Biện Pháp Dạy Học / Top 5 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Phauthuatthankinh.edu.vn

9 Biện Pháp Đổi Mới Phương Pháp Dạy Học

Trước hết người giáo viên cần nắm vững những yêu cầu và sử dụng thành thạo các kỹ thuật của chúng trong việc chuẩn bị cũng như tiến hành bài lên lớp, chẳng hạn như kỹ thuật mở bài, kỹ thuật trình bày, giải thích trong khi thuyết trình, kỹ thuật đặt các câu hỏi và xử lý các câu trả lời trong đàm thoại, hay kỹ thuật làm mẫu trong luyện tập.

Tuy nhiên, các phương pháp dạy học truyền thống có những hạn chế tất yếu, vì thế bên cạnh các phương pháp dạy học truyền thống cần kết hợp sử dụng các phương pháp dạy học mới, đặc biệt là những phương pháp và kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực và sáng tạo của học sinh.

Việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình thức dạy học trong toàn bộ quá trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy học.

Dạy học toàn lớp, dạy học nhóm, nhóm đôi và dạy học cá thể là những hình thức xã hội của dạy học cần kết hợp với nhau, mỗi một hình thức có những chức năng riêng.

Tình trạng độc tôn của dạy học toàn lớp và sự lạm dụng phương pháp thuyết trình cần được khắc phục, đặc biệt thông qua làm việc nhóm.

Tuy nhiên hình thức làm việc nhóm rất đa dạng, không chỉ giới hạn ở việc giải quyết các nhiệm vụ học tập nhỏ xen kẽ trong bài thuyết trình, mà còn có những hình thức làm việc nhóm giải quyết những nhiệm vụ phức hợp, có thể chiếm một hoặc nhiều tiết học, sử dụng những phương pháp chuyên biệt như phương pháp đóng vai, nghiên cứu trường hợp, dự án.

Mặt khác, việc bổ sung dạy học toàn lớp bằng làm việc nhóm xen kẽ trong một tiết học mới chỉ cho thấy rõ việc tích cực hóa “bên ngoài” của học sinh.

Muốn đảm bảo việc tích cực hóa “bên trong” cần chú ý đến mặt bên trong của phương pháp dạy học, vận dụng dạy học giải quyết vấn đề và các phương pháp dạy học tích cực khác.

Tiết dạy môn Lịch Sử 7 tại Trường THCS Châu Minh

Dạy học giải quyết vấn đề (dạy học nêu vấn đề, dạy học nhận biết và giải quyết vấn đề) là quan điểm dạy học nhằm phát triển năng lực tư duy, khả năng nhận biết và giải quyết vấn đề.

Học được đặt trong một tình huống có vấn đề, đó là tình huống chứa đựng mâu thuẫn nhận thức, thông qua việc giải quyết vấn đề, giúp học sinh lĩnh hội tri thức, kỹ năng và phương pháp nhận thức.

Dạy học giải quyết vấn đề là con đường cơ bản để phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh, có thể áp dụng trong nhiều hình thức dạy học với những mức độ tự lực khác nhau của học sinh. Các tình huống có vấn đề là những tình huống khoa học chuyên môn, cũng có thể là những tình huống gắn với thực tiễn.

Tuy nhiên nếu chỉ chú trọng việc giải quyết các vấn đề nhận thức trong khoa học chuyên môn thì học sinh vẫn chưa được chuẩn bị tốt cho việc giải quyết các tình huống thực tiễn. Vì vậy bên cạnh dạy học giải quyết vấn đề, lý luận dạy học còn xây dựng quan điểm dạy học theo tình huống.

Quá trình học tập được tổ chức trong một môi trường học tập tạo điều kiện cho học sinh kiến tạo tri thức theo cá nhân và trong mối tương tác xã hội của việc học tập.

Phương pháp nghiên cứu trường hợp là một phương pháp dạy học điển hình của dạy học theo tình huống, trong đó học sinh tự lực giải quyết một tình huống điển hình, gắn với thực tiễn thông qua làm việc nhóm.

Vận dụng dạy học theo các tình huống gắn với thực tiễn là con đường quan trọng để gắn việc đào tạo trong nhà trường với thực tiễn đời sống, góp phần khắc phục tình trạng giáo dục hàn lâm, xa rời thực tiễn hiện nay của nhà trường phổ thông.

Tuy nhiên, nếu các tình huống được đưa vào dạy học là những tình huống mô phỏng lại, thì chưa phải tình huống thực. Nếu chỉ giải quyết các vấn đề trong phòng học lý thuyết thì học sinh cũng chưa có hoạt động thực tiễn thực sự, chưa có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành.

Dạy học định hướng hành động là quan điểm dạy học nhằm làm cho hoạt động trí óc và hoạt động chân tay kết hợp chặt chẽ với nhau. Trong quá trình học tập, học sinh thực hiện các nhiệm vụ học tập và hoàn thành các sản phẩm hành động, có sự kết hợp linh hoạt giữa hoạt động trí tuệ và hoạt động tay chân.

Đây là một quan điểm dạy học tích cực hóa và tiếp cận toàn thể. Vận dụng dạy học định hướng hành động có ý nghĩa quan trọng cho việc thực hiện nguyên lý giáo dục kết hợp lý thuyết với thực tiễn, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội.

Dạy học theo dự án là một hình thức điển hình của dạy học định hướng hành động, trong đó học sinh tự lực thực hiện trong nhóm một nhiệm vụ học tập phức hợp, gắn với các vấn đề thực tiễn, kết hợp lý thuyết và thực hành, có tạo ra các sản phẩm có thể công bố.

Trong dạy học theo dự án có thể vận dụng nhiều lý thuyết và quan điểm dạy học hiện đại như lý thuyết kiến tạo, dạy học định hướng học sinh, dạy học hợp tác, dạy học tích hợp, dạy học khám phá, sáng tạo, dạy học theo tình huống và dạy học định hướng hành động.

Phương tiện dạy học có vai trò quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học, nhằm tăng cường tính trực quan và thí nghiệm, thực hành trong dạy học. Việc sử dụng các phương tiện dạy học cần phù hợp với mối quan hệ giữa phương tiện dạy học và phương pháp dạy học.

Đa phương tiện và công nghệ thông tin vừa là nội dung dạy học vừa là phương tiện dạy học trong dạy học hiện đại. Đa phương tiện và công nghệ thông tin có nhiều khả năng ứng dụng trong dạy học.

Tiết học môn Ngữ Văn 6 tại Trường THCS Châu Minh

Bên cạnh việc sử dụng đa phương tiện như một phương tiện trình diễn, cần tăng cường sử dụng các phần mềm dạy học cũng như các phương pháp dạy học sử dụng mạng điện tử (E-Learning).

Phương tiện dạy học mới cũng hỗ trợ việc tìm ra và sử dụng các phương pháp dạy học mới. Webquest là một ví dụ về phương pháp dạy học mới với phương tiện mới là dạy học sử dụng mạng điện tử, trong đó học sinh khám phá tri thức trên mạng một cách có định hướng.

Kỹ thuật dạy học là những cách thức hành động của của giáo viên, của người dạy và học sinh trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học.

Phương pháp dạy học có mối quan hệ biện chứng với nội dung dạy học. Vì vậy bên cạnh những phương pháp chung có thể sử dụng cho nhiều bộ môn khác nhau thì việc sử dụng các phương pháp dạy học đặc thù có vai trò quan trọng trong dạy học bộ môn. Các phương pháp dạy học đặc thù bộ môn được xây dựng trên cơ sở lý luận dạy học bộ môn.

Phương pháp học tập một cách tự lực đóng vai trò quan trọng trong việc tích cực hóa, phát huy tính sáng tạo của học sinh. Có những phương pháp nhận thức chung như phương pháp thu thập, xử lý, đánh giá thông tin, phương pháp tổ chức làm việc, phương pháp làm việc nhóm, có những phương pháp học tập chuyên biệt của từng bộ môn.

Bằng nhiều hình thức khác nhau, cần luyện tập cho học sinh các phương pháp học tập chung và các phương pháp học tập trong bộ môn.

Như vậy có rất nhiều phương hướng đổi mới phương pháp dạy học với những cách tiếp cận khác nhau. Việc đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi những điều kiện thích hợp về phương tiện, cơ sở vật chất và tổ chức dạy học, điều kiện về tổ chức, quản lý.

Ngoài ra, phương pháp dạy học còn mang tính chủ quan. Mỗi giáo viên với kinh nghiệm riêng của mình cần xác định những phương hướng riêng để cải tiến phương pháp dạy học và kinh nghiệm của cá nhân.

Để nắm bắt được các phương pháp đổi mới dạy và học thì các em phải học tập chuyên cần mỗi

Đào Đình Dũng – Hiệu Trưởng Trường THCS Châu Minh

Một Số Biện Pháp Để Dạy Tốt Môn Tin Học Ở Tiểu Học

CNTT, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, mở cửa và hội nhập, hướng tới nền kinh tế tri thức của nước ta nói riêng - thế giới nói chung. Chỉ thị số: 3398 /CT-BGDĐT của bộ giáo dục đào tạo ngày 11/8/2011 chỉ rõ một trong những nhiệm vụ trọng tâm của năm học 2011/2012 là " Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới phương pháp dạy - học và công tác quản lý giáo dục. " Chính vì xác định được tầm quan trọng đó nên Nhà nước ta đã đưa môn Tin học vào trong nhà trường và ngay từ Tiểu học học sinh được tiếp xúc với môn Tin học để làm quen dần với lĩnh vực CNTT, tạo nền móng cơ sở ban đầu để học những phần nâng cao trong các cấp tiếp theo. II. Mục đích nghiên cứu. Nâng cao chất lượng giảng dạy và đổi mới phương pháp dạy môn Tin học ở Tiểu học. F Mục tiêu của CNTT trong trường học Mục đích của việc ứng dụng CNTT vào trường nói chung và trường Tiểu học nói riêng là sử dụng CNTT như một công cụ lao động trí tuệ, giúp lãnh đạo các nhà trường nâng cao chất lượng quản lí, giúp các thầy giáo, cô giáo nâng cao chất lượng dạy học; trang bị cho HS kiến thức về CNTT, HS sử dụng máy tính như một công cụ học tập nhằm nâng cao chất lượng học tập; góp phần rèn luyện HS một số phẩm chất cần thiết của người lao động trong thời kỳ hiện đại hóa. FMục tiêu của việc dạy học môn Tin học ở bậc Tiểu học là nhằm giúp cho học sinh : - Có hiểu biết ban đầu về Tin học và ứng dụng Tin học trong học tập và trong đời sống. - Có khả năng sử dụng máy tính trong việc học những môn học khác, trong hoạt động vui chơi giải trí nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và thích ứng với đời sống xã hội hiện đại. - Bước đầu làm quen với cách giải quyết vấn đề có sử dụng công cụ Tin học. III. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu. - HS khối 3-4-5 - Theo dõi và kiểm tra đánh giá việc tiếp thu bài của HS. - Kiểm tra chất lượng sau giờ học. Phương pháp nghiên cứu lí luận: Bộ môn Tin học là một bộ môn mới ở trường Tiểu học và chủ yếu là sử dụng phương pháp trực quan sinh động để ứng dụng thực hành do đó việc nghiên cứu lí luận là không thể thiếu do vậy khi xây dựng đề tài này tôi đã nghiên cứu các tài liệu tham khảo sau: Giáo trình Word thực hành, Giáo trình Excel thực hành,Tin Học Thực Hành, Đồ họa thực hành, Hướng dẫn sửa lỗi máy tính, Giáo trình photoshop, Sách giáo khoa quyển 1, Sách giáo khoa quyển 2, Sách giáo khoa quyển 3. Phương pháp ứng dụng thực tiễn. - Phương pháp quan sát. - Kiểm tra việc học tập của học sinh (bài cũ, bài mới) - Phương pháp điều tra. (Phỏng vấn học sinh khối 3,4, 5. Sử dụng bảng biểu đối chiếu). - Phương pháp khảo nghiệm thăm lớp, dự giờ. Kiểm tra chất lượng sau giờ học. B. PHẦN NỘI DUNG I) Cơ sở lí luận và thực tiễn. 1. Cơ sở lí luận. - Nghị quyết 40/2000/QH10 và chỉ thị 14/2001/CT-TT ngày 9/12/2000 vầ việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông: Nội dung chương trình là tích cực áp dụng một cách sáng tạo các phương pháp tiên tiến, hiện đại, ứng dụng CNTT vào dạy và học. - Trong nhiệm vụ năm học 2005-2006 Bộ trưởng giáo dục và đào tạo nhấn mạnh : Khẩn trương triển khai chương trình phát triển nguồn nhân lực CNTT từ nay đến năm 2010 của chính phủ về đề án dạy Tin học ứng dụng CNTT và truyền thông giai đoạn 2004-2006. - Chỉ thị 29/CT của trung ương Đảng về việc đưa CNTT vào nhà trường. - Thông tư số 14/2002/TT- BGD& ĐT ngày 1/4/2002 về việc hướng dẫn quán triệt chủ trương đổi mới giáo dục phổ thông. 2. Cơ sở thực tiễn. * Tình trạng hiện nay. - Nội dung chương trình môn Tin học hiện nay được dạy theo bộ sách Cùng học Tin học Quyển 1; Quyển 2; Quyển 3 do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. - Nhà trường đã được trang bị phòng máy với 24 máy dành cho HS và 1 máy chủ dành cho GV. Các máy được kết nối với nhau tạo điều kiện thuận lợi cho việc giảng dạy. - Nhà trường đã trang bị cho GV đầy đủ SGK và các phần mềm kèm theo. Một số thuận lợi và khó khăn khi trực tiếp giảng dạy môn Tin học tại trường: * Một số điều kiện thuận lợi. Nhà trường đã trang bị khá đầy đủ các trang thiết bị, Sách giáo khoa và các phần mềm kèm theo tạo điều kiện thuận lợi cho GV trong việc giảng dạy. Nội dung sách nhẹ nhàng, trình bày đẹp, sách chú trọng nhiều về phần thực hành rất phù hợp với lứa tuổi HS Tiểu học. HS từ khối 3 đến khối 5 được học môn Tin học. Mỗi lớp được học với thời lượng 2 tiết/ 1tuần. HS đã nắm được các kiến thức cơ bản của bài học. Từ đó HS đã biết sử dụng và ứng dụng phần mềm vào việc học tập. Kỹ năng thực hành của HS khá tốt. * Một số khó khăn và tồn tại: Về phía giáo viên: Môn Tin học mới chỉ là môn tự chọn trong chương trình bậc tiểu học nên chương trình và sự phân phối chương trình bước đầu có sự thống nhất và đang hoàn chỉnh. Hiện nay Bộ giáo dục và đào tạo mới đang thí điểm dạy môn Tin học từ lớp 3 cho một số tỉnh và thành phố và biên soạn quyển sách cùng học tin học quyển 1,2,3. Tuy giáo viên đã được đào tạo cơ bản về kiến thức Tin học, nhưng khi thực hành, máy móc gặp sự cố, trục trặc, giáo viên không xử lý kịp thời dẫn đến học sinh thiếu máy, không thực hành được. Do mới là môn tự chọn nên giáo viên dạy Tin học tiểu học là giáo viên hợp đồng trường, chỉ tiêu biên chế chưa có, lương thấp nên cũng phần nào làm ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học. Tài liệu tham khảo dành riêng cho bộ môn Tin học còn quá ít. Nhất là những tài liệu nói về phương pháp dạy học đặc trưng của môn Tin học. Phần mềm Encore ( Em học nhạc) đã được cài đặt nhưng việc sử dụng còn gặp nhiều khó khăn do: + GV chưa sử dụng thành thạo phần mềm nhạc. + Kiến thức về âm nhạc còn hạn chế. Về phía học sinh: Đa số HS không có máy ở nhà để luyện tập nên các thao tác của HS chưa được thành thạo. Đây là môn học phụ nên một số HS chưa học nghiêm túc và phụ huynh chưa quan tâm. Việc rèn luyện thói quen gõ 10 ngón tay cho HS còn gặp khó khăn do HS không có nhiều thời gian cho việc luyện tập trên lớp. II) Một số biện pháp để dạy tốt môn Tin học ở Tiểu học: Cải thiện chất lượng phòng máy: Việc sửa chữa máy tính trong phòng máy đã có nhân viên bảo trì đến sửa chữa. Nhưng người quản lí trực tiếp và thường xuyên nhất chính là GV. Để có một tiết thực hành đạt hiệu quả cao và không ảnh hưởng nhiều đến HS thì tất cả các máy trong phòng phải hoạt động tốt. Thế nhưng trong quá trình sử dụng máy tính, chúng ta vẫn thường xuyên gặp phải những lỗi hệ thống từ nhỏ đến lớn. Trong đó, những sự cố bất thường như: treo máy, khởi động lại, thậm chí tắt luôn không khởi động được.làm ảnh hưởng rất nhiều đến giờ dạy. Trước khi gọi nhân viên bảo trì tới sửa, là một GV Tin học, bạn cũng cần phải nắm bắt một số những thủ thuật cơ bản nhất để xử lí kịp thời. Với những sự cố bất ngờ trên, việc xác định nguyên nhân của nó sẽ giúp ta tìm ra cách giải quyết, xử lí vấn đề dễ dàng hơn: - Việc đầu tiên là cần phải kiểm tra tất cả các cáp (cáp nguồn, cáp dữ liệu) để chắc chắn là mọi thứ đã được gắn chặt và đúng cách. Kiểm tra lại những phần mềm hay phần cứng được cài đặt gần đây: Nếu sự cố xảy ra ngay sau vừa cài đặt một phần cứng hay chương trình phần mềm, bạn hãy gỡ bỏ chúng ra và khởi động trở lại. Nếu máy tính vẫn hoạt động bình thường thì đó chính là nguyên nhân. Còn việc cài đặt lại sẽ do nhân viên bảo trì tiếp tục làm sau đó. Chạy các chương trình diệt virút hiệu quả: Để chương trình này chạy tốt bạn phải luôn cập nhập phiên bản mới nhất. Các chương trình được xem là tốt nhất hiện nay như: Norton Antivirus 2006, AGV Antivirus Kiểm tra nhiệt độ thùng máy : Sự quá nhiệt là một nguyên nhân khác, thường xảy ra do sự hoạt động kém của các quạt giải nhiệt, các loại bụi bẩn bám trong thùng máy. Nếu thấy bên trong thùng máy có nhiều bụi bẩn bám vào, bạn nên vệ sinh nhưng phải rất cẩn thận vì nó có nguồn điện thế cao, rất dễ gây nguy hiểm. Tốt hơn hết là nên báo lại cho nhân viên bảo trì. Kiểm tra lại bộ nhớ Ram: Đây là nguyên nhân chủ yếu mà tôi thường gặp mỗi khi máy không khởi động được hoặc bị lỗi bất thường khi đang hoạt động. Nếu phát hiện ra bộ nhớ có vấn đề, hãy tháo các thanh Ram ra, lau sạch chân thanh Ram và gắn lại thật chặt, hoặc lần lượt gắn từng thanh Ram ở các vị trí khác nhau để kiểm tra. Đôi lúc máy chạy nhưng màn hình không lên hình. Hãy mượn màn hình đang sử dụng tốt khác để thử. Tóm lại : Là GV Tin học, công việc chính là giảng dạy. Nhưng nếu Gv có thể khắc phục được những sự cố nhỏ một cách kịp thời đó sẽ đem lại hiệu quả lớn trong quá trình nâng cao chất lượng giờ thực hành. Sắp xếp nội dung, phương pháp học tập cho từng phần học phù hợp, hiệu quả. Nội dung giảng dạy là chương trình SGK Cùng học Tin học quyển 1, 2, 3. Nội dung rất phù hợp, lôi cuốn HS. Để thực hiện dạy đạt hiệu quả, ngoài việc thực hiện đúng theo chương trình, tôi đã thực hiện như sau: * Phần 1: Làm quen với máy tính ( Lớp 3) Khám phá máy tính ( lớp 4, 5) Ở phần học này, ngay từ bài học đầu tiên, GV cần giúp cho HS xác định rõ và nhận biết các bộ phận của máy tính và tác dụng của các bộ phận đó bằng cách cho HS quan sát ngay trong giờ giảng lý thuyết. Sau đó, vấn đề làm tôi quan tâm nhất là tạo cho các em có thao tác đúng và thành thạo khi sử dụng chuột, bàn phím, Ví dụ: Ở bài Bàn phím máy tính: Để giúp các em làm quen với bàn phím, Gv cho Hs nêu tên tất cả các phím và cho chơi một số trò chơi có nội dung về bàn phím. Trong đó có trò chơi Pi-an no( phần mềm Pianito). Nhưng theo tôi phần mềm này không đạt hiệu quả vì các máy của HS không có tai nghe hay loa nên HS dễ nhàm chán vì gõ mà không thấy có kết quả gì. Vì thế, theo tôi ngay từ bài học này GV có thể hướng dẫn HS làm quen luôn với phần mềm Mario. Như thế HS vừa nắm được tên của các phím, vừa gây được hứng thú học tập của các em. Còn phần mềm đó GV nên giới thiệu cho HS và khuyến khích các em chơi ở nhà. Ví dụ : Bài Chuột máy tính: Để giúp các em sử dụng thành thạo các thao tác ngay trong tiết học GV cần lồng ghép một số trò chơi như: Trò chơi Dots, trò chơi Stickhoặc mội vài trò chơi khác nhưng phải có tính giáo dục ( thay vì đợi đến Phần trò chơi HS mới được chơi) . Đối với những HS yếu, cũng giống như HS lớp 1, GV phải cầm tay các em để chỉ dẫn. Với phương pháp này, HS nắm bắt rất nhanh, rất hứng thú và nhanh chóng sử dụng được chuột. Ở lớp 4 và 5: Lúc này các em đã được hiểu biết nhiều hơn về máy tính nên GV sẽ có những yêu cầu cao hơn. HS phải nắm được cách sắp xếp thông tin theo hệ thống của máy tính. Biết cách sắp xếp và tìm kiếm thông tin. Ví dụ : Lớp 5 GV yêu cầu mỗi HS phải tạo được cho mình một thư mục riêng để khi lưu các tài liệu sẽ được đưa về một chỗ, các bài làm của các em sẽ được sắp xếp ngăn nắp hơn, dễ tìm kiếm hơn và lưu có hệ thống hơn. * Phần 2: Học và Chơi cùng máy tính GV yêu cầu HS cần có thái độ nghiêm túc khi học và làm việc trên máy tính, không phân biệt phần mềm học tập hay phần mềm trò chơi. GV cần liên hệ thực tế để giúp HS nắm được từ việc học và chơi trên máy tính đến đời sống thường ngày. Ví dụ: + Luyện tính kiên trì, trí thông minh, luyện sử dụng chuột qua trò chơi Dots, Stiks, + Yêu thích môn Toán qua trò chơi Cùng học toán. + Chơi thể thao, tìm hiểu thiên nhiên qua trò chơi Golf, Khám phá rừng nhiệt đới. Ở chương học này, thời gian thực hành khá dài, dễ gây nhàm chán. GV nên chủ động dạy dàn trải trong các tiết học. * Phần 3: Em tập gõ bàn phím : Đây cũng là phần trọng tâm của chương trình lớp 3. Phần này đòi hỏi phải có sự tập luyện thường xuyên thì mới đạt hiệu quả cao được. GV cần giúp HS hiểu được lợi ích của việc gõ phím bằng 10 ngón để từ đó HS có ý thức hơn trong việc rèn luyện. Không cần nhiều, ở mỗi tiết thực hành, nếu còn thời gian hãy khuyến khích HS luyện gõ trong 10 phút thôi sẽ mang lại hiệu quả rất tốt. Cần phải chú trọng và nghiêm túc rèn từ lớp 3 về cách đặt tay lên bàn phím, cách gõ phímthì đến lớp 4 - 5 HS mới có thói quen gõ 10 ngón. * Phần 4: Em tập vẽ. Với phần học này, HS rất có hứng thú học tập. Ở phần học này GV cần chú trọng cho HS thực hành nhiều, giảm tiết lý thuyết hoặc có thể giảng lý thuyết ngay trong tiết thực hành. Như vậy học sinh mới có thao tác thành thạo được. Ngoài việc dạy những yêu cầu cơ bản trong SGK. Nếu có điều kiện GV có thể thiết kế các bài tập khác để phần học này thêm phong phú. Ví dụ: Bài Vẽ đường cong: SGK yêu cầu HS vẽ con cá và chiếc lá. Gv có thể giới thiệu thêm cho các em một số mẫu vẽ khác như Cái nôi em bé, Sóng biển, cái quạt, hoặc em hãy tự nghĩ ra những vật gì có sử dụng đường cong để vẽ dành cho những HS đã hoàn thành bài vẽ theo yêu cầu. Ở lớp 4 - 5, yêu cầu đã được nâng cao hơn. Ngoài những kiến thức cơ bản cần đạt được ra, GV cần quan tâm nhiều đến vấn đề ứng dụng của các kiến thức đó vào bài vẽ. Ví dụ : Khi vẽ một bức tranh về giao thông, ở ngã tư có 4 cột đèn. HS có thể sao chép và lật hình để có 4 cột đèn theo ý mình mà không tốn nhiều thời gian. * Phần 5: Em tập soạn thảo. Nội dung kiến thức chủ yếu là tạo cho HS những kiến thức cơ bản nhất để soạn thảo và trình bày một văn bản. Ở phần này GV cũng chú ý đến dạy thực hành hơn, dạy xong lý thuyết là cho HS thực hành ngay như vậy HS mới nắm được. Ở lớp 3 HS được làm quen với 2 cách gõ là kiểu VNI và kiểu Telex. Gv cần cung cấp cả 2 cách gõ này và khuyến khích các em lựa chọn cách gõ phù hợp để việc soạn thảo dễ dàng hơn. Ở lớp 4 và 5 HS đã được học cách trình bày văn bản. GV hãy tạo điều kiện cho các em ứng dụng những kiến thức vừa học vào trình bày những văn bản thông thường . Ví dụ: Khi dạy bài Căn lề (lớp 4) GV đưa thêm một số bài thơ, bài ca dao tục ngữ hay một đoạn văn bản đã học trong SGK Tiếng Việt mà HS đã học ở trên lớp để các em thực hành. * Phần 6: Thế giới Logo của em. Logo là một ngôn ngữ lập trình, có đầy đủ các đặc điểm của một ngôn ngữ máy tính, xuất phát từ ngôn ngữ LISP, ngôn ngữ của trí tuệ nhân tạo. Logo là ngôn ngữ để học. Để hỗ trợ thực hiện quá trình học và suy nghĩ bằng cách khuyến khích HS tìm tòi khám phá. Logo có bảng kí tự, từ khóa riêng, cú pháp riêng và khá chặt chẽ. Ở lớp 4 và lớp 5 HS mới được làm quen với phần mềm này và đây cũng là lần đầu tiên HS được làm quen với ngôn ngữ lập trình. Do vậy, khi thực hành những câu lệnh của Logo GV cần lưu ý HS phải rất cẩn thận khi viết các câu lệnh, tránh để HS hiểu tùy tiện, áp dụng những ngôn ngữ thông thường dành cho câu lệnh. Đứng trước mỗi bài tập, bài thực hành, GV luôn luôn yêu cầu HS chia công việc được giao thành những nhiệm vụ nhỏ hơn và cuối cùng dùng những lệnh cơ bản của Logo để thực hiện. Sau khi chia nhỏ và phân tích bài toán, cần rèn luyện cho HS cách nhìn tổng hợp bài toán. Khuyến khích HS làm việc tập thể, làm việc theo nhóm . Ví dụ: B2/123 SGK . Viết chương trình gồm một số thủ tục để tạo ra hình trang trí theo mẫu. Thủ tục 1: Vẽ hình vuông với câu lệnh Repeat 4[FD 50 T 90] Thủ tục 2: Vẽ tam giác: Repeat 3 [FD 50 RT 120] Thủ tục 4: Vẽ ngôi nhà: dùng hai thủ tục 1 và 2 tong thân thủ tục 3. Thủ tục 4: Vẽ vành bánh xe (lặp 12 lần thủ tục 3). Tận dụng những nguồn tài nguyên sẵn có của máy vi tính, hoặc truy cập mạng để tìm hiểu thông tin, tìm kiếm tài nguyên trên Internet phục vụ cho quá trình dạy và học. Giáo viên có kế hoạch bồi dưỡng để nâng cao kiến thức bản thân đáp ứng được những yêu cầu đổi mới, cập nhập thông tin một cách đầy đủ, chính xác. III) Đánh giá kết quả thực hiện. Sau khi nghiên cứu và qua quá trình trải nghiệm tôi nhận thấy đã đạt được hiệu quả đáng khích lệ. Số lượng HS sử dụng thạo máy tính mỗi năm một tăng lên. Tiết dạy cũng trở nên nhẹ nhàng và hiệu quả hơn, tạo được nhiều hứng thú cho học sinh trong quá trình tiếp thu bài. Chất lượng đạt được trong năm học 2014 -2015: Kết quả Tin học Điểm kiểm tra môn Tin học TSHS 9;10 7;8 5;6 SHS % SHS % SHS % Tổng số 226 180 63.77 46 29.47 0 0 + Khối 3 86 69 80.23 17 19.77 0 0 + Khối 4 74 61 82.43 13 17.57 0 0 + Khối 5 66 50 75.76 16 24.24 0 0 PHẦN KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ 1. KẾT LUẬN Nâng cao hiệu quả giáo dục luôn là vấn đề cấp bách đựơc đặt lên hàng đầu trong sự nghiệp giáo dục. Dạy tốt - học tốt là mục tiêu mà những người làm công tác giáo dục hướng tới. Tôi xin trích dẫn lời nói của nguyên Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh trong lễ khai giảng năm học mới tại một trường ở thị xã Sơn Tây " Muốn có chất lượng, hiệu quả ở một trường học, giữa hai yếu tố dạy và học thì yếu tố học là cực kỳ quan trọng. Dạy tốt mà học không tốt thì cũng không có được kết quả tốt. Muốn tiếp thu tốt kiến thức, các thầy cô giáo dạy thì học sinh phải chăm chỉ học". Theo tôi song song với việc bồi dưỡng nhân tài, nâng cao chất lượng giáo dục thì việc đưa giảng dạy bộ môn Tin học là nhiệm vụ cần thiết và cấp bách góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với việc phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ mới - Thời kỳ bùng nổ công nghệ thông tin phù hợp với quan điểm của Đảng là: Phấn đấu nước ta tới 2020 là nước công nghiệp hiện đại và ngay trong nhiệm vụ năm học 2011/2012 Bộ trưởng giáo dục đào tạo nhấn mạnh: Khẩn trương triển khai chương trình phát triển nguồn nhân lực CNTT và đề án dạy Tin học ứng dụng CNTT và truyền thông của ngành. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới phương pháp dạy - học và công tác quản lý giáo dục. Tiếp tục thực hiện tổ chức dạy học môn Tin học theo Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05 tháng 5 năm 2006 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Sáng kiến kinh nghiệm mang nội dung "Một số biện pháp để dạy tốt môn Tin Học ở Tiểu Học" sẽ phần nào giúp các đồng nghiệp có thêm những kinh nghiệm nhằm góp phần quan trọng vào việc giảng dạy bộ môn Tin học còn mới mẻ trong trường tiểu học hiện nay đặc biệt là những trường đang bắt đầu áp dụng bộ môn Tin học trong trường Tiểu học. Những biện pháp tôi vừa trình bày không phải quá xa lạ đối với chúng ta, nó tựa như những thứ "Rau cỏ trị bệnh" mà ta bắt gặp trong cuộc sống đời thường. Bất cứ ai cũng có thể hiểu và áp dụng được. Tuy vậy, trong thực tế không phải lúc nào cũng đựơc giáo viên chú trọng nó đòi hỏi ở lương tâm người thầy, cần phải coi học sinh như chính những đứa con của mình. Khi những cố gắng của người giáo viên đạt kết quả tốt, được học sinh tin yêu. Đó mới chính là phần thưởng lớn nhất trong cuộc đời dạy học của mình. Tôi mong muốn những biện pháp cũng như quan điểm của mình được quý vị đón nhận và áp dụng triển khai trong để chứng minh tính khả thi của sáng kiến kinh nghiệm rất mong Ban giám hiệu và các đồng chí đồng nghiệp góp ý kiến để sáng kiến kinh nghiệm ngày càng hoàn thiện hơn. * Nhà trường: Môn tin học là môn chủ yếu thực hành trên máy tính là dụng cụ học tập có giá trị cao về vật chất do đó cần có sự quan tâm đúng mức của các cấp các ngành và nhà trường tạo điều kiện sắm sửa máy móc, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học môn Tin học để giúp cho các em có điều kiện học tập tốt nhất. * Giáo viên: - Tìm tòi sáng tạo cách dạy, cách học tạo sự hứng thú tiếp thu bài . - Yêu nghề, mến trẻ, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ - Thăm lớp dự giờ, hội thảo phương pháp giảng dạy các bộ môn khác. - Tích cực tham mưu với nhà trường để tăng cường nâng cấp máy, trang thiết bị dạy học. * Phụ huynh học sinh: Cần có sự quan tâm đúng mực quản lý thời gian và tạo điều kiện mua sắm máy tính để các em thực hành ở nhà Kim Thư, Ngày 13 tháng 04 năm 2015 Người viết Nguyễn Thị Thu Giang ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM KHẢO TRƯỜNG ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM KHẢO PHÒNG GIÁO DỤC HUYỆN

Một Số Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Dạy Học Phân Môn Học Vần

TRƯỜNG THCS THỔ CHÂU – KHỐI TIỂU HỌC

CHUYÊN ĐỀNÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY HỌC VẦN LỚP 1

A. ĐẶT VẤN ĐỀ:1) Vị trí, tầm quan trọng của phân môn Học vầnHọc vần là phân môn có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình tiểu học nói chung và trong môn Tiếng Việt nói riêng, vì nó là phần học mở đầu lớp đầu tiên của cấp Tiểu học. Có học phần này, học sinh mới chiếm lĩnh được một công cụ giao tiếp quan trọng: chữ viết ghi âm Tiếng Việt. Đây chính là phương tiện để các em có điều kiện học tốt các môn khác và học lên các lớp trên.2) Thực trạng của việc dạy – học phân môn Học vầnXác định tầm quan trọng của vấn đề, trong những năm qua, bộ phận chuyên môn của trường đã có nhiều cố gắng trong công tác chỉ đạo, từng bước nâng dần chất lượng dạy và học phân môn này. Cuối mỗi năm học, đa số học sinh lớp 1 nói chung đều đạt được mục tiêu, đặc biệt là 4 kĩ năng (nghe, nói, đọc, viết) quan trọng mà môn học đề ra. Sau giai đoạn học vần, về cơ bản các em đều đã đọc đúng các âm, vần, tiếng của tiếng Việt (trừ các vần khó, ít sử dụng); đọc trơn được các câu ngắn, các đoạn văn có độ dài khoảng 20 tiếng, có nội dung đơn giản phù hợp với lứa tuổi. Các em cũng viết đúng khá đúng quy trình, đúng mẫu các chữ cái ghi âm, vần, tiếng, từ ngữ vừa học, viết đúng dấu thanh, chữ viết cỡ vừa rõ ràng, đúng nét, rõ khoảng cách và thẳng hàng. Tỷ lệ chất lượng của môn tiếng Việt hàng năm đều tăng.Tuy nhiên, so với mặt bằng chung về chất lượng môn học vẫn còn nhiều hạn chế. Nhiều học sinh đến cuối năm vẫn còn tình trạng: đọc chưa thông, viết chưa thạo; việc nhận diện, ghép vần, tiếng, kỹ năng đánh vần, đọc trơn,…còn hạn chế.Có nhiều nguyên nhân dẫn đến kết quả này, song yếu tố bất cập trong giảng dạy của giáo viên là vấn đề đáng quan tâm. Một trong những hạn chế nổi bật là kỹ năng vận dụng, phối hợp các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học trên lớp. Nhiều giáo viên còn rất lúng túng trong khâu lựa chọn, vận dụng phương pháp, biện pháp dạy học trong từng hoạt động. Do đặc thù của đơn vị trường khối 1chỉ có 1 lớp nên hạn chế trong việc học hỏi lẫn nhau. Các giáo viên dạy lớp khác còn lúng túng khi được phân công dạy thay lớp 1.Xuất phát từ những bất cập nêu trên, bộ phận chuyên môn khối tiểu học tổ chức chuyên đề : “Nâng cao chất lượng giảng dạy môn Học vần lớp 1” nhằm thúc đẩy chất lượng chuyên môn của cấp học trong năm học 2011-2012 và những năm tiếp theo. II. NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN TRONG VIỆC DẠY VÀ HỌC PHÂN MÔN HỌC VẦN:1) Thuận lợi: a) Đối với giáo viên:+ Được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp quản lý, đặc biệt là bộ phận chuyên môn khối Tiểu học, cụ thể:– Ban giám hiệu trường đặc biệt quan tâm đến chất lượng lớp 1. Thường xuyên tổ chức các tiết thao giảng, dự giờ, thăm lớp hỗ trợ việc nâng cao chất lượng dạy – học.– Hàng năm tổ chức các phong trào dạy và học (hội thi giáo viên dạy giỏi) giúp giáo viên có dịp chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong giảng dạy.– Đảm bảo công tác thông tin hai chiều trong chỉ đạo chuyên môn,…+ Giáo viên dạy lớp 1 nhiệt tình trong công tác, có tinh thần tự học, tự rèn luyện nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, có nhiều năm giảng dạy lớp 1.+ Cơ sở vật chất từ phòng lớp, bàn ghế, các phương tiện phục vụ dạy học trang bị cho khối 1 từng bước được cải thiện.+ Phụ huynh học sinh đa số đều rất quan tâm đến việc học tập của con em mình.b) Đối với học sinh:+ Tất cả trẻ em đúng 6 tuổi đều được vào học lớp 1, được xã hội, gia đình quan tâm, thậm chí có nhiều gia đình “cùng học” với trẻ.+ Đa số trẻ đều được qua lớp mẫu giáo, được chuẩn bị các kĩ năng thích ứng với hoạt động học tập giúp các em có tâm thế sẵn sàng học tập khi vào học lớp 1.2) Khó khăn:a) Đối với giáo viên:+ Đôi lúc chưa chú ý nhiều đến việc đổi mới phương pháp dạy học, chưa có tính sáng tạo trong việc đầu tư cho kế hoạch bài học. Đôi khi giáo viên có phần chủ quan trong dạy học vì kiến thức lớp 1 thường đơn giản

Phương Pháp Dạy Học Là Gì? Phân Biệt Với Thủ Pháp Dạy Học

Phương pháp dạy học là một khái niệm được sử dụng nhiều trong hoạt động dạy và học hiện nay. Vậy phương pháp dạy học là gì? Có những phương pháp và kỹ thuật dạy học nào được đánh giá mang lại hiệu quả cao, hãy tìm câu trả lời trong bài viết sau.

1. Phương pháp dạy học là gì?

Tính đến thời điểm hiện tại, hoàn toàn chưa có một định nghĩa thống nhất về phương pháp dạy học là gì. Một số quan niệm định nghĩa rằng “Phương pháp dạy học chính là cách thức làm việc giữa người dạy và người học, thông qua đó giúp người học có thể nắm vững đầy đủ các kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo nhằm hình thành nên năng lực và thế giới quan”.

Tuy nhiên, quan niệm khác lại định nghĩa rằng “Phương pháp dạy học thực ra là các hình thức kết hợp về hoạt động của người dạy và người học với mục tiêu hướng vào một việc để cùng đạt được một mục đích nào đó”.

Trong 2 quan niệm này, quan niệm thứ nhất nhận được sự đồng thuận của rất nhiều người. Tuy nhiên, vì không hiểu về hai từ “cách thức” nên dẫn đến việc có nhiều phương pháp khác nhau. Để hiểu đúng phương pháp dạy học là gì, nhất định phải phân biệt nó với khái niệm thủ pháp dạy học, phương pháp luận, môn học phương pháp và hình thức dạy học.

Khái niệm về thủ pháp dạy học được hiểu là các thao tác bộ phận trong một phương pháp dạy học cụ thể nào đó. Ví dụ: Nếu muốn thực hiện phương pháp phân tích ngôn ngữ thì những thao tác cần thiết sẽ phải sử dụng là phân tích, so sánh hoặc là tổng hợp, đối chiếu…

Phương pháp luận: Có thể được hiểu ở hai phương diện.

Thứ nhất: Phương pháp luận là các học thuyết về phương pháp khoa học nói chung. Dựa theo cách hiểu này thì phương pháp luận chính là triết học của Mác và Lê Nin.

Thứ hai: Phương pháp luận chính là việc tổng hợp lại các cách thức, phương pháp để tìm tòi ý nghĩa như là các tư tưởng về hoạt động chỉ đạo, các tiền đề lý luận về phương pháp nghiên cứu thuộc một ngành khoa học.

Khái niệm môn học phương pháp được hiểu là bộ môn chuyên đảm nhiệm việc nghiên cứu về quá trình dạy và học của một môn học nào đó. Nó gồm các hoạt động nghiên cứu về đối tượng, mục tiêu và nhiệm vụ của môn học, nguyên tắc xây dựng chương trình học, cách thức thiết kế và tổ chức quá trình dạy học của từng đơn vị kiến thức nhỏ trong môn học,…

Khái niệm hình thức dạy – học được định nghĩa là các cách thức để hiện thức hóa và hành động hóa phương pháp dạy học, thủ pháp dạy học.

2. So sánh phương pháp dạy học và thủ pháp dạy học

2.1 Thủ pháp dạy học là gì?

Phương pháp dạy học là gì? Thủ pháp dạy học là gì? Đây là 2 câu hỏi mà người ta thường đặt song song với nhau. Nếu phương pháp dạy học là cách thức làm việc giữa người dạy và người học, thì thủ pháp dạy học lại là các cách thức được sử dụng nhằm giải quyết một vấn đề nào đó trong một phương pháp cụ thể. Hay nói một cách khác, thủ pháp dạy học chỉ việc thao tác các bộ phận trong một phương pháp dạy học.

2.2 Phân biệt phương pháp dạy học và thủ pháp dạy học

Ranh giới của phương pháp dạy học và thủ pháp dạy học rất gần nhau. Tuy nhiên, có thể thấy rõ một điều là khái niệm của phương pháp dạy học rộng hơn, bao quát hơn, còn thủ pháp dạy học lại hẹp hơn. Nếu phương pháp dạy học chú ý đến cả một quá trình thì thủ pháp dạy học lại chỉ chú ý đến một thời điểm nào đó trong suốt thời gian diễn ra quá trình đấy.

3. 3 bình diện của phương pháp dạy học

3.1 Quan điểm về phương pháp dạy học

Quan điểm dạy học chính là các định hướng có tính chiến lược, cương lĩnh và nó chính là mô hình lý thuyết của phương pháp dạy học. Một số quan điểm về phương pháp dạy học phổ biến hiện nay như dạy học lấy người học làm trung tâm, dạy học nhằm phát huy tính sáng tạo, tự giác của học sinh,…

3.2 Phương pháp dạy học cụ thể

Phương pháp dạy học chính là hình thức, cách thức hoạt động giữa người dạy và người học nhằm đạt được các mục tiêu dạy học xác định. Đồng thời, phải đảm bảo phù hợp với nội dung và các điều kiện dạy học cụ thể.

3.3 Kỹ thuật dạy học

Kỹ thuật dạy học chính là các biện pháp, cách thức hoạt động của giáo viên với mục đích thực hiện và điều khiển toàn bộ quá trình dạy học hiệu quả.

Các kỹ thuật dạy học phổ biến bao gồm chia nhóm, giao nhiệm vụ, các mảnh ghép, khăn trải bàn, kỹ thuật hỏi chuyên gia,…

4. Một số đặc điểm của phương pháp dạy học

Phương pháp dạy học giúp thực hiện các mục tiêu của việc dạy học.

Là sự thống nhất của phương pháp dạy và phương pháp học.

Bao gồm hai mặt, mặt bên trong và mặt bên ngoài.

Có được sự thống nhất về logic trong nội dung dạy và logic về tâm lý nhận thức.

Có tính khách quan và cả tính chủ quan.

Chịu sự chi phối trực tiếp từ nội dung và mục đích của hoạt động dạy học.

Có được sự thống nhất của các cách thức hành động và phương tiện dạy học.

Hiệu quả được quyết định bởi trình độ chuyên môn và nghiệp vụ của người dạy.

Ngày càng có sự hoàn thiện và không ngừng phát triển để có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của hoạt động dạy học.