Xu Hướng 4/2023 # Tiểu Luận Thực Trạng Và Giải Pháp Phát Huy Vai Trò Người Cao Tuổi Trên Địa Bàn Xã # Top 9 View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 4/2023 # Tiểu Luận Thực Trạng Và Giải Pháp Phát Huy Vai Trò Người Cao Tuổi Trên Địa Bàn Xã # Top 9 View

Bạn đang xem bài viết Tiểu Luận Thực Trạng Và Giải Pháp Phát Huy Vai Trò Người Cao Tuổi Trên Địa Bàn Xã được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

MỞ ĐẦU Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: Người cao tuổi là của quý vô giá của dân tộc, của Nhà nước. Thực hiện lời dạy của Người, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, coi trọng công tác chăm sóc người cao tuổi, tôn vinh, và phát huy giá trị vô giá của người cao tuổi để họ tiếp tục đóng góp cho sự nghiệp đổi mới đất nước. Ý thức được vai trò, tầm quan trọng của người cao tuổi đối với sự phát triển của địa phương, trong những năm qua, cấp ủy, chính quyền và Hội người cao tuổi đã thường xuyên quan tâm phát huy vai trò, trách nhiệm của người cao tuổi ở địa phương. Người cao tuổi trong toàn xã đã tích cực tham gia phong trào thi đua yêu nước “Tuổi cao chí càng cao, nêu gương sáng vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, hiến kế, hiến công, nêu gương trên lĩnh vực công tác, lao động sản xuất, giảm nghèo, khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, tham gia đóng góp ý kiến xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch vững mạnh. Bên cạnh những kết quả đạt được, việc phát huy vai trò của người cao tuổi trên địa bàn xã còn những hạn chế, đó là: đời sống của một số ít hội viên người cao tuổi còn khó khăn; việc xã hội hóa công tác chăm sóc còn hạn chế… Chính vì vậy, nhằm làm rõ hơn nữa cơ sở lý luận, thực tiễn của phát huy vai trò người cao tuổi, chỉ ra những nguyên nhân của các hạn chế, trên cơ sở đó, đưa ra những giải pháp góp phần phát huy vai trò người cao tuổi trên địa bàn xã…….., huyện………., tỉnh……, từ những kiến thức trong quá trình học tập tại trường và kết quả nghiên cứu, thực tế tại xã………., Tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu “Thực trạng và giải pháp phát huy vai trò người cao tuổi trên địa bàn xã………trong giai đoạn hiện nay” làm tiểu luận môn học……………….

Loại file : word số trang : 17 Phí dowload 50000

Tài liệu này được tính phí là : 50000 Bạn có thể sử dụng các phương thức sau để thanh toán với chúng tôi:

1. Chuyển khoản qua Ngân hàng

Bạn vui lòng chuyển khoản đến một trong các ngân hàng sau:

, số tài khoản: 12001010915309, Ngân hàng Hàng Hải, Chi nhánh Vĩnh Phúc.

Hoặc

, số tài khoản: 2808215005300, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, chi nhánh huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.

Sau khi chuyển khoản thanh công, vui lòng liên hệ với chúng tôi để được cung cấp tài liệu nhanh nhất.

2. Thanh toán bằng thẻ cào điện thoại

MỞ ĐẦU Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: Người cao tuổi là của quý vô giá của dân tộc, của Nhà nước. Thực hiện lời dạy của Người, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, coi trọng công tác chăm sóc người cao tuổi, tôn vinh, và phát huy giá trị vô giá của người cao tuổi để họ tiếp tục đóng góp cho sự nghiệp đổi mới đất nước. Ý thức được vai trò, tầm quan trọng của người cao tuổi đối với sự phát triển của địa phương, trong những năm qua, cấp ủy, chính quyền và Hội người cao tuổi đã thường xuyên quan tâm phát huy vai trò, trách nhiệm của người cao tuổi ở địa phương. Người cao tuổi trong toàn xã đã tích cực tham gia phong trào thi đua yêu nước “Tuổi cao chí càng cao, nêu gương sáng vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, hiến kế, hiến công, nêu gương trên lĩnh vực công tác, lao động sản xuất, giảm nghèo, khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, tham gia đóng góp ý kiến xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch vững mạnh. Bên cạnh những kết quả đạt được, việc phát huy vai trò của người cao tuổi trên địa bàn xã còn những hạn chế, đó là: đời sống của một số ít hội viên người cao tuổi còn khó khăn; việc xã hội hóa công tác chăm sóc còn hạn chế… Chính vì vậy, nhằm làm rõ hơn nữa cơ sở lý luận, thực tiễn của phát huy vai trò người cao tuổi, chỉ ra những nguyên nhân của các hạn chế, trên cơ sở đó, đưa ra những giải pháp góp phần phát huy vai trò người cao tuổi trên địa bàn xã…….., huyện………., tỉnh……, từ những kiến thức trong quá trình học tập tại trường và kết quả nghiên cứu, thực tế tại xã………., Tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu “Thực trạng và giải pháp phát huy vai trò người cao tuổi trên địa bàn xã………trong giai đoạn hiện nay” làm tiểu luận môn học……………….

An Sinh Xã Hội Cho Người Cao Tuổi: Thực Trạng Và Giải Pháp

An sinh xã hội đối với người cao tuổi là những can thiệp của Nhà nước và xã hội bằng các biện pháp kinh tế để hạn chế, phòng ngừa và khắc phục rủi ro cho đối tượng này. Trong những năm qua, bảo đảm an sinh xã hội cho người cao tuổi ở Việt Nam ngày càng được hoàn thiện và phát triển. Đến nay, đã có nhiều chính sách, chương trình dành cho người cao tuổi theo các nhóm đối tượng khác nhau, nhưng tập trung nhất là các nhóm chính sách về BHXH, BHYT và trợ cấp xã hội.

Định hướng chính sách về an sinh xã hội cho người cao tuổi ở Việt Nam ngày càng được hoàn thiện Chăm sóc và phát huy vai trò của người cao tuổi trong đời sống xã hội luôn là những định hướng chính sách mà Đảng và Nhà nước quan tâm và thực hiện trong các giai đoạn phát triển của đất nước. Điều đó đã được thể hiện rất rõ từ Hiến pháp năm 1946 cho đến Hiến pháp năm 2013. Ngày 27/09/1995, Ban Bí thư Trung ương Đảng Khóa VII đã ban hành Chỉ thị số 59-CT/TW, nhấn mạnh: “Người cao tuổi có công sinh thành, nuôi dạy con cháu giữ gìn và phát triển giống nòi, giáo dục các thế hệ thanh niên Việt Nam về nhân cách, phẩm chất và lòng yêu nước; một bộ phận đông đảo người cao tuổi Việt Nam đã có những đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” nên việc chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của người cao tuổi là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và của toàn xã hội. Nhà nước cần dành ngân sách để giải quyết các vấn đề xã hội, trong đó có vấn đề chăm sóc người cao tuổi. Sau hơn 14 năm thực hiện Chỉ thị số 59-CT/TW, ngày 27/01/2010, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Thông báo kết luận số 305 về kết quả thực hiện Chỉ thị số 59-CT/TW về chăm sóc người cao tuổi và những nhiệm vụ cần phải thực hiện trong thời gian tới. Ngày 28/04/2000, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Người cao tuổi và sau đó là Luật Người cao tuổi có hiệu lực thi hành từ 01/07/2010. Bên cạnh những định hướng chung này, hàng loạt các luật, chính sách được thông qua nhằm đảm bảo đời sống kinh tế, đời sống xã hội và chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi cũng đã được ban hành và thực hiện. Như vậy, định hướng chính sách an sinh xã hội cho người cao tuổi ở nước ta không ngừng được hoàn thiện và phát triển làm cơ sở thực hiện tốt công tác chăm sóc và phát huy người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay.

An sinh xã hội cho người cao tuổi có nhiều tiến bộ, song vẫn còn hạn chế, bất cập Nhận thức về già hóa và An sinh xã hội cho người cao tuổi còn chưa đầy đủ và toàn diện Năm 2011, Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ già hóa dân số với rất nhiều thách thức mà Đảng, Nhà nước và từng cá nhân, gia đình, cộng đồng phải đặc biệt quan tâm. Song, trong thực tế, một bộ phận cán bộ lãnh đạo, các ban, ngành, đoàn thể, chính bản thân người cao tuổi và gia đình nhận thức chưa đầy đủ về những thách thức này. Dẫn đến chưa chuẩn bị tâm thế cho một xã hội dân số già trong khoảng 18-22 năm nữa, thậm chí chỉ trong vòng 15 năm tới như khẳng định của World Bank tại Việt Nam. Chắc chắn đến năm 2050, Việt Nam sẽ là quốc gia có dân số “siêu già” như Nhật Bản hiện nay và với hơn 32 triệu người cao tuổi, chiếm 31% tổng dân số. Tốc độ “già hóa dân số” nhanh sẽ tác động tới nhiều lĩnh vực đời sống xã hội như hệ thống dịch vụ chăm sóc sức khỏe, hệ thống an sinh xã hội, việc làm, tuổi nghỉ hưu, quan hệ gia đình, tâm lý, lối sống… đặt ra yêu cầu, thách thức là cần phải xây dựng một xã hội thích ứng với giai đoạn “già hóa dân số” của đất nước. Chúng ta cũng nhận thức chưa đầy đủ về việc đảm bảo quyền và khả năng tiếp cận, thụ hưởng chăm sóc sức khỏe, An sinh xã hội, an toàn và môi trường thân thiện với người cao tuổi. Theo Tổng cục Dân số-Kế hoạch hóa gia đình, Bộ Y tế, người cao tuổi Việt Nam chủ yếu sống ở nông thôn, làm nông nghiệp và là nông dân; đa số chưa có thói quen khám bệnh định kỳ và khi phát hiện, bệnh thường ở giai đoạn muộn khiến việc chữa trị khó khăn hơn.Chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi còn nhiều thách thức Sức khỏe là tiêu chí quan trọng nhất khi phân tích thực trạng về phúc lợi của người cao tuổi. Trong thời gian vừa qua, do đời sống vật chất và tinh thần được cải thiện cùng với những tiến bộ nhất định của hệ thống y tế, sức khỏe của người cao tuổi Việt Nam nhìn chung được cải thiện. Tuy nhiên, còn nhiều thách thức về chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi Việt Nam: Tình trạng sức khỏe của người cao tuổi phụ thuộc rất nhiều vào tuổi tác, tuổi càng tăng thì tỷ lệ người cao tuổi có sức khỏe yếu càng cao, số bệnh mắc phải càng lớn và thời gian nằm viện càng dài. Thách thức lớn nhất đối với việc chăm sóc sức khỏe người cao tuổi hiện nay là mô hình và nguyên nhân bệnh tật của người cao tuổi đang thay đổi nhanh chóng khiến cho gánh nặng “bệnh tật kép” ngày càng rõ ràng. Do hệ quả của sự thay đổi mô hình bệnh tật là các bệnh không lây nhiễm đang nhanh chóng trở thành nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tật và tàn phế cho người cao tuổi và xu hướng này sẽ tiếp tục diễn ra trong những thập niên tới. Đồng thời, chi phí trung bình để chăm sóc sức khỏe cho một người cao tuổi bằng 7-8 lần chi phí trung bình chăm sóc sức khỏe cho một người trẻ tuổi, gánh nặng lớn về nguồn lực chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi là điều không tránh khỏi. Trong khi đó, mức độ hiểu biết về chăm sóc sức khỏe và tự chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi còn thấp, phần lớn người cao tuổi không biết các biểu hiện hoặc cách phòng chống các bệnh thường gặp. Khả năng và tỷ lệ tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe giữa các nhóm người cao tuổi hết sức khác nhau và đây là một nguyên nhân khiến cho một bộ phận không nhỏ người cao tuổi không được điều trị, chăm sóc đầy đủ ngay cả khi phát hiện ra bệnh tật. Mặt khác, mặc dù tỷ lệ người cao tuổi ngày càng tăng nhưng mạng lưới y tế cho người cao tuổi ở Việt Nam còn yếu, nhân viên y tế phục vụ tại cộng đồng còn thiếu; kỹ năng phát hiện, điều trị và chăm sóc người cao tuổi còn hạn chế.

Theo Tạp chí Bảo hiểm xã hội

Tiểu Luận Thực Trạng Và Giải Pháp Phát Triển Bền Vững Đất Nước

A. LỜI MỞ ĐẦU Mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn 2006-2010 của Việt Nam là “đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất văn hoá, tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2010. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.” Muốn nước ta đứng vững trên con đường phát triển thì cần phải hiểu về phát triển bền vững.Vì vậy trong khuôn khổ bài viết, em xin trình bày về “thực trạng và giải pháp phát triển bền vững đất nước”. Từ đó đưa ra những thành tựu, hạn chế và giải pháp khắc phục. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS. ĐOÀN QUANG THỌ đã hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành bài tiểu luận này. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do thời gian và thông tin có hạn nên không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được thầy giáo chỉ bảo. B. NỘI DUNG Phần I: Những lí luận về phát triển bền vững I. Định nghĩa về phát triển bền vững Định nghĩa : Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thoả mãn các nhu cầu hiện tại của con người nhưng không tổn hại tới sự thoả mãn các nhu cầu của thế hệ tương lai. Phát triển bền vững đang là bài toán khó và là thách thức cho mọi quốc gia, nhất là trong điều kiện toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế,việc ựa chọn con đường, biện pháp và thể chế, chính sách đảm bảo phát triển bền vững luôn là mối quan tâm hàng đầu của mọi người trong bước đường phát triển. Các nguyên tắc xây dựng một xã hội phát triển bền vững(theo Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc đã đề ra 9 nguyên tắc: +) Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng. +) Cải thiện chất lượng cuộc sống của con người. +) Bảo vệ sức sống và tính đa dạng của Trái đất. +) Quản lý những nguồn tài nguyên không tái tạo được. +) Tôn trọng khả năng chịu đựng được của Trái đất. +) Thay đổi tập tục và thói quen cá nhân. +) Ðể cho các cộng đồng tự quản lý môi trường của mình. +) Tạo ra một khuôn mẫu quốc gia thống nhất, thuận lợi cho việc phát triển và bảo vệ. +) Xây dựng một khối liên minh toàn cầu. Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững năm 2002 đã xác định “phát triển bền vững” là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: phát triển kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội (nhất là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (nhất là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; phòng chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên. II.Hậu quả của sự phát triển kinh tế đối với phát triển bền vững 1. Tăng trưởng kinh tế quá nhanh làm cho lạm phát tăng, bất bình đẳng xã hội tăng -Có sự đánh đổi giữa tăng trưởng và lạm phát, vì để tăng trưởng thì phải tăng đầu tư, mà để tăng đầu tư thì phải tăng cung tiền, tăng tín dụng. Lạm phát ở nước ta đang có xu hướng tăng cao trong những năm gần đây. Lạm phát trung bình năm 2005 là 8,3%, 2006 là 7,5% và 11,3% năm 2007 lạm phát trung bình của Việt Nam cao hơn các nước trong khu vực. -Như đã nói ở trên, tăng trưởng kinh tế nhanh sẽ dẫn đến lạm phát. Khi có lạm phát tức là giá cả sẽ tăng lên.Giá cả tăng sẽ tác động đến mọi người dân nhưng tác động mạnh nhất là công chức nhà nước và người nghèo. Trong nhóm người nghèo bị tác động mạnh ở Việt Nam có một phần rất đông là nông dân, sản xuất nông nghiệp. Những người nghèo thì hầu hết thu nhập dùng cho chi tiêu hàng ngày, có bao nhiêu phải chi hết, thậm chí không đủ mà chi. Vì vậy, giá cả lên sẽ khiến cuộc sống vốn eo hẹp của nhóm đối tượng này càng eo hẹp và khó khăn hơn. Nếu giá cả càng tăng thì càng tác động tiêu cực đến người nghèo và quá trình đó sẽ làm phân hóa giàu nghèo càng mạnh hơn. 2. Tăng trưởng kinh tế làm kiệt quệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái bị huỷ hoại – Sự phát triển trong những năm qua đã làm kiệt quệ tài nguyên thiên nhiên, phá vỡ cân bằng sinh thái, tổn hại đến môi trường- cơ sở tồn tại của chính bản thân con người. Trong khi loài người chiếm lĩnh những đỉnh cao của khoa học thì cũng là lúc phải đối mặt với nhiều thách thức từ môi trường; con người luôn bị đặt vào những tình huống bất ngờ không lường trước được : thiên tai, lũ lụt, hạn hán… – Sự thay đổi khí hậu toàn cầu; tình trạng ô nhiễm các nguồn nước; hiện tương sa mạc hoá; sự xói mòn đất đai; sự suy thoái về rừng; sự tuyệt chủng của các loài sinh vật… đã va đang trở thành mối đe doạ trực tiếp đến sự sống trên trái đất. Gần 1/2 đất đai trên thế giới đã bị biến đổi bởi con người. Người ta gọi sự xói mòn đất đai nhanh chóng là “cuộc khủng hoảng thầm lặng của hành tinh”, là mối đe doạ to lớn đối với sự sống trên trái đất. Tại nước ta, môi trường tiếp tục bị ô nhiễm và xuống cấp, có nơi rất nghiêm trọng. Đất đai bị xói mòn, thoái hoá; chất lượng các nguồn nước suy giảm mạnh; không khí ở nhiều đô thị, khu dân cư bị ô nhiễm nặng; tài nguyên thiên nhiên trong nhiều trường hợp bị khai thác quá mức, không có quy hoạch; đa dạng sinh học bị đe doạ nghiêm trọng; điều kiện vệ sinh môi trường, cung cấp nước sạch ở nhiều nơi không được bảo đảm…. Nhiều vấn đề ô nhiễm mới nảy sinh do quá trình phát triển công nghiệp và đô thị hoá. Sự tập trung và gia tăng số lượng dân cư lớn ở đô thị, tiến trình phát triển kinh tế dựa vào khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên… khiến cho ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh trở thành vấn đề khá nghiêm trọng. Trong khi đó, việc thi hành Luật Bảo vệ môi trường chưa thực sự nghiêm minh, có nơi, có lúc còn buông lỏng. Ý thức tự giác của người dân về bảo vệ và giữ gìn môi trường chưa thực sự trở thành thói quen. Nhiều người còn có suy nghĩ giản đơn rằng vấn đề môi trường chưa cấp bách, trước mắt như vân đề cơm áo gạo tiền hàng ngày; bảo vệ môi trường là vấn đề chung của cả nước, cả xã hội, là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, chứ không phải là trách nhiệm của người dân… Chính sự thờ ơ, thái độ “vô cảm” của một bộ phận người dân đối với môi trường đã tiếp tay cho việc tàn phá môi trường. Phần II: Thành tựu đạt được và những hạn chế phát triển bền vững ở nước ta I. Quan điểm chỉ đạo Nghị quyết Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam là “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, sự hợp tác của các cơ quan, ban, ngành trong nước và đặc biệt với sự hỗ trợ của một số tổ chức quốc tế đã tiến hành thực hiện nhiều công việc quan trọng nhằm hoàn thiện thể chế, nâng cao nhận thức của nhân dân, nâng cao trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ. Ngày 27/9/2005 Thủ tướng Chính phủ kí quyết định thành lập Hội đồng phát triển bền vững quốc gia có nhiệm vụ giúp Thủ tướng Chính phủ tổ chức, hướng dẫn và chỉ đạo thống nhất việc thực hiện trong cả nước chiến lược phát triển bền vững. Phát triển bền vững trở thành đường lối, quan điểm chỉ đạo của Đảng và nhà nước ta do vậy Đảng và Nhà nước ta từ nhiều năm qua đã luôn nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của sự phát triển bền vững không chỉ riêng với Việt Nam mà còn có liên đới trách nhiệm với sự phát triển bền vững chung của toàn cầu. Chính phủ ta đã cử nhiều đoàn cấp cao tham gia các Hội nghị nói trên và cam kết thực hiện phát triển bền vững. Quan điểm phát triển bền vững đã được khẳng định trong các văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam và trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001-2010 là: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” và “Phát triển kinh tế – xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”. Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, những năm vừa qua đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết khác của Đảng, nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước đã được ban hành và triển khai thực hiện; nhiều chương trình, đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này đã được tiến hành và thu được những kết quả bước đầu. Nhờ đó, nhiều nội dung cơ bản về phát triển bền vững đã đi vào cuộc sống và dần dần trở thành xu thế tất yếu trong sự phát triển của đất nước. II.Thành tựu và những hạn chế của phát triển bền vững ở nước ta 1.Thành tựu đạt được của phát triển bền vững ở nước ta 1.1. Nền kinh tế nước ta đã liên tục tăng trưởng với tốc độ khá cao và tương đối ổn định Nhiều năm liên tục, kinh tế Việt Nam tăng trưởng với tốc độ khá cao và tương đối ổn định. GDP tăng bình quân trên 7% năm, năm 2006 là 8,2% và năm 2007 là 8,5%. Việt Nam cũng đã chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường và hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế thế giới. Hiện nay đã có gần 80 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với gần 8.000 dự án và tổng số vốn đăng ký trên 70 tỷ USD, năm 2006 Việt Nam đã thu hút được 10,2 tỷ USD vốn FDI, tăng 50% so với 2005.Năm 2007, con số này là 20,3 tỉ USD. Bảng : Tăng trưởng GDP từ năm 1991-2007 năm 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 GDP (%) 8.7 8.08 8.83 9.54 9.34 8.15 5.76 4.77 6.79 6.89 7.08 7.26 7.96 8.43 8.17 8.5 1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế – xã hội theo hướng CNH, HĐH, từng bước hội nhập vào sự phân công của nền kinh tế khu vực và thế giới . Cơ cấu nền kinh tế đã chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH, đó là tỷ trọng trong GDP của ngành nông – lâm – thuỷ sản; tăng tỉ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ đồng thời cơ cấu nền kinh tế đã chuyển dịch tích cực theo hướng mở cửa, hội nhập vào kinh tế toàn cầu. Nhiều sản phẩm của Việt Nam như gạo, cao su, may mặc, giày dép, hải sản… đã có sức cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI), và viện trợ phát triển chính thức (ODA) cũng đều tăng trưởng khả quan, đặc biệt là vốn FDI đã có bước phát triển tích cực, tăng mạnh từ năm 2004 đến nay. Năm 2003: 3,2 tỷ USD; 2004: 4,5 tỷ USD; 2005: 6,8 tỷ USD; 2006: 10,2 tỷ USD; năm 2007 đã đạt 20,3tỷ USD. Cơ cấu lao động cũng chuyển dịch theo hướng tích cực. Lực lượng lao động trong ngành nông-lâm-thuỷ sản đã giảm đáng kể. Tỷ lệ lao động công nghiệp và dịch vụ tăng nhanh. 1.3 Tăng trưởng và phát triển kinh tế đã đưa đến nâng cao trình độ và chất lượng sống của các tầng lớp dân cư. Để thấy rõ một cách chi tiết về trình độ và chất lượng sống của các tầng lớp dân cư Việt Nam đã ngày càng nâng cao hơn, nên xem xét một biểu hiện của nước ta trong một vài năm qua: +) Đời sống các tầng lớp nhân dân tiếp tục được cải thiện. Thu nhập GDP bình quân/người của cả nước đã tăng trong những năm gần đây. +)Tuổi thọ bình quân của người Việt Nam tăng từ 65,2 tuổi năm 1995 lên 70 tuổi năm 2003 và lên 71,5 tuổi năm 2005. +)Công tác chăm sóc sức khoẻ cộng đồng có nhiều tiến bộ. +) Đã ngăn chặn có hiệu quả và khắc phục nhanh một số bệnh dịch mới như SARS, cúm gia cầm, được thế giới đánh giá cao; đẩy mạnh phòng chống HIV/AIDS. +) Sự nghiệp phát triển giáo dục – tạo có bước phát triển mạnh. Cơ sở vật chất các cơ sở giáo dục và đào tạo ở các cấp được tăng cường. Nhiều tỉnh đã xây dựng được trường chuẩn quốc gia. Đầu tư cho giáo dục và đào tạo tăng lên. +) Đời sống văn hoá không ngừng nâng cao. 1.4 Tăng trưởng và phát triển kinh tế đi đôi với giải quyết việc làm, gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội. Công tác xoá đói giảm nghèo đã đạt kết quả rất khả quan, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Là một trong những quốc gia có kết quả giảm tỷ lệ đói nghèo tốt nhất. Theo Báo cáo của Chính phủ do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày tại kỳ họp thứ 12, Quốc hội khoá XII, đã có gần 4 triệu hộ nghèo và 1,7 triệu người có hoàn có hoàn cảnh khó khăn được tiếp cận với nguồn vốn thuộc 10 chương trình tín dụng ưu đãi của Nhà nước, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 18% năm 2006 xuống còn 14,7% năm 2007. Theo đánh giá của Liên hợp quốc, Việt Nam đã hoàn thành Mục tiêu Thiên niên kỷ xoá đói nghèo đến năm 2015 trước 10 năm. 2. Những hạn chế 2.1 Tăng trưởng kinh tế vẫn chưa vững chắc: Tăng trưởng kinh tế đạt trong những năm gần đây là một thành tựu lớn, nhưng tăng trưởng vẫn chủ yếu dựa vào các yếu tố về vốn, lao động, khai thác tài nguyên thiên nhiên… Bên cạnh đó, công nghiệp chế biến nông sản và chế tạo tư liệu sản xuất còn kém, chủ yếu vẫn là lắp ráp, gia công. Các yếu tố đem lại giá trị gia tăng cao như khoa học, công nghệ chưa được khai thác và phát huy. Quy mô đầu tư ngày càng tăng, thể hiện ở tỷ lệ đầu tư trên GDP ngày càng cao, nhưng hiệu quả đầu tư, trình độ của nền kinh tế và chất lượng tăng trưởng kinh tế vẫn còn ở mức thấp, chưa tương xứng với đầu tư. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, của nền kinh tế còn thấp, lao động có tay nghề cao vẫn còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong lực lượng lao động. Nhịp độ tăng trưởng kinh tế còn dưới mức khả năng phát triển của đất nước,chất lượng phát triển còn thấp, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu . Tăng trưởng kinh tế những năm qua chưa phát huy được hết các nhân tố theo chiều sâu. Năng lực cạnh tranh, năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế còn thấp. Chưa kết hợp thật tốt giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và chăm lo đúng mức cho sự phát triển của con người, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Đóng góp vào tăng trưởng chủ yếu vẫn là yếu tố vốn và lao động, yếu tố về tiến bộ khoa học và công nghệ tuy có tăng lên nhưng vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ. Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội vẫn còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Một số công trình xây dựng lớn, quan trọng quốc gia không hoàn thành theo kế hoạch. Năng lực sản xuất một số ngành, sản phẩm quan trọng, thiết yếu tăng chậm. 2.2 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa đồng đều, chưa phát huy thế mạnh từng ngành, từng sản phẩm. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn triển khai còn chậm và thiếu tính bền vững. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP còn thấp và chưa có chuyển biến rõ rệt. Các vùng kinh tế trọng điểm phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, chưa phát huy được vai trò đầu kéo kinh tế vùng. Sự phát triển của các thành phần kinh tế chưa đồng đều. Tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp so với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tê. 2.3. Tăng trưởng kinh tế nhanh làm ô nhiễm môi trường Theo dự báo,năm 2010 tại TP.Hồ Chí Minh và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đều sử dụng hết diện tích thì sẽ thải 3500tấn rác/ngày gấp 29 lần năm 2005. So với các nước trong khu vực sản xuất công nghiệp của nước ta có quy mô còn rất nhỏ bé nên sự tác động gây ô nhiễm môi trường phần lớn đang ở phạm vi hạn chế gây suy thoái cục bộ trong ranh giới của vùng hẹp. Tuy vậy, với tốc độ tăng trưởng công nghiệp hàng năm của chúng ta hiện nay, để bảo đảm phát triển bền vững chúng ta đang đứng ở thời điểm không thể trì hoãn, bắt buộc phải xác lập các bước đi thích hợp, thực hiện các biện pháp giải quyết và ngăn ngừa ô nhiễm môi trường. Phần III: Giải pháp phát triển bền vững ở nước ta 1. Về kinh tế 1.1. Ngành công nghiệp +) Tập trung phát triển mạnh những ngành có lợi thế so sánh để tạo tích luỹ, thu hút lao động xã hội, bao gồm các ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may, giày dép, lắp ráp cơ điện tử, chế biến nông – lâm – thủy – hải sản, ngành công nghệ cao như công nghệ điện tử tin học, công nghệ sinh học, vật liệu mới…; kêu gọi đầu tư nước ngoài vào những ngành công nghiệp cần nhiều vốn, dựa vào nguồn tài nguyên như dầu khí, luyện kim,… +) Khuyến khích xuất khẩu, mở rộng các hình thức hợp tác quốc tế, đồng thời nhận thêm các nguồn vốn ODA và FDI, tạo môi trường cho người lao động tiếp xúc với công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn và quản lý, góp phần nâng cao chất lượng và năng lực khai thác nguồn nhân lực. +) Từng bước tái cơ cấu công nghiệp theo hướng giảm dần tỷ trọng khu vực nhà nước, tăng dần khu vực tư nhân và đầu tư nước ngoài: chú trọng phát triển hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ; hình thành các tập đoàn công nghiệp đa thành phần, đa ngành nghề để phối hợp sức mạnh và lợi thế của các thành phần, các ngành nghề, đồng thời làm đối tác cho các hoạt động kinh tế quốc tế, trụ cột cho nền kinh tế quốc dân. +) Thực hiện cơ cấu phân bố công nghiệp theo hướng phát triển và dịch chuyển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động về nông thôn, hình thành công nghiệp nông thôn, đảm bảo phát triển cân đối; chú trọng phát triển công nghiệp theo các tuyến giao thông (cảng biển, trục giao thông, trục đường thủy, bộ) để phát huy các lợi thế. +) Chú trọng đổi mới công nghệ trong các ngành công nghiệp nhằm nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp; giảm ô nhiễm môi trường. +) Quản lý KH&CN, nâng cao vai trò của KHCN trong việc đổi mới, hiện đại hóa công nghệ của các ngành, đồng thời tăng cường tiếp nhận, làm chủ và phát triển các công nghệ mới, hiện đại. +) Tăng cường công tác vệ sinh an toàn, bảo hộ lao động, phòng chống cháy nổ, đặc biệt trong ngành khai thác mỏ; khuyến khích áp dụng các hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế như ISO 9.000; ISO 14.000; SA 8.000, HACCP; +) Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về phát triển bền vững trong ngành Công nghiệp. 1.2. Ngành nông nghiệp Chủ trương phát triển nền nông nghiệp mạnh, bền vững. Phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa gắn với thị trường trong nước và quốc tế. Đẩy mạnh công tác vận động, tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục cùng với việc cung cấp các thông tin cập nhật nhu cầu của thị trường về mặt hàng nông sản, cả về số lượng, chất lượng và chủng loại, mẫu mã… nhằm tạo bước chuyển tiếp theo trong tư duy, phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững về kinh tế, xã hội và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường. Triển khai và thực hiện hiệu quả công tác quy hoạch. Thông qua công tác quy hoạch để phát hiện và nắm bắt chính xác tiềm năng, thế mạnh của từng vùng sinh thái. Trên cơ sở đó, lập kế hoạch cụ thể phát triển ngành gì, mặt hàng nông sản nào, số lượng bao nhiêu, chất lượng ra sao, ở vùng sinh thái nào… để vừa thu được lợi nhuận cao, vừa bảo vệ tài nguyên, môi trường sinh thái và ổn định xã hội. Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, tạo nền tảng vững chắc để phát triển nông nghiệp bền vững, tập trung vào các công tác sau: +) Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng: đường giao thông, công trình thủy lợi, mạng lưới điện, nhà xưởng để lưu kho, bảo quản, chế biến… +) Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng hiện đại; giảm tỷ trọng trồng trọt, tăng tỷ trọng chăn nuôi, phát triển nghề rừng, nghề biển…Đồng thời, đẩy mạnh chương trình nâng cao năng suất đất đai, sử dụng hợp lý nguồn nước; kết hợp giữa nông, lâm và ngư nghiệp phù hợp với điều kiện sinh thái từng vùng nhằm bảo vệ tài nguyên đất, nước và khí hậu. +) Phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông sản hàng hóa, nhất là những mặt hàng có lợi thế: cà phê, cao su, chè, các sản phẩm chăn nuôi gia súc, gia cầm và thủy sản. +) Đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học – công nghệ vào sản xuất, nuôi trồng và giữ gìn các nguồn gen quý hiếm. Gắn liền với phát triển phân bón hữu cơ phải sản xuất phân bón sinh học, phân bón phân giải chậm phục vụ phát triển nền nông nghiệp sinh thái. +) Thực hiện đa dạng hóa cơ cấu sản xuất kinh doanh nông nghiệp, phát triển ngành nghề mới, tạo nhiều việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống của dân cư, giảm sức ép về lao động cũng như di dân tự do. +) Củng cố và hoàn thiện hệ thống dịch vụ, đẩy mạnh phát triển thị trường tiêu thụ nông sản phẩm. Thực hiện đồng bộ và hiệu quả chính sách điều tiết vĩ mô phục vụ phát triển nền nông nghiệp bền vững. Trước mắt, cần thực hiện tốt chính sách đất đai, chính sách tài chính – tín dụng, chính sách thuế, chính sách lao động – việc làm và di dân, chính sách phát triển thị trường tiêu thụ hàng nông sản. Năm là, tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống luật pháp về phát triển nông nghiệp bền vững. 1.3. Ngành thương mại và dịch vụ Phát triển đa dạng các ngành dịch vụ, hướng vào đáp ứng nhu cầu sản xuất và nâng cao mức sống dân cư: +) Phát triển mạnh thị trường trong nước, các trung tâm thương mại ở thành thị, mở rộng mạng lưới thương nghiệp trong tất cả mọi thành phần kinh tế ở cả vùng ven đô, vùng nông thôn đồng bằng, miền núi, ven biển và hải đảo +) Tạo liên kết chặt chẽ giữa các vùng trong nước, tăng tỷ trọng thương mại trong nước, chú trọng kích cầu trong nước để bù đắp lại thị trường bên ngoài bị thu hẹp. +) Phát triển mạnh ngành du lịch, nâng cao chất lượng và nguồn cung cấp dịch vụ, hàng hoá cho nhu cầu của khách du lịch. +) Phát triển mạnh dịch vụ vận tải, nhanh chóng nâng cao giá trị ngành vận tải trong lĩnh vực dịch vụ; trang bị thêm phương tiện vận tải các loại…tăng năng lực vận tải đường sắt, đường bộ, đường sông, bảo đảm vận tải hàng hoá thiết yếu lên tận vùng sâu, vùng xa… +) Phát triển dịch vụ bưu chính, viễn thông, tin học, tiếp tục thực hiện lộ trình giảm giá cước bưu chính viễn thông phù hợp với yêu cầu hội nhập và sự phát triển công nghệ thông tin, kích thích sức mua của khách hàng; thu hút các nguồn vốn để hoàn thiện và xây dựng mới cơ sở vật chất… 2. Tăng cường bảo vệ tài nguyên môi trường, giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường. Giải quyết các vấn đề sau: -Chống thoái hóa, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất. – Khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm bền vững tài nguyên khoáng sản. – Bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước. – Bảo vệ môi trường biển, ven biển, hải đảo và phát triển tài nguyên biển. – Bảo vệ và phát triển rừng. – Giảm ô nhiễm không khí ở các đô thị và khu công nghiệp. – Quản lý có hiệu quả chất thải rắn và chất thải nguy hại. – Bảo tồn đa dạng sinh học. – Giảm nhẹ biến đổi khí hậu và hạn chế những ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu, góp phần chống thiên tai . – Thực hiện tốt công tác quản lý và bảo vệ môi trường, đầu tư mới và cải tạo các hệ thống xử lý chất thải, nhằm thực hiện nghiêm chỉnh việc xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; chú trọng áp dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn; nghiên cứu hình thành và phát triển ngành công nghiệp môi trường, ưu tiên ứng dụng công nghệ sạch và công nghệ thân thiện với môi trường. 3. Phát triển xã hội: -Xóa đói giảm nghèo, giảm khoảng cách giàu nghèo,đồng thời khắc phục tình trạng tái nghèo trên cả nước. -Bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. -Tăng cho phúc lợi xã hội, xây dựng thể chế xã hội. – Quan tâm chăm lo đời sống, sức khoẻ, bệnh nghề nghiệp cho người lao động. C. KẾT LUẬN Từ những phân tích trên ta thấy được thực trạng vấn đề phát triển bền vững ở nước ta hiện nay. Phát triển bền vững là thách thức, là bài toán khó không chỉ với nước ta mà còn với mọi quốc gia trên thế giới. Trong tình hiện nay thì phát triển bền vững lại càng trở thành vấn đề cấp thiết với kinh tế ,xã hội của mọi quốc gia và đặc biệt với môi trường, khí hậu toàn cầu . Vì thế, để có được một nền kinh tế phát triển bền vững phải kết hợp nhiều yếu tố như môi trường, có cơ cấu kinh tế một cách hợp lí,và đặc biệt là phải quan tâm đến việc cải thiện đời sống cho người dân. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình kinh tế phát triển Giáo trình kinh tế môi trường Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2006-2010 Văn kiện đại hội X_chương trình nghị sự 21 Trang web: và một số trang web khác.

Thực Trạng Và Giải Pháp Thực Hiện Chương Trình Ocop Trên Địa Bàn Tỉnh Khánh Hòa

LĨNH VỰC CHUYÊN NGÀNH - PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN – DIÊM NGHIỆP A+ A A-

Thực trạng và giải pháp thực hiện Chương trình OCOP trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa

Thực trạng và giải pháp thực hiện Chương trình OCOP trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa.

Qua 10 năm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới, cùng với cả nước, Khánh Hòa đã đạt được nhiều kết quả quan trọng: Kinh tế nông thôn phát triển; đời sống nông dân được cải thiện, cơ sở hạ tầng, nhà ở nông thôn được xây dựng, nâng cấp, cải tạo; bộ mặt nông thôn từng bước được khởi sắc; các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao quần chúng được đẩy mạnh, chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao, công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng, hệ thống chính trị cơ sở không ngừng được củng cố, phong trào thi đua chung sức xây dựng nông thôn mới được nhân dân và xã hội đồng tình hưởng ứng; các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp được phát huy, hình thành các vùng sản xuất nông sản hàng hóa tập trung, chuyên canh; nhiều hàng hóa nông sản được chứng nhận nhãn hiệu và chất lượng.

Giai đoạn 2021-2025, tiếp tục thực hiện Chương trình với mục tiêu nâng cao số xã, số tiêu chí đạt chuẩn nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao; duy trì thành quả và nâng cao chất lượng tiêu chí đối với xã đã đạt chuẩn nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân; nông thôn có kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội phù hợp; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn phát triển nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị; xã hội nông thôn dân chủ, bình đẳng, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; quốc phòng và an ninh, trật tự được giữ vững.

Để đạt các mục tiêu đó cần có nhiều Chương trình, dự án đi vào chiều sâu của từng lĩnh vực; một trong những Chương trình, dự án đó là Chương trình mỗi xã một sản phẩm (Chương trình OCOP). Đây là Chương trình phát triển kinh tế khu vực nông thôn theo Quyết định số 490/QĐ-TTg ngày 07/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình mỗi xã một sản phẩm giai đoạn 2018– 2020; Chương trình có mục tiêu: Phát triển các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh (ưu tiên phát triển hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ và vừa) để sản xuất các sản phẩm truyền thống, dịch vụ có lợi thế đạt tiêu chuẩn, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế, góp phần phát triển kinh tế nông thôn;  Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao thu nhập, đời sống cho nhân dân và thực hiện hiệu quả nhóm tiêu chí “Kinh tế và tổ chức sản xuất” trong Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới; thông qua việc phát triển sản xuất tại khu vực nông thôn, góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn hợp lý (hạn chế dân di cư ra thành phố), bảo vệ môi trường và bảo tồn những giá trị truyền thống tốt đẹp của nông thôn Việt Nam.

Khánh Hoà là tỉnh thuộc khu vực duyên hải Nam Trung bộ có tổng diện tích tự nhiên 513.780 ha; diện tích đất sản xuất nông nghiệp 100.000 ha, trong đó, diện tích các loại cây trồng có hiệu quả kinh tế cao như xoài 8.169 ha, sầu riêng 1.700 ha, bưởi da xanh 1.398 ha, dừa 1.766 ha, chuối 3.817 ha, tỏi 439 ha…; diện tích đất có rừng 239.000ha; diện tích đất nuôi trồng thủy sản là 6.767 ha, đất sản xuất muối là 1.021 ha. Sản lượng nông sản chủ yếu sản xuất hàng năm: 110.000 tấn thủy sản; 70.000 tấn thịt gia súc gia cầm; 276.000 tấn lương thực; 100.000 tấn quả các loại. Giá trị kim ngạch xuất khẩu nông sản đạt 800 triệu USD, trong đó xuất khẩu thủy sản trên 600 triệu USD; là vùng kinh tế tiềm năng để “triển khai thực hiện sâu rộng chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) theo hướng phát triển nội sinh và gia tăng giá trị” giai đoạn 2020-2025 như trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa lần thứ XVIII đã nêu.

Thực hiện Quyết định số 490/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, UBND tỉnh Khánh Hòa đã ban hành Quyết định số 3253/QĐ-UBND ngày 26/10/2018 về việc ban hành Kế hoạch thực hiện Chương trình mỗi xã một sản phẩm trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa giai đoạn 2018-2020.

1.     Kết quả triển khai thực hiện giai đoạn 2018-2020

a) Về Công tác tổ chức bộ máy thực hiện Chương trình OCOP

Đã bổ sung nhiệm vụ triển khai Chương trình OCOP vào nhiệm vụ của Ban chỉ đạo các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016-2020 các cấp.

Sở Nông nghiệp và PTNT là cơ quan thường trực Chương trình cấp tỉnh; Phòng Kinh tế/ Nông nghiệp và PTNT là cơ quan thường trực Chương trình OCOP cấp huyện; Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức triển khai thực hiện, có 1 cán bộ kiêm nhiệm phụ trách OCOP, được lồng ghép trong nhiệm vụ nông thôn mới tại xã.

b) Về Công tác đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực và tuyên truyền.

– Cấp tỉnh và cấp huyện đã tổ chức nhiều lớp tập huấn cho các đối tượng cán bộ quản lý các cấp và chủ thể tham gia như hội nghị hướng dẫn xây dựng và thực hiện Kế hoạch Chương trình; hội nghị triển khai Chương trình OCOP và Tập huấn đánh giá xếp hạng sản phẩm; tập huấn hướng dẫn xây dựng ý tưởng sản phẩm và xét chọn sản phẩm, xây dựng phương án kinh doanh và thẩm định phương án kinh doanh, xây dựng câu chuyện sản phẩm và hướng dẫn hoàn thiện hồ sơ tham gia đánh giá và xếp hạng sản phẩm. Quá trình tập tuấn điều có mời Hội, đoàn thể các cấp đặc biệt là hội nông dân.

Ngoài các lớp tập huấn, Sở Nông nghiệp và PTNT đã tổ chức đoàn của Tổ Tư vấn giúp việc Hội đồng OCOP cấp tỉnh là cán bộ chuyên môn của các Sở, ban ngành hướng dẫn trực tiếp tại các địa phương, các chủ thể phát triển, hoàn thiện các sản phẩm tham gia; đã tổ chức đoàn cấp tỉnh cho các địa phương, sở ban ngành tham quan học tập kinh nghiệm tại tỉnh Quảng Nam – một trong các tỉnh thí điểm thực hiện Chương trình OCOP của Trung ương và đang có những thành tích nổi trội thực hiện Chương trình OCOP trên cả nước.

– Việc thông tin, tuyên truyền về Chương trình OCOP trên địa bàn tỉnh được thực hiện thường xuyên, liên tục qua Báo, Đài Phát thanh và Truyền hình Khánh Hòa và hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng từ tỉnh, huyện đến cấp xã, thôn. Đồng thời, trên Website  của Sở Nông nghiệp và PTNT và tại chuyên trang Chi cục Phát triển nông thôn, Văn phòng Điều phối tỉnh thường xuyên đăng tải các Văn bản của Trung ương và địa phương về Chương trình để các tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh biết thực hiện.

 Ngoài ra, Sở Thông tin và Truyền thông đã phối hợp với Bưu điện tỉnh Khánh Hòa tổ chức họp lấy ý kiến của các Sở ban ngành về việc đưa sản phẩm thuộc Chương trình OCOP lên sàn giao dịch thương mại điện tử của Bưu điện Việt Nam.

c) Số sản phẩm, chủ thể đăng ký tham gia chương trình

Giai đoạn 2018-2020, tỉnh Khánh Hòa triển khai xây dựng kế hoạch tập trung chuẩn hóa 52 sản phẩm đã có; trong đó, triển khai trên địa bàn tất cả các xã có sản phẩm chủ lực của địa phương như sầu riêng, chuối, mía tím (Khánh Sơn), xoài (Cam Lâm) và bưởi da xanh (Khánh Vĩnh); ngoài ra, thực hiện trên địa bàn cấp xã cụ thể có các phẩm đặc trưng như Vạn Ninh (08 đơn vị), Ninh Hòa (07 đơn vị), Diên Khánh (05 đơn vị), Nha Trang (03 đơn vị), Cam Ranh (03 đơn vị).

Về sản phẩm tham gia có nhóm thực phẩm: 43 sản phẩm; nhóm đồ uống: 03 sản phẩm; nhóm lưu niệm – nội thất – trang trí: 06 sản phẩm.

d) Kết quả đánh giá, phân hạng sản phẩm

Theo chu trình đánh giá, phân hạng sản phẩm OCOP, cấp huyện tổ chức Hội đồng đánh giá, chuyển hồ sơ và sản phẩm mẫu của các sản phẩm đạt từ 3 sao trở lên (50-100 điểm) đề nghị cấp tỉnh đánh giá, phân hạng.

– Năm 2019: Các địa phương đã tổ chức đánh giá, phân hạng 27 sản phẩm (chiếm 93% số sản phẩm tham gia chương trình năm 2019) của 23 chủ thể. Sau đánh giá đã chuyển hồ sơ và sản phẩm mẫu của 20 sản phẩm đạt từ 3 sao trở lên (50-100 điểm) đề nghị cấp tỉnh đánh giá, phân hạng.

Hội đồng đánh giá cấp tỉnh đã họp đánh giá và xếp hạng sản phẩm, trình UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 2466/QĐ-UBND ngày 16/9/2020 công nhận kết quả đánh giá, xếp hạng sản phẩm tham gia Chương trình mỗi xã một sản phẩm (Chương trình OCOP) tỉnh Khánh Hòa năm 2019 cho 18 sản phẩm đạt 3 sao của 14 chủ thể gồm: 2 sản phẩm chả cá, 1 sản phẩm nấm linh chi, 01 sản phẩm gạo Ngọc Quang, 04 sản phẩm nấm (nấm linh chi, nấm bào ngư, nấm hương, nấm mèo), 01 sản phẩm dưa lưới Ô Xanh, 01 sản phẩm Bưởi da xanh, 01 sản phẩm xoài sấy dẻo,  06 sản phẩm sầu riêng và 01 sản phẩm mía tím.Trong 14 chủ thể có 04 Hợp tác xã, 6 Tổ hợp tác, 03 doanh nghiệp, 1 hộ kinh doanh.

– Năm 2020: Các địa phương đã tổ chức đánh giá, phân hạng 13 sản phẩm của 12 chủ thể. Sau đánh giá đã chuyển hồ sơ và sản phẩm mẫu của 12 sản phẩm của 11 chủ thể đạt từ 3 sao trở lên (50-100 điểm) đề nghị cấp tỉnh đánh giá, phân hạng. Ngày 25/12/2020, Hội đồng cấp tỉnh đã tổ chức đánh giá và xếp hạng sản phẩm; trong đó, có 01 sản phẩm đạt 4 sao (dưa lưới ô xanh) và 07 sản phẩm đạt 03 sao gồm 03 sản phẩm sầu riêng, 01 sản phẩm xoài úc, 01 sản phẩm Nếp Quạ Ninh Đông, 01 sản phẩm gạo thảo dược và 01 sản phẩm rau muống.

e) Kết quả triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại và quảng bá sản phẩm

Nhằm quảng bá, giới thiệu các sản phẩm đăng ký tham gia Chương trình OCOP của tỉnh đến với người tiêu dùng. Trong 02 năm 2019 và 2020, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tổ chức gian hàng triển lãm Festival OCOP tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn  mới giai đoạn 2010 – 2020 do Văn phòng Điều phối nông thôn mới Trung ương tổ chức tại Nam Định từ ngày 17/10/2019 – 19/10/2019; trưng bày và giới thiệu sản phẩm OCOP được UBND tỉnh công nhận đạt 03 sao trở lên tại Phiên chợ Tuần nông sản an toàn thực phẩm năm 2020 do Trung tâm Xúc tiến thương mại Nông nghiệp – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức từ ngày 16/10/2020 – 18/10/2020 tại Trung tâm thương mại Big C, đường 19/5, Khu đô thị Vĩnh Điềm Trung, xã Vĩnh Hiệp, thành phố Nha Trang.

Nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể đưa sản phẩm đã được chứng nhận tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường trong và ngoài tỉnh, Sở Nông nghiệp và PTNT đã tiến hành in nhãn hiệu chứng nhận OCOP đạt 3 sao và cấp phát cho các chủ thể gắn lên sản phẩm; đã in Catologue sản phẩm OCOP tỉnh Khánh Hòa và dự kiến Tổ chức Hội nghị tổng kết đánh giá Chương trình OCOP giai đoạn 2018-2020 kết hợp trao quyết định công nhận sản phẩm đạt 3, 4 sao và kết nối cung cầu tiêu thụ sản phẩm OCOP vào đầu tháng 01/2021.

Đồng hành với ngành Nông nghiệp và PTNT, ngày 25/12/2020, Sở Công Thương đã tổ chức khai trương điểm bán và giới thiệu sản phẩm OCOP tại Siêu thị Co.opmart Nha Trang.

2. Khó khăn, tồn tại

– Chương trình OCOP là Chương trình mới, việc triển khai Chương trình OCOP ở một số địa phương trên địa bàn tỉnh còn gặp nhiều khó khăn do không bố trí được nhân lực. Phần lớn các cán bộ được giao kiêm nhiệm nhiều công việc khác nhau ngoài Chương trình OCOP. Cán bộ được bố trí không đủ thời gian thực hiện, chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của nhân lực trong triển khai Chương trình.Trình độ quản lý, nghiệp vụ của cán bộ cấp huyện (cấp hướng dẫn, thực hành), cấp xã (cấp triển khai, phối hợp, thực hành) của một số địa phương trên địa bàn tỉnh còn gặp khó khăn trong việc thẩm định các dự án, phương án kinh doanh của các chủ thể tham gia. Việc tổ chức đánh giá của một số địa phương còn chưa thật sự quan tâm, hồ sơ đề nghị đánh giá và xếp hạng sản phẩm đạt 03 sao ở cấp huyện đề nghị đánh giá ở cấp tỉnh còn nhiều sai sót và thiếu những yêu cầu bắt buộc để đạt từ 03 sao theo quy định tham gia Chương trình, dẫn đến gây khó khăn trong quá trình thẩm định và đánh giá hồ sơ của Tổ Tư vấn giúp việc Hội đồng cấp tỉnh mặc dù các địa phương đã được tập huấn và hướng dẫn cách đánh giá và xếp hạng sản phẩm, hồ sơ tham gia đánh giá.

– Quá trình triển khai chưa thật sự đồng bộ từ Trung ương đến địa phương; cơ chế, chính sách hỗ trợ được thực hiện lồng ghép từ nhiều chính sách đã được ban hành, tuy khá đầy đủ, nhưng lại thiếu đồng bộ, luôn thay đổi, chưa được xác định rõ ràng, dẫn đến sự lúng túng và khó khăn cho các địa phương dẫn đến không thực hiện hết nguồn kinh phí hỗ trợ; năm 2019, kinh phí thực hiện chỉ đạt 15,5% (692/4.440 triệu đồng).

– Tiềm lực sản phẩm tham gia OCOP của tỉnh là rất lớn nhưng việc tuyên truyền sâu rộng để người dân tham gia còn hạn chế; muốn các chủ thể tham gia OCOP, ngành nông nghiệp cấp tỉnh, cấp huyện đều phải đến tận nơi vận động, thuyết phục, hỗ trợ toàn diện chu trình OCOP từ thủ tục kiểm định chất lượng, mẫu mã bao bì cho đến xây dựng câu chuyện sản phẩm. Rất ít chủ thể (doanh nghiệp, cơ sở sản xuất) chủ động tìm đến để được hỗ trợ đưa sản phẩm tham gia OCOP. 

Sản phẩm tham gia Chương trình đa phần là sản phẩm chủ lực của các địa phương, chủ yếu là sản phẩm thực phẩm tươi, chưa qua chế biến (chưa gia tăng giá trị). Các sản phẩm này chủ yếu là do các hộ gia đình, HTX, THT sản xuất với quy mô nhỏ lẻ, tính liên kết thấp; chưa chủ động trong phân phối và tiếp thị sản phẩm, có phần hạn chế trong xây dựng ý tưởng sản phẩm, phương án kinh doanh,… Sản phẩm tuy là chủ lực nhưng vẫn chưa đạt được một số  yêu cầu theo tiêu chí sản phẩm đạt OCOP.

Số lượng chủ thể tham gia vẫn còn e dè và hạn chế do biểu mẫu, hồ sơ tham gia đánh giá quá nhiều và quá khó đối với các chủ thể sản xuất (DNNVV, HTX, THT, hộ sản xuất có đăng ký kinh doanh). Bộ tiêu chí đánh giá phân hạng sản phẩm theo Quyết định số 1048/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ còn nhiều điểm chưa phù hợp với một số sản phẩm của các địa phương; một số nội dung phân công hướng dẫn thuộc các lĩnh vực chuyên ngành của các Sở, ban ngành trong Bộ tiêu chí còn chưa cụ thể nhất là đối với các sản phẩm thuộc Bộ sản phẩm thủ công mỹ nghệ trang trí và thủ công mỹ nghệ gia dụng (nhất là đối với sản phẩm có chất liệu trầm hương – một sản phẩm đặc hữu, có thương hiệu của Khánh Hòa).

3. Đánh giá chung

– Chương trình OCOP triển khai trên địa bàn tỉnh trong thời gian ngắn song đã nhận được sự quan tâm của Tỉnh ủy, được Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XVIII nhiệm kỳ 2020-2025 đưa vào báo cáo chính trị định hướng cho giai đoạn đến đó là “đẩy mạnh chương trình OCOP theo hướng phát triển nội sinh và gia tăng giá trị”; HĐND tỉnh, UBND tỉnh đã quan tâm bố trí nguồn vốn để hỗ trợ phát triển Chương trình; đồng thời chỉ đạo các Sở ban ngành, các cấp tăng cường thực hiện để đảm bảo Kế hoạch đề ra. Để có một Chương trình OCOP nâng cao, sâu rộng và đồng bộ cho giai đoạn 2021-2025, UBND tỉnh Khánh Hòa đã quan tâm phê duyệt đề cương và cấp kinh phí thực hiện; Ngành Nông nghiệp và PTNT đã gọi mời Công ty Cổ phần Phát triển Dược Khoa tư vấn lập đề án; Công ty có chúng tôi Trần Văn Ơn, giảng viên cao cấp, Chủ tịch Hội đồng quản trị công ty Cổ phần Phát triển Dược Khoa – người thầy có thể nói là đầu tiên trong Chương trình OCOP Việt Nam, đã và đang tư vấn cho nhiều tỉnh thực hiện hiệu quả Chương trình này để tư vấn lập đề án trên địa bàn tỉnh.

– Tuy chưa sâu rộng nhưng qua triển khai Chương trình nhận thấy từng bước đã có sự quan tâm, chú ý của các chủ thể từ 26 sản phẩm đăng ký ban đầu, đã có thêm 26 sản phẩm đăng ký bổ sung, nâng tổng số sản phẩm tham gia giai đoạn 2018-2020 lên 52 sản phẩm; điều đó cho thấy ý nghĩa thực sự của Chương trình đã được các chủ thể sản xuất đồng tình hưởng ứng.

Chương trình đã đạt được nhiều kết quả tích cực, nhất là về mặt nhận thức của xã hội và cấp ủy, chính quyền các cấp và cộng đồng doanh nghiệp, hợp tác xã về vị trí của Chương trình OCOP trong phát triển kinh tế nông thôn. Thông qua việc tham gia Chương trình các chủ thể sản xuất đã hiểu rõ được lợi ích của Chương trình, giúp chủ thể hoàn thiện sản phẩm hơn nhằm đáp ứng các yêu cầu của thị trường, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao thu nhập, đời sống cho nhân dân và thực hiện hiệu quả nhóm tiêu chí “Kinh tế và tổ chức sản xuất” trong Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới. Chương trình nhận được sự hưởng ứng cao của các chủ thể sản xuất. Các sản phẩm OCOP được xếp hạng đã có bước tiến về chất lượng, đa dạng về mẫu mã, bao bì, đảm bảo điều kiện, quy định về tem, nhãn mác, truy xuất nguồn gốc sản phẩm.

4. Đề xuất các giải pháp đẩy mạnh thực hiện Chương trình

Một số giải pháp trọng tâm nhằm nâng cao việc triển khai thực hiện Chương trình OCOP theo hướng nâng cao, sâu rộng và đồng bộ trên địa bàn tỉnh trong thời gian đến

a) Đẩy mạnh công tác đào tạo, tập huấn, tuyên truyền nâng cao nhận thức

– Phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể để phổ biến rộng rãi Chương trình về nội dung, chu trình, bộ tiêu chí đánh giá, xếp hạng sản phẩm; những thành tựu và kết quả thực hiện Chương trình; những gương điển hình tiên tiến và mô hình sản xuất tiêu biểu trong tổ chức sản xuất, phát triển thị trường, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật nâng cao giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm khu vực nông nghiệp, nông thôn dưới dạng bản tin, chuyên đề, câu chuyện gắn với hình ảnh, khẩu hiệu cụ thể. Kịp thời phản ánh những khó khăn, vướng mắc và những bất cập, tồn tại trong quá trình triển khai Chương trình OCOP ở các địa phương.

– Tập trung công tác đào tạo, tập huấn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho đội ngũ cán bộ nhà nước trong hệ thống OCOP (tỉnh, huyện, xã); tổ chức các lớp tập huấn chuyên sâu về phát triển sản phẩm tại các địa phương nhằm hỗ trợ các chủ thể sản xuất có điều kiện tham gia.

b) Tiếp tục kiện toàn hệ thống tổ chức chỉ đạo thực hiện Chương trình

Rà soát, kiện toàn tổ chức bộ máy điều hành, triển khai Chương trình OCOP các cấp; xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu/phần mềm quản lý chương trình; xây dựng hệ thống quản lý, giám sát chất lượng sản phẩm OCOP.

c) Xây dựng cơ chế chính sách

Cần ban hành cơ chế, chính sách cụ thể cho Chương trình OCOP để hỗ trợ, tạo động lực thúc đẩy sâu rộng và đồng bộ; cơ chế chính sách quan tâm đến việc hỗ trợ phát triển theo hướng nội sinh và gia tăng giá trị nhằm khai thác sản phẩm thế mạnh, đặc hữu của địa phương, tạo tiền đề cho phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập trên địa bàn.

d) Nâng cao chất lượng công tác đánh giá, phân hạng sản phẩm

Số hóa, hướng cụ thể hồ sơ minh chứng các tiêu chí theo từng bộ tiêu chí đánh giá để tạo điều kiện cho các chủ thể có thể truy cập và lập hồ sơ tham gia đánh giá, phân hạng một cách chính xác và nhanh nhất.

Tổ chức đánh giá, phân hạng sản phẩm 02 lần trong năm; đợt 1 vào mua thu hoạch sản phẩm nông nghiệp (tháng 7, 8); đợt 2 vào tháng 11 trong năm.

e) Đổi mới và đẩy mạnh công tác quảng bá, giới thiệu sản phẩm

Đổi mới hình thức, phương pháp xúc tiến thương mại để quảng bá các sản phẩm chủ lực thông qua các cuộc hội chợ, triển lãm. Hình thành các điểm bán hàng; trung tâm OCOP để giới thiệu và tiêu thụ sản phẩm OCOP (đạt 3 sao trở lên) ở cấp tỉnh và cấp huyện;

Đẩy mạnh việc đưa sản phẩm OCOP lên sàn giao dịch điện tử nhằm tăng cường kết nối cung cầu;

Tổ chức Hội chợ OCOP thường niên 01 lần/năm, tập trung vào các sự kiện văn hóa, du lịch lớn của tỉnh dần tiến tới hoạt động xã hội hóa; lồng ghép các gian hàng giới thiệu và bán sản phẩm OCOP trong các hội chợ thương mại tại các địa phương;

Xây dựng sản phẩm OCOP gắn với du lịch, thúc đẩy hoạt động quảng bá, tiêu thụ sản phẩm, nhất là đẩy mạnh tiêu thụ tại chỗ thông qua khách du lịch tại các điểm du lịch sinh thái cộng đồng, qua đó góp phần đa dạng ngành du lịch Khánh Hòa.

 Tổ chức Hội nghị đối tác OCOP, xây dựng “Mạng lưới Đối tác OCOP Khánh Hòa” với sự tham gia của các tổ chức OCOP (chia sẻ thông tin, gặp gỡ, đàm phán, ký kết thỏa thuận, hợp đồng,….) nhằm liên kết các chủ thể thực hiện chương trình với các doanh nghiệp trong và ngoài nước; hình thành các mô hình liên kết theo chuỗi giá trị gắn với chuẩn hóa vùng trồng đối với các sản phẩm nông nghiệp chủ lực của tỉnh như xoài, sầu riêng, bưởi, tỏi…qua đó, hỗ trợ một phần kinh phí để các doanh nghiệp, hợp tác xã đầu tư máy móc, trang thiết bị nhằm tạo ra chuỗi sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao như tinh dầu bưởi, trà hoa bưởi, xoài sấy, tỏi đen, tinh dầu tỏi…..

Tác giả: Huỳnh Quang Thành – Chi cục trưởng Chi cục Phát triển nông thôn Khánh Hòa.

CÁC TIN KHÁC Hội thi sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam năm 2021 Triển khai thực hiện Quyết định 167/QĐ-TTg ngày 03/02/2021 của Thủ tướng Chính phủ Triển khai Chỉ thị số 24/CT-TTg ngày 28/5/2020 của Thủ tướng Chính phủ Hội thảo lấy ý kiến góp ý Đề án thực hiện Chương trình mỗi xã một sản phẩm tỉnh Khánh Hòa giai đoạn 2021 – 2025. Hội nghị toàn quốc Tổng kết Chương trình mỗi xã một sản phẩm giai đoạn 2018 – 2020. HỘI NGHỊ CÁN BỘ CÔNG CHỨC, NGƯỜI LAO ĐỘNG CHI CỤC PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN KHÁNH HÒA UBND tỉnh Khánh Hòa công nhận 26 sản phẩm đạt từ 03 sao OCOP giai đoạn 2018-2020 Hội nghị đánh giá và xếp hạng sản phẩm Chương trình OCOP năm 2020 Mời tham gia Hội chợ triển lãm Nông nghiệp Quốc tế lần thứ 20 – AgroViet 2020. UBND tỉnh Khánh Hòa công nhận 18 sản phẩm đạt 03 sao OCOP năm 2019.

1

234

Cập nhật thông tin chi tiết về Tiểu Luận Thực Trạng Và Giải Pháp Phát Huy Vai Trò Người Cao Tuổi Trên Địa Bàn Xã trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!