở nên thoải mái hơn. Tuy nhiên, giáo viên cũng cần chú ý đến thời gian cho phần vào bài để tránh ảnh hưởng đến thời lượng dành cho bài mới.

– Trong hoạt động dạy học luôn đòi hỏi sự tương tác qua lại thường xuyên giữa thầy và trò. Một trong những điều kiện để học sinh có thể học sâu là các em phải có cảm giác thoải mái.

– Trong quá trình giao tiếp với học sinh, giáo viên cần có thái độ nhẹ nhàng, vui vẻ, tạo cho học sinh cảm giác được yêu thương, nhưng khi cần vẫn phải nghiêm khắc để học sinh hiểu được giới hạn của sự thoải mái. Vì nếu quá dễ dãi, học sinh không kính nể sẽ rất khó dạy; quá nghiêm khắc, học sinh sẽ bị ức chế khó tiếp thu bài học.

– Hơn ai hết, giáo viên phải nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên đối với công tác giáo dục. Khi cảm thấy mình được tôn trọng có nghĩa là các em sẽ thêm phần tự tin vào bản thân mình, sẽ đáp lại bằng thái độ tôn trọng, yêu quý đối với thầy cô, nhờ đó mà cũng sẽ yêu thích hơn bộ môn những thầy cô giáo đó đang giảng dạy.

– Bên cạnh đó, người giáo viên cũng cần quan tâm đến những học sinh chậm tiến của lớp, quan tâm nhắc nhở các em học bài và chỉ cách học bài cho học sinh; kịp thời khen ngợi khi học sinh tiến bộ.

– Ví dụ, có em học sinh chậm tiến lần thứ nhất kiểm tra bài cũ chỉ được 3 điểm, nhưng lần thứ hai được 5 điểm, giáo viên cần khen ngợi để học sinh cảm thấy mình có tiến bộ, từ đó sẽ cố gắng nhiều hơn.

– Trước hết, giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung của bài học trong sách giáo khoa, kết hợp nghiên cứu những tài liệu tham khảo khác như sách giáo viên, sách giải bài tập sinh học, chuẩn kiến thức kĩ năng,… để chỉ ra được mục tiêu chính là những yêu cầu về kiến thức, kĩ năng và thái độ cần hướng học sinh tìm hiểu và đạt được.

– Tiếp theo, giáo viên xác định số lượng hoạt động, hình thức tổ chức và nội dung các hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu ở trên.

– Tuy nhiên, để hướng đến sự thích thú, say mê của học sinh với mỗi hoạt động đó thì giáo viên cần lựa chọn cách tổ chức phù hợp nhất, làm sao để học sinh phát huy tối đa khả năng và hiểu biết của bản thân, đồng thời có sự liên kết chặt chẽ với tập thể.

– Trong quá trình thiết kế, giáo viên nên có sẵn những dự kiến và phương án giải quyết cho những tình huống không theo ý muốn có thể xảy ra để có thể chủ động điều chỉnh nhằm tránh sự lúng túng, kéo dài thời gian, thậm chí là không đạt được các mục tiêu đã đề ra.

– Trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học, giáo viên không thể bỏ qua vai trò của các đồ dùng, phương tiện dạy học. Việc lựa chọn được những đồ dùng phù hợp và có chất lượng không chỉ làm tăng hiệu quả của việc khai thác, phát hiện kiến thức mà còn tạo ra sự thích thú cho học sinh.

– Trong nhiều trường hợp, giáo viên có thể giao nhiệm vụ cho học sinh chuẩn bị những đồ dùng nhất định. Khi được tự chuẩn bị, học sinh sẽ phải nghiên cứu tài liệu để hiểu về vấn đề được giao tức là các em đã được học tập thêm một lần nữa.

– Ví dụ: Khi sử dụng tranh vẽ “Thí nghiệm về hoạt động của enzim trong nước bọt” (hình 26- SGK, trang 85, sinh 8) để khai thác phát hiện kiến thức mới, giáo viên phải hướng học sinh chỉ ra được: Vì sao ống A lại có độ trong không đổi? Vì sao ống B lại có độ trong tăng lên và vì sao ống C và D lại có độ trong không đổi! Từ đó, hướng học sinh đến kết luận về hoạt động của enzim trong tuyến nước bọt.

– Tổ chức dạy học theo nhóm sử dụng kĩ thuật “Khăn phủ bàn”: Để tiến hành kĩ thuật này, giáo viên chia học sinh thành nhóm (4 người/nhóm), mỗi người ngồi vào một vị trí đã được sắp xếp. Mỗi nhóm được nhận một tờ giấy có chia các ô dành cho hoạt động của từng cá nhân, ở giữa là ô trống dành cho kết quả chung của nhóm sau khi đã thống nhất ý kiến.

– Tổ chức dạy học theo nhóm sử dụng kĩ thuật “Các mảnh ghép”: Để thiết kế, giáo viên cần lựa chọn nội dung/chủ đề phù hợp, xác định một nhiệm vụ phức hợp cần giải quyết ở vòng 2 dựa trên các nhiệm vụ khác nhau đã thực hiện ở vòng 1. Học sinh được chia thành các nhóm, giao nhiệm vụ cụ thể cho mỗi thành viên trong nhóm.

– Trong quá trình tiến hành, ở vòng 1 giáo viên tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm 3 hoặc 4 người, mỗi nhóm được giao một nhiệm vụ, đảm bảo mỗi thành viên trong nhóm đều trả lời được tất cả các câu hỏi trong nhiệm vụ được giao, mỗi thành viên đều trình bày được kết quả câu trả lời của nhóm.

– Ở vòng 2, giáo viên hình thành nhóm 3 hoặc 4 người mới là sự kết hợp giữa mỗi thành viên trong mỗi nhóm trên, các câu trả lời và thông tin của vòng 1 được các thành viên nhóm mới chia sẻ đầy đủ với nhau. Sau khi chia sẻ xong thông tin ở vòng 1, nhiệm vụ mới sẽ được giao cho nhóm vừa lập để giải quyết. Các nhóm mới trình bày, chia sẻ kết quả nhiệm vụ ở vòng 2.

– Tuy nhiên, điều quan trọng là thiết kế và tổ chức như thế nào để mọi thành viên đều phát huy được năng lực cá nhân cũng như biết cách phối hợp với tập thể nhằm tăng cường sự liên kết và khả năng thu nhận, tích lũy kiến thức.

– Khi được hỗ trợ bởi công nghệ thông tin thì khả năng truyền tải ý tưởng của giáo viên cũng dễ dàng và phong phú hơn.

– Để có thể sử dụng hiệu quả công nghệ thông tin trong dạy học, giáo viên cần phải đầu tư nhiều thời gian để học tập, nghiên cứu cho thành thạo cách thiết kế bài giảng, cách khai thác các ứng dụng khác.

– Đồng thời, giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy để thiết kế những hoạt động dạy học phù hợp, có kế hoạch sắp xếp và khai thác hợp lí các tranh, ảnh, mô hình, băng hình,… sưu tầm được theo trật tự nhất định phù hợp với nội dung kiến thức từng phần.

– Sự gần gũi của kiến thức lí thuyết với thực tế giúp học sinh dễ dàng kiểm chứng, liên hệ đã trở thành một trong những yếu tố thúc đẩy tính tích cực của học sinh.

– Ví dụ: Khi dạy bài 25. Tiêu hóa ở khoang miệng, giáo viên yêu cầu học sinh liên hệ với thực tế giải thích vì sao:

+ Tại sao khi nhai cơm lâu trong miệng ta thấy có vị ngọt?

+ Tại sao khi ăn uống ta không nên cười đùa thái quá?

+ Khi ăn uống ta có thực hiện đồng thời phản xạ nuốt không?….

Nâng Cao Chất Lượng Giờ Dạy Môn Tin Học Tiểu Học

– Công nghệ thông tin và truyền thông là ngành ứng dụng công nghệ quản lý thông tin và xử lý thông tin. Tốc độ phát triển của CNTT làm cho quá trình trao đổi thông tin ngày càng trở nên nhanh chóng, thuận tiện. Bên cạnh đó công nghệ thông tin và truyền thông làm cho kho tri thức của nhân loại giàu lên nhanh chóng, giúp chúng ta tiếp cận tri thức đó nhanh hơn, dễ dàng, tiện lợi hơn. Từ đó sẽ thúc đẩy các nghành khoa học, công nghiệp, y học….. hay những lĩnh vực khác trong đời sống xã hội hiện đại phát triển mạnh mẽ.

Nhờ có công nghệ thông tin và truyền thông mà những phát minh, phát hiện mới về công nghệ sản xuất, nghiên cứu khoa học, y học….. được phổ biến và ứng dụng nhanh hơn, cũng như làm cho năng suất lao động tăng lên, do có điều kiện kế thừa và phát huy được các công nghệ sẵn có.

Có thể nói công nghệ thông tin và truyền thông đã có tác động to lớn, mạnh mẽ đến sự phát triển của xã hội loài người, và không ngoại lệ, nó cũng tác động mạnh mẽ trực tiếp đến nền giáo dục và đào tạo.

Nhận biết được vị trí, vai trò vô cùng quan trọng của công nghệ thông tin và truyền thông trong xã hội hiện nay nên Đảng và Nhà nước ta đã đưa môn tin học vào giảng dạy ngay từ bậc học tiểu học.

– Tác dụng của CNTT trong dạy học ở bậc tiểu học:

Khi học môn Tin học bậc học tiểu học, các em sẽ được làm quen và tìm hiểu về vai trò của bốn bộ phận cơ bản quan trọng để cấu thành máy tính để bàn: Màn hình, bàn phím, thân máy và con chuột. Và kiến thức gói gọn trong môn Tin học ở bậc tiểu học là giúp các em học sinh làm quen và rèn luyện một số kỹ năng sử dụng chuột,bàn phím máy tính, …

Khi học Tin học ở bậc học tiểu học sẽ giúp các em học sinh hình thành ý thức và thói quen sử dụng máy tính trong hoạt động học tập, cũng như trong các hoạt động lao động khác. Thông qua những bài học được tiếp xúc, được làm việc trên máy tính, sẽ giúp các em học sinh hiểu được tầm quan trọng, vai trò to lớn của máy tính cũng như CNTT đối với học tập cũng như lao động.

Điều thú vị gây hứng thú nhất cho các em khi học tin học bậc tiểu học là các phần mềm học tập trong chương trình tin học tiểu học như : Phần mềm học toán giúp các em vừa học tốt môn toán, vừa giúp em rèn luyện kỹ năng sử dụng chuột, bàn phím, các phần mềm tập vẽ, các trò chơi giúp các em rèn luyện trí nhớ, tinh mắt, rèn luyện cho các em các kỹ năng thao tác trên con chuột, bàn phím một cách thuần thục hơn, giúp các em vừa học, vừa chơi, khơi dậy tính tò mò, sáng tạo, ham học hỏi của các em.

Các phần mềm trò chơi, Logo, học nhạc…. giúp cho các em vừa được chơi game mà cũng là học, rèn luyện các kỹ năng sử dụng chuột, bàn phím cho các em. Khiến các em càng thêm thích thú khi được học môn Tin học.

Các chương học, nội dung học tập của các em được phân bố xen kẽ vừa học vẽ, vừa tập soạn thảo, vừa chơi những trò chơi lý thú và bổ ích. Điều đó sẽ giúp các em vừa có thể học hỏi, tiếp thu được những nội dung kiến thức mới ở môn Tin học một cách nhẹ nhàng, dễ hiểu, tạo được hứng thú học cho học sinh, vừa rèn luyện kỹ năng thao tác sử dụng chuột, bàn phím cho học sinh.

II.3.b Nội dung và cách thức thực hiện các giải pháp, biện pháp:

Để có 1 tiết dạy hiệu quả, giáo viên phải có kế hoạch bài dạy, xây dựng ý tưởng, thiết kế bài dạy phù hợp, tận dụng những nguồn tài nguyên Tin học sẵn có để phục vụ tốt nhất cho tiết dạy của mình như đem các tiết dạy lý thuyết lên máy chiếu bằng bài giảng Power Point nhằm tạo hứng thú học cho học sinh. Khi được học trên máy chiếu, học sinh sẽ rất thích thú, hăng say học hơn, nắm bắt được điều này, tôi luôn trình bày bài dạy của mình trên phần mềm trình chiếu Power Point. Ở đó tôi sẽ chèn những hình ảnh sinh động để minh họa cho bài dạy của mình, giúp đạt hiệu quả cao nhất cho bài dạy, không những vậy, việc đưa bài giảng và sử dụng những hình ảnh sinh động này rất cuốn hút học sinh, giúp các em có hứng thú hơn với tiết học.

Khi giáo viên giới thiệu bộ phận bàn phím, ngoài việc giáo viên phải mô tả phím, có mấy hàng phím ở khu vực chính của bàn phím?… Thì giáo viên còn phải cho học sinh quan sát qua hình ảnh trên máy chiếu, sau đó sẽ đưa bàn phím thật cho học sinh quan sát kỹ rồi lại giới thiệu lại một lần nữa cho học sinh rõ về các hàng phím, chức năng của bàn phím… Tiếp theo giáo viên cho học sinh quan sát thao tác của thầy giáo khi sử dụng bàn phím, giáo viên thực hiện gõ phím và cho học sinh quan sát, nhận xét có sự thay đổi trên màn hình máy chiếu khi thầy thực hiện các thao tác với bàn phím.

– Đối với môn Tin học bậc tiểu học, cứ sau mỗi tiết lý thuyết, lại có 1 tiết thực hành để giúp học sinh vừa được học lý thuyết, vừa được thao tác trên máy. Như vậy quá trình thực hành sau tiết học lý thuyết sẽ giúp học sinh khắc sâu được kiến thức lý thuyết vừa học, vừa giúp các em vận dụng vào thực hành ngay để rèn luyện kỹ năng sử dụng chuột – phím, giúp các em thao tác thuần thục hơn. Vì vậy, giáo viên phải kết hợp giữa giờ học lý thuyết và thực hành sao cho phù hợp. Khi dạy lý thuyết, giáo viên hướng dẫn, truyền thụ kiến thức chậm, kỹ để học sinh dễ nắm được kiến thức ngay tại lớp. Quá trình hình thành kiến thức trên lớp, giáo viên yêu cầu học sinh quan sát kỹ các bước thực hiện của giáo viên, sau đó gọi học sinh lên thực hiện lại các thao tác của thầy. Từ chỗ quan sát thầy làm mẫu, các bạn thực hiện lại, lúc này giáo viên yêu cầu học sinh nhắc lại bằng lời các bước thực hiện trong bài. Khi học sinh đã hình thành kiến thức, giáo viên cho học sinh cả lớp đọc đồng thanh lại kiến thức lý thuyết 3-5 lần. Thời gian còn lại, giáo viên cho học sinh lên máy chiếu thực hiện lại. Các bạn ở dưới quan sát và nhận xét. Phần kiến thức mới hình thành, giáo viên cho học sinh về nhà chép lại vào vở và học thuộc lòng.

Trước mỗi giờ học, giáo viên cần phải kiểm tra bài cũ, việc này cần tiến hành thường xuyên, liên tục xuyên suốt cả năm học. Để học sinh nào cũng về nhà học bài cũ, học lý thuyết. Đến tiết thực hành, giáo viên cho học sinh vừa thực hành, vừa học lại kiến thức bài cũ trong khi thực hành, như vậy học sinh sẽ nắm chắc, khắc sâu kiến thức bài học của mình hơn.

Khi dạy thực hành, giáo viên giao bài tập cho học sinh một cách cụ thể, rõ ràng và kết hợp cả những kiến thức của bài học trước. Trước mỗi tiết thực hành giáo viên yêu cầu học sinh về nhà học thuộc phần lý thuyết. Để khi vào thực hành, giáo viên làm mẫu bài thực hành trên máy chiếu và hướng dẫn cho học sinh quan sát thực hành và làm bài tập, quá trình hướng dẫn tới đâu giáo viên yêu cầu học sinh đọc các bước thực hiện mà ở tiết lý thuyết đã được học tới đó. Như vậy sẽ giúp cho học sinh vừa nắm kỹ kiến thức lý thuyết và vận dụng hiệu quả vào tiết thực hành của mình, giúp các em khắc sâu kiến thức bài học, sau đó giáo viên chia nhóm để các em thực hành.

Để đạt được kết quả cao nhất trong giờ thực hành giáo viên chia học sinh ra các nhóm, khi chia nhóm chính là để học sinh hoạt động tích cực, và để nhóm hoạt động có hiệu quả, tất cả các thành viên đều phải hoạt động tích cực. Sau khi ra bài tập cho các nhóm thực hành trong một khoảng thời gian nhất định, giáo viên sẽ cho các nhóm nhận xét bài làm của nhau, điều này sẽ tạo sự ganh đua giữa các nhóm, giúp cho học sinh có hứng thú khi thực hành. Đối với những nhóm, những học sinh thực hành tốt, giáo viên cho các bạn trong lớp vỗ tay tuyên dương, giáo viên khen ngợi. Đối với những nhóm, những học sinh thực hành chưa được tốt, giáo viên cần nhẹ nhàng tìm hiểu nguyên nhân để tìm ra giải pháp, không được chê bai các em, luôn dành sự quan tâm, khích lệ và động viên để tiết sau các em có thể thực hành tốt hơn.

Việc nhà trường đã nối mạng tới hệ thống máy tính là 1 lợi thế, giáo viên cần biết tận dụng những nguồn tài nguyên sẵn có của mạng máy tính, truy cập mạng để tìm kiếm thông tin, tìm kiếm tài nguyên trên Internet phục vụ cho quá trình dạy và học. Và qua đây giáo viên cũng có thể giới thiệu cho học sinh biết được tầm quan trọng của CNTT-TT đối với chúng ta như thế nào.

Ngoài các biện pháp nêu trên, để nâng cao chất lượng giờ dạy, giờ học môn Tin học bậc học Tiểu học , giáo viên cũng cần để ý tới những biện pháp về tâm lý. Là một người giáo viên, mình phải luôn chuẩn mực trong mọi hành động, lời nói, để luôn là tấm gương sáng cho các em học sinh noi theo. Khi đứng lớp phải nghiêm túc, mẫu mực và luôn tạo ra không khi vui tươi, thoải mái giúp cho tiết dạy đạt hiệu quả cao nhất.

Nắm bắt được tâm lý lứa tuổi của các em giai đoạn này, giáo viên nên thay chê bai bằng khen ngợi, hãy luôn dành cho học sinh những lời khen, tuyên dương mỗi khi em tiến bộ, thao tác tốt. Nếu các em chưa thực hiện tốt, người giáo viên cần tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra những lời động viên, khuyến khích các em kịp thời. Tuyệt đối không chê bai, phê bình các em. Có như thế học sinh mới có thể tự tin hơn, mạnh dạn học tập và tiến bộ được.

Nói như thế không có nghĩa giáo viên lạm dụng lời khen, mà chúng ta phải khen cho khéo, cho phù hợp với hoàn cảnh, con người, không để lời khen được sử dụng tràn lan, dễ gây sự nhàm chán, phản tác dụng của lời khen.

Qua quá trình áp dụng vào giảng dạy tin học cho thấy các biện pháp áp dụng vào việc dạy học Tin học lớp 3,4,5 đã trình bày ở trên các em không những nắm chắc kiến thức lý thuyết, thao tác thuần thục khi thực hành mà còn thấy các em học tập phấn khởi hơn, tiếp thu bài nhanh hơn, có chất lượng thực sự, giúp cho các em có 1 tâm lý tự tin, thoải mái khi được tiếp xúc, làm việc trên máy tính. Từ đó chất lượng giờ dạy – học môn Tin học được nâng lên rõ rệt.

Bấm vào đây để tải về

Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Giảng Dạy Môn Tin Học

Với xu thế phát triển của xã hội hiện nay, môn Tin học ngày càng giữ vai trò quan trọng đối với học sinh mọi cấp học. Tuy nhiên, việc giảng dạy môn học này hiện nay chưa đạt hiệu quả cao. Vì thế, cần có những giải pháp thiết thực để nâng cao chất lượng giảng dạy môn Tin học. Nâng cao đổi mới phương pháp giảng dạy

Với xu hướng giáo dục 4.0 như hiện nay thì việc nâng cao nhận thức đổi mới phương pháp dạy học là nhu cầu thiết yếu. Tuy nhiên, cần có cái nhìn cũng như cách hiểu đúng đắn về đổi mới phương thức dạy học. Theo những chuyên gia giáo dục của Bộ Giáo dục và đào tạo : Việc đổi mới phương pháp dạy học không đồng nghĩa với việc đào tạo hoàn toàn theo phương pháp mới. Đổi mới ở đây được hiểu là vận dụng sáng tạo phương pháp và những kỹ năng giảng dạy truyền thống, kết hợp với phương pháp và phương tiện công nghệ hiện đại. Sự kết hợp này cần sự thống nhất và hài hòa, phù hợp với đối tượng cũng như nội dung chương trình.

Theo đó, đổi mới phương pháp dạy học là việc đổi mới quan niệm dạy học, từ thụ động tiếp nhận sang chủ động nắm bắt kiến thức, từ dạy học bằng thuyết trình sang tự khám phá và chủ động, từ dạy học tập trung vào việc dạy sang dạy học tập trung vào việc học.. Phương pháp này cũng thể hiện sự tôn trọng học sinh cũng như vốn hiểu biết và kinh nghiệm của các em.

Với phương pháp mới, học sinh có cơ hội để tự phát hiện vấn đề, tự thực hành những thao tác trên máy tính. Từ đó giúp học sinh dễ nắm bắt và nhớ lâu hơn. Đồng thời, nó cũng khiến học sinh mạnh dạn và tự tin hơn khi tham gia thực hành.

Phát huy tính tích cực của học sinh

Trong phương thức dạy học mới, học sinh là chủ thể của hoạt động dạy học, có tính tực giác tích cực để chủ động tiếp nhận kiến thức. Về vấn đề này, những chuyên gia giáo dục cho rằng, người học là chủ thể chiếm lĩnh kiến thức cũng như rèn luyện kỹ năng. Điều này giúp học sinh phát huy tính tích cực chứ không phải người bị đông trong tiếp nhận những kiến thức mà thầy giáo truyền đạt.

Với phương pháp mới này, thầy giáo chỉ giữ vai trò trong viêc điều khiển và định hướng hoạt động học của học sinh. Qua việc định hướng này, giáo viên cũng hình thành động cơ cũng như bồi dưỡng thêm kiến thức mới cho mình.

Cụ thể, với việc giảng dạy môn Tin học, giáo viên nên đưa ra một hệ thống câu hỏi từ dễ đến khó. Lúc đầu sẽ đưa ra những câu hỏi dễ để tạo hứng thú học tập. Tiếp đó là hệ thống câu hỏi khó để phát huy tư duy tích cực, để học sinh tham gia ý kiến cũng như chủ động tìm hiểu kiến thức.

Kết hợp dạy lý tuyết với thực hành

Theo những tư vấn của chuyên gia giáo dục, việc kết hợp lý thuyết và thực hành là xu hướng phát triển tất yếu của nền giáo dục để có thể đáp ứng nhu cầu chất lượng nguồn lao động hiện nay. Đây cũng được xem là phương pháp dạy học Tin học hiệu quả. Thực tế, do học sinh phải học quá nhiều môn, nên Tin học được xem là môn học phụ, lượng kiến thức của chương trình vì thế cũng bị dồn nén. Nếu chỉ học lý thuyết chung chung thì học sinh sẽ không thể nắm bắt và sẽ nhanh quên. Bên cạnh đó thì Tin học cũng là môn học đòi hỏi kỹ năng sử dụng máy tính thành thạo. Chính vì thế, cần kết hợp đào tạo lý thuyết và thực hành . Đây được xem là yếu tố cần thiết đối với giảng dạy môn Tin học.

Một Số Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Dạy Học Môn Tin Học Trong Trường Tiểu Học

Ngày nay, sự bùng nổ của công nghệ thông tin đã có những tác động to lớn đến mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, xã hội trong mỗi Quốc gia và trên Thế giới. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước đã xác định rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của tin học và công nghệ thông tin, truyền thông cũng như yêu cầu đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu Công nghiệp hoá – hiện đại hoá, mở cửa và hội nhập, hướng tới nền kinh tế tri thức của nước ta nói riêng – thế giới nói chung.

Nghị quyết Trung ương số 38/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005 đã chỉ rõ mục tiêu giáo dục: “… đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

( Luật giáo dục 2005 – trang 1)

Trong đó, mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Mục tiêu của giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở.

Hiện nay ngoài việc học 9 môn bắt buộc, học sinh tiểu học còn được học các môn tự chọn (như Tiếng Anh, Tin học).

Ta thấy rằng, mục tiêu dạy môn tự chọn ở tiểu học là nhằm hoàn thiện các kiến thức, kỹ năng cơ bản, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đáp ứng nhu cầu phát triển năng lực cá nhân, tạo hứng thú học tập cho học sinh. Học sinh được học theo sở thích, năng lực của mình nên em nào cũng hồ hởi khi được học môn tin học.

Xác định rõ tầm quan trọng của CNTT đối với yêu cầu phát triển đất nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa môn tin học vào trong nhà trường ngay từ bậc học tiểu học.

Ở tiểu học, học sinh được tiếp xúc với môn tin học để làm quen dần với lĩnh vực công nghệ thông tin, tạo nền móng cơ sở ban đầu để học những phần nâng cao trong các cấp học tiếp theo.

Có hiểu biết ban đầu về tin học và ứng dụng tin học trong học tập và trong đời sống.

Có khả năng sử dụng máy tính trong việc học những môn học khác, trong hoạt động vui chơi giải trí nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và thích ứng với đời sống xã hội hiện đại.

Bước đầu học sinh được làm quen với cách giải quyết vấn đề có sử dụng công cụ tin học.

Là giáo viên dạy môn Tin học ở tiểu học tôi thấy: Chương trình tin học của học sinh tiểu học gồm các nội dung chủ yếu như làm quen với việc sử dụng máy vi tính, sử dụng những thiết bị thông dụng, sử dụng phần mềm trò chơi mang tính giáo dục, sử dụng phần mềm soạn thảo văn bản, sử dụng phần mềm đồ họa, bước đầu làm quen với Internet… Các em rất yêu thích môn học này nên tiếp thu bài rất nhanh. Do vậy, việc đưa tin học vào tiểu học ở môn tự chọn là đúng đắn. Đặc biệt là trong hoàn cảnh hiện nay, ngành Giáo dục – Đào tạo đã có khả năng tự trang bị phòng máy vi tính cho các trường.

Việc đưa tin học vào giảng dạy ở cấp tiểu học dù tự chọn hay chính khóa rất cần có sự đầu tư cơ sở vật chất nhất định, nhằm vào mục tiêu hỗ trợ giáo viên giảng dạy, hỗ trợ học sinh học tập.

Môn tin học ở bậc tiểu học bước đầu giúp học sinh làm quen với một số kiến thức ban đầu về công nghệ thông tin như: Một số bộ phận của máy tính, một số thuật ngữ thường dùng, rèn luyện một số kỹ năng sử dụng máy tính, … đồng thời hình thành cho học sinh một số phẩm chất và năng lực cần thiết cho người lao động hiện đại như:

+ Góp phần hình thành và phát triển tư duy thuật giải.

+ Bước đầu hình thành năng lực tổ chức và xử lý thông tin.

+ Có ý thức và thói quen sử dụng máy tính trong hoạt động học tập, lao động xã hội hiện đại.

+ Có thái độ đúng khi sử dụng máy tính và các sản phẩm tin học.

+ Bước đầu hiểu khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong học tập.

+ Có ý thức tìm hiểu công nghệ thông tin trong các hoạt động xã hội.

Đặc biệt khi học sinh học các phần mềm sẽ được tích hợp nhiều nội dung kiến thức, phát triển nhiều kỹ năng cho bản thân như:

+ Phần mềm soạn thảo văn bản: học sinh ứng dụng từ các môn học Tiếng Việt để trình bày đoạn văn bản sao cho phù hợp, đúng cách. Ứng dụng soạn thảo văn bản để soạn thảo giải những bài toán đã học ở cấp tiểu học.

+ Phần mềm đồ họa (Paint): học sinh ứng dụng trong môn Mĩ thuật, học được từ môn Mĩ thuật để vẽ những hình ảnh sao cho sinh động, hài hoà và có thẩm mĩ.

+ Phần mềm cùng học toán 3, cùng học toán 4, cùng học toán 5: Đã giúp các em luyện tập giải toán và các kĩ năng làm toán…

+ Ngoài ra còn một số phần mềm trò chơi rất bổ ích: Giúp các em luyện sử dụng chuột và giải trí.

+ Chương trình tin học ở bậc tiểu học được phân bố xen kẽ giữa các bài vừa học, vừa chơi. Điều đó sẽ rèn luyện cho học sinh óc tư duy sáng tạo trong quá trình chơi những trò chơi mang tính bổ ích giúp cho học sinh thư giãn sau những giờ học căng thẳng ở lớp.

Từ các lí do trên tôi chọn viết và trao đổi với các đồng chí chuyên đề “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tin học trong các trường Tiểu học”. Qua các biện pháp trong chuyên đề sẽ giúp các em học tốt hơn, đồng thời giúp các em có một kĩ năng sử dụng tốt máy tính để hỗ trợ cho việc học tập của bản thân. Chuyên đề cũng nhằm cung cấp cho các đồng chí GV Tin một số phương pháp nhằm nâng cao chất lượng bộ môn Tin học ở trường mình khi áp dụng phù hợp với đặc điểm riêng của mỗi trường.

II. THỰC TRẠNG 1. Thuận lợi

– Hàng năm phòng GD&ĐT đều có kế hoạch mua sắm trang thiết bị trong đó có bổ sung, trang bị máy tính cho các trường.

– Về chương trình môn học: Năm học 2023-2023, Bộ GD&ĐT đã triển khai chương trình sách Hướng dẫn học tin học lớp 3-4-5 ngay từ đầu năm học. Sách hướng dẫn học Tin học mới có sự cải tiến nhiều hướng tới học sinh, giúp học sinh đến gần hơn với CNTT, tiếp xúc với các phần mềm mới và phù hợp với các em hơn.

– Sách mới giúp việc tương tác và truyền tải nội dung giữa thầy và trò được thuận lợi hơn.

– Giáo viên được đào tạo trình độ chuẩn, đáp ứng về kiến thức và phương pháp, đảm bảo yêu cầu dạy học môn Tin học ở bậc Tiểu học. Thường xuyên được bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn cấp huyện, cấp cụm đồng thời tự học tập trau dồi kiến thức chuyên môn, phương pháp dạy học mới để tiếp cận kịp thời với sự phát triển nhảy vọt của CNTT.

– Về học sinh: Nội dung sách Hướng dẫn học Tin học mới được trình bày nhẹ nhàng, đẹp, chú trọng nhiều về phần thực hành rất phù hợp với lứa tuổi HS tiểu học.

– HS từ khối 3 đến khối 5 được học môn Tin học. Mỗi lớp được học với thời lượng 2 tiết/ 1tuần.

– Môn Tin học là một môn học Tự chọn nên HS tiếp thu kiến thức một cách thoải mái, không bị gò ép, các em rất hứng thú với môn học.

– HS đã nắm được các kiến thức cơ bản của bài học. Từ đó HS đã biết sử dụng và ứng dụng phần mềm vào việc học tập.

2. Khó khăn

Nhà trường đã có một phòng máy vi tính để cho học sinh học nhưng vẫn còn hạn chế về số lượng cũng như chất lượng, mỗi ca thực hành có tới 3 – 4 em ngồi cùng một máy nên các em không có nhiều thời gian để thực hành làm bài tập một cách đầy đủ. Hơn nữa nhiều máy cấu hình máy đã cũ, chất lượng không còn tốt nên hay hỏng hóc, ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng học tập của học sinh.

Đời sống kinh tế của một số địa phương còn gặp nhiều khó khăn, rất ít học sinh ở nhà có máy vi tính, nên ngoài giờ thực hành trên lớp học sinh không có điều kiện để luyện thêm ở nhà, nên việc rèn luyện kỹ năng và ứng dụng chưa nhiều.

Tài liệu tham khảo dành riêng cho bộ môn Tin học còn quá ít. Nhất là những tài liệu nói về phương pháp dạy học đặc trưng của môn Tin học.

Đây là môn học tự chọn nên một số HS chưa học nghiêm túc và phụ huynh chưa quan tâm.

Sự cố về kỹ thuật: Nhiều máy bị hỏng. Dẫn đến không đủ máy cho HS thực hành.

Năm học 2023-2023 áp dụng học sách Tin học mới do BGD&ĐT triển khai trong đó có một số chương trình phần mềm có yêu cầu cấu hình máy nhưng do nhiều máy đã cũ và cấu hình thấp nên không đáp ứng được cho việc cài đặt phần mềm học tập cho học sinh.

Một số phần mềm không thể áp dụng được vào giảng dạy vì do trình độ Gv còn hạn chế và phòng máy không có tai nghe cho HS như phần mềm học tiếng Anh và phần mềm nhạc Encore, MuseScore.

III. MỤC TIÊU CỦA CHUYÊN ĐỀ 1. Đối với nhà trường

+ Từng bước nâng cao chất lượng bộ môn Tin học nói riêng và chất lượng chuyên môn của nhà trường, vì Tin học là một môn bổ trợ và tích hợp rất nhiều các nội dung kiến thức của các bộ môn khác.

+ Giúp lãnh đạo các nhà trường nâng cao chất lượng quản lí, đánh giá thực trạng và nhu cầu trang bị cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu tất yếu phục vụ cho việc dạy học môn tin học và ứng dụng CNTT trong việc quản lý nhà trường.

2. Đối với Giáo viên

+ Giúp giáo viên bộ môn có thêm tư liệu giảng dạy và từng bước đổi mới phương pháp dạy môn Tin học ở Tiểu học

+ Chia sẻ, xây dựng nội dung kiến thức CNTT, kinh nghiệm trong giảng dạy môn Tin học để xây dựng phương pháp giảng dạy tối ưu.

+ Giúp các thầy giáo, cô giáo ứng dụng CNTT vào giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng dạy học.

3. Đối với Học sinh

+ Giúp học sinh học tích cực, chủ động sáng tạo trong việc tiếp thu kiến thức, rèn luyện kĩ năng và vận dụng kiến thức vào thực tế.

+ Góp phần rèn luyện HS một số phẩm chất cần thiết của người lao động trong thời kỳ hiện đại hóa.

+ Giúp học sinh hiểu biết ban đầu về Tin học và ứng dụng của Tin học trong đời sống và học tập.

+ Trang bị cho HS kiến thức về CNTT, HS sử dụng máy tính như một công cụ học tập nhằm nâng cao chất lượng học tập.

IV. BIỆN PHÁP 1. Tăng cường tự học để năng cao nhận thức về đổi mới phương pháp dạy học môn tin học

Đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là phủ nhận phương pháp dạy học truyền thống và sử dụng phương pháp dạy học hoàn toàn mới. Đổi mới phương pháp dạy học là sự vận dụng sáng tạo các phương pháp dạy học, các biện pháp, kỹ thuật dạy học truyền thống kết hợp với những phương pháp dạy học, phương tiện, công nghệ và các kỹ thuật dạy học hiện đại, sao cho phù hợp với đối tượng, nội dung chương trình, nhằm giúp người học tích cực, chủ động sáng tạo trong việc tiếp thu kiến thức, rèn luyện kĩ năng và vận dụng kiến thức vào thực tế.

Bản chất của phương pháp dạy học là đổi mới quan niệm dạy học từ: dạy học thụ động sang dạy học tích cực; dạy học bằng thuyết trình hay giải thích sang dạy học bằng cách khám phá; dạy học độc thoại bằng dạy học đối thoại; dạy học tập trung vào cá nhân sang dạy học tập trung vào nhóm, dạy học hợp tác; dạy học tập trung vào nội dung tiến tới dạy học tập trung vào quá trình; dạy học tập trung vào việc dạy sang tập trung vào việc học; dạy kiến thức sang dạy cách học cho học sinh …..

Làm như vậy, thể hiện sự tôn trọng học sinh, tôn trọng vốn hiểu biết, kinh nghiệm đã có của các em. Tạo điều kiện cho học sinh tự phát hiện vấn đề, tự thực hành các thao tác trên máy tính, giúp học sinh dễ tiếp thu, dễ nhớ và nhớ lâu hơn, mạnh dạn tự tin hơn, phấn khởi hơn khi được tham gia thực hành. Tạo không khí học tập vui vẻ, nhẹ nhàng, thoải mái, không áp lực, mệt mỏi.

Bước đầu vận dụng một số PPDH làm sao cho học sinh: được tham gia nhiều hơn, được trao đổi nhiều hơn và được làm, thực hành nhiều hơn.

Đó chính là thay đổi nhận thức từ dạy học tập trung vào người dạy chuyển sang dạy học tập trung vào người học.

So sánh 2 cách dạy học, tôi nhận thấy:

1. Không chú ý kinh nghiệm và vốn hiểu biết đã có của học sinh

2. Tập trung vào việc dạy của thầy

3. Thầy độc thoại, phát vấn

4. Học sinh thụ động nghe

5. Thầy cung cấp thông tin

6. Thầy áp đặt kiến thức có sẵn

7. Trò học thuộc

8. Thầy độc quyền đánh giá

1. Tôn trọng kinh nghiệm và vốn hiểu biết đã có của học sinh

2. Tập trung vào việc học của trò

3. Đối thoại trò-trò, trò-thầy

4. Học sinh tích cực, chủ động

5. Thầy tổ chức, động viên, hướng dẫn/gợi ý

6. Học sinh tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề, tự rút ra kết luận

7. Học cách học, cách giải quyết vấn đề

8. Kết hợp thầy đánh giá với tự đánh giá của học sinh, của tập thể lớp

Dựa vào các nội dung so sánh nêu trên và thực tiễn trong quá trình dạy học từ nhiều năm nay, tôi nhận thấy cách dạy học tập trung vào người học có hiệu quả rõ rệt giúp cho các em tự tin cố gắng vươn lên trong học tập.

2. Sắp xếp nội dung, phương pháp học tập cho từng phần học phù hợp, hiệu quả

Ngay từ bài học đầu tiên trong chương trình học Tin học, giáo viên phải xác định rõ cho học sinh nhận biết các bộ phận của máy tính và tác dụng của các bộ phận đó bằng cách cho học sinh quan sát ngay trong giờ dạy lý thuyết.

Xây dựng kế hoạch bài dạy này ta làm như sau:

Tiết 1: Giới thiệu máy tính:

Việc 1: Quan sát: Bộ máy tính để bàn

Cho học sinh quan sát một bộ máy tính để bàn và nhận biết các bộ phận quan trọng của một máy tính bao gồm: Màn hình; phần thân máy; bàn phím; chuột.

– Màn hình của máy tính có cấu tạo và hình dạng như màn hình ti vi. Các dòng chữ, số và hình ảnh hiện trên màn hình cho thấy kết quả hoạt động của máy tính (giáo viên thao tác trực tiếp trên máy cho học sinh quan sát)

– Phần thân của máy tính là một hộp chứa nhiều chi tiết tinh vi, trong đó có bộ xử lý. Bộ xử lý là bộ não điều khiển mọi hoạt động của máy tính.

– Bàn phím của máy tính gồm nhiều phím. Khi gõ các phím, ta gửi tín hiệu vào máy tính.

– Chuột của máy tính giúp điều khiển máy tính nhanh chóng và thuận tiện. (Với sự giúp đỡ của máy tính các em có thể làm nhiều công việc như: học nhạc, học vẽ, học làm toán, liên lạc với bạn bè …)

Việc 2: Thực hành

a. Học sinh quan sát thầy, cô giáo gõ phím, điều khiển chuột máy tính và theo dõi sự thay đổi trên màn hình.

b. Dưới sự hướng dẫn của thầy, cô giáo, học sinh thử gõ một vài phím và quan sát sự thay đổi trên màn hình.

Việc 1: Giới thiệu về cách bật/tắt máy tính đúng quy trình.

Việc 2: Thực hành về cách bật/tắt máy tính đúng quy trình.

Giáo viên biết kết hợp giữa dạy lí thuyết và thực hành sao cho phù hợp, dạy lí thuyết tốt thì học sinh thực hành tốt. Khi học sinh thực hành tốt thì sẽ hiểu sâu hơn về lý thuyết.

Nội dung giảng dạy là chương trình SGK Cùng học Tin học quyển 1,2,3. Nội dung rất phù hợp, lôi cuốn HS. Để thực hiện dạy đạt hiệu quả, ngoài việc thực hiện đúng theo chương trình, tôi đã thực hiện như sau:

Ở phần học này, ngay từ bài học đầu tiên, GV cần giúp cho HS xác định rõ và nhận biết các bộ phận của máy tính và tác dụng của các bộ phận đó bằng cách cho HS quan sát ngay trong giờ giảng lý thuyết. Sau đó, vấn đề làm tôi quan tâm nhất là tạo cho các em có thao tác đúng và thành thạo khi sử dụng chuột, bàn phím,…

Ví dụ: Ở bài Bàn phím máy tính: Để giúp các em làm quen với bàn phím, GV cho HS nêu tên tất cả các phím và cho chơi một số trò chơi có nội dung về bàn phím. Trong đó có trò chơi Piano. Nhưng theo tôi phần mềm này không đạt hiệu quả vì các máy tính của HS không có tai nghe hay loa nên HS dễ nhàm chán vì gõ mà không thấy có kết quả gì. Vì thế, theo tôi ngay từ bài học này GV có thể hướng dẫn HS làm quen luôn với phần mềm Mario. Như thế HS vừa nắm được tên của các phím, vừa gây được hứng thú học tập của các em. Còn phần mềm đó GV nên giới thiệu cho HS và khuyến khích các em chơi ở nhà.

Ở lớp 4 và 5: Lúc này các em đã được hiểu biết nhiều hơn về máy tính nên GV sẽ có những yêu cầu cao hơn. HS phải nắm được cách sắp xếp thông tin theo hệ thống của máy tính. Biết cách sắp xếp và tìm kiếm thông tin.

GV yêu cầu HS cần có thái độ nghiêm túc khi học và làm việc trên máy tính, không phân biệt phần mềm học tập hay phần mềm trò chơi. GV cần liên hệ thực tế để giúp HS nắm được từ việc học và chơi trên máy tính đến đời sống thường ngày.

+ Luyện tính kiên trì, trí thông minh, luyện sử dụng chuột qua trò chơi Dots, Stiks, ……

+ Yêu thích môn Toán qua trò chơi Cùng học toán.

+ Chơi thể thao, tìm hiểu thiên nhiên qua trò chơi Godl, Khám phá rừng nhiệt đới.

Ở chương học này, thời gian thực hành khá dài, dễ gây nhàm chán. GV nên chủ động dạy dàn trải trong các tiết học.

Đây cũng là phần trọng tâm của chương trình lớp 3. Phần này đòi hỏi phải có sự tập luyện thường xuyên thì mới đạt hiệu quả cao được. GV cần giúp HS hiểu được lợi ích của việc gõ phím bằng 10 ngón để từ đó HS có ý thức hơn trong việc rèn luyện. Không cần nhiều, ở mỗi tiết thực hành, nếu còn thời gian hãy khuyến khích HS luyện gõ trong 10 phút thôi sẽ mang lại hiệu quả rất tốt. Cần phải chú trọng và nghiêm túc rèn từ lớp 3 về cách đặt tay lên bàn phím, cách gõ phím…thì đến lớp 4-5 HS mới có thói quen gõ 10 ngón.

Với phần học này, HS rất có hứng thú học tập. Ở phần học này GV cần chú trọng cho HS thực hành nhiều, giảm tiết lí thuyết hoặc có thể giảng lí thuyết ngay trong tiết thực hành. Như vậy học sinh mới có thao tác thành thạo được. Ngoài việc dạy những yêu cầu cơ bản trong SGK. Nếu có điều kiện GV có thể thiết kế các bài tập khác để phần học này thêm phong phú.

Ở lớp 4-5, yêu cầu đã được nâng cao hơn. Ngoài những kiến thức cơ bản cần đạt được ra, GV cần quan tâm nhiều đến vấn đề ứng dụng của các kiến thức đó vào bài vẽ.

Nội dung kiến thức chủ yếu là tạo cho HS những kiến thức cơ bản nhất để soạn thảo và trình bày một văn bản. Ở phần này GV cũng chú ý đến dạy thực hành hơn, dạy xong lý thuyết là cho HS thực hành ngay như vậy HS mới nắm được.

Ở lớp 3 HS được làm quen với 2 cách gõ là kiểu VNI và kiểu Telex. GV cần cung cấp cả 2 cách gõ này và khuyến khích các em lựa chọn cách gõ phù hợp để việc soạn thảo dễ dàng hơn.

Ở lớp 4 và 5 HS đã được học cách trình bày văn bản. GV hãy tạo điều kiện cho các em ứng dụng những kiến thức vừa học vào trình bày những văn bản thông thường.

Ví dụ: Khi dạy bài Căn lề (lớp 4) GV đưa thêm một số bài thơ, bài ca dao tục ngữ hay một đoạn văn bản đã học trong SGK Tiếng Việt mà HS đã học ở trên lớp để các em thực hành.

Logo là một ngôn ngữ lập trình, có đầy đủ các đặc điểm của một ngôn ngữ máy tính, xuất phát từ ngôn ngữ LISP, ngôn ngữ của trí tuệ nhân tạo. Logo là ngôn ngữ để học. Để hỗ trợ thực hiện quá trình học và suy nghĩ bằng cách khuyến khích HS tìm tòi khám phá. Logo có bảng kí tự, từ khóa riêng, cú pháp riêng và khá chặt chẽ.

Ở lớp 4 và lớp 5 HS mới được làm quen với phần mềm này và đây cũng là lần đầu tiên HS được làm quen với ngôn ngữ lập trình. Do vậy, khi thực hành những câu lệnh của Logo GV cần lưu ý HS phải rất cẩn thận khi viết các câu lệnh, tránh để HS hiểu tùy tiện, áp dụng những ngôn ngữ thông thường dành cho câu lệnh.

Đứng trước mỗi bài tập, bài thực hành, GV luôn luôn yêu cầu HS chia công việc được giao thành những nhiệm vụ nhỏ hơn và cuối cùng dùng những lệnh cơ bản của Logo để thực hiện. Sau khi chia nhỏ và phân tích bài toán, cần rèn luyện cho HS cách nhìn tổng hợp bài toán.

Khuyến khích HS làm việc tập thể, làm việc theo nhóm.

Viết chương trình một số thủ tục để tạo ra hình trang trí theo mẫu.

Thủ tục 1: Vẽ hình vuông với câu lệnh Repeat 4 [FD 50 RT 90]

Thủ tục 2: Vẽ tam giác: Repeat 3 [FD 50 RT 120]

Thủ tục 3: Vẽ ngôi nhà: dùng hai thủ tục 1 và 2 trong thân thủ tục 3.

Thủ tục 4: Vẽ vành bánh xe (lặp 12 lần thủ tục 3)

3. Hệ thống các bài tập thực hành

Việc hệ thống các bài tập thực hành phải phù hợp với nội dung dạy lí thuyết, liên hệ với một số môn học khác trong chương trình học của các e m.Các bài tập không quá dài, nâng dần từ mức đơn giản đến phức tạp. Liên kết kiến thức bài học trước với bài học sau để học sinh thực hành đạt hiệu quả cao.

Ví dụ 4:Trong một tiết thực hành: Vẽ quang cảnh trường em

(Tranh vẽ của HS lớp 5 Tiểu học Cao Đại trên máy tính)

Ở bài vẽ trên, học sinh phải sử dụng công cụ vẽ đường thẳng, vẽ đường cong và công cụ tô màu để vẽ quang cảnh trường em. Từ bài này học sinh liên tưởng nhớ lại cách vẽ quang cảnh được học ở môn mĩ thuật (xác định mảng chính, mảng phụ, sử dụng luật xa gần, phối hợp màu nóng, màu lạnh) để từ đó vận dụng vẽ quang cảnh trường em sao cho đẹp.

4. Trong giờ thực hành

Giáo viên luôn động viên tạo sự thi đua giữa các nhóm bằng cách phân công các nhóm làm bài thực hành, sau đó các nhóm nhận xét, đánh giá, chấm điểm giữa các nhóm (dưới sự chỉ dẫn của giáo viên) để tạo sự hào hứng học tập và sự sáng tạo của học sinh trong quá trình thực hành.

Phần thực hành: Thực hành giải toán trên phần mềm

Chia nhóm đôi, các nhóm cùng thực hành bài toán về so sánh số thập phân.

Chẳng hạn: 2,25 1,25 9163,6771 738849,4

447,27 184,28 234642,15 3480,7905

HS tự điền dấu thích hợp cho đúng.

Nhóm nào nhanh, làm đúng, không làm sai thì nhóm đó được khen ngợi.

5. Sử dụng Tài nguyên

Sử dụng các chương trình có sẵn trong máy vi tính, hoặc truy cập mạng để tìm kiếm thông tin, tìm kiếm tài nguyên trên Internet phục vụ cho quá trình dạy và học, tăng cường sử dụng bài giảng điện tử tạo sự hấp dẫn, lôi cuốn học sinh vào bài học.

– Phần mềm KP Typing Tuto (giúp học sinh luyện gõ 10 ngón tay); trang Web chúng tôi (giúp học sinh giải toán qua mạng)…

– Phần mềm soạn thảo văn bản Microsoft Word giúp học sinh tập soạn thảo.

– Phần mềm đồ hoạ Paint giúp học sinh học vẽ

– Trong bài: Khám phá rừng nhiệt đới (Tin học lớp 4 – quyển 2) bản thân tôi đã tìm kiếm thông tin trên Web về thế giới động vật, tôi đã hướng dẫn học sinh vào trang chúng tôi để tìm kiếm những hình ảnh và thông tin về động, thực vật trong rừng nhiệt đới.

(Đây là những hình ảnh mà học sinh của tôi đã tra cứu trên mạng Internet)

– Sử dụng bài giảng điện tử ( giúp học sinh tiếp thu bài tích cực, chủ động hơn)

(Đây là một số bài dạy điện tử mà tôi đã trực tiếp thiết kế và giảng dạy) 6. Cải thiện chất lượng phòng máy

– Với những sự cố bất ngờ trên, việc xác định nguyên nhân của nó sẽ giúp ta tìm ra cách giải quyết, xử lí vấn đề dễ dàng hơn:

– Việc đầu tiên là cần phải kiểm tra tất cả các cáp (cáp nguồn, cáp dữ liệu…) để chắc chắn là mọi thứ đã được gắn chặt và đúng cách.

a) Kiểm tra lại những phần mềm hay phần cứng được cài đặt gần đây: Nếu sự cố xảy ra ngay sau vừa cài đặt một phần cứng hay chương trình phần mềm, bạn hãy gỡ bỏ chúng ra và khởi động trở lại. Nếu máy tính vẫn hoạt động bình thường thì đó chính là nguyên nhân. Còn việc cài đặt lại sẽ do nhân viên bảo trì tiếp tục làm sau đó.

b) Chạy các chương trình diệt vi rút hiệu quả: Để chương trình này chạy tốt bạn phải luôn cập nhập phiên bản mới nhất. Các chương trình được xem là tốt nhất hiện nay như: Norton Antivirus, AGV Antivirus…

c) Kiểm tra nhiệt độ thùng máy: Sự quá nhiệt là một nguyên nhân khác, thường xảy ra do sự hoạt động kém của các quạt giải nhiệt, các loại bụi bẩn bám trong thùng máy. Nếu thấy bên trong thùng máy có nhiều bụi bẩn bám vào, bạn nên vệ sinh nhưng phải rất cẩn thận vì nó có nguồn điện thế cao, rất dễ gây nguy hiểm. Tốt hơn hết là nên báo lại cho nhân viên bảo trì.

d) Kiểm tra lại bộ nhớ Ram: Đây là nguyên nhân chủ yếu mà tôi thường gặp mỗi khi máy không khởi động được hoặc bị lỗi bất thường khi đang hoạt động. Nếu phát hiện ra bộ nhớ có vấn đề, hãy tháo các thanh Ram ra, lau sạch chân thanh Ram và gắn lại thật chặt, hoặc lần lượt gắn từng thanh Ram ở các vị trí khác nhau để kiểm tra.

e) Cài đặt máy tính với đầy đủ phần mềm học tập cho HS rồi tôi đóng băng ổ C lại bằng phần mềm Deep Freeze giúp giảm việc hỏng máy do virut hay những lỗi HS vô tình xóa dữ liệu trong ổ C.

f) Đôi lúc máy chạy nhưng màn hình không lên hình. Hãy mượn màn hình đang sử dụng tốt khác để thử.

h) Thường xuyên hướng dẫn HS vệ sinh phòng máy, phân công mỗi lớp một tuần phụ trách vệ sinh phòng máy dưới sự chỉ đạo của GV, giáo dục HS ý thức bảo vệ của công và ý thức giữ gìn máy tính trong phòng Tin học đồng thời giảm việc hỏng máy tính do bụi bẩn.

7. Xây dựng câu lạc bộ Tin học

Câu lạc bộ là tổ chức nhằm mở rộng tầm nhận thức, hiểu biết về văn hoá, khoa học kĩ thuật, giáo dục lòng yêu lao động, ý thức đạo đức, giúp phát triển toàn diện các khả năng sáng tạo và các năng khiếu của con người. Tổ chức câu lạc bộ tin học là điều kiện tốt để các cá nhân yêu thích tin học có môi trường phát huy khả năng của mình. Đối tượng của câu lạc bộ có thể là các cá nhân hoặc nhóm

Thành lập câu lạc bộ Tin học khối Tiểu học của Huyện: Câu lạc bộ là nơi để cho các đồng chí giáo viên, nhân viên tin học của khối tiểu học trong toàn huyện sinh hoạt nhằm trao đổi những kinh nghiệm cũng như giúp nhau rút ra những kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy để từ đó đưa ra phương pháp giảng dạy tốt nhất giúp các em học sinh tiếp thu một cách gần nhất với môn học.

Câu lạc bộ cũng giúp các thành viên chia sẻ các kiến thức về CNTT, hỗ trợ nhau trong việc sử lý các sự cố công nghệ trong quá trình giảng dạy.

7.2. Câu lạc bộ Tin học nhà trường dành cho các em học sinh:

a) Thành viên: là các em học sinh khối lớp 3-4-5

b) Mục địch hoạt động : Là một CLB trực thuộc trường Tiểu học hoạt động nhằm mục đích hỗ trợ nhà trường trong công tác giáo dục định hướng cách tự học của học sinh, xây dựng ý thức tự giác. Từ đó góp phần rèn luyện nâng cao kỹ năng sống cho học sinh trường Tiểu học

c) Nhiệm vụ : Tạo điều kiện cho những học sinh có sở trường, năng khiếu, yêu thích tin học có cơ hội phát huy năng lực của mình. Củng cố, mở rộng kiến thức tin học cho học sinh, trang bị những kĩ năng cần thiết góp phần phát triển và hoàn thiện nhân cách học sinh.Tạo môi trường làm việc giao lưu, hợp tác, giúp học sinh học hỏi, giao lưu, ứng xử.

Câu lạc bộ là một trong những phương thức hoạt động sinh động, có hiệu quả cho môn tin học. Đồng thời là môi trường tiên tiến để mỗi thành viên tự điều chỉnh nhận thức, hành vi, rèn luyện, phấn đấu trưởng thành. Qua các loại hình sinh hoạt khác nhau của câu lạc bộ, thành viên có dịp giúp nhau học tập, trao đổi kinh nghiệm trong cuộc sống, phát huy mặt tích cực, cải thiện uốn nắn các biểu hiện tiêu cực, lạc hậu, kích thích tính chủ động, sáng tạo, tính tích cực xã hội, xây dựng nếp sống văn minh môi trường học đường lành mạnh.

– Hướng dẫn HS sử dụng các phần mềm học tập hiệu quả.

– Nâng cao kỹ năng soạn thảo văn bản Word.

– Sử dụng chương trình trình chiếu Powerpoint.

– Học vẽ tranh bằng các phần mềm có sẵn trong Win XP.

– Được tìm hiểu thêm về lợi ích và tính năng của mạng Internet .

– Phát triển vốn Anh văn chuyên ngành Tin học.

Hoạt động của Câu lạc bộ được xây dựng dựa trên sự đóng góp nội dung hoạt động của các thành viên. Các nội dung hoạt động của Câu lạc bộ được chọn lựa dựa trên một số tiêu chí:

1- Chất lượng của các hoạt động được đặt lên hàng đầu.

2- Thu hút được đông đảo các thành viên tham gia.

3- Thúc đẩy được phong trào học tập của học sinh trong trường.

4- Nội dung hoạt động đa dạng, chứa đựng nhiều tri thức và những vấn đề thực tế

5- Không có ảnh hưởng xấu tới thuần phong mĩ tục, đạo đức, tư tưởng và lối sống của học sinh, không vi phạm pháp luật.

6- Khuyến khích các ý tưởng mới lạ của các thành viên về hình thức hoạt động.

– Kinh phí hỗ trợ từ nhà trường

– Đóng góp kinh phí sinh hoạt câu lạc bộ từ thành viên

* Toàn bộ kinh phí này sẽ được chi vào các hoạt động sau:

– Tiền điện và bảo trì, sửa chữa máy tính

– Tổ chức các buổi giao lưu giữa các câu lạc bộ trong cụm, huyện

IV. KẾT LUẬN

– Phần thưởng cho các em đạt thành tích tốt trong các buổi giao lưu cấp trường, cụm, huyện.

Để phát huy hiệu quả trong công tác dạy học, mỗi giáo viên nói chung và giáo viên dạy môn tin học nói riêng cần:

– Tìm tòi sáng tạo cách dạy, cách học tạo sự hứng thú tiếp thu bài cho học sinh.

– Yêu nghề, mến trẻ, tăng cường tự học tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ…

– Tích cực dự giờ đồng nghiệp, tham gia hội thảo phương pháp giảng dạy các bộ môn khác.

– Không ngừng học tập, tìm hiểu tích lũy kiến thức khoa học. Phải tìm hiểu các mảng kiến thức khác về mọi lĩnh vực như văn hoá, kinh tế, chính trị, xã hội để tự nâng cao nhận thức của bản thân.

Giáo viên phải biết phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh.

GV cần phải có phương pháp dạy học linh hoạt sáng tạo, phải tìm mọi cách để cải tiến cách dạy theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh, bổ sung sáng tạo thêm nhiều thủ pháp sinh động, hấp dẫn, đa dạng hóa cách thức truyền đạt ở mỗi bài học.

Để đạt được những nội dung đó đòi hỏi mỗi giáo viên phải không ngừng nâng cao kiến thức, tạo cho mình một trình độ chuyên môn vững vàng, thường xuyên học hỏi rút kinh nghiệm từ các đồng nghiệp.

Nâng Cao Chất Lượng Dạy Học Môn Tin Học 6 Bằng Phương Pháp Dạy Dạy Học Trực Quan

––&—–

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC MÔN TIN HỌC 6 BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY DẠY HỌC TRỰC QUAN

Lĩnh vực: Tin học

Cấp học : Trung học cơ sở Năm học : 2023 – 2023

A. ĐẶT VẤN ĐỀ …………………………………………………….

I. Lý do chọn đề tài …………………………………………………..

II. Phạm vi nghiên cứu ……………………………………………….

III. Thời gian nghiên cứu ……………………………………………..

IV. Đối tượng nghiên cứu …………………………………………….

V. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ………………………………………….

I. Cơ sở lý luận………………………………………………………..

II. Cơ sở thực tiễn……………………………………………………..

III. Thực trạng vấn đề…………………………………………………

IV. Mô tả giải pháp của đề tài…………………………………………

1. Các biện pháp tiến hành:………………………………………..

1.1. Biện pháp 1: Trực quan hoá thông tin dạy học.

1.2: Biện pháp 2: Tạo những tác nhân kích thích trực quan thông qua biểu trưng ngôn ngữ, biểu trưng đồ họa, biểu trưng tranh ảnh.

1.2.1 Dạy học trực quan bằng biểu trưng ngôn ngữ.

1.2.2 Dạy học trực quan bằng biểu trưng đồ họa.

1.2.3 Dạy học trực quan bằng biểu trưng hình ảnh

1.2.4. Kết hợp các loại hình trực quan.

1.3. Biện pháp 3: Xây dựng các kĩ năng, thực hành.

1.3.1. Kĩ năng nhận biết tính năng các loại biểu tượng.

1.3.2. Rèn luyện kĩ năng thao tác trên máy

1.4. Biện pháp 4: Sử dụng phần mềm hỗ trợ quản lý phòng máy (Netop School hoặc Italic và mạng LAN).

2. Kết quả

2.1. Khả năng áp dụng

2.2. Lợi ích kinh tế- xã hội

C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ: ……………………………..

I. Kết luận: ………………………………………………………….

1.Những điều kiện, kinh nghiệm áp dụng, sử dụng giải pháp.

2. Những triển vọng trong việc vận dụng và phát triển giải pháp.

3 Những bài học kinh nghiệm

II. Khuyến nghị: …………………………………………………….

D. PHỤ LỤC: ……………………………………………………….

ĐỀ TÀI: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC MÔN TIN HỌC 6 BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRỰC QUAN

Thực hiện Nghị quyết 40/2000/NQ-QH của Quốc hội và chỉ thị số 14/2001 CTTTg của thủ tướng chính phủ về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Đến nay việc đổi mới giáo dục phổ thông đã trở thành nền nếp sâu rộng từ đổi mới nội dung chương trình sách giáo khoa, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, phương pháp dạy học, đặc biệt là chú trọng đến đối tượng dạy học. Phần lớn giáo viên đứng lớp đã thích nghi với chương trình, phương pháp mới nhất là sử dụng, khai thác triệt để tác dụng thiết bị thực hành, của trang thiết bị, phương tiện dạy học nh­ bảng phụ, tranh ảnh, thiết bị thí nghiệm – thực hành, máy chiếu qua đầu, máy chiếu đa chức năng, …..

Xuất phát từ cuộc vận động ứng dụng đẩy mạnh công nghệ thông tin vào dạy học của Bộ giáo dục, Sở giáo dục, Phòng giáo dục và Ban giám hiệu nhà trường nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Đặc biệt là bộ môn Tin học, môn Tin học là một môn khoa học công cụ, tri thức và kỹ năng Tin học được áp dụng rộng rãi, hỗ trợ đắc lực cho rất nhiều ngành khoa học khác nhau trong hầu hết lĩnh vực của đời sống và là một phần không thể thiếu của trình độ văn hóa phổ thông của con người trong thời đại mới. Bởi vậy dạy tin học cho học sinh không chỉ truyền thụ nội dung đơn giản, mà phải hướng cho học sinh những nhận thức, những hiểu biết ngang tầm thời đại…

Do hạn chế về nhiều mặt cơ sở vật chất, trang thiết bị, trình độ giáo viên… mà đôi khi phương pháp dạy học đã không tận dụng hết những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, để truyền tải nhiều thông tin cho người học một cách trực quan nên chất lượng dạy và học có mặt hạn chế.

Sự thành công của một tiết dạy ngoài phương pháp giảng dạy của giáo viên và cách học của học sinh, còn cần sự có mặt của đồ dùng, phương tiện, thiết bị và phần mềm dạy học. Chính vì vậy mà bản thân tôi luôn cố gắng tìm tòi, nghiên cứu, trao đổi với đồng nghiệp và nghiên cứu các ứng dụng của thiết bị và phần mềm dạy học phù hợp với đặc trưng của bộ môn. Trong quá trình tìm tòi, nghiên cứu, học hỏi và ứng dụng đó bản thân tôi đã tìm ra một số biện pháp hữu ích góp phần trong việc nâng cao chất lượng bộ môn Tin học lớp 6.

Để nâng cao chất lượng môn tin học nói chung và tin học 6 nói riêng tôi đã đăng kí nghiên cứu và thực hiện sáng kiến kinh nghiệm “Nâng cao chất lượng dạy học môn tin học 6 bằng phương pháp dạy học trực quan”, đề ra một số biện pháp về việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan với đồ dùng dạy học đó là máy chiếu (Projecter hoặc Tivi màn hình lớn), các phần mềm dạy học (Netop school, Violet..), tranh ảnh, biểu tượng… mà bản thân tôi đã nghiên cứu và áp dụng thành công tại đơn vị trường THCS mà tôi đang công tác.

Qua các năm giảng dạy bộ môn Tin học lớp 6, tôi nhận thấy rằng nếu truyền thụ tri thức chỉ thông qua lời nói thì học sinh cảm thấy mệt mỏi, không có hứng thú trong học tập, việc tiếp thu bài giảng của học sinh không cao. Khi sử dụng phương tiện trực quan trong bài giảng giúp học sinh dễ dàng tiếp thu và tham gia bài giảng một cách tích cực và chủ động. Phương tiện dạy học vừa điều khiển nhận thức một cách sinh động, vừa là nguồn tri thức phong phú để lĩnh hội tri thức và rèn luyện kỹ năng. Phương pháp dạy học trực quan là một trong những phương pháp dạy học tích cực giúp học sinh dễ dàng chiếm lĩnh kiến thức thông qua quan sát. Tuy vậy, trong quá trình dạy học một số học sinh vẫn chưa chú ý đến sự hướng dẫn của giáo viên nên việc chiếm lĩnh kiến thức vẫn còn thụ động. Vì vậy trong quá trình dạy học giáo viên phải biết kết hợp các phương pháp dạy học một cách thích hợp, linh hoạt khai thác và vận dụng tốt các phương tiện sẽ kích thích được hứng thú tư duy của học sinh.

Việc khai thác tốt các hình ảnh và mô hình đưa ra thông qua phương pháp dạy học trực quan trong quá trình dạy học không chỉ giúp học sinh tiếp thu kiến thức mới nhanh hơn, hiệu quả hơn mà còn rèn luyện kỹ năng quan sát, phân tích, dự đoán, so sánh, khái quát, kỹ năng vận dụng để học sinh nâng cao kỹ năng kiến thức và có hứng thú hơn đối với môn học.

Một thực tế khác là ý thức học tập của một số học sinh chưa cao, chưa thực sự hứng thú trong học tập, lười hoạt động, không tích cực tự giác, ý thức tự học, tự rèn luyện yếu hoặc chỉ biết đến máy tính như một công cụ giải trí.

Qua điều tra khảo sát về cả lí thuyết và thực hành tôi tiến hành đã thu được kết quả như sau:

Qua kết quả khảo sát thì đa số các em nắm kiến thức lí thuyết còn yếu, các em hay quên và chưa vận dụng vào thực hành được nếu không có sự hướng dẫn của giáo viên.

Tỉ lệ yếu kém còn cao: chiếm 37%

Từ thực tế trên và bản thân tôi là một giáo viên dạy bộ môn Tin học luôn suy nghĩ phải đưa ra những giải pháp như thế nào để các em nắm lí thuyết chắc hơn nhớ lâu hơn và vận dụng vào thực hành tốt hơn. Sau một thời gian suy nghĩ tiến hành thực nghiệm tôi đã thu được những kết quả rất tốt sau đây tôi xin đề ra một số giải pháp sử dụng các dụng cụ trực quan trong dạy học nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Tin học lớp 6.

3. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới

Việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào thực tiễn giảng dạy góp phần nâng cao chất lượng học tập bộ môn Tin học của học sinh, giúp các em vừa ôn luyện được kiến thức cũ, phát hiện nội dung kiến thức mới. Từ đó các em lĩnh hội tri thức một cách nhẹ nhàng, hứng thú, say mê học tập, rèn cho học sinh óc tư duy sáng tạo nhằm nâng cao chất lượng bộ môn.

Đề tài tập trung giới thiệu và giải quyết những vấn đề về “Các phương pháp dạy học trực quan ở môn tin học 6”

Năm học: 2023 – 2023

– Môn Tin học lớp 6.

– Học sinh khối 6

V. Phương pháp nghiên cứu

– Tổng hợp điều tra về mức độ học sinh thích học, mức độ học sinh hiểu bài trong các giờ học có sử dụng dụng cụ trực quan

– Kiểm tra việc học tập của học sinh (bài cũ, bài mới).

– Sử dụng bảng biểu đối chiếu.

– Kiểm tra chất lượng sau giờ học.

– Tận dụng tối đa các buổi học thực hành để các em được làm quen và luyện tập thật tốt các bài học lý thuyết.

– Hiện nay việc sử dụng các dụng cụ trực quan giúp cho giáo viên xây dựng tư liệu tương đối phong phú. Việc khai thác tư liệu có thể từ nhiều nguồn như: Khai thác thông tin tranh ảnh từ mạng Internet, từ sách báo tài liệu, tạp chí, băng hình, phim, các phần mềm,…

– Trao đổi, chia sẻ, rút kinh nghiệm

Do nhiều yếu tố nên phạm vi nghiên cứu và thực hiện là với môn Tin học tại 3 lớp 6A, 6B và 6C của trường THCS nơi tôi đang công tác trong năm học 2023 – 2023.

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC MÔN TIN HỌC 6 BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRỰC QUAN I. CƠ SỞ LÍ LUẬN

Việc đổi mới chương trình sách giáo khoa đặt trọng tâm vào việc đổi mới phương pháp dạy học. Chỉ có đổi mới căn bản phương pháp dạy học và chúng ta có thể tạo được sự đổi mới thực sự trong giáo dục, mới có thể đào tạo được lớp người năng động, sáng tạo có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh nhiều nước trên thế giới hướng tới nền kinh tế tri thức.

Trong vài thập kỷ gần đây, đã có sự bùng nổ về thông tin hay gọi là thời đại thông tin. Cùng với việc sáng tạo ra hệ thống công cụ mới, con người cũng đã tập trung trí tuệ từng bước xây dựng ngành khoa học tương ứng để đáp ứng những yêu cầu khai thác tài nguyên thông tin. Trong bối cảnh đó, ngành Tin học được hình thành và phát triển thành một ngành khoa học độc lập với các nội dung, mục tiêu, phương pháp nghiên cứu riêng và ngày càng có nhiều ứng dụng trong hầu hết các lĩnh vực hoạt động của xã hội loài người.

Tin học được đưa vào nhà trường, vào giáo dục của nước ta nhằm giúp học sinh chúng ta theo kịp với trình độ phát triển của khu vực và thế giới. Đưa Tin học vào nhà trường nói chung và THCS nói riêng là một việc làm cần thiết để các em làm quen và tiếp cận với công nghệ khoa học tiên tiến.

Hoạt động nhận thức của con người là từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Đối với học sinh lớp 6 khi học bộ môn Tin học này không thể làm trái với nguyên lý nhận thức đó. Việc dạy tin học trong nhà trường hiện nay đối với nước ta không phải là dễ, vì Tin học nó gắn liền với một công cụ riêng của môn học là máy tính. “Tin học là ngành khoa học nghiên cứu các quá trình có tính chất thuật toán nhằm mô tả biến đổi thông tin. Là khoa học dựa trên máy tính điện tử nghiên cứu cấu trúc, các tính chất chung của thông tin, các quy luật và phương pháp thu thập, lưu trữ, tìm kiếm thông tin, xử lý thông tin một cách tự động chính xác qua công cụ là máy tính điện tử”. Vậy làm thế nào để cho học sinh dễ hiểu một cách nhanh chóng chính xác và có kỹ năng thực hành là một nhiệm vụ rất quan trọng của người giáo viên dạy Tin học hiện nay.

Để giảng dạy tốt bộ môn Tin học có chất lượng, đạt kết cao thì người thầy giáo ngoài tin thông về bộ môn Tin học, cần nắm chắc phương pháp dạy học trực quan. Phương pháp dạy học trực quan là phương pháp dạy học mà từ các hình ảnh, hoạt động trực quan đến tư duy trừu tượng hay còn gọi trực quan hoá thông tin thông qua các công cụ trực quan.

II/ CƠ SỞ THỰC TIỄN

Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ chức hướng dẫn các hoạt động độc lập để học sinh tự chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu chương trình. Trên lớp, học sinh hoạt động là chính nhưng khi soạn giáo án, giáo viên phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mới có thể thực hiện trên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng tranh luận sôi nổi của học sinh. Để làm được điều này thì đòi hỏi người giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên.

Khó khăn lớn nhất hiện nay ở các trường học khi áp dụng phương pháp dạy học trực quan vào giảng dạy vẫn là trang thiết bị nghe nhìn, phương tiện dạy học… còn nhiều thiếu thốn và bất cập. Trường THCS nơi tôi đang công tác tuy đã có được sự quan tâm hỗ trợ tích cực của các cấp lãnh đạo và phụ huynh học sinh nhưng đến nay vẫn chưa có phòng học bộ môn, phòng máy vi tính đã có số lượng tương đối đầy đủ nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu do sĩ số đông (30-35 HS/lớp). Để áp dụng phương pháp này vào dạy Tin học thì đòi hỏi phải có đèn chiếu (máy chiếu qua đầu – Over head) hay đèn chiếu (Projecter), máy vi tính đó là chưa kể đến việc nếu áp dụng đồng loạt thì mỗi lớp cũng đều phải được trang bị.

Tin học là một môn học đã được đưa vào giảng dạy tại trường THCS nơi tôi đang công tác nhưng so với các nơi khác cũng có thể nói là đang còn chậm, đặc biệt là các em lớp 6 cũng đã tiếp xúc với bộ môn này từ tiểu học mặc dù các em rất thích máy tính nhưng là để chơi các trò chơi trên máy chứ chưa ý thức được tầm quan trọng của bộ môn nên chất lượng học tập còn hạn chế. Đây là bộ môn đặc trưng muốn đạt chất lượng cao đòi hỏi các em phải tiếp xúc với máy tính nhiều nhưng thời lượng mỗi tuần chỉ có 2 tiết trên lớp thì các em chưa thể thực hành hết các kiến thức đã học mà nếu có thực hành hết thì sẽ chóng quên. Một thực tế khác là ý thức học tập của một số học sinh không cao, không hứng thú trong học tập, lười hoạt động, không tích cực tự giác, ý thức tự học, tự rèn luyện yếu.

III. THỰC TRẠNG KHI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

* Một số thuận lợi và khó khăn khi thực hiện đề tài:

1. Thuận lợi: * Nhà trường:

– Tuy môn Tin học mới chỉ là môn học tự chọn nhưng nhà trường đã tạo điều kiện để học sinh có thể học từ khối lớp 6, tạo điều kiện sắm sửa máy móc, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học môn Tin học.

* Giáo viên:

Giáo viên được đào tạo vượt chuẩn chuyên ngành về tin học để đáp ứng yêu cầu cho dạy và học môn tin học trong bậc THCS.

* Học sinh:

Vì là môn học trực quan, sinh động, môn học khám phá những lĩnh vực mới nên học sinh rất hứng thú học, nhất là những tiết thực hành.

Đời sống kinh tế gia đình của một số em học sinh ở nhà đã có máy vi tính nên cũng có những thuận lợi nhất định đối với môn học.

2. Khó khăn: * Nhà trường:

Nhà trường đã có một phòng máy vi tính để cho học sinh học nhưng vẫn còn hạn chế về số lượng cũng như chất lượng, mỗi ca thực hành có tới 3 em ngồi cùng một máy nên các em không có nhiều thời gian để thực hành làm bài tập một cách đầy đủ. Hơn nữa nhiều máy cấu hình máy đã cũ, chất lượng không còn tốt nên hay hỏng hóc, ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng học tập của học sinh.

* Giáo viên:

Môn Tin học mới chỉ là môn tự chọn trong chương trình bậc THCS nên chương trình và sự phân phối chương trình bước đầu chưa có sự thống nhất và đang hoàn chỉnh. Hơn nữa khi thực hành, các máy móc chất lượng kém thường gặp sự cố, trục trặc dẫn đến học sinh thiếu máy, không thực hành được.

* Học sinh:

Đa số các em học sinh chỉ được tiếp xúc với máy vi tính ở trường là chủ yếu, do đó sự tìm tòi và khám phá máy vi tính với các em còn hạn chế, nên việc học tập của học sinh vẫn còn mang tính chậm chạp.

IV. MÔ TẢ GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI 1. Các biện pháp tiến hành:

1.1. Biện pháp 1: Trực quan hoá thông tin dạy học.

Trực quan hoá thông tin dạy học là một quá trình thông qua đó người học tri giác các tài liệu học tập dưới dạng các biểu trưng hình ảnh, âm thanh, mô hình, vật thật… với sự hỗ trợ của dụng cụ trực quan.

Dụng cụ trực quan được sử dụng trong môi trường học tập như trong dạy học, giáo dục qua mạng dựa trên cơ sở máy tính… dụng cụ trực quan có thể được sử dụng hiệu quả để giảng dạy các sự kiện, các chỉ dẫn, các quá trình và các khái niệm trừu tượng mà chúng thường khó nhớ, khó hiểu. Các mục tiêu dạy học có thể thực hiện tốt nếu biết phát huy thông qua công cụ trực quan.

Có thể nói dụng cụ trực quan có nhiều thuận lợi hơn hẳn so với dạy học bằng ngôn ngữ: Chứa nhiều thông tin và tổ chức thuận lợi các thông tin trong cùng một vị trí, làm đơn giản các khái niệm, làm sáng tỏ các chi tiết của một khái niệm dựa trên ngôn ngữ trừu tượng. Đặc biệt là tranh ảnh trực quan làm tăng khả năng tiếp nhận và ghi nhớ trong học tập đây là một trong những mục tiêu hàng đầu của giáo dục.

Từ những ưu điểm trên, tôi nhận thấy nếu áp dụng vào dạy học nhờ dụng cụ trực quan là đèn chiếu, tranh ảnh, biểu tượng…. vào dạy Tin học có hiệu quả rất cao.

Trước khi sử dụng dụng cụ trực quan cho một bài học thì trước hết giáo viên cần xác định bài nào cần dụng cụ trực quan và những dụng cụ trực quan đó là gì phục vụ cho những đơn vị kiến thức nào trong bài học.

Tiếp đến là công tác chuẩn bị với dụng cụ trực quan.

Ví dụ dạy bài: “Máy tính và phần mềm máy tính” cần chuẩn bị những đồ dùng trực quan khi giới thiệu cấu trúc chung của máy tính điển tử như: bộ xử lí trung tâm (CPU), thanh RAM, các ổ đĩa các thiết bị lưu giữ thông tin như USB, đĩa mềm, đĩa CD, DVD… hay hình ảnh của một số loại máy vi tính trong thực tế bằng cách chụp bởi tranh ảnh hoặc các dụng cụ trực quan thiết thực như thế HS mới nhớ lâu và thấy trong thực tế có thể gọi tên dụng cụ trực quan chính xác.

Đèn chiếu tương đối dễ sử dụng và việc chuẩn bị cho việc dạy học với đèn chiếu tương đối dễ dàng, ít tốn thời gian. Tuy nhiên để sử dụng đèn chiếu thì phải có sự chuẩn bị kiến thức và các nội dung kiến thức cần trình chiếu. Nội dung đưa lên máy chiếu phải rõ ràng chính xác và phải có máy vi tính.

Sau bài dạy tôi tiến hành kiểm tra nhận thức của học sinh bằng hình thức kiểm tra 15 phút. Kết quả thu được:

* Hiệu quả của biện pháp 1: Sau khi áp dụng một số ví dụ vào đề tài, số học sinh biết phân biệt các thiết bị của máy tính tăng lên rõ rệt.

Tỉ lệ khá giỏi đã được nâng lên so với chất lượng khảo sát đầu năm học: Tăng 26%

Tỉ lệ yếu giảm: 12 %

Tỉ lệ kém còn: 0%

Tuy nhiên một số học sinh vẫn chưa xác định đúng các vị trí thiết bị, …. Như vậy bước đầu việc vận dụng kiến thức, kĩ năng của các em vào làm bài tập thực hành đã có hiệu quả rõ rệt.

1.2. Biện pháp 2: Tạo những tác nhân kích thích trực quan thông qua biểu trưng ngôn ngữ, biểu trưng đồ họa, biểu trưng tranh ảnh.

Muốn sử dụng phương pháp dạy học này thành công thì việc đầu tiên người thầy phải làm là thiết kế các thông điệp trực quan đòi hỏi nhiều sức lực và trí lực nhưng lại là công việc đem lại nhiều lợi ích. Việc thiết kế các tài liệu dạy học trực quan mới có thể tạo nên sự thay đổi, và khi người học chú ý sẽ cho nhiều điều bổ ích. Người thiết kế phải quan tâm tới khía cạnh giảng dạy, tính trực giác và đặc biệt quan tâm tới những kĩ năng học tập của học sinh trong nghiên cứu và thực hành. Người giáo viên phải biết phân tích chọn lựa các loại hình trực quan sao cho phù hợp với nội dung bài học.

1.2.1 Dạy học trực quan bằng biểu trưng ngôn ngữ.

Biểu trưng ngôn ngữ được tạo ra từ chữ viết dưới dạng một từ đơn lẻ hoặc câu hoàn chỉnh dùng đặt tên đối tượng, định nghĩa, mô tả đối tượng.

Thường khi dạy các bài học lý thuyết tôi thường sử dụng loại biểu trưng trực quan bằng ngôn ngữ.

Ví dụ: Dạy bài “Máy tính và phần mềm máy tính” giáo viên chiếu sơ đồ cấu trúc chung của máy tính điện tử lên màn hình rồi yêu cầu học sinh quan sát và cho biết máy tính điện tự gồm những phần nào. Sau đó giáo viên chỉ vào từng đối tượng trên sơ đồ và giới thiệu lần lượt các khái niệm của các thành phần trong cấu trúc máy tính.

Ví dụ dạy bài “Định dạng văn bản”, thì đưa lên màn hình các bước thực hiện định dạng Font như sau:

Bước 1. Chọn khối văn bản cần định dạng

Bước 3. Hộp thọai Font xuất hiện chọn Font

+ Font: chọn phông chữ

+ Font Style: kiểu chữ

+ Size : cở chữ

+ Font color: màu chữ

+ Underline Style: đường gạch chân

+ Underline Color: màu đường gạch chân

+ Effects: các hiệu ứng

+ Preview: khung hiển thị

? Nêu các bước để định dạng văn bản phông chữ, kiểu chữ, cỡ chữ bằng menu lệnh (HS chỉ cần quan sát màn hình và nêu được các bước cần định dạng phông chữ…)

? Thao tác quan trọng nhất trong định dạng văn bản là gì (HS chọn phần văn bản cần định dạng)

Chẳng hạn khi dạy bài “Làm quen với soạn thảo văn bản” giáo viên cần cho học sinh làm quen với việc sao chép, di chuyển, cắt (xoá)… nhanh qua các biểu tượng.

Giáo viên đưa các biểu tượng

Tương tự bài “Chỉnh sửa văn bản” giáo viên đưa các biểu tượng

? Hãy nêu tên các biểu tượng trên và tính năng của các biểu tượng

Dạy bài “Định dạng văn bản” ngoài việc định dạng văn bản bằng menu lệnh giáo viên cần cho học sinh định dạng văn bản thông qua các biểu tượng sau.

HS nhìn vào biểu tượng và nêu chức năng của các biểu trượng từ đó các em nắm chắc hơn kiến thức lí thuyết để vận dụng vào làm thực hành tốt hơn.

* Dạy bài “Trình bày trang văn bản và in” ngoài việc dùng lệnh in, xem văn bản bằng menu lệnh thì có thể in, xem văn bản thông qua các biểu tượng sau.

1.2.3 Dạy học trực quan bằng biểu trưng hình ảnh

Giáo viên cần giải thích cho học sinh: Có rất nhiều kiểu dáng và hình thức khác nhau nhưng cấu tạo thì tương tự nhau, chuột có 3 nút bấm chính. Điều này lam cho các em dễ dàng nhận biết được chuột máy tính mà các em không bị ngỡ ngàng khi gặp phải loại chuột có kiểu dáng khác nhau.

Thiết bị nhớ USB cũng có nhiều kiểu dán khác nhau

Đặc biết là khi giới thiệu về một số thiết bị như Ram, Chíp, đĩa cứng, main của máy tính, nếu không có hình ảnh trực quan thì học sinh sẽ không hiểu được và chỉ hiểu mơ hồ, làm cho các em không có hứng thú học, giáo viên có thể đưa một số hình ảnh để học sinh nhận biết.

Ram máy tính

Chíp máy tính

Đĩa cứng

Main máy tính

1.2.4. Kết hợp các loại hình trực quan.

Giữa các loại hình trực quan, người thiết kế có thể kết hợp đa dạng các loại biểu trưng trực quan ngôn ngữ, hình ảnh, đồ họa với nhau. Đối với hầu hết học sinh ba loại này bao gồm nhiều mức độ khác nhau rất có ích trong học tập.

Ví dụ: Khi dạy bài “Máy tính và phần mềm máy tính” ta có thể sử dụng kết hợp giữa biểu trưng hình ảnh và biểu trưng ngôn ngữ.

1.3: Biện pháp 3: Xây dựng các kĩ năng, thực hành.

Giáo viên yêu cầu:

– Quan sát hình ảnh và cho biết ở hình trên đâu là thiết bị xuất, nhập,. .

* Dạy bài “Làm quen với soạn thảo văn bản”, “Tổ chức thông tin trong máy tính”, “Định dạng văn bản”… ta có thể sử dụng kết hợp cả ba hình thức trực quan

* Dạy bài “Định dạng văn bản” giáo viên chiếu hình ảnh sau và kết hợp cho học sinh thực hiện định dạng phông chữ, cỡ chữ, kiểu chữ… trên máy tính thì học sinh dể tiếp thu bài và ghi nhớ lâu hơn.

* Hiệu quả của biện pháp 2: Sau khi áp dụng biện pháp tạo những tác nhân kích thích trực quan thông qua biểu trưng ngôn ngữ, biểu trưng đồ họa, biểu trưng tranh ảnh học sinh nhận biết các biểu tượng được nhanh hơn, phân biệt và ghi nhớ các biểu tượng, các nút lệnh điều khiển được lâu hơn. Từ đó học sinh có thể sử dụng các kiến thức đã học để thực hành cũng như vận dụng vào thực tiễn tốt hơn.

Các bước sao chép khối

1.3.1. Kĩ năng nhận biết tính năng các loại biểu tượng.

Sau một tiết học tôi thường củng cố lại cho học sinh những cái vừa học bằng các dạng bài tập trắc nghiệm giúp học sinh nắm lại bài, học sinh có thể phân biệt được lệnh, các biểu tượng và nắm ý nghĩa của các biểu tượng.

Ví dụ: Dạy bài “Làm quen với soạn thảo văn bản”, Nối các ý của cột A, B, C, D sao cho hợp lý.

A

B

C

D

Ctrl + O

Ctrl + N

Ctrl + S

Alt + F4

File Open

File Save

File Exit

File New

Tạo tập tin văn bản mới

Đóng tập tin văn bản

Mở văn bản đã có

Lưu văn bản

Các bước chuyển khối

* Bài “Chỉnh sửa văn bản”: Dùng các từ, cụm từ điền vào chổ trống cho phù hợp.

(1) Edit Copy

(2) Edit Cut

(3) Edit Paste

(4) Delete

(5) Ctrl + V

(6) Ctrl + C

(7) Ctrl + X

Bước1. Chọn khối

Các bước xoá khối

Bước3. Đưa con trỏ đến vị trí mới.

Bước1. Chọn khối

Bước3. Đưa con trỏ đến vị trí mới.

* Bài học kinh nghiệm:

Bước1. Chọn khối

2. Kết quả:

1.3.2. Rèn luyện kĩ năng thao tác trên máy

Để việc học Tin học của học sinh đạt kết quả tốt, chất lượng cao, học sinh nắm chắc bài, biết thao tác trên máy tính cần cho học sinh học tại phòng máy, học sinh vừa nghe giáo viên giảng bài vừa ghi bài và thực hiện trên máy tính theo từng bước một. Với cách tổ chức học như thế này kết quả cho thấy học sinh nắm chắc bài học, đa số các em đều thực hiện được các thao tác thực hành.

2.1. Khả năng áp dụng

* Hiệu quả của biện pháp 3: Sau khi áp dụng biện pháp xây dựng các kĩ năng, thực hành học sinh dễ dàng phân biệt được các biểu tượng các nút lệnh mà vốn học sinh rất khó nhớ và dễ nhầm lẫn. Tránh được hiện tượng học sinh khi thực hành phải mò mẫm các công cụ, các biểu tượng khi sử dụng phần mềm để làm bài tập thực hành cũng như vận dụng vào thực tiễn.

Các phần mềm hỗ trợ quản lý phòng máy giúp cho giáo viên và học sinh dễ dàng giao tiếp và trao đổi thông tin với nhau bằng cách quan sát nhiều màn hình làm việc của học sinh cùng lúc hay truyền tải hình ảnh từ máy giáo viên đến từng máy học sinh. Đây là biện pháp hay đã được sử dụng ở một số nước trên thế giới. Tuy nhiên, hiện tại việc áp dụng các phần mềm này chưa thật sự đem lại hiệu quả cao do điều kiện bản quyền hay một số yêu cầu khác.

Để đạt hiệu quả trong mỗi tiết học trên lớp, giáo viên sử dụng triệt để mạng thông tin trên kênh hình (tranh vẽ, ảnh chụp, đồ dùng trực quan, phần mềm dạy học ….).

Sau mỗi lần thử nghiệm nên có một thời gian nhìn nhận đánh giá kết quả và rút kinh nghiệm cho lần sau.

Qua phần kiểm tra đánh giá khả năng nhận thức của học sinh kết quả tương đối khả quan. Lần kiểm tra sau kết quả cao hơn lần kiểm tra trước.

2.2. Lợi ích kinh tế- xã hội

Chứng tỏ học sinh đã có nhiều tiến bộ, tuy nhiên tỉ lệ học sinh mắc những sai sót còn khá cao.

Phương pháp dạy học trực quan cùng với những phương pháp kĩ thuật dạy học tích cực khác giúp nâng cao chất lượng dạy và học, đưa chất lượng giáo dục đi lên. Đặc biệt trong bộ môn tin học, dạy học trực quan là rất cần thiết và đóng góp không nhỏ vào kết quả giảng dạy.

Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có một số khó khăn:

-Người giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới tổ chức, hướng dẫn được tốt các hoạt động của học sinh mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên.

-Trang thiết bị nghe nhìn, phương tiện dạy học… còn nhiều hạn chế.

Trước khi đề tài thực hiện Sau khi thực hiện đề tài

-Các tài liệu, tư liệu minh họa, trình bày, tranh ảnh cần tìm hiểu sưu tầm và cập nhật thường xuyên để theo kịp thời đại.

Biểu đồ so sánh kết quả trước và sau khi thực hiện đề tài C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ I KẾT LUẬN

Qua một thời gian thực hiện ứng dụng phương pháp dạy học trực quan vào dạy học tin học lớp 6 tôi nhận thấy:

– Việc ứng dụng giúp giáo viên truyền thụ kiến thức cho học sinh một cách tích cực và trực quan, tiết kiệm thời gian trong tiết dạy lí thuyết từ đó HS có thời gian thực hành nhiều hơn và trong quá trình thực hành học sinh nhớ kiến thức lâu hơn

– Đối với học sinh tôi nhận thấy học sinh học tập tích cực hơn, hào hứng hơn, chú ý hơn, tham gia xây dựng bài sôi nổi hơn. Đặc biệt các em ghi nhớ kiến thức lâu hơn, chất lượng đi lên rõ rệt.

2. Những triển vọng trong việc vận dụng và phát triển giải pháp.

Sau khi áp dụng các biện pháp trên vào các tiết dạy thể hiện chất lượng các mức như sau:

Kết quả cụ thể:

Qua thời gian nghiên cứu đề tài trong năm học bằng nhiều phương pháp khác nhau, qua dự giờ đồng nghiệp và dạy thể nghiệm. Tôi đã tìm ra một số kinh nghiệm áp dụng vào trong giảng dạy và thu được những kết quả nhất định. Trong giờ học các em chú ý hơn, tích cực hơn, đã kích thích được khả năng tư duy sáng tạo, tự tin của các em, các em nắm bài một cách chủ động không máy móc. Kết quả số học sinh giỏi, khá tăng lên, số học sinh trung bình, yếu, kém giảm đi rõ rệt.

II. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM

1.Những điều kiện, kinh nghiệm áp dụng, sử dụng giải pháp.

Dạy học là một nghệ thuật. Sử dụng tốt phương pháp dạy học trực quan là con đường tốt nhất để đạt được mục đích yêu cầu tiết dạy trong đó phương tiện dùng công cụ trực quan đặc biệt có hiệu quả tốt giúp người học hiểu và nắm chắc thông tin cần thiết. Việc sử dụng dụng cụ trực quan vào quá trình dạy học là cần thiết đối với mỗi giáo viên vì nó mang lại hiệu suất, hiệu quả của giáo dục cao.

Muốn học sinh học tốt các môn học nói chung và môn Tin học nói riêng thì điều đầu tiên người giáo viên phải tạo được ở học sinh niềm say mê, hứng thú học tập bộ môn. Giờ học phải thu hút sự chú ý ham học hỏi của học sinh, tạo cho các em lòng tin vào khả năng của mình, nhiệt tình ham mê học tập.

Qua một thời gian nghiên cứu đề tài bằng nhiều phương pháp khác nhau, qua dự giờ của các đồng nghiệp, qua dạy thể nghiệm, đối chứng, tôi đã tìm ra được một số kinh nghiệm áp dụng vào trong giảng dạy và thu được những kết quả nhất định, trong giờ học các em đã chú ý hơn, tích cực hơn, đã kích thích phát huy được khả năng tư duy, tính tích cực của các em, các em nắm bài một cách chủ động không máy móc.

Việc sử dụng phương pháp trực quan vừa giúp giáo viên dễ dàng tổ chức, hướng dẫn học sinh học tập, vừa giúp học sinh dễ dàng hiểu bài và khắc sâu kiến thức. Trong quá trình dạy học môn tin học hiện nay, kênh hình được coi là một công cụ, một phương tiện cho việc dạy và học môn tin học, phương pháp mà người giáo viên tin học sử dụng trong quá trình dạy học cũng phải dựa trên cơ sở kênh hình, có như vậy mới phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh. Do vậy, kết quả học tập cuối năm số học sinh khá giỏi tăng lên, số học sinh yếu giảm rõ rệt.

Tóm lại, việc áp dụng đề tài này đã góp phần một cách tích cực nâng cao chất lượng học tập bộ môn Tin học của học sinh.

Để áp dụng thành công đề tài này vào thực tiễn môn Tin học lớp 6, giáo viên phải thật sự hiểu rõ tầm quan trọng của phương pháp trực quan trong dạy học.

III. Khuyến nghị

Kinh nghiệm thực tiễn dạy học và kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy để nâng cao chất lượng dạy học cần có các điều kiện sau:

– Tạo không khí học tập tích cực, giáo viên phải tạo ra mỗi giờ học là một niềm vui niềm say mê trong học tập của học sinh. Giáo viên luôn tạo ra những thách thức vừa sức, tổ chức những họat động tự lực của học sinh trong từng tiết học.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

– Kết hợp nhiều phương pháp dạy học với phương pháp dạy học trực quan có nhằm gây hứng thú với học sinh và giúp học sinh chủ động nắm bắt kiến thức.

– Qua mỗi lần thử nghiệm nên có một thời gian nhìn nhận đánh giá kết quả và rút kinh nghiệm cho lần sau, biết cách khai thác trí lực của học sinh theo hướng tích cực, chủ động thì việc tiếp thu kiến thức, rèn luyện lỹ năng của học sinh sẽ trở nên thuận lợi và có kết quả hơn.

– Các thiết bị dạy học rất có ý nghĩa giáo viên phải luôn phát huy hết tác dụng của các thiết bị dạy học, đặc biệt là dụng cụ trực quan có như vậy mới gây được hứng thú học tập của các em. Bên cạnh mỗi tiết dạy giáo viên luôn nỗ lực chuẩn bị các đồ dùng trực quan đầy đủ phù hợp với nội dung bài dạy từ đó vậy giáo viên mới tạo được sự hứng thú bộ môn cho các em.

Qua quá trình thực hiện giảng dạy bản thân tôi có một số khuyến nghị sau: Đề nghị nhà trường trang bị thêm các trang thiết bị học tập (bàn, ghế, máy vi tính, …) ở phòng thực hành để học sinh có đủ điều kiện học tập tập tốt hơn.

– Sách giáo khoa và sách giáo viên lớp: 6 – NXB Giáo dục

– Các bài giảng điện tử ở các trang web: http://diendan.bachkim.vn; http://baigiang.edu.vn;

– Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng môn Tin học THCS – NXB Giáo dục

– Tài liệu tập huấn Đổi mới phương pháp dạy học môn Tin – NXB Giáo dục

– Sách bồi dưỡng Sinh viên cao đẳng sư phạm và giáo viên THCS về đổi mới chương trình và SGK Môn Tin học – NXB Hà Nội

– Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và SGK – NXB ĐH Sư phạm

– Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THCS Môn Tin học – NXB giáo dục.