Biện Pháp Khẩn Cấp Tạm Thời Trọng Tài Thương Mại / Top 13 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Các Biện Pháp Khẩn Cấp Tạm Thời Trong Luật Trọng Tài Thương Mại 2010

Tòa án hỗ trợ vấn đề áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong luật trọng tài thương mại diễn ra như thế nào?

Cụ thể, những biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc thẩm quyền của hội đồng trọng tài được quy định tại Khoản 2 Điều 49, còn các trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác do Tòa án thực hiện được quy định tại Khoản 1 Điều 53: ” Sau khi nộp đơn khởi kiện, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại, một bên có quyền làm đơn gửi đến Toà án có thẩm quyền yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời“. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời mà Tòa án có thẩm quyền thực hiện được quy định tại Điều 102 Bộ Luật tố tụng dân sự 2004 sửa đổi bổ sung 2011. Vì vậy, khi yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, các bên cần lưu ý để gửi đơn yêu cầu tới đúng cơ quan có thẩm quyền.

Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Tòa án áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định tại Điều 53 Luật trọng tài thương mại 2010. Điều này cho thấy pháp luật cũng có sự can thiệp đáng kể bằng sức mạnh của quyền lực nhà nước đối với hoạt động của trọng tài thương mại, giúp cho trọng tài hoạt động có hiệu quả hơn và bảo vệ tốt quyền lợi của các đương sự tham gia vụ kiện.

Ngoài ra, Khoản 3 Điều 49 Luật có quy định: ” Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu một trong các bên đã yêu cầu Tòa án áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 2 Điều này mà sau đó lại có đơn yêu cầu Hội đồng trọng tài áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Hội đồng trọng tài phải từ chối” và Khoản 5 Điều 53 cũng có quy định: ” Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu một trong các bên đã yêu cầu Hội đồng trọng tài áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời mà lại có đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án phải từ chối và trả lại đơn yêu cầu, trừ trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài “. Theo đó, nguyên tắc của Luật là nếu hội đồng trọng tài đã áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án sẽ từ chối, trừ trường hợp những nội dung không thuộc thẩm quyền của hội đồng trọng tài. Nếu Tòa án đã áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì hội đồng phải từ chối. Ta có thể thấy Tòa án đóng vai trò hỗ trợ rất lớn trong trường hợp các bên đã có yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc các biện pháp khẩn cấp tạm thời không thuộc thẩm quyền của hội đồng trọng tài.

Như vậy ta có thể thấy Luật đã dự liệu và phân định phạm vi thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời giữa hội đồng trọng tài và Tòa án nhằm tránh tình trạng xung đột về thẩm quyền, nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc trong mọi trường hợp các bên đều có thể làm đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Việc pháp luật cho phép các bên có quyền yêu cầu hội đồng trọng tài hoặc Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm đảm bảo quyền lợi của mình trong vụ việc giải quyết tranh chấp, khi các bên thấy cần phải bảo vệ tài sản bị tranh chấp trước nguy cơ tẩu tán tài sản hoặc các hành vi khác nhằm giảm giá trị của tài sản tranh chấp. Sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thể hiện rất rõ ở việc Tòa án có thể dùng sức mạnh cưỡng chế nhà nước mà mình có được để áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, điều mà hôi đồng trọng tài tuy cũng có thể thực hiện nhưng không thể thực hiện triệt để, tốt bằng Nhà nước do không có được do không nhân danh Nhà nước và thực hiện quyền lực Nhà nước. Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án có giá trị pháp lý cao hơn, hiệu quả thi hành tốt hơn việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của hội đồng trọng tài.

Tòa án có thẩm quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời là Tòa án nơi có biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng. Đây là một quy định tiến bộ hơn so với Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003. Pháp lệnh có quy định hạn hẹp là: chỉ Tòa án nơi Hội đồng trọng tài thụ lý vụ tranh chấp mới có quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Điều này có thể gây khó khăn cho cả Tòa án và các bên trong quá trình áp dụng quy định này. Ví dụ: khi các bên kiện ra Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, theo Pháp lệnh trọng tài, nếu muốn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì chỉ được phép làm đơn yêu cầu Tòa án nhân dân Hà Nội ra lệnh áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Điều này chỉ hợp lý và thuận tiện khi cả hai bên đều có trụ sở tại Hà Nội hoặc đối tượng tài sản yêu cầu áo dụng đặt tại Hà Nội. Khi tài sản nằm ở địa bàn khác thì việc yêu cầu Tòa án Hà Nội ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là hoàn toàn không khả thi và hợp lý.

Như vậy có thể khẳng định, việc Luật trọng tài thương mại 2010 quy định có sự tham gia của Tòa án trong việc hỗ trợ trọng tài thương mại áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời là một quy định hết sức cần thiết và có ý nghĩa. Nó không chỉ đảm bảo cho quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài có hiệu quả mà còn làm cho phán quyết của trọng tài có tính khả thi, đảm bảo uy tín và hiệu quả của hoạt động trọng tài.

Biện Pháp Khẩn Cấp Tạm Thời Trong Tố Tụng Trọng Tài

Trong pháp luật Việt Nam, Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) 2004 có một chương riêng với 28 điều quy định về biện pháp KCTT (Chương VIII, các Điều từ 99 đến 126). Về bản chất, các quy định mới của các Điều từ 48 đến 53 LTT 2010 là luật riêng so với các quy định chung của BLTTDS 2004. Nói cách khác, trong tố tụng trọng tài phải áp dụng trước tiên các quy định của LTT 2010, nếu các quy định đó thiếu, chưa rõ hoặc chưa cụ thể thì cần áp dụng các nguyên tắc chung về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự.

Biện pháp KCTT (Interim injunctive relief, Vorläufiger Rechtsschutz) được hiểu là một công đoạn tố tụng rút ngắn và giản đơn nhằm giúp cơ quan tài phán can thiệp nhanh chóng, kịp thời nhằm bảo vệ chứng cứ, tài sản tranh chấp hoặc các đảm bảo khác thiết yếu cho thi hành các nghĩa vụ, trong khi phiên tranh tụng chính chưa kết thúc. Tuy rằng mục đích hướng tới là các biện pháp cụ thể, ví dụ kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, cấm định đoạt tài sản, song Chương VII LTT 2010 các Điều từ 48 đến 53 về biện pháp KCTT là một quy trình, quy định quyền yêu cầu, thẩm quyền xem xét và ban hành các quyết định tố tụng, các đảm bảo, quyền khiếu nại và yêu cầu đền bù thiệt hại nếu có.

Quy trình tố tụng này là một phần phụ, phái sinh, có tính chất chuẩn bị, bổ trợ cho một thủ tục tố tụng chính đang được cơ quan tài phán thụ lý. Đây là một chế định của luật tố tụng dân sự, thường có các đặc trưng sau:

– Thứ nhất, các biện pháp này phải do một bên yêu cầu, thường là nguyên đơn, còn cơ quan tòa án thường không có quyền tự mình ra các quyết định nhằm bảo tồn tài sản tranh chấp hoặc chứng cứ; trừ những trường hợp hết sức hãn hữu tòa án mới tự mình (ex officio) ra các lệnh tòa, ví dụ được nêu tại Điều 119, Điều 102 1-5 BLTTDS 2004;

– Thứ hai, phải có những điều kiện nhất định kèm theo các yêu cầu cho áp dụng biện pháp này, ví dụ phải có chứng cứ đủ tin rằng quyền lợi của bên yêu cầu sẽ không được đảm bảo nếu không áp dụng ngay các biện pháp ví dụ như phong tỏa tài khoản hay kê biên tài sản;

– Thứ ba, quy trình ban hành các lệnh tòa để bảo toàn tài sản hay chứng cứ hoặc các biện pháp mang tính tạm thời khác thường là thủ tục rút gọn, dựa trên yêu cầu, các chứng cứ, hồ sơ của bên yêu cầu cung cấp, thường không thể có thời gian để tổ chức lấy lời khai của chứng nhân, cũng không mở phiên xét xử, mà cơ quan tài phán quyết định thường là dựa trên hồ sơ;

– Thứ tư, hình thức quyết định thường là các lệnh tòa (court’s order, einstweilige Verfügung), không phải là bản án;

– Thứ năm, bên bị thi hành các lệnh tòa đó có quyền khiếu nại, nếu việc áp dụng biện pháp khẩn cấp đó không có cơ sở, gây ra thiệt hại cho bên bị thi hành thì người này có quyền yêu cầu bồi thường;

– Thứ sáu, sau khi có lệnh tòa, bên yêu cầu thường phải tự liên hệ với cơ quan thi hành án (ví dụ Gerichtsvollziehers theo luật Đức) để yêu cầu cho thi hành.

Điều cần lưu ý là khái niệm trọng tài ở đây được hiểu là Hội đồng trọng tài (HĐTT), chứ không phải Trung tâm trọng tài, ví dụ VIAC. Ban thư ký thường có chức năng thụ lý, cung cấp các dịch vụ tống đạt, yêu cầu các bên chỉ định trọng tài viên và ra quyết định thành lập HĐTT (đây mới là khái niệm tòa án trọng tài Schiedgericht, arbitral tribunal). Chỉ có HĐTT này mới có quyền ra các lệnh tạm thời, tương tự như lệnh tòa.

Xét về mặt thực tiễn, nếu cần tới các lệnh khẩn cấp, nguyên đơn có thể có một vài bất lợi về thời gian nếu phải chờ bị đơn chỉ định trọng tài viên và ban thư ký hoàn tất thủ tục thành lập HĐTT. Thời gian để thành lập một HĐTT, nếu bị đơn có chiến lược trì hoãn, có thể tốn tới 1-2 tháng. Thời gian ấy đủ dài để bị đơn, nếu muốn, có thể tẩu tán đáng kể các tài sản tranh chấp.

Thêm một lý do nữa, về mặt lý thuyết, người ta cho rằng chỉ có tòa án, một cơ quan công lực, mới có quyền ra các lệnh tạm thời nhằm can thiệp vào tài sản của đương sự, đặc biệt là hạn chế các quyền định đoạt của họ. Nếu lệnh đó cần có hiệu lực đối với một bên thứ ba, ví dụ một công ty kho bãi đang lưu trữ hàng hóa tranh chấp của bên bán và bên mua, thì người ta càng khẳng định đó phải là một lệnh tòa, chứ không thể là lệnh từ một cơ quan tài phán tư do hai bên tự thỏa thuận. HĐTT nếu có là tòa án, thì cũng chỉ là tòa án tư, các lệnh tạm thời có thể có hiệu lực đối với hai bên đương sự, song khó có lý do để cho các lệnh đó hiệu lực hạn chế quyền của người thứ ba.

Ngoài ra, người ta còn băn khoăn rằng lệnh tạm thời còn phải được thi hành. Nếu lệnh đó do tòa án ban hành, khả năng thực thi sẽ tuân theo các quy định của tố tụng dân sự. Nếu lệnh đó do HĐTT ban hành, người ta cần sửa các quy định tương ứng về thi hành án, để đảm bảo lệnh của HĐTT cũng có hiệu lực thi hành tựa như lệnh tòa.

LTT 2010 của Việt Nam quy định rất uyển chuyển, và có vẻ như rất thận trọng rằng các bên có thể nhờ cậy đến tòa án (sau khi nộp đơn kiện tới trọng tài – Điều 53.1) hoặc trọng tài (sau khi lập HĐTT – các Điều 48, 49) yêu cầu ban hành các lệnh KCTT. Nếu yêu cầu được gửi tới cả hai nơi, thì có thể dịch Nôm rằng cơ quan tài phán nào nhận trước sẽ thụ lý, cơ quan nhận sau phải từ chối (theo Điều 49.3 LTT 2010, HĐTT phải từ chối yêu cầu, nếu đương sự đã yêu cầu tòa án; ngược lại theo Điều 53.5 LTT 2010, tòa án phải từ chối, nếu đương sự đã yêu cầu HĐTT).

Chứng cớ thuyết phục sự cần thiết của biện pháp KCTT

Cơ quan tài phán cần có chứng cớ để được thuyết phục rằng một lệnh can thiệp tạm thời là hợp lý. Điều 50 LTT 2010 cũng như Điều 117.1 BLTTDS 2004 có thể cần được hướng dẫn chi tiết hơn, song về cơ bản, tòa án hay HĐTT nhận định sự cần thiết dựa trên hồ sơ, chí ít phải có những nhận định căn bản sau:

Để nhận định về sự cần thiết này, sau khi nhận đơn, bằng chứng và biện pháp bảo đảm HĐTT phải họp hoặc trao đổi và thống nhất quyết định giữa các trọng tài viên; hình thức phiên họp hay trao đổi này chưa được quy định chi tiết tại Điều 50, chỉ quy định tại Điều 50.5 LTT 2010 rằng HĐTT sẽ xem xét ra quyết định áp dụng biện pháp KCTT trong thời hạn 03 ngày làm việc.

Biện pháp bảo đảm tương đương

Điều 120.1 BLTTDS 2004 và Điều 50.3 LTT 2010 có hai quy định tương đối giống nhau, buộc người yêu cầu biện pháp KCTT phải gửi tiền, vàng, đá quý, giấy tờ có giá hay tài sản khác do HĐTT hoặc tòa án ấn định làm biện pháp bảo đảm để cơ quan tài phán ra các lệnh tạm thời. Số tiền hay tài sản bảo đảm phải tương đương nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thi hành lệnh tòa phải thực hiện hoặc tương ứng giá trị thiệt hại có thể phát sinh do lệnh tạm thời mà HĐTT gây ra khi được áp dụng.

Sự khó khăn khi thể hiện hai điều luật này cũng xuất hiện trong Điều 1041.1 BLTTDS Đức khi tòa án trọng tài có quyền yêu cầu mỗi bên nộp một khoản bảo đảm hợp lý, người ta dùng chữ Angemessene Sicherheit, chứ không dùng chữ tương đương hay tương ứng như trong luật Việt Nam.

Thi hành các biện pháp khẩn cấp tạm thời

Điều 50.5 quy định các biện pháp KCTT do HĐTT ban hành được thi hành theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự. Nếu các lệnh tạm thời do tòa án quyết định, lệnh đó được thi hành theo Điều 126 BLTTDS và pháp luật thi hành án dân sự. Bản án, quyết định có hiệu lực thi hành theo Điều 2.1.e. Luật Thi hành án dân sự 2008 bao gồm các quyết định của trọng tài thương mại. Có thể cần giải thích quyết định này không chỉ bao gồm phán quyết (Arbitral arward, Urteil) mà bao gồm tất cả các quyết định khác trong tố tụng trọng tài, ví dụ các lệnh tạm thời.

– LTT 2010 là một thành tựu lập pháp quan trọng. Các quy định về biện pháp KCTT trong Luật này được thiết kế uyển chuyển và hợp lý, hiệu quả của chúng có thể cần phải chờ đợi sự phán xét từ thực tiễn và nên được đánh giá chung trong tổng thể hệ thống pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.

Theo chúng tôi

Đề Tài Lý Luận Về Biện Pháp Khẩn Cấp Tạm Thời Trong Tố Tụng Trọng Tài

Trong pháp luật Việt Nam, Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) 2004 có một chương riêng với 28 điều quy định về biện pháp KCTT (Chương VIII, các Điều từ 99 đến 126). Về bản chất, các quy định mới của các Điều từ 48 đến 53 LTT 2010 là luật riêng so với các quy định chung của BLTTDS 2004. Nói cách khác, trong tố tụng trọng tài phải áp dụng trước tiên các quy định của LTT 2010, nếu các quy định đó thiếu, chưa rõ hoặc chưa cụ thể thì cần áp dụng các nguyên tắc chung về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự. Biện pháp KCTT (Interim injunctive relief, Vorläufiger Rechtsschutz) được hiểu là một công đoạn tố tụng rút ngắn và giản đơn nhằm giúp cơ quan tài phán can thiệp nhanh chóng, kịp thời nhằm bảo vệ chứng cứ, tài sản tranh chấp hoặc các đảm bảo khác thiết yếu cho thi hành các nghĩa vụ, trong khi phiên tranh tụng chính chưa kết thúc. Tuy rằng mục đích hướng tới là các biện pháp cụ thể, ví dụ kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, cấm định đoạt tài sản, song Chương VII LTT 2010 các Điều từ 48 đến 53 về biện pháp KCTT là một quy trình, quy định quyền yêu cầu, thẩm quyền xem xét và ban hành các quyết định tố tụng, các đảm bảo, quyền khiếu nại và yêu cầu đền bù thiệt hại nếu có. Quy trình tố tụng này là một phần phụ, phái sinh, có tính chất chuẩn bị, bổ trợ cho một thủ tục tố tụng chính đang được cơ quan tài phán thụ lý. Đây là một chế định của luật tố tụng dân sự, thường có các đặc trưng sau: – Thứ nhất, các biện pháp này phải do một bên yêu cầu, thường là nguyên đơn, còn cơ quan tòa án thường không có quyền tự mình ra các quyết định nhằm bảo tồn tài sản tranh chấp hoặc chứng cứ; trừ những trường hợp hết sức hãn hữu tòa án mới tự mình (ex officio) ra các lệnh tòa, ví dụ được nêu tại Điều 119, Điều 102 1-5 BLTTDS 2004; – Thứ hai, phải có những điều kiện nhất định kèm theo các yêu cầu cho áp dụng biện pháp này, ví dụ phải có chứng cứ đủ tin rằng quyền lợi của bên yêu cầu sẽ không được đảm bảo nếu không áp dụng ngay các biện pháp ví dụ như phong tỏa tài khoản hay kê biên tài sản; – Thứ ba, quy trình ban hành các lệnh tòa để bảo toàn tài sản hay chứng cứ hoặc các biện pháp mang tính tạm thời khác thường là thủ tục rút gọn, dựa trên yêu cầu, các chứng cứ, hồ sơ của bên yêu cầu cung cấp, thường không thể có thời gian để tổ chức lấy lời khai của chứng nhân, cũng không mở phiên xét xử, mà cơ quan tài phán quyết định thường là dựa trên hồ sơ; – Thứ tư, hình thức quyết định thường là các lệnh tòa (court’s order, einstweilige Verfügung), không phải là bản án; – Thứ năm, bên bị thi hành các lệnh tòa đó có quyền khiếu nại, nếu việc áp dụng biện pháp khẩn cấp đó không có cơ sở, gây ra thiệt hại cho bên bị thi hành thì người này có quyền yêu cầu bồi thường; – Thứ sáu, sau khi có lệnh tòa, bên yêu cầu thường phải tự liên hệ với cơ quan thi hành án (ví dụ Gerichtsvollziehers theo luật Đức) để yêu cầu cho thi hành.

Các Biện Pháp Khẩn Cấp Tạm Thời

Trong giải quyết các tranh chấp dân sự, Tòa án có quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời; được quy định tại Điều 102 Bộ luật tố tụng dân sự.

Trong giải quyết các tranh chấp dân sự, Tòa án có quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời; được quy định tại Điều 102 Bộ luật tố tụng dân sự; cụ thể như sau:

6. Kê biên tài sản đang tranh chấp: Kê biên tài sản đang tranh chấp được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản. Tài sản bị kê biên có thể được thu giữ, bảo quản tại cơ quan thi hành án hoặc lập biên bản giao cho một bên đương sự hoặc người thứ ba quản lý cho đến khi có quyết định của Toà án.

7. Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp: Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp cho người khác.

10. Phong toả tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong toả tài sản ở nơi gửi giữ: Phong toả tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước và việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc bảo đảm cho việc thi hành án.

11. Phong toả tài sản của người có nghĩa vụ: Phong toả tài sản của người có nghĩa vụ được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài sản và việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc bảo đảm cho việc thi hành án.

13. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà pháp luật có quy định.