Bạn đang xem bài viết Tìm Giải Pháp Phát Triển Thị Trường Vốn, Tài Chính Việt Nam được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Bên cạnh đó còn có đại diện Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng phát triển Châu Á, Đại sứ Australia tại Việt Nam – ông Craig Chittick, Đại sứ Israel tại Việt Nam – ông Nadav Eshcar, Đại sứ Hàn Quốc tại Việt Nam – ông Kim Do Hyon, các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty bảo hiểm, các chuyên gia về vốn, tài chính, công nghệ… trong nước và quốc tế.
Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ phát biểu tại Diễn đàn. (Ảnh: DL)
Phát biểu tại diễn đàn, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ nhấn mạnh, tới thời điểm hiện tại, quy mô hệ thống tài chính Việt Nam vẫn còn ở mức khiêm tốn so với các nước trong khu vực; đặc biệt là khả năng cung ứng vốn còn hạn chế, chưa phát huy hết vai trò là kênh dẫn vốn của nền kinh tế, tỷ lệ vốn hóa từ các thị trường như bất động sản, chứng khoán… còn hạn chế. Cấu trúc thị trường trái phiếu mất cân bằng.
Cũng theo Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ, tỷ trọng nguồn vốn ngắn hạn cao trong khi tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn thấp khiến nền kinh tế không đủ nguồn lực bảo đảm phát triển bền vững. Thị trường vốn vẫn phụ thuộc rất nhiều vào tín dụng ngân hàng, thị trường tín dụng phát triển thiếu tính ổn định. Hệ thống luân chuyển dòng vốn cũng chưa hiệu quả, thể hiện qua sự bất hợp lý trong việc phân bổ nguồn lực giữa các ngành kinh tế.
Phó Thủ tướng mong muốn các diễn giả đánh giá “sức khỏe” các chủ thể tham gia thị trường vốn, thị trường tài chính bởi đây là điều đang khiến Chính phủ băn khoăn. Bởi lẽ, theo con số từ Tổng cục Thống kê, tính đến 31/2/2016, có đến 53% doanh nghiệp đang hoạt động ở Việt Nam không có lợi nhuận. Tỷ lệ này đã có bước tiến so với những năm trước nhưng vẫn còn thiếu khả quan. Tỷ lệ 53% doanh nghiệp không có lời phải chăng là do vốn mỏng gây nên? Nhiều doanh nghiệp hiện nay hoạt động chủ yếu dựa vào vốn ngân hàng, dự án đầu tư có vốn chủ sở hữu thấp, do đó chi phí tài chính rất cao. Vậy giải pháp sắp tới là gì?
Theo ông Fiachra MacCanna, Giám đốc điều hành, Giám đốc bộ phận phân tích Công ty Chứng khoán TP. HCM (HSC), vốn dài hạn là một trong những giải pháp cho các ngân hàng cần nâng vốn, đồng thời giúp ngân hàng thương mại cung cấp các gói vay thế chấp kỳ dài hạn hơn. Việc thiếu vốn dài hạn cũng dẫn tới hạn chế nguồn mua lại cổ phần nhà nước tại doanh nghiệp.
Vốn dài hạn là một trong những giải pháp cho các ngân hàng cần nâng vốn, đồng thời giúp ngân hàng thương mại cung cấp các gói vay thế chấp kỳ dài hạn hơn. (Nguồn: VNA)
Nêu giải pháp cho vấn đề này, theo ông Fiachra MacCanna, phát triển quỹ hưu trí tư nhân là cần thiết cho việc cung cấp vốn dài hạn cho nền kinh tế bởi phần lớn đầu tư của các quỹ hưu trí tư nhân tập trung vào trái phiếu và cổ phiếu. Với thị trường vốn, chứng lưu ký không có quyền biểu quyết và cổ phần vàng sẽ là giải pháp cho nâng trần khối ngoại. Còn với thị trường trái phiếu, quỹ xếp hạng tín nhiệm là cần thiết cho việc phát triển dài hạn bởi việc phát hành trái phiếu có thể bắt buộc phải xếp hạng tín nhiệm.
Về giải pháp mở rộng thị trường vốn dài hạn cho Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, theo ông Ketut Kusuma, chuyên gia cao cấp về thị trường vốn Ngân hàng Thế giới, là tăng cường tính minh bạch của dữ liệu, thông tin, hiện đại hóa khung pháp lý và cơ sở hạ tầng thị trường, nâng cao năng lực giám sát. Với thị trường chứng khoán, cần lồng ghép chiến lược cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước vào phát triển thị trường, hướng tới tham gia vào các chỉ số của thị trường mới nổi nhằm minh bạch hóa hơn thông tin về phân khúc và hợp nhất thị trường.
“Với thị trường trái phiếu chính phủ thì cần tiếp tục công cuộc cải cách, hướng tới tham gia vào các chỉ số của thị trường mới nổi toàn cầu” – ông Ketut Kusuma chia sẻ.
Hàn Quốc hỗ trợ Việt Nam thúc đẩy thị trường vốn đầu tư mạo hiểm
Chiều 26/10, tại Hà Nội, Lotte Accelerator (Hàn Quốc) và Vietnam Silicon Valley Accelerator (VSVA) đã chính thức công bố Hợp tác chiến lược giữa …
Chính phủ rất coi trọng phát triển thị trường vốn
Đây là khẳng định của Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình tại hội nghị “Gateway to …
Lạc quan về thị trường bất động sản nhà ở tại Việt Nam
Theo bà Regina Lim, Giám đốc Bộ phận Thị trường vốn, Công ty nghiên cứu bất động sản toàn cầu Jones Lang Lasalle (JLL), 9 …
Bộ Tài Chính Đưa Ra Các Giải Pháp Phát Triển Thị Trường Vốn
Ngoài các giải pháp quản lý, Bộ Tài chính chỉ đạo đa dạng hóa các sản phẩm chứng khoán, phát triển thị trường chứng khoán phái sinh.
Thứ trưởng Bộ Tài Chính Vũ Thị Mai cho biết tại họp báo chính phủ chiều 29/10: Tính đến 19/10/2016, chỉ chố VNIndex đã đạt 688,9 điểm, tăng 1,6% so với cuối tháng trước, tăng 19% so với cuối năm 2015. Chỉ số HNXindex đóng cửa ở mức 85,5 điểm và tăng 0,6% so với cuối tháng trước và tăng 7% so với cuối năm 2015. Mức vốn hóa của thị trường đạt 1.687.000 tỷ, tăng 24% so với cuối năm 2015, tương đương 40% GDP. Phải nói đây là những kết quả hết sức tích cực trên thị trường chứng khoán.
Về giá trị giao dịch, quy mô giao dịch bình quân của phiên đã đạt 8.500 tỷ, tăng 4% so với tháng trước, trong đó giao dịch TPCP là 5.400 tỷ, tăng 14%. Giao dịch cổ phiếu chứng chỉ quỹ đạt 3.080 tỷ/phiên.
Thứ trưởng Bộ Tài chính Vũ Thị Mai
Để thúc đẩy thị trường vốn tiếp tục phát triển và phát triển mạnh, Thứ trưởng Bộ Tài chính Vũ Thị Mai cho biết, các giải pháp chủ yếu được đưa ra là: Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và nâng cao năng lực quản lý và giám sát thị trường; tăng cung hàng hóa cho thị trường và cải thiện chất lượng nguồn cung.
Về cụ thể thì gồm các giải pháp: Nâng cao chuẩn mực về kế toán và báo cáo tài chính, công bố thông tin và quản trị thông tin theo thông lệ quốc tế, đa dạng phương thức chào bán chứng khoán, đổi mới phương thức định giá và gắn cổ phần hóa DNNN với niêm yết trên thị trường chứng khoán. Đây cũng là giải pháp ta đang tích cực triển khai và thực hiện đề án Tái cơ cấu nền kinh tế trong đó có đề án tái cơ cấu DNNN gắn bó mật thiết với giải pháp này để thúc đẩy cổ phần hóa DNNN và thông qua thị trường chứng khoán.
Đồng thời, đa dạng hóa các sản phẩm chứng khoán, phát triển thị trường chứng khoán phái sinh. Hiện, các văn bản về chứng khoán phái sinh đã được ban hành và Bộ Tài chính đã chỉ đạo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước chuẩn bị tích cực về cơ sở hạ tầng, hệ thống CNTT để đưa thị trường chứng khoán phái sinh đi vào hoạt động trong năm 2017. Tiếp tục hoàn thiện và phát triển thị trường trái phiếu, đa dạng hóa cơ sở nhà đầu tư, cải thiện chất lượng đầu tư nhằm hướng tới cầu đầu tư bền vững.
Đồng thời là giải pháp nâng cao năng lực trong hệ thống các tổ chức trung gian. Giải pháp tái cấu trúc tổ chức thị trường, tức là tổ chức lại 2 Sở Giao dịch chứng khoán hiện nay, hoàn thiện mô hình tổ chức đồng thời căn cứ theo thông lệ quốc tế, triển khai hạ tầng CNTT đồng bộ, hiện đại tại Sở Giao dịch chứng khoán cũng như tại trung tâm lưu ký để phục vụ cũng như quản lý các nhà đầu tư, các công ty chứng khoán; hiện đại hóa Ủy ban Chứng khoán Nhà nước để tăng cường chức năng quản lý Nhà nước. Đồng thời tăng cường chức năng quản lý giám sát và cưỡng chế thực thi. Đây là những giải pháp rất cơ bản để phát triển thị trường vốn của Việt Nam.
Thực Trạng Và Giải Pháp Phát Triển Thị Trường Dịch Vụ Tài Chính Việt Nam
DVTC được hiểu là một hệ thống cấu thành của loại hình dịch vụ mang tính chất thương mại, nói cách khác, đây là loại dịch vụ kinh doanh có tính chất thị trường. Nguồn: Internet.
Theo đó, các loại hình DVTC có thể phân chia thành 4 nhóm sau: Dịch vụ ngân hàng, dịch vụ trên thị trường chứng khoán (TTCK), dịch vụ trên thị trường bảo hiểm, dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn tài chính. Việc bố trí phân ngành trên cho thấy, ngoài 2 nhóm ngành khác cụ thể là dịch vụ ngân hàng và dịch vụ bảo hiểm, sự có mặt của “các DVTC khác” cho thấy tính đa dạng, phong phú và phức tạp của DVTC.
Nhìn lại những đổi mới có tính cách mạng trong hệ thống DVTC của các nước phát triển suốt 30 năm qua cho thấy, với tốc độ tiến triển của lĩnh vực DVTC trong tương lai, thị trường này sẽ có nhiều thay đổi mạnh mẽ đóng góp vào quá trình toàn cầu hóa hoạt động tài chính của thế giới. Qua đó, có thể nhận diện vai trò của thị trường DVTC như sau:
Thứ nhất, thị trường DVTC góp phần tăng trưởng kinh tế. Lịch sử thế giới đã chứng kiến sự bùng nổ của thời kỳ phát triển DVTC tại các nước phát triển vào cuối thế kỷ XIX đến nay. Với sự đa dạng của các sản phẩm DVTC đã thúc đẩy quá trình chu chuyển vốn, từ đó không chỉ góp phần đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp (DN) với các loại dịch vụ như dịch vụ ngân hàng, dịch vụ chứng khoán, tham gia bảo toàn vốn với các dịch vụ bảo hiểm, giao dịch thanh toán như các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng… mà còn giải quyết nhu cầu đầu tư cho ngân sách quốc gia khi các DN tài chính luôn là khách hàng lớn với nhiều tiềm năng tham gia trên thị trường trái phiếu chính phủ.
Mặt khác, các thị trường DVTC còn là nơi mang lại nguồn thu đáng kể cho ngân sách quốc gia, tại các trung tâm tài chính lớn trên thế giới, điển hình như: Hong Kong, New York hàng năm đóng góp khoảng 1/3 nguồn thu thuế cho ngân sách thành phố. Ngoài ra, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhiều nước đặt khu vực dịch vụ vào vị trí mũi nhọn trong chiến lược phát triển; Từ đó, sự phát triển của thị trường DVTC sẽ góp phần đáng kể vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu hướng dịch vụ – công nghiệp – nông nghiệp tương thích cho nền kinh tế hiện đại và phát triển ngày nay.
Thứ hai, thị trường DVTC góp phần gia tăng tiện ích trong đời sống xã hội. Xã hội càng phát triển, thu nhập của người dân được nâng cao, nhu cầu về quản lý tài sản cá nhân, bảo hiểm rủi ro cho sinh mạng và tài sản đã trở thành một nhu cầu khách quan trong đời sống của công chúng. Từ đó, những dịch vụ thanh toán, dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ quản lý tài sản, các dòng sản phẩm của bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ… ngày càng được đa dạng hơn để đáp ứng yêu cầu của người dân.
Để nâng cao tiện ích của các DVTC phục vụ cho nhu cầu xã hội những thập niên vừa qua những thành tựu khoa học công nghệ đã được ứng dụng nhiều trong lĩnh vực DVTC từ quản lý rủi ro, quản trị điều hành, thanh toán điện tử, công nghệ thẻ đến các giao dịch ngân hàng online, Internet Banking, Home Banking, Mobile Banking… góp phần nâng cao chất lượng các DVTC đáp ứng theo nhu cầu ngày càng cao của công chúng. Mặt khác, các loại DVTC còn giúp cho công chúng cải thiện đời sống vật chất cũng như giải quyết những khó khăn tạm thời về tài chính. Thị trường DVTC năng động còn góp phần kích thích ý thức tiết kiệm hình thành tập quán đầu tư sinh lợi từ những đồng vốn nhàn rỗi trong dân.
Thứ ba, thị trường DVTC góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư. Sự phong phú của các loại DVTC đã giúp cho nhà đầu tư trên thị trường có nhiều cơ hội lựa chọn kênh đầu tư nhằm phân tán rủi ro trong kinh doanh. Ngoài ra, thông qua những dịch vụ tư vấn tài chính của các DN tài chính giúp cho người đầu tư có thêm nguồn thông tin nhằm khắc phục tình trạng thông tin bất cân xứng trên thị trường, nâng cao hiệu quả đầu tư. Bên cạnh đó, với dịch vụ tư vấn kế toán – kiểm toán không chỉ góp phần quan trọng trong quá trình nâng cao hiệu quả quản lý tài chính cho các DN mà còn đảm bảo độ tin cậy cho các báo cáo tài chính được minh bạch trước thị trường hỗ trợ cho các hoạt động đầu tư tài chính.
Thực trạng phát triển dịch vụ tài chính ở Việt Nam
Ở Việt Nam, cùng với quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, một số hệ thống thị trường DVTC đồng bộ dần được hình thành nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng ngày càng đa dạng, cả về số lượng cũng như chủng loại của người dân và doanh nghiệp bao gồm: Dịch vụ ngân hàng, dịch vụ trên thị trường tài chính, dịch vụ bảo hiểm kế toán, kiểm toán, tư vấn tài chính. Các chủ thể tham gia thị trường DVTC ngày càng mở rộng, trong đó có các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Giá cả DVTC đang được đổi mới theo hướng tự do hóa, giảm dần sự can thiệp hành chính của cơ quan quản lý nhà nước.
Theo đó, thị trường DVTC ở Việt Nam trong thời gian qua, đã có bước tăng trưởng tốt, thể chế được hoàn thiện, khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế cũng như chất lượng dịch vụ được tăng cường. Cụ thể như:
Khung khổ pháp lý ngày càng được hoàn thiện
Nhìn chung, khung khổ pháp lý về thị trường DVTC ngày càng được hoàn thiện. Trong giai đoạn từ năm 2011 đến nay, các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành và sửa đổi, bổ sung theo hướng: (i) Phát triển TTCK trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn của nền kinh tế, minh bạch bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia thị trường; (ii) Phát triển thị trường bảo hiểm phù hợp với định hướng phát triển kinh tế – xã hội, đáp ứng nhu cầu của các tổ chức, cá nhân, hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh; (iii) Phát triển thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán đáp ứng yêu cầu thông tin cho quản lý, điều hành và kiểm soát các nguồn lực của nền kinh tế, thúc đẩy các hoạt động trong lĩnh vực tài chính ngày càng công khai, minh bạch; (iv) Phát triển dịch vụ ngân hàng theo hướng đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ, nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế.
Thị trường chứng khoán ngày càng phát triển
Trong giai đoạn 2011 – 2018, thị trường vốn ngày càng phát triển về quy mô, cải thiện về chất lượng và hiệu quả hoạt động; đóng góp tích cực vào việc huy động các nguồn lực cho hoạt động đầu tư phát triển kinh tế. Tính đến hết năm 2018, thị trường vốn đạt mức tăng trưởng bình quân 25%/năm, trong đó tốc độ tăng trưởng bình quân của TTCK đạt 27% và thị trường trái phiếu (TTTP) đạt 24%.
Quy mô thị trường vốn đạt 111,2% GDP, trong đó giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt 71,02% GDP, gấp 5,4 lần so với năm 2011; quy mô dư nợ TTTP đạt 39,12% GDP; thanh khoản TTCK được cải thiện rõ rệt, giá trị giao dịch bình quân năm 2018 gấp 2,3 lần so với năm 2011. Quy mô TTCK và TTTP đã vượt các mục tiêu đề ra đến năm 2020 tại Quyết định số 450/QĐ-TTg về Chiến lược tài chính đến năm 2020. Tính đến hết tháng 6/2019, quy mô thị trường vốn tăng khoảng 6,3% so với thời điểm cuối năm 2018.
TTCK sơ cấp khởi sắc từ năm 2013 cùng với sự phục hồi của nền kinh tế trong nước. Theo đó, các DN tăng cường huy động vốn trên TTCK, song song với việc Nhà nước đẩy mạnh việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và thoái vốn nhà nước tại các DN. Trong đó, một số DNNN được cổ phần hóa và thoái vốn có quy mô lớn, hoạt động có hiệu quả cao như: Tổng công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines), Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex), Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 1, Tổng công ty Xây dựng Công trình giao thông 4, Tổng công ty Xây dựng đường thủy, Công ty cổ phần Sữa Việt Nam, Công ty cổ phần bia Sài Gòn… đã thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Đối với TTTP, khối lượng huy động vốn qua phát hành TPCP bình quân khoảng 185.000 tỷ đồng/năm, đáp ứng 50%-60% nhu cầu huy động vốn cho cân đối ngân sách hàng năm. Thị trường TPCP bảo lãnh đã cơ bản đáp ứng nhu cầu huy động vốn phục vụ cho vay các chương trình tín dụng đầu tư và an sinh xã hội với khối lượng vốn huy động bình quân khoảng 30.000 tỷ đồng/năm.
TTTP chính quyền địa phương trong giai đoạn 2012 – 2017 đã giúp các địa phương huy động được khoảng 35 nghìn tỷ đồng, bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển cho địa phương trong bối cảnh nguồn lực của ngân sách trung ương và ngân sách địa phương còn hạn chế. Đối với thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN), khối lượng phát hành bình quân khoảng 80.000 tỷ đồng/năm, kỳ hạn phát hành chủ yếu từ 3-5 năm phù hợp với chu kỳ đầu tư của DN.
TTCK thứ cấp cũng phục hồi sau khủng hoảng tài chính toàn cầu, phát triển ổn định hơn so với giai đoạn trước đó mặc dù phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, quy mô thị trường tiếp tục phát triển trên nhiều phương diện. VN-index tăng trưởng liên tục từ mức 413 điểm năm 2012 lên 908,56 điểm vào cuối năm 2018 và ở mức 996,56 điểm vào cuối tháng 9/2019. Thanh khoản trên thị trường liên tục được cải thiện qua các năm, từ mức bình quân 915 tỷ đồng/phiên của năm 2012 lên khoảng 6.500 tỷ đồng/phiên của năm 2018. Bước sang năm 2019, mặc dù có một số thời điểm thị trường “trầm lắng” nhưng tính chung 9 tháng năm 2019 giao dịch bình quân phiên đạt khoảng 4.500 tỷ đồng/phiên.
Đối với TTTP, giao dịch trên thị trường thứ cấp năm 2018 đạt khoảng 8.700 tỷ đồng/phiên, gấp 8 – 9 lần so với năm 2012; tương đương 0,93% dư nợ trái phiếu niêm yết. Giao dịch bình quân trái phiếu trong 9 tháng năm 2019 tương đương với bình quân năm 2018. Hạ tầng giao dịch trên TTTP cũng được cải thiện, giúp giảm thời gian thanh toán, niêm yết trái phiếu từ T+6 (năm 2009) xuống T+2 (năm 2015), hệ thống thanh toán giao dịch TPCP qua Ngân hàng Nhà nước đã chính thức hoạt động từ ngày 1/8/2017, góp phần duy trì thị trường hoạt động ổn định, hiệu quả.
Cùng với sự phát triển của TTCK sơ cấp và thứ cấp, các sản phẩm dịch vụ mới được nghiên cứu, triển khai đáp ứng nhu cầu của các chủ thể trong nền kinh tế. Cụ thể, TTCK phái sinh vận hành từ tháng 8/2017, mở ra kênh đầu tư mới, hấp dẫn cho nhà đầu tư. Hiện nay, trên thị trường đã có các sản phẩm phái sinh chỉ số VN30, sản phẩm hợp đồng tương lai TPCP, sản phẩm chứng quyền có đảm bảo. Bên cạnh đó, các mục tiêu cơ bản của tái cấu trúc tổ chức kinh doanh chứng khoán đã đạt được. Các tổ chức kinh doanh chứng khoán từng bước thu hẹp số lượng và nâng cao chất lượng, tăng cường năng lực tài chính, quản trị công ty, quản trị rủi ro. Hiệu quả và hiệu lực của công tác quản lý, giám sát, cưỡng chế thực thi đối với thị trường được nâng cao, niềm tin đối với thị trường được duy trì, góp phần để thị trường tài chính hoạt động lành mạnh, ổn định.
Thị trường bảo hiểm phát triển ổn định
Những năm qua, thị trường bảo hiểm duy trì tốc độ phát triển ổn định. Trong giai đoạn 2015 – 2018, thị trường bảo hiểm duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân 25%/năm. Đến cuối năm 2018, doanh thu phí bảo hiểm đạt khoảng 3% GDP đối với doanh thu bảo hiểm gốc; thực hiện chi trả quyền lợi bảo hiểm đạt khoảng 36.415 tỷ đồng; các DN bảo hiểm đã đầu tư trở lại nền kinh tế trên 300 nghìn tỷ đồng. Đến tháng 6/2019, thị trường bảo hiểm có khoảng 1.300 sản phẩm được phát triển theo hướng ngày càng đa dạng và linh hoạt đối với tất cả nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ, nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ và nghiệp vụ bảo hiểm sức khỏe.
Sự phát triển thị trường bảo hiểm trong thời gian qua là kết quả việc tăng cường năng lực tài chính, năng lực quản trị, hiệu quả hoạt động của các DN bảo hiểm. Theo đó, một số giải pháp đã được triển khai như đa dạng hóa sở hữu nhằm hạn chế biểu hiện độc quyền, khép kín trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm; nâng cao mức độ an toàn tài chính và hiệu quả hoạt động đầu tư của các DN bảo hiểm, đảm bảo vốn chủ sở hữu không thấp hơn vốn điều lệ đã duy trì khả năng thanh toán ổn định. Bên cạnh đó, các DN bảo hiểm thực hiện đầu tư theo nguyên tắc an toàn, thận trọng, thanh khoản và kiểm soát hạn mức đầu tư; thúc đẩy hoạt động khai thác tại các mảng thị trường tiềm năng, cải thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc khách hàng, tăng cường hiệu quả kinh doanh, khuyến khích các DN phát triển sản phẩm mới, đáp ứng nhu cầu của người tham gia bảo hiểm; chuẩn hoá các khâu trong hoạt động kinh doanh, tăng cường quản trị rủi ro DN bảo hiểm theo thông lệ quốc tế.
Dịch vụ kế toán, kiểm toán và công tác quản lý được triển khai có hiệu quả
Dịch vụ kế toán, kiểm toán và công tác quản lý hành nghề kế toán, kiểm toán được triển khai có hiệu quả, góp phần tăng cường tính công khai, minh bạch trong nền kinh tế. Doanh thu cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán toàn thị trường năm 2018 đạt 7.800 tỷ đồng, tăng 20,09% so với năm 2017. Tổng số vốn điều lệ toàn thị trường năm 2018 đạt gần 1.400 tỷ đồng, tăng 3,67% so với năm 2017. Bên cạnh mức tăng trưởng về doanh thu cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán, khung khổ pháp lý và các chuẩn mực kế toán, kiểm toán đang từng bước sửa đổi, bổ sung và cập nhật theo thông lệ quốc tế.
Đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ ngân hàng cung ứng cho khách hàng
Dịch vụ ngân hàng phát triển nhanh, có tính cạnh tranh cao với nhiều loại hình sản phẩm, dịch vụ cung ứng cho khách hàng. Tín dụng được cung cấp dựa trên hiệu quả hoạt động của DN, phương án sản xuất kinh doanh, chú trọng nhiều hơn đến nhóm khách hàng là DN nhỏ và vừa. Các sản phẩm tiết kiệm được phát triển đa dạng để đáp ứng nhu cầu của người dân; dịch vụ thanh toán phát triển mạnh, gia tăng tiện ích, giảm thiểu chi phí, thời gian giao dịch cho khách hàng, thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt.
Các tổ chức tín dụng (TCTD) được cơ cấu lại theo hướng minh bạch tài chính, đa dạng cấu trúc sở hữu, củng cố năng lực hoạt động, nâng cao kỷ cương, nguyên tắc thị trường trong hoạt động ngân hàng. Số liệu thống kê cho thấy, tính đến cuối năm 2018, tổng tài sản của các TCTD đạt 10,98 triệu tỷ đồng, tương đương khoảng 200% GDP, gấp 2,36 lần so với quy mô tổng tài sản của các TCTD năm 2011.
Chất lượng cung cấp dịch vụ ngân hàng được nâng cao do các TCTD không ngừng củng cố, phát triển các hoạt động kinh doanh chính theo hướng an toàn, hiệu quả và từng bước đổi mới quản trị ngân hàng ngày càng phù hợp với các thông lệ, chuẩn mực quốc tế. Sau những tồn tại, yếu kém, tổn thất phát sinh từ nguyên nhân quản trị, điều hành thời gian trước đây, các TCTD đã ý thức và chú trọng hơn trong nâng cao năng lực quản trị ngân hàng, phát triển các hệ thống quản trị rủi ro, nâng cao hiệu quả kiểm soát, kiểm toán nội bộ; rà soát, hoàn thiện hệ thống các chính sách, quy trình, thủ tục về các lĩnh vực nghiệp vụ; nâng cao năng lực đánh giá, thẩm định, quản lý tín dụng…
Những tồn tại, hạn chế
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng về tổng thể, thị trường DVTC ở Việt Nam vẫn còn những tồn tại, hạn chế sau:
Thứ nhất, đối với thị trường chứng khoán
Tuy TTCK Việt Nam đã có bước phát triển nhanh nhưng còn tồn tại yếu tố chưa thực sự bền vững. Quy mô của thị trường cổ phiếu vẫn ở mức thấp. So với các thị trường trong khu vực ASEAN, giá trị vốn hóa của thị trường cổ phiếu Việt Nam chỉ tương đương 26,8% của Indonesia; 23,3% của Thái Lan; 29,5% của Malaysia; 16,8% của Singapore và 50,1% của Philippines. Số lượng các DN niêm yết và đăng ký giao dịch tuy lớn nhưng quy mô còn nhỏ và không đồng đều (10 cổ phiếu lớn nhất chiếm 55% tổng vốn hóa thị trường và 30 cổ phiếu lớn nhất chiếm 80% tổng vốn hóa thị trường).
Các sản phẩm TPDN, các sản phẩm quỹ và phái sinh trên TTCK chưa đa dạng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các nhà đầu tư. Các công ty đại chúng chưa chủ động công khai những thông tin về tình hình hoạt động, tình hình sử dụng vốn, tình hình quản trị công ty, đặc biệt là việc công bố thông tin bằng tiếng Anh để hỗ trợ các nhà đầu tư nước ngoài. Số lượng nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới…
Thứ hai, đối với thị trường bảo hiểm
Quy mô thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay ở mức thấp so với mức trung bình của các nước trong khu vực (3 – 5%) và thế giới (6 – 7%), chưa có các cơ chế quản lý, giám sát trên cơ sở rủi ro nhằm tăng cường sự chủ động của doanh nghiệp trong quản trị, điều hành.
Các sản phẩm bảo hiểm hưu trí tự nguyện, bảo hiểm cho người có thu nhập thấp chưa phát triển; phân khúc khai thác bảo hiểm còn chưa đồng đều. Trong khi đó, các DN bảo hiểm chủ yếu tập trung khai thác tại các thành phố lớn (trên 70% tổng doanh thu) và các đối tượng có thu nhập cao (với phí bảo hiểm bình quân hàng năm của 1 hợp đồng bảo hiểm nhân thọ khai thác mới là 12,5 triệu đồng).
Chất lượng và tính chuyên nghiệp của kênh phân phối đại lý bảo hiểm cũng cần phải tăng cường hơn nữa, như vậy mới có thể đảm bảo tốt vai trò là cầu nối giữa DN bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm.
Thứ ba, đối với dịch vụ kế toán, kiểm toán
Sự phát triển của thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán hiện nay phụ thuộc vào một số công ty kiểm toán nước ngoài; số lượng các kế toán và kiểm toán viên hành nghề có trình độ nghiệp vụ cao còn hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán.
Thứ tư, đối với dịch vụ ngân hàng
Hiện nay, Việt Nam vẫn còn thiếu các ngân hàng thương mại có quy mô lớn và có khả năng cạnh tranh tầm khu vực. Hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam có quy mô nhỏ, mức độ lành mạnh, năng lực tài chính còn hạn chế, chất lượng cung cấp dịch vụ còn thấp, mức độ an toàn của hệ thống ngân hàng Việt Nam chưa cao. Trong đó, có một bộ phận các TCTD hoạt động kém hiệu quả, mức độ an toàn thấp; phương thức cạnh tranh còn nặng về giá/lãi suất, chưa coi trọng đúng mức chất lượng dịch vụ.
Giải pháp phát triển dịch vụ tài chính của Việt Nam trong thời gian tới
Việt Nam đặt mục tiêu trong giai đoạn tới là tiếp tục giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, đi đôi với đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, bảo đảm nền kinh tế phát triển bền vững. Đối với các ngành dịch vụ nói chung, chủ trương là cơ cấu lại để đảm bảo duy trì tốc độ tăng trưởng các ngành dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Đối với DVTC, chủ trương đặt ra là thực hiện Đề án tái cấu trúc TTCK và thị trường bảo hiểm đến năm 2020, Đề án phát triển TTTP đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; đẩy mạnh cơ cấu lại toàn diện đối với các TCTD. Đây là điều kiện hết sức thuận lợi để phát triển thị trường DVTC Việt Nam theo hướng hiện đại, vận hành theo xu hướng và thông lệ quốc tế.
Nhằm thực hiện hiệu quả các mục tiêu trên, đảm bảo phát triển thị trường DVTC Việt Nam, chúng tôi cho rằng cần đẩy mạnh triển khai một số nội dung sau:
Thứ nhất, đối với TTCK
– Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện Luật Chứng khoán sửa đổi và hoàn thiện hệ thống các văn bản hướng dẫn theo hướng minh bạch thông tin và xử lý tranh chấp, tạo điều kiện thu hút dòng vốn gián tiếp nước ngoài vào TTCK.
– Tiếp tục triển khai Kế hoạch tái cơ cấu TTCK đồng bộ và toàn diện, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, an toàn hệ thống, đảm bảo cơ cấu hợp lý giữa các cấu phần của thị trường tài chính. Theo đó, cơ cấu lại sản phẩm trên TTTP nhằm tiếp tục nâng cao quy mô thị trường và đa dạng hóa sản phẩm; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra hoạt động huy động, sử dụng vốn và công bố thông tin; phối hợp với các hiệp hội nghề nghiệp trong việc kiểm tra chất lượng báo cáo tài chính; từng bước áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế trên TTCK; khuyến khích các tổ chức định mức tín nhiệm có uy tín trên thế giới hoạt động trên TTCK Việt Nam…
Phát triển thị trường TPCP để vừa đáp ứng nhu cầu huy động vốn cho ngân sách, vừa làm thị trường chuẩn cho thị trường tài chính; đẩy mạnh hoạt động thị trường TPDN, tạo điều kiện cho các DN huy động vốn phục vụ sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, đối với thị trường bảo hiểm
– Rà soát, đánh giá triển khai Luật Kinh doanh bảo hiểm để nghiên cứu, xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bảo hiểm phù hợp với thực tiễn; tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các chính sách, đa dạng hóa các sản phẩm bảo hiểm.
– Phát triển và chuyên nghiệp hóa các kênh phân phối bảo hiểm để theo kịp sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, phục vụ tốt nhất bên mua bảo hiểm, quản lý các tổ chức cung cấp dịch vụ bổ trợ dành cho bảo hiểm theo hướng quy định điều kiện, tiêu chuẩn hoạt động của tổ chức cung cấp dịch vụ bổ trợ tương ứng với từng loại hình dịch vụ.
Thứ ba, đối với dịch vụ kế toán, kiểm toán
Tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp lý nhằm thúc đẩy kiểm toán độc lập và dịch vụ kế toán phát triển ổn định; nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán. Triển khai việc cập nhật các chuẩn mực kế toán Việt Nam trên cơ sở các chuẩn mực kế toán quốc tế, phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Đổi mới chương trình thi và cấp chứng chỉ kế toán viên, kiểm toán viên nhằm mục tiêu đạt sự công nhận của quốc tế và khu vực.
Thứ tư, đối với dịch vụ ngân hàng
– Hoàn thiện khung khổ pháp lý về tiền tệ và hoạt động ngân hàng trên cơ sở đảm bảo an toàn hoạt động hệ thống ngân hàng theo thông lệ quốc tế và đáp ứng nhu cầu hội nhập.
– Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD và ban hành các văn bản hướng dẫn, nhằm xác định những chuẩn mực chung đối với việc ứng dụng công nghệ số. Đồng thời, ban hành khuôn khổ pháp lý thử nghiệm cho các sản phẩm, DVTC ngân hàng dựa trên công nghệ mới.
– Tái cấu trúc hạ tầng công nghệ ngân hàng theo hướng đơn giản hóa, tự động hóa, sử dụng trí tuệ nhận tạo, đảm bảo an ninh bảo mật, làm nền tảng cho việc đổi mới tổ chức và hoạt động của mỗi ngân hàng. Phát triển các phương thức thanh toán điện tử phù hợp với xu hướng thanh toán của thế giới.
– Thực hiện tái cơ cấu các TCTD theo hướng lành mạnh hóa tình hình tài chính; nâng cao năng lực quản trị của các TCTD theo quy định của pháp luật và phù hợp với thông lệ quốc tế; tăng vốn và cải thiện chất lượng nguồn vốn tự có của các TCTD, thực hiện quyết liệt các giải pháp kiểm soát chất lượng tín dụng, giảm nợ xấu, nâng cao chất lượng tài sản…
1. Quyết định số 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 – 2020”; 2. Quyết định số 242/QĐ-TTg ngày 28/2/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025”; 3. Đề tài “Giải pháp tài chính để thúc đẩy cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng trong giai đoạn 2016-2020” của Viện Tài chính Ngân hàng; 4. Báo cáo thường niên thị trường bảo hiểm các năm từ 2011 đến 2018; 5. Báo cáo tổng kết hoạt động hàng năm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Giải Pháp Phát Triển Thị Trường Cho Thuê Tài Chính Máy Thi Công Xây Dựng Tại Việt Nam
Tại Nhật Bản có gần 240 công ty cho thuê tài chính, gần 97% doanh nghiệp sử dụng dịch vụ này. Tại Trung Quốc, số công ty cho thuê tài chính lên tới 3.200 công ty, gần 65% doanh nghiệp sử dụng dịch vụ này. Tại Mỹ, khoảng 80% các doanh nghiệp lớn trong danh sách Fortune 500 đều thuê một phần máy móc thiết bị trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thị trường cho thuê tài chính tăng trưởng nhanh cùng với sự tăng trưởng cao của nền kinh tế Nhật Bản. Với tỷ lệ hơn 97% doanh nghiệp tại Nhật Bản đang sử dụng dịch vụ thuê tài chính thì loại tài sản thuê tài chính là máy móc, thiết bị trong ngành công nghiệp xây dựng chiếm tỷ trọng đáng kể trong tỷ rtongj giá trị cho thuê tài chính. Các nhà thầu xây dựng Nhật Bản không ưu tiên việc bỏ tiền để đầu tư máy móc xây dựng, thay vào đó họ ưu tiên phương án thuê tài chính máy thi công. Ba lí do hàng đầu khiến nhà thầu xây dựng Nhật bản chọn sử dụng sản phẩm cho thuê tài chính là:
(i) Không cần vốn ban đầu khi đầu tư thiết bị.
(ii) Tiết kiệm nguồn lực cho các việc quản lý hành chính
(iii) Dễ dàng nắm bắt được chi phí, cập nhật được công nghệ thi công mới cùng thiết bị thi công hiện đại với chi phí tài chính hợp lí.
2. Thực trạng cho thuê tài chính máy và thiết bị thi công xây dựng tại Việt Nam và triển vọng phát triển
Công nghệ xây dựng của Việt Nam đã và đang từng bước bắt kịp công nghệ xây dựng hiện đại của khu vực, trước mắt là các nước phát triển ở châu Á. Những năm gần đây, công nghệ xây dựng đã có những bước phát triển tương đối tốt, ví dụ như phương pháp thi công hiện đại, vật liệu tiên tiến đã được nhà thầu xây dựng Việt Nam áp dụng như robot đào hầm tuyến metro, công nghệ bê tông xây dựng nhà siêu cao tầng, công nghệ khoan kích ống ngầm…Tuy nhiên, sự tích cực nêu trên chưa được triển khai rộng rãi, phổ biến trên diện rộng. Bởi lẽ, một số công nghệ muốn áp dụng phải có lượng vốn, tiềm lực tài chính để đầu tư công nghệ xây dựng đồng bộ với hệ thống thiết bị xây dựng để thực hiện công nghệ mới. Số lượng và chất lượng máy móc thi công xây dựng là yếu tố quan trọng để đánh giá tiềm lực và sức khỏe của nhà thầu xây dựng để cạnh trnah trong đấu thầu.
2.1. Thực trạng cơ chế, chính sách đối với thị trường cho thuê tài chính máy và thiết bị thi công xây dựng tại Việt Nam
Tại thị trường Việt Nam, công ty cho thuê tài chính đầu tiên được thành lập vào năm 1996, nhưng đến năm 2001, khi Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 2/5/2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính được ban hành, hoạt động cho thuê tài chính mới có đầy đỉ môi trường và điều kiện pháp lý để phát triển.
Trên thực tế, theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước (2018) thì số công ty cho thuê tài chính còn khá ít ỏi, việc tiếp cận khách hàng còn hạn chế, nhiều doanh nghiệp nói chung và nhà thầu xây dựng nói riêng còn chưa biết đến loại hình tín dụng này. Trong số 11 công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam, có 7 công ty cho thuê tài chính Việt Nam, 1 công ty liên doanh và 3 công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, chỉ có 5 công ty trong nước và 3 công ty nước ngoài đang hoạt động. Dịch vụ cho thuê tài chính chưa phổ biến là thiệt thòi lớn cho nhà thầu xây dựng Việt Nam. Dư nợ cho thuê tài chính hết quý 1/2018 chỉ vào khoảng 370 triệu USD. Vì vậy, thuê tài chính được đánh giá là còn tiềm năng phát triển mạnh tại Việt Nam, nhất là trong bối cảnh nhu cầu nguồn vốn trung dài hạn của doanh nghiệp để đầu tư phát triển ngày càng tăng như hiện nay.
Theo Nghị định số 39/2014/NĐ-CP ngày 7/5/2014 của Chính phủ về hoạt động của công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính thì các hình thức cho thuê tài chính mà các công ty được phép kinh doanh ở Việt Nam như sau:
a) Hình thức cho thuê tài chính trong nước
Cho thuê tài chính trong nước là việc công ty cho thuê tài chính đại diện.
Bên thuê sẽ mua tài sản từ Nhà cung cấp ở trong nước và cho Bên thuê thuê lại tài sản theo lịch trình thanh toán thể hiện trên Hợp đồng thuê.
Thuê tài chính trong nước còn là phương thức cấ tín dụng trung và dài hạn cho dự án đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất, phương tiện vận chuyển của doanh nghiệp.
Khi thuê tài chính thì Bên thuê sẽ tự chọn lựa loại thiết bị, nhà cung cấp hoặc nhà sản xuất. Họ cũng có thể thương lượng trực tiếp về giá mua, chế độ bảo hành và các dịch vụ hẫu mãi cần thiết với nhà cung cấp. Căn cứ vào đơn xin thuê, công ty cho thuê tài chính sẽ mua đúng loại thiết bị và các dịch vụ kèm theo và giao cho bên thuê sử dụng. Đến cuối thời hạn thuê, Bên thuê sẽ được chuyển quyền sở hữu thiết bị hay hiểu một cách đơn giản trong thời gian thuê tài chính thì quyền sử dụng tài sản thuê tài chính sẽ thuộc về bên thuê và quyền sở hữu sẽ thuộc về bên cho thuê.
b) Hình thức cho thuê tài chính nhập khẩu
Cho thuê tài chính nhập khẩu là việc công ty cho thuê tài chính đại diện Bên thuê mua tài sản từ Nhà cung cấp ở nước ngoài và cho bên thuê thuê lại tài sản theo lịch trình thanh toán quy định trong hợp đồng thuê.
Một số công ty cho thuê tài chính như công ty cho thuê tài chính Chailease cả hình thức mở tín dụng thư để nhập khẩu tài sản thuê cho khách hàng nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể thực hiện nghiệp vụ này.
c) Hình thức cho thuê tài chính mua và cho thuê lại
Mua và cho thuê lại theo hình thức cho thuê tài chính (gọi tắt là Mua và cho thuê lại) là việc công ty cho thuê tài chính mua tài sản thuộc sở hữu Bên thuê và cho bên thuê thuê lại chính tài sản đó theo hình thức cho thuê tài chính để bên thuê tiếp tục sử dụng phục vụ cho hoạt động của mình trong thời gian bên thuê khó khăn về tài chính thanh toán cho nhà cung cấp. Trong giao dịch mua và cho thuê lịa, bên thuê đồng thời là nhà cung cấp tài sản cho thuê.
Hoặc khi cần nguồn vốn lưu động sản xuất kinh doanh, họ cũng có thể sử dụng dịch vụ này đối với bất kì máy móc thiết bị hiện có nào tại doanh nghiệp. Dịch vụ này giúp các doanh nghiệp có thể trích khấu hao, chuyển thiết bị thành tiền mặt trong khi vẫn còn toàn quyền sử dụng thiết bị.
d) Hình thức cho thuê tài chính cho thuê vận hành
Còn được gọi là cho thuê hoạt động, là hình thức cho thuê tài sản, theo đó khách hàng sử dụng tài sản xho thuê của công ty cho thuê tài chính trong một thời gian nhất định và sẽ hoàn trả lại tài sản đó cho bên cho thuê khi kết thúc thời hạn thuê tài sản. Công ty cho thuê tài chính giữ quyền sở hữu tài sản cho thuê và khách hàng phải có trách nhiệm thanh toán theo hợp đồng thuê.
Một doanh nghiệp không nhất thiết phải sở hữu tài sản để tạo ra lợi nhuận. Với một số ngành nghề đặc thù, chỉ cần sử dụng quyền sử dụng tài sản trong một khoảng thời gian nhất định để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh. Hơn nữa, thành tựu công nghệ phát triển ngày càng nhanh, nên việc mua đứt máy móc thiết bị đặc thù có thể sẽ làm doanh nghiệp vị lạc hậu hay lỗi mốt và gây nhiều trở ngại cho việc phát triển kinh doanh. Đây được xem là giải pháp hữu hiệu giúp doanh nghiệp hạn chế các rủi ro về coongg nghệ, giá cả, chi phí bảo trì, sửa chữa, chi phí thanh lý tài sản…Loại hình dịch vụ này rất phù hợp với các doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng tài sản thuê trong thời gian không quá dài và luôn có nhu cầu cập nhật công nghệ. Đối với lĩnh vực xây dựng ở các nước phát triển, thì đây là một hình thức thuê tài chính máy và thiết bị xây dựng công nghê được các nhà thầu xây dựng lựa chọn để vừa có được máy móc xây dựng với công nghệ hiện đại, đáp ứng tối đa nhu cầu theo các khoảng thời gian xây dựng công trình hoặc thực hiện theo từng gói thầu xây dựng cụ thể.
2.2. Thực trạng thị trường cho thuê tài chính máy và thiết bị thi công xây dựng tại Việt Nam
Một thực trạng trên thị trường máy xây dựng tại Việt Nam là trong khi thị trường máy xây dựng đa dạng và sôi động như vậy thì các công ty thuê mua tài chính lại không phát triển và chưa trở thành địa chỉ hấp dẫn của các doanh n ghiệp xây dựng trong lĩnh vực thuê mua máy xây dựng.
Thực tế để thi công công trình xây dựng có quy mô lớn như công trình thủy điện, nhiệt điện, hầm lò, dầu khí, các công trình đầu tư hạ tầng kỹ thuật có quy mô công suất lớn yêu cầu phải đầu tư số vốn ban đầu rất lớn để nhập các loại xe tải nặng, máy móc thi công, đặc chủng như các cần cẩu có sức nâng lớn, hệ thống khoan hiện đại…
Trong điều kiện thị trường cho thuê tài chính máy xây dựng tại Việt Nam còn chưa phát triển, chưa thực sự hấp dẫn thì đối với doanh nghiệp xây dựng, việc đầu tư mua thiết bị của các công ty thuê mua tài chính bởi thủ tục rườm rà, và phí vận chuyển rất cao. Đó là chưa nói đến các công ty thuê mua tài chính và các đại lý hoạt động trong lĩnh vực này nhiều khi chỉ là môi giới ăn hoa hồng. Theo đánh giá của các chuyên gia trong nước, các công ty thuê mua tài chính chưa đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp xây lắp lớn. Chính vì lẽ đó mà không ít doanh nghiệp phải bỏ ra một số ngoại tệ rất lớn mua thiết bị, máy móc chỉ dùng một vài lần hoặc một vài năm rồi đắp chiếu để đấy. Đặc biệt đối với những thiết bị đặc chủng như hệ thống khoan thi công hầm, hệ thống cẩu nâng siêu tải trọng…Đây là sự lãng phí rất lớn với nguồn lực máy xây dựng, làm yếu đi năng lực cạnh tranh của các nhà thầu xây dựng trong nước trong giai đoạn hội nhập sâu rộng của ngành xây dựng cùng với sức ép cạnh tranh khốc liệt của các nhà thầu xây dựng nước ngoài trên thị trường xây dựng Việt Nam.
3. Nguyên nhân của các tồn tại và một số giải pháp thúc đẩy sự phát triển của thị trường cho thuê tài chính máy và thiết bị thi công xây dựng 3.1. Nguyên nhân của các tồn tại và hạn chế
Theo đánh giá của các chuyên gia, cùng với sự hội nhập của ngành xây dựng thì xu hướng cho thuê tài chính máy và thiết bị thi công xây dựng sẽ là xu hướng phát triển tại Việt Nam trong thời gian tới. Tuy nhiên, qua những phân tích tại mục 2 nêu trên, có thể nhận diện nguyên nhân của các tồn tại và hạn chế trong sự phát triển của thị trường cho thuê tài chính máy và thiết bị thi công xây dựng theo 3 nguyên nhân sau:
Một là, cơ chế chính sách pháp luật chưa tạo ra một hành lang pháp lý đầy đủ và thông thoáng có xét đến đặc điểm riêng của thị trường máy xây dựng gắn với đặc thù của công trình xây dựng.
Hai là, số lượng các công ty cho thuê tài chính nói chung và chuyên về mảng thuê tài chính máy và thiết bị thi công xây dựng còn hạn chế.
Ba là, sự quan tâm và hiểu biết của các nhà thầu thi công xây dựng về loại hình thuê tài chính máy và thiết bị thi công xây dựng còn ở mức độ nhất định. Chưa tạo được sự tin tưởng và hấp dẫn với các nhà thầu.
3.2. Một số giải pháp thúc đẩy sự phát triển của thị trường cho thuê tài chính máy và thiết bị thi công xây dựng
Để thúc đẩy sự phát triển của thị trường cho thuê tài chính máy và thiết bị thi công xây dựng trong thời gian tới, đề xuất một số giải pháp cụ thể như sau:
Thứ hai, các ngân hàng hay doanh nghiệp tài chính trong nước bản thân mình cần đầu tư nguồn lực về công nghệ quản trị, nhân lực, các dịch vụ đi kèm về tư vấn công nghệ, hỗ trợ bảo trì tài sản…Với vị thế trung gian trong giao dịch mua bán tài sản thuê, công ty cho thuê tài chính có thể phát triển quan hệ với các nhà cung cấp lớn nhằm đem lại nhiều lợi ích cho khách hàng.
Thứ ba, cần có cơ chế hấp dẫn để thu hút sự quan tâm và nhu cầu của doanh nghiệp xây lắp trong nước nhận thức được hiệu quả của mô hình thuê mua tài chính máy và thiết bị thi công xây dựng trong chiến lược phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong hội nhập.
(Nguồn: Tạp chí Kinh tế xây dựng, Số 4/2019)
Cập nhật thông tin chi tiết về Tìm Giải Pháp Phát Triển Thị Trường Vốn, Tài Chính Việt Nam trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!