Xu Hướng 12/2023 # Tiếp Tục Triển Khai Quyết Liệt, Có Hiệu Quả Các Nhiệm Vụ, Giải Pháp Góp Phần Ổn Định Vĩ Mô, Phục Hồi Kinh Tế # Top 19 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Tiếp Tục Triển Khai Quyết Liệt, Có Hiệu Quả Các Nhiệm Vụ, Giải Pháp Góp Phần Ổn Định Vĩ Mô, Phục Hồi Kinh Tế được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vừa ban hành văn bản số 5596 /NHNN-VP gửi các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN); các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài về việc triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2023.

Trụ sở Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Nội dung của văn bản nêu rõ, ngày 22/7/2023, NHNN đã tổ chức Hội nghị Ban Cán sự Đảng, Ban Lãnh đạo NHNN mở rộng về sơ kết tình hình thực hiện nhiệm vụ ngân hàng 6 tháng đầu năm, định hướng triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm.

Hội nghị đã thống nhất nhận định, 6 tháng đầu năm 2023, trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước bị ảnh hưởng nặng nề bởi những tác động chưa từng có của đại dịch Covid-19, bám sát các Nghị quyết, chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, tình hình trong và ngoài nước, NHNN đã chủ động, linh hoạt điều hành chính sách tiền tệ, hoạt động ngân hàng nhằm góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và chỉ đạo các đơn vị trong toàn Ngành kịp thời triển khai nhiều giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp và người dân khắc phục khó khăn, giảm bớt thiệt hại do dịch bệnh, góp phần đẩy nhanh quá trình hồi phục nền kinh tế sau dịch.

Đến nay, mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng các đơn vị, vụ, cục tại NHNN Trung ương, NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố và các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (sau đây gọi chung là TCTD) đã chủ động, quyết liệt và có trách nhiệm trong triển khai nhiệm vụ nên ngành Ngân hàng đã cơ bản hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, hỗ trợ tích cực và đóng góp quan trọng vào kết quả kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, thúc đẩy phục hồi kinh tế sau dịch, duy trì tăng trưởng ở mức cao hơn các nước trong khu vực và trên thế giới. Điều này cũng cho thấy năng lực tài chính và sự linh hoạt thích ứng của hệ thống các TCTD Việt Nam đã được cải thiện rõ rệt và có khả năng hỗ trợ tốt hơn cho nền kinh tế. Ban Cán sự Đảng, Ban Lãnh đạo NHNN ghi nhận những nỗ lực của tất cả các đơn vị trong triển khai nhiệm vụ được giao và biểu dương, đánh giá cao những kết quả mà các đơn vị đã đạt được trong 6 tháng đầu năm 2023.

Trong thời gian tới, dịch Covid-19 vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp và khó lường trên phạm vi toàn cầu, có thể đẩy kinh tế thế giới tiếp tục suy thoái sâu và tác động nặng nề đến kinh tế trong nước trên nhiều phương diện khi Việt Nam đã hội nhập sâu rộng với thế giới và có độ mở kinh tế lớn (tương đương 200% GDP). Ở trong nước đã và đang phải ứng phó với tình hình tái dịch Covid-19, có nguy cơ lây lan nhanh trên diện rộng tại nhiều địa phương, trong đó có các đô thị lớn, đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe con người và kinh tế – xã hội của đất nước. Những diễn biến này tiếp tục ảnh hưởng nặng nề đến điều hành chính sách vĩ mô nói chung và điều hành chính sách tiền tệ, hoạt động ngân hàng nói riêng.

Để phấn đấu hoàn thành tốt nhất các mục tiêu, nhiệm vụ được giao trong năm 2023 cũng như cả giai đoạn 2023-2023 và chung tay cùng cả nước tập trung ngăn chặn, đẩy lùi dịch bệnh, Thống đốc NHNN yêu cầu các đơn vị trong toàn Ngành tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được trong 6 tháng đầu năm 2023 cũng như từ đầu nhiệm kỳ đến nay, nỗ lực, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thách thức, chủ động triển khai quyết liệt, có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp được giao tại Chỉ thị 01/CT-NHNN ngày 03/01/2023, Chỉ thị số 02/CT-NHNN ngày 31/3/2023 của Thống đốc NHNN và các biện pháp phòng, chống dịch nêu tại công điện số 02, 03, 04 về phòng, chống Covid-19 của NHNN, tiếp tục đóng góp tích cực vào sự phát triển ổn định, bền vững của Ngành và mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định vĩ mô, phục hồi kinh tế, ngăn chặn, đẩy lùi dịch bệnh của đất nước. Trong đó, Thống đốc NHNN đề nghị, trong 6 tháng cuối năm 2023, các đơn vị trong toàn Ngành tập trung triển khai quyết liệt, có hiệu quả một số nhiệm vụ trọng tâm cụ thể sau.

Điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng, bám sát diễn biến kinh tế trong và ngoài nước để dự báo, đánh giá tình hình kịp thời

Thống đốc yêu cầu, đối với các đơn vị thuộc NHNN, nắm bắt, cập nhật kịp thời các thông tin chính thức về diễn biến mới của dịch Covid-19 và chỉ đạo của các cấp, các ngành và các địa phương để thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các biện pháp phòng, chống dịch; chủ động xây dựng, áp dụng các kịch bản ứng phó phù hợp, đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, thông suốt, đặc biệt là các hệ thống công nghệ thông tin, hệ thống thanh toán của NHNN.

Về điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng, bám sát diễn biến kinh tế trong và ngoài nước để dự báo, đánh giá tình hình và kịp thời tham mưu, đề xuất các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng phù hợp, đảm bảo thanh khoản thị trường, kiểm soát lạm phát, hỗ trợ ổn định và tạo điều kiện giảm nhanh hơn mặt bằng lãi suất. Kiến nghị, đề xuất kịp thời với Ban điều hành giá của Chính phủ các giải pháp chỉ đạo, điều hành hợp lý nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra.

Theo dõi sát diễn biến thị trường để chủ động điều hành tỷ giá linh hoạt, phù hợp và sẵn sàng can thiệp khi cần thiết nhằm ổn định thị trường ngoại tệ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Theo sát biến động giá vàng thế giới và trong nước để kịp thời thông tin, khuyến cáo người dân, ổn định tâm lý thị trường, không để ảnh hưởng đến ổn định vĩ mô.

Chỉ đạo các TCTD tập trung tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ. Khẩn trương xem xét điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2023 đối với các TCTD đáp ứng tốt các tỷ lệ bảo đảm an toàn và có khả năng mở rộng tín dụng nhưng không làm tăng mặt bằng lãi suất huy động và cho vay. Tiếp tục kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như đầu tư, kinh doanh bất động sản, chứng khoán, BOT, BT giao thông…

Khẩn trương hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung Thông tư 01/2023/TT-NHNN, bảo đảm phù hợp thực tiễn và tạo điều kiện cho doanh nghiệp, TCTD tháo gỡ khó khăn, khôi phục kinh tế. Tập trung chỉ đạo các TCTD triển khai mạnh mẽ, quyết liệt các giải pháp cơ cấu lại nợ, cho vay mới, giảm lãi suất, phí… quy định tại Thông tư 01/2023/TT-NHNN nhằm hỗ trợ kịp thời, hiệu quả hơn cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 vượt qua khó khăn, phục hồi sản xuất, kinh doanh theo chỉ đạo của Chính phủ và NHNN.

Trong bối cảnh dịch bệnh đang có nguy cơ lây lan nhanh trên diện rộng tại nhiều địa phương, làm tăng thêm khó khăn cho nền kinh tế, NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố cần tập trung cao độ chỉ đạo các TCTD trên địa bàn triển khai quyết liệt, mạnh mẽ các giải pháp nêu tại 01/2023/TT-NHNN và chủ động tham mưu cho Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố đa dạng các hình thức tổ chức kết nối ngân hàng – doanh nghiệp để kịp thời xử lý các khó khăn, vướng mắc phát sinh cho doanh nghiệp, người dân trong tiếp cận tín dụng, dịch vụ ngân hàng, góp phần thúc đẩy, phục hồi kinh tế.

Phối hợp với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hoàn thiện, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung Nghị quyết 42/NQ-CP ngày 09/4/2023 và Quyết định sửa đổi, bổ sung Quyết định 15/2023/QĐ-TTg quy định về việc thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19. Sửa đổi Thông tư 05/2023/TT-NHNN về tái cấp vốn cho Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) để thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch cho phù hợp.

Chỉ đạo, giám sát các TCTD, đặc biệt là công ty tài chính tiêu dùng, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank)… triển khai mạnh mẽ các gói tín dụng tiêu dùng phục vụ nhu cầu chính đáng của người dân với lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản và phù hợp với quy định của pháp luật.

Chỉ đạo NHCSXH khẩn trương hoàn thành phương án thí điểm mở rộng tín dụng tiêu dùng; Hoàn thiện dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định 28/2023/QĐ-TTg ngày 21/7/2023 về chương trình tín dụng đối với hộ mới thoát nghèo.

Tiếp tục đẩy mạnh công tác truyền thông về các chương trình, chính sách tín dụng, đặc biệt là các giải pháp của ngành Ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn của người dân, góp phần hạn chế tín dụng đen. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm trong hoạt động cho vay tiêu dùng của các TCTD.

Tập trung chỉ đạo các TCTD có nợ xấu cao có biện pháp hiệu quả xử lý nợ xấu và ngăn chặn nợ xấu phát sinh. NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương, các cơ quan có thẩm quyền trên địa bàn, hỗ trợ TCTD xử lý, phát mại tài sản bảo đảm, góp phần đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu, cơ cấu lại hệ thống các TCTD. Làm tốt công tác quản lý, chấn chỉnh, củng cố hoạt động quỹ tín dụng nhân dân (QTDND)…

Đánh giá kết quả thực hiện Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2023-2023” kết hợp với đánh giá tác động của dịch Covid-19 đến kết quả thực hiện mục tiêu của Đề án. Trên cơ sở đó, xây dựng Đề án cơ cấu lại các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2023-2025.

Về thúc đẩy phát triển hoạt động thanh toán và đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động thanh toán qua ngân hàng. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách và chỉ đạo các TCTD thúc đẩy phát triển thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM). Trong đó: Thúc đẩy phát triển dịch vụ ngân hàng số và khẩn trương mở rộng thanh toán qua ngân hàng đối với dịch vụ công, đặc biệt là lĩnh vực y tế, giáo dục. Nghiên cứu kỹ lưỡng và hoàn thiện dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 101/2012/NĐ-CP về thanh toán không dùng tiền mặt, đảm bảo tính khả thi, phù hợp với các định hướng phát triển hoạt động thanh toán trong thời gian tới và nâng cao hiệu quả quản lý của NHNN đối với dịch vụ thanh toán.

Hoàn thành đúng tiến độ việc xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính trong lĩnh vực ngân hàng (Sandbox).

Thực hiện tổng kết, đánh giá các Đề án, chương trình kế hoạch trong lĩnh vực thanh toán: kết quả triển khai phát triển TTKDTM giai đoạn 2023-2023, đề xuất giải pháp thúc đẩy TTKDTM giai đoạn 2023-2025; Đề án đẩy mạnh thanh toán qua ngân hàng đối với việc thu phí các dịch vụ công như thuế, điện, nước, học phí, viện phí và chi trả các chương trình an sinh xã hội; Chiến lược giám sát các hệ thống thanh toán tại Việt Nam giai đoạn 2014-2023…

Nội dung của văn bản cũng nêu rõ một số nhiệm vụ trọng tâm khác đối với các đơn vị thuộc NHNN như: Khẩn trương hoàn thành báo cáo tổng kết và xây dựng kế hoạch sửa đổi Luật NHNN, Luật các TCTD, Luật Bảo hiểm tiền gửi, Luật phòng chống rửa tiền. Hoàn thành đúng tiến độ Chương trình xây dựng Thông tư 6 tháng cuối năm 2023 của NHNN; Tổ chức sơ kết việc thực hiện Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 trong giai đoạn 2023-2023 và triển khai Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành tiếp tục thực hiện tốt vai trò Chủ tịch ASEAN 2023 của Việt Nam và tổ chức chu đáo các Hội nghị, sự kiện thuộc trách nhiệm của NHNN trong khuôn khổ năm ASEAN 2023. Khẩn trương thực hiện đầy đủ, đúng quy định các quy trình, thủ tục cần thiết để Việt Nam sớm gia nhập Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS) theo đúng chủ trương của Bộ Chính trị và Chính phủ; Tổ chức chu đáo, trang trọng, tiết kiệm Đại hội Thi đua yêu nước ngành Ngân hàng. Tổ chức các hoạt động thiết thực, có ý nghĩa hướng tới kỷ niệm 70 năm thành lập ngành Ngân hàng nhằm tri ân các thế hệ đi trước và tuyên truyền, giáo dục về truyền thống vẻ vang của Ngành cho thế hệ hôm nay…

Hỗ trợ và đồng hành cùng doanh nghiệp, người dân vượt qua khó khăn, góp phần phục hồi sản xuất kinh doanh

Đối với các TCTD, Thống đốc yêu cầu nắm bắt, cập nhật kịp thời các thông tin chính thức về diễn biến mới của dịch Covid-19 và chỉ đạo của các cấp, các ngành và các địa phương để thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các biện pháp phòng, chống dịch; chủ động áp dụng các biện pháp ứng phó trong từng hệ thống TCTD, đảm bảo hoạt động an toàn, thông suốt, không bị gián đoạn trong mọi trường hợp.

Về hoạt động tín dụng, tiếp tục tập trung triển khai quyết liệt các giải pháp mở rộng tín dụng đối với các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, đặc biệt là lĩnh vực ưu tiên và các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân theo quy định tại Thông tư 01/2023/TT-NHNN và Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư 01/2023/TT-NHNN sau khi NHNN ban hành. Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện của tất cả các chi nhánh trong hệ thống để đảm bảo việc thực hiện Thông tư 01/2023/TT-NHNN đúng quy định và hiệu quả. Chủ động cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn để đảm bảo thanh khoản.

Kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, đặc biệt là tín dụng đầu tư, kinh doanh bất động sản, chứng khoán, BOT, BT giao thông, TCTD cấp tín dụng để góp vốn, mua cổ phần và đầu tư trái phiếu doanh nghiệp… Bố trí nguồn vốn cần thiết để phát triển các sản phẩm cho vay phục vụ đời sống, đáp ứng nhu cầu chính đáng của người dân, góp phần hạn chế tín dụng đen.

Thực hiện nghiêm chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và NHNN về tiết giảm chi phí hoạt động, giảm lương thưởng, lợi nhuận để tiếp tục giảm lãi suất cho vay thực chất đối với các khoản vay hiện hữu và các khoản cho vay mới, hỗ trợ và đồng hành cùng doanh nghiệp, người dân vượt qua khó khăn, góp phần phục hồi sản xuất kinh doanh sau dịch. Chấp hành đúng quy định của NHNN về lãi suất cho vay đối với 5 lĩnh vực ưu tiên theo chỉ đạo của Chính phủ.

Các TCTD nói chung và các công ty tài chính cho vay tiêu dùng, Agribank nói riêng triển khai mạnh mẽ, hiệu quả các chương trình, sản phẩm tín dụng tiêu dùng với lãi suất hợp lý. Chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật và chỉ đạo của NHNN trong cho vay tiêu dùng. Rà soát, hoàn thiện các quy định nội bộ và tăng cường kiểm tra, kiểm soát, phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm quy định của pháp luật và quy định nội bộ của TCTD. Đổi mới, cải cách mạnh mẽ thủ tục cấp tín dụng và dịch vụ ngân hàng; đơn giản hóa quy trình, thủ tục, rút ngắn thời gian thẩm định cho vay nhưng vẫn đảm bảo an toàn vốn vay và phù hợp với quy định của pháp luật.

Về cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu và đảm bảo an toàn hoạt động, tiếp tục triển khai có hiệu quả phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu đến năm 2023 đã được phê duyệt; tập trung xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu và tập trung nguồn lực tài chính cho xử lý nợ xấu; hạn chế tối đa nợ xấu phát sinh. Tiếp tục lành mạnh hóa tài chính, tăng vốn điều lệ.

Thực hiện nghiêm kết luận thanh tra, kiểm tra và cảnh báo của NHNN và các cơ quan có thẩm quyền. Tăng cường hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Tích cực phòng ngừa, phát hiện và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm của các cá nhân và đơn vị trực thuộc.

Các công ty tài chính cho vay tiêu dùng, các QTDND thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về huy động, cho vay, thu nợ, bảo đảm minh bạch, an ninh, an toàn hoạt động.

Về hoạt động thanh toán,chủ động, tích cực phối hợp với các bộ, ngành và đơn vị cung cấp dịch vụ công đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt đối với các dịch vụ công. Tăng cường ứng dụng thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0 nhằm phát triển các dịch vụ thanh toán tiện lợi, an toàn cho khách hàng, đặc biệt là dịch vụ ngân hàng số. Chú trọng triển khai các giải pháp đảm bảo an ninh, an toàn các hệ thống thông tin, phòng, chống lộ, lọt dữ liệu trên toàn bộ hệ thống thông tin tại đơn vị và đảm bảo an toàn thanh toán; kịp thời xử lý theo đúng quy định, đảm bảo quyền lợi của các bên khi có rủi ro, gian lận trong hoạt động thanh toán.

Thống đốc cũng yêu cầu các TCTD triển khai một số nhiệm vụ trọng tâm khác như: Chấp hành nghiêm các quy định của NHNN về an toàn kho quỹ. Làm tốt công tác giám sát, tự kiểm tra nội bộ, tăng cường an ninh, an toàn kho quỹ, ngăn chặn sai phạm trong quản lý tiền tệ, kho quỹ. Chủ động có các biện pháp phòng chống tiêu cực, trộm cướp tại các chi nhánh, phòng giao dịch. Tổ chức các hoạt động thiết thực, có ý nghĩa hướng tới kỷ niệm 70 năm thành lập ngành Ngân hàng theo chỉ đạo của NHNN. Chủ động, tích cực thực hiện công tác an sinh xã hội, đặc biệt là hỗ trợ công tác phòng, chống dịch Covid-19 nhằm chung tay cùng cả hệ thống chính trị khắc phục khó khăn, ngăn chặn, đẩy lùi dịch Covid-19. Các đơn vị trong toàn Ngành tổ chức quán triệt, chỉ đạo toàn thể cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên trong đơn vị nêu cao tinh thần trách nhiệm, sự chủ động, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ được giao, đặc biệt trong công tác hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, vì sự phát triển chung của đất nước và của Ngành.

Theo thoibaonganhang.vn

6 Nhóm Giải Pháp Ổn Định Kinh Tế Vĩ Mô

Chính phủ hôm qua ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP về 6 nhóm giải pháp chủ yếu để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách hiện nay là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.

Theo đó, 6 nhóm giải pháp chủ yếu để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách hiện nay là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội gồm: thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng; thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách nhà nước; thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng; điều chỉnh giá điện, xăng dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo; tăng cường bảo đảm an sinh xã hội; đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền.

Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì điều hành và kiểm soát để bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2011 dưới 20%, tổng phương tiện thanh toán khoảng 15-16%; giảm bội chi ngân sách nhà nước năm 2011 xuống dưới 5% GDP; phấn đấu bảo đảm nhập siêu không quá 16% tổng kim ngạch xuất khẩu…

Trong quý II/2011, phải trình Chính phủ ban hành Nghị định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo hướng tập trung đầu mối nhập khẩu vàng, tiến tới xóa bỏ việc kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do.

Chính phủ quyết nghị việc yêu cầu các Bộ, cơ quan, địa phương chủ động sắp xếp lại các nhiệm vụ chi để tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên của 9 tháng còn lại trong dự toán năm 2011 (không bao gồm chi tiền lương và các khoản có tính chất lương, chi chế độ chính sách cho con người và tiết kiệm 10% chi thường xuyên để tạo nguồn cải cách tiền lương theo kế hoạch đầu năm).

Cũng theo Nghị quyết, tạm dừng trang bị mới xe ô tô, điều hòa nhiệt độ, thiết bị văn phòng; giảm tối đa chi phí điện, nước, điện thoại, văn phòng phẩm, xăng dầu,…; không bố trí kinh phí cho các việc chưa thật sự cấp bách; tiết giảm tối đa chi phí hội nghị, hội thảo,… xử lý nghiêm, kịp thời và công khai những sai phạm.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì thành lập các đoàn kiểm tra, rà soát toàn bộ các công trình, dự án đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ đã được bố trí vốn năm 2011, đề xuất biện pháp xử lý với Thủ tướng trong tháng 3/2011.

Chính phủ cũng yêu cầu các Bộ, cơ quan, địa phương chưa khởi công các công trình, dự án mới sử dụng vốn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ, trừ các dự án phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai cấp bách, các dự án trọng điểm quốc gia và các dự án được đầu tư từ nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)…

Các Bộ, cơ quan, ban ngành Trung ương và UBND các tỉnh phải chủ động cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời, công khai, minh bạch cho báo chí, nhất là những vấn đề dư luận quan tâm.

Q. Thành

7 Giải Pháp Ổn Định Kinh Tế Vĩ Mô Trong Năm 2023

(BĐT) – 7 giải pháp cụ thể nhằm giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường và động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đã được Chính phủ nêu rõ trong Dự thảo Nghị quyết về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2023.

Báo cáo kiểm điểm công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, tình hình thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP và thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2023, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh cho biết, Đề án tái cơ cấu nền kinh tế bước đầu đã đạt kết quả đáng khích lệ; môi trường đầu tư kinh doanh, chỉ số năng lực cạnh tranh được cải thiện đáng kể; hoạt động của doanh nghiệp trong nước có chuyển biến tích cực. Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và số vốn tăng cao, nhất là từ khi Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp năm 2014 có hiệu lực thi hành (tăng 26,6% về số doanh nghiệp và tăng 39,1% về số vốn đăng ký).

Huy động vốn cho đầu tư phát triển đạt khá. Năm 2023, tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 1.367,2 nghìn tỷ đồng, tăng 12% so với năm trước và bằng 32,6% GDP. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện năm 2023 ước đạt 14,5 tỷ USD, tăng 17,4% so với năm 2014; vốn đăng ký ước đạt 22,76 tỷ USD, tăng 12,5%; số dự án cấp mới tăng 26,8%; số dự án bổ sung vốn tăng 37%.

Về tiền tệ, tín dụng, tính đến ngày 21/12/2023, tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng ước tăng 13,59% so với cuối năm 2014; tổng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế ước tăng 17,17%; tổng phương tiện thanh toán ước tăng 13,55%.

Dự thảo Nghị quyết đưa ra các chỉ tiêu chủ yếu phấn đấu đạt được trong năm 2023. Theo đó, GDP tăng khoảng 6,7%; tổng kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 10%; tỷ lệ nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu là dưới 5%; tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 31% GDP; tỷ lệ lao động qua đào tạo là 53%…

Để đạt được các mục tiêu nêu trên trong năm 2023, Chính phủ đã đưa ra 9 nhóm giải pháp, trong đó có nhóm giải pháp giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường và động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong nhóm giải pháp này, Chính phủ cũng có 7 giải pháp cụ thể. Thứ nhất là, Chính phủ sẽ điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng linh hoạt, hiệu quả. Thứ hai là, thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ, phối hợp với chính sách tiền tệ để hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thứ ba là, đẩy mạnh việc cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, tiếp tục tập trung vào 3 lĩnh vực đầu tư công, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng. Thứ tư là, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy sản xuất, kinh doanh. Thứ năm là, tăng cường quản lý, bảo đảm phát triển lành mạnh thị trường hàng hóa, dịch vụ trong nước. Thứ sáu là, thúc đẩy xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu. Thứ bảy là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật tạo khung khổ pháp lý đồng bộ cho sản xuất, kinh doanh.

Nghị Quyết Chính Phủ Về 6 Nhóm Giải Pháp Ổn Định Kinh Tế Vĩ Mô

Nghị quyết Chính phủ về 6 nhóm giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô

Ngày 24/02, Chính phủ ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP về 6 nhóm giải pháp chủ yếu để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách hiện nay là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.

* Toàn văn Nghị quyết của Chính phủ

6 nhóm giải pháp chủ yếu để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách hiện nay là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.

6 nhóm giải pháp này gồm: Thứ nhất, thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng; Thứ hai, thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách nhà nước; Thứ ba, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng; Thứ tư, điều chỉnh giá điện, xăng dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo; Thứ năm, tăng cường bảo đảm an sinh xã hội; Thứ sáu, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền.

Tiến tới xóa bỏ việc kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do

Trong đó, về chính sách tiền tệ, Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì điều hành và kiểm soát để bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2011 dưới 20%, tổng phương tiện thanh toán khoảng 15-16%.

Chính phủ yêu cầu giảm bội chi ngân sách nhà nước năm 2011 xuống dưới 5% GDP; phấn đấu bảo đảm nhập siêu không quá 16% tổng kim ngạch xuất khẩu;…

Trong quý II/2011, cơ quan này phải trình Chính phủ ban hành Nghị định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo hướng tập trung đầu mối nhập khẩu vàng, tiến tới xóa bỏ việc kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do.

Tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên của 9 tháng cuối năm 2011

Chính phủ quyết nghị việc yêu cầu các Bộ, cơ quan, địa phương chủ động sắp xếp lại các nhiệm vụ chi để tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên của 9 tháng còn lại trong dự toán năm 2011 (không bao gồm chi tiền lương và các khoản có tính chất lương, chi chế độ chính sách cho con người và tiết kiệm 10% chi thường xuyên để tạo nguồn cải cách tiền lương theo kế hoạch đầu năm).

Con số tiết kiệm cụ thể của các Bộ, cơ quan, địa phương được Bộ Tài chính tổng hợp, báo cáo Thủ tướng ngay trong tháng 3 này.

Tạm dừng trang bị xe mới, thiết bị văn phòng

Cũng theo Nghị quyết, tạm dừng trang bị mới xe ô tô, điều hòa nhiệt độ, thiết bị văn phòng; giảm tối đa chi phí điện, nước, điện thoại, văn phòng phẩm, xăng dầu,…; không bố trí kinh phí cho các việc chưa thật sự cấp bách; tiết giảm tối đa chi phí hội nghị, hội thảo,… Xử lý nghiêm, kịp thời và công khai những sai phạm.

Chính phủ yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì thành lập các đoàn kiểm tra, rà soát toàn bộ các công trình, dự án đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ đã được bố trí vốn năm 2011, đề xuất biện pháp xử lý với Thủ tướng trong tháng 3/2011.

Chưa khởi công dự án mới sử dụng ngân sách

Chính phủ cũng yêu cầu các Bộ, cơ quan, địa phương chưa khởi công các công trình, dự án mới sử dụng vốn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ, trừ các dự án phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai cấp bách, các dự án trọng điểm quốc gia và các dự án được đầu tư từ nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA).

Bộ Tài chính có nhiệm vụ chủ trì xem xét miễn, giảm thuế, gia hạn thời gian nộp thuế nguyên liệu đầu vào nhập khẩu phục vụ sản xuất xuất khẩu đối với những ngành hàng trong nước còn thiếu nguyên liệu (như dệt may, da giầy, thủy sản, hạt điều, gỗ, dược phẩm,…); tiếp tục tạm hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng hóa thực xuất khẩu trong năm 2011.

Tập trung hỗ trợ giảm nghèo, an sinh xã hội

Chính phủ yêu cầu Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội chủ trì, tập trung chỉ đạo hỗ trợ giảm nghèo tại các địa phương, nhất là tại các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn; hỗ trợ các hộ nghèo, địa phương nghèo xuất khẩu lao động; cho vay học sinh, sinh viên;…

Với công tác thông tin, tuyên truyền, Chính phủ yêu cầu các Bộ, cơ quan, ban ngành Trung ương và UBND các tỉnh phải chủ động cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời, công khai, minh bạch cho báo chí, nhất là những vấn đề dư luận quan tâm.

Quốc Thành

CHÍNH PHỦ

Triển Khai Các Nhiệm Vụ, Giải Pháp Dài Hạn Để Phục Hồi Và Phát Triển Kinh Tế

Trong 5 tháng đầu năm 2023, trao đổi thương mại hàng hóa của Việt Nam với châu Á tiếp tục chiếm tỷ trọng cao nhất. Nguồn: uschamber

Trong những tháng đầu năm, đại dịch Covid-19 đã khiến kinh tế thế giới lâm vào suy thoái nghiêm trọng, ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế – xã hội của Việt Nam. Số liệu của Tổng cục Hải quan cho biết, tính đến hết tháng 5/2023 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của cả nước đạt 196,89 tỷ USD, giảm 2,8% (tương ứng giảm 5,62 tỷ USD) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó trị giá hàng hóa xuất khẩu đạt 100,21 tỷ USD, giảm 0,9% và nhập khẩu đạt 96,67 tỷ USD, giảm 4,6%.

Trong 5 tháng đầu năm 2023, trao đổi thương mại hàng hóa của Việt Nam với châu Á tiếp tục chiếm tỷ trọng cao nhất (64,2%) trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. Trị giá xuất nhập khẩu trong 5 tháng với thị trường này đạt 126,42 tỷ USD, giảm 4,4 % so với cùng kỳ năm 2023, trong đó trị giá xuất khẩu là 50,2 tỷ USD, giảm 1,4% và trị giá nhập khẩu là 76,21 tỷ USD, giảm 6,3%. Xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam với châu Mỹ đạt 38,56 tỷ USD, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm 2023 và là châu lục đạt mức tăng trưởng cao nhất trong 5 tháng đầu năm nay. Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam với các châu lục khác lần lượt là: châu Âu: 24,35 tỷ USD, giảm 7%; châu Đại Dương: 3,91 tỷ USD, tăng 1,9% và châu Phi: 2,38 tỷ USD, giảm 7,5% so với cùng kỳ năm 2023…

Số liệu của Tổng cục Hải quan cho biết, tính đến hết tháng 5/2023 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của cả nước đạt 196,89 tỷ USD, giảm 2,8% (tương ứng giảm 5,62 tỷ USD) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó trị giá hàng hóa xuất khẩu đạt 100,21 tỷ USD, giảm 0,9% và nhập khẩu đạt 96,67 tỷ USD, giảm 4,6%.

Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 có thể còn kéo dài, kinh tế thế giới còn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất định, khó lường, Ban Bí thư yêu cầu cần khai thác tối đa thị trường trong nước, đồng thời phải phòng ngừa, ứng phó với các bất ổn từ bên ngoài, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội, sinh kế, việc làm, đời sống đối với người lao động, người nghèo, người yếu thế. Phấn đấu đạt mức cao nhất các chỉ tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2023. Chủ động điều hành, điều chỉnh các chỉ tiêu về ngân sách nhà nước, trong đó có thu ngân sách nhà nước, bội chi ngân sách nhà nước và nợ công cho phù hợp tình hình thực tiễn, góp phần phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội.

Bên cạnh đó, cần tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, hấp dẫn, phù hợp với xu thế mới, có khả năng cạnh tranh khu vực, quốc tế với những cơ chế, chính sách thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn đầu tư quốc tế và trong nước; hỗ trợ cho doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, nhanh chóng tiếp cận các hình thức sản xuất kinh doanh mới, hiện đại, hiệu quả, phù hợp để đủ sức tham gia ngay các chuỗi giá trị mới, mở rộng quan hệ đối tác gắn với mở rộng thị trường khi cấu trúc kinh tế thế giới có sự thay đổi, điều chỉnh. Xác định rõ các cơ hội và thách thức để đưa ra các giải pháp tận dụng, chuyển hóa cơ hội và thách thức thành các động lực tăng trưởng mới, thúc đẩy nhanh hơn quá trình đổi mới, cơ cấu lại nền kinh tế. Khắc phục, tháo gỡ khó khăn về sản xuất kinh doanh, chuẩn bị nguồn lực, xây dựng các chính sách đặc biệt, tận dụng cơ hội, nâng cao năng lực nội tại và sức cạnh tranh, khả năng chống chịu và tính tự chủ của nền kinh tế.

Đặc biệt, tại Kết luận số 77-KL/TW, bên cạnh các giải nhiệm vụ, giải pháp cấp bách, Bộ Chính trị cũng yêu cầu cần tiếp tục tập trung triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp dài hạn nhằm khắc phục tác động của đại dịch Covid-19 để phục hồi và phát triển nền kinh tế đất nước, cụ thể:

Một là, đổi mới hoàn thiện thể chế để khơi thông, giải phóng nguồn lực phát triển, nâng cao năng lực quản trị quốc gia. Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao hiệu quả công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Đẩy mạnh cải cách, đơn giản hoá thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, tập trung giải quyết các điểm nghẽn, bất cập, tạo điều kiện thông thoáng cho nhà đầu tư, doanh nghiệp. Đẩy nhanh xây dựng khung chính sách, pháp luật, hoàn thiện khung khổ pháp lý cho các mô hình kinh doanh mới, ứng dụng chuyển đổi số.

Hai là, đẩy mạnh quá trình cơ cấu lại nền kinh tế. Hỗ trợ phát triển những ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế, tham gia sâu trong các chuỗi giá trị thông qua chính sách ưu đãi về tài chính – ngân sách nhà nước, tín dụng và các chính sách hỗ trợ khác. Phục hồi và ổn định sản xuất nông nghiệp, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và xuất khẩu phù hợp, hiệu quả, thích ứng với tình hình mới; củng cố, nâng cao năng lực phòng, chống dịch bệnh. Tập trung phục hồi và phát triển mới chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị; đa dạng hóa, tránh phụ thuộc vào một thị trường cả xuất khẩu và nhập khẩu; tăng cường xuất khẩu.

Ba là, nâng cao năng lực, sức cạnh tranh nhằm đón đầu các thời cơ, lợi thế, cơ hội mới. Hỗ trợ hiệu quả doanh nghiệp trong nước (gồm cả doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp FDI); không để bị lợi dụng thâu tóm, bởi nhà đầu tư ngoài nước. Đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, thoái vốn gắn với nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước; phát huy vai trò đầu tàu của các tập đoàn, doanh nghiệp lớn trong việc hình thành các chuỗi giá trị, thúc đẩy sự tham gia của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phát huy sức sáng tạo và khả năng thích ứng, tận dụng các cơ hội, nâng cao năng lực cạnh tranh và tạo việc làm cho người lao động. Chủ động, có cơ chế, chính sách, hoàn thiện hạ tầng cơ sở, cung ứng các dịch vụ hỗ trợ nhằm thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài có chọn lọc, bảo đảm chất lượng, hiệu quả và bảo vệ môi trường, sinh thái, nhất là từ các tập đoàn lớn, các công ty đa quốc gia có công nghệ cao, tiềm lực mạnh, đứng đầu hoặc chi phối các mạng sản xuất, chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu.

Bốn là, đẩy mạnh phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, đổi mới sáng tạo và ứng dụng khoa học công nghệ. Tập trung nguồn lực để phát triển một số nền tảng công nghệ dùng chung, các hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia cốt lõi; bảo đảm hạ tầng kỹ thuật an toàn, an ninh thông tin. Xây dựng và phát triển hệ thống trung tâm đổi mới sáng tạo cấp quốc gia, vùng và địa phương; hỗ trợ, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo.

Năm là, bảo đảm an sinh xã hội, giải quyết việc làm, đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với xu thế mới. Thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ trợ an sinh xã hội, giải quyết việc làm, tạo điều kiện cho người lao động sớm quay trở lại thị trường, bảo đảm đủ lực lượng lao động khi bước vào giai đoạn tăng cường sản xuất, kinh doanh sau dịch. Tập trung hỗ trợ người sử dụng lao động đào tạo, đào tạo lại người lao động đáp ứng yêu cầu mới; đẩy mạnh kết nối cung, cầu lao động trong nước, gắn với thị trường lao động quốc tế.

Sáu là, phát huy thế mạnh của các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị lớn là đầu tàu cho phát triển kinh tế – xã hội. Xây dựng và thực hiện các chính sách, giải pháp phát triển vùng bền vững, đồng bộ, hệ thống, tạo tác động lan tỏa. Thúc đẩy liên kết nội vùng, liên vùng và quốc tế, tạo cơ sở phát triển mô hình tổ chức lãnh thổ, tổ chức sản xuất kinh doanh mới; hình thành các cụm ngành, chuỗi giá trị sản xuất và cung ứng liên thông; tạo không gian phát triển mới, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Kiểm Soát Lạm Phát, Tiếp Tục Ổn Định Kinh Tế Vĩ Mô Để Duy Trì Đà Tăng Trưởng Năm 2023

Nền kinh tế Việt Nam bước vào năm 2023 với bước đà ổn định và phát triển tích cực của năm 2023. Về cơ bản, nền kinh tế thế giới năm 2023 sẽ có những dấu hiệu tích cực hơn và có những tác động thuận lợi, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế Việt Nam. Bên cạnh đó, với các hiệp định thương mại của Việt Nam trong năm 2023 sẽ phát huy hiệu quả, tạo ra được những cải thiện mạnh mẽ trong môi trường sản xuất kinh doanh cũng như thu hút đầu tư. Thị trường tài chính, thị trường ngoại hối tương đối ổn định trong quý I và những chính sách tiền tệ tích cực, linh hoạt đã dần phát huy hiệu quả trong điều hành chính sách. Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam vẫn phải đối mặt với một số thách thức như tình hình kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, thời tiết đang là trở ngại lớn trong sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản và việc kiểm soát lạm phát đang gặp nhiều thách thứ

PGS., TS. Đào Văn Hùng   1. Kinh tế thế giới quý I vẫn còn nhiều bất ổn Tình hình kinh thế giới quý I/2023 vẫn cho thấy nhiều bất ổn khi tốc độ tăng trưởng kinh tế của Mỹ và khu vực châu Âu vẫn chưa bền vững; kinh tế Trung Quốc, Nhật Bản và các nền kinh tế đang nổi vẫn đang trong giai đoạn khó khăn, trong khi tình hình sản xuất, thương mại chưa có nhiều cải thiện. Triển vọng tích cực về kinh tế là “không rõ ràng”. Theo Bộ Thương mại Mỹ (24/03/2023), GDP quý IV/2023 của Mỹ tăng 1,4%, cao hơn gấp đôi so với con số ước tính trước đó (0,7%) và đạt tốc độ tăng trưởng GDP cả năm 2023 là 2,4%. Tuy nhiên, trong năm 2023, tình hình sản xuất của Mỹ không ổn định, sau khi chỉ số PMI tăng lên mức 52,4 điểm vào tháng 1/2023 và giảm xuống 51,3 điểm vào tháng 2/2023. Đồng thời, chỉ số giá sản xuất (PPI) đối với cầu cuối cùng cũng tăng 0,1% trong tháng 1/2023 sau đó giảm tiếp 0,2% trong tháng 2/2023. Tình hình tế của khu vực châu Âu quý I/2023 vẫn chưa thấy được nhiều tín hiệu khả quan. Sản lượng của khu vực kinh tế châu Âu đã tiếp tục suy giảm trong những tháng đầu năm 2023 và chỉ số PMI đạt mức 53,6 điểm trong tháng 1/2023 và giảm xuống còn 53 điểm trong tháng 2/2023. Tình hình kinh tế Nhật Bản quý I/2023 vẫn cho thấy sự thiếu ổn định với nguyên nhân chính là do tiêu dùng cá nhân yếu và một phần do sự suy giảm tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc. Cụ thể, tiêu dùng cá nhân giảm là do tổng tiền lương tăng thấp với mức tăng chỉ 1%. Chỉ số PMI tháng 1/2023 đạt 52,3 điểm và giảm xuống còn 50,1 điểm vào tháng 2/2023. Bên cạnh đó, Nhật Bản vẫn đang phải đối mặt với rủi ro về tỷ giá khi giá trị đồng USD giảm đã làm cho đồng Yên tăng lên 6%, điều này sẽ gây trở ngại tiêu cực cho nền kinh tế Nhật Bản. Tình hình kinh tế Trung Quốc quý I/2023 cho thấy nhiều dấu hiệu không khả quan. Cụ thể, xuất khẩu trong tháng 1 và 2/2023 (tính theo USD) giảm 11,2% và 25,4 % so với cùng kỳ năm trước và nhập khẩu giảm 18,8% và 13,8% so với cùng kỳ năm trước,  điều này đã làm cho thương mại thặng dư lên tới 95,9 tỷ USD. Xuất khẩu sụt giảm cho thấy đợt phá giá nhân dân tệ (NDT) hồi tháng 8/2023 vẫn chưa thể nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Trung Quốc. Bên cạnh đó, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc tháng 2/2023 đã giảm xuống còn khoảng 3 nghìn tỷ USD, theo thông cáo của Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBOC). Các nền kinh tế đang nổi đang có dấu hiệu suy giảm tăng trưởng trong quý I/2023. Tại Nga, chỉ số PMI trong 2 tháng đầu năm 2023 liên tục suy giảm dưới 50 điểm, các đơn hàng xuất khẩu giảm mạnh và áp lực về giá tăng cao. Tại Ấn Độ, chỉ số PMI chỉ đạt 51,1 điểm trong tháng 2/2023, tuy nhiên, đã có những dấu hiệu tích cực trong sản xuất và các đơn đặt hàng. Tại Braxin, chỉ số PMI luôn dưới 50 điểm, ngành sản xuất suy giảm, và thất nghiệp gia tăng. Trong quý I/2023, tại cuộc họp ngày 16/3, Ủy ban Thị trường mở Liên bang (FOMC) trực thuộc FED đã quyết định giữ nguyên mức mục tiêu cho lãi suất cơ bản trong khoảng 0,25 – 0,5%, đồng thời dự kiến FED sẽ chỉ nâng lãi suất 2 lần từ nay đến cuối năm 2023, mỗi lần tăng 0,25% thay vì dự kiến tăng 4 lần trong năm 2023 (mỗi lần 0,25%) như trước đây. Đây là một quyết định quan trọng đối với định hướng chính sách của Mỹ cũng như của các nước trên thế giới. Sự mất giá liên tục của đồng USD trong những tháng đầu năm 2023 đã gây ra những trở ngại và áp lực tỷ giá đối với các nước trên thế giới. Điều này có thể sẽ dẫn tới sự phá giá đồng tiền của nhiều nước trên thế giới. Trong tháng 1/2023, giá cả hàng hoá cơ bản giảm 0,8% do sự sụt giảm của giá dầu và giá kim loại. Tuy nhiên, sang tháng 2/2023, giá hàng hoá thế giới tăng trở lại ở mức 2%, đầy là lần tăng đầu tiên trong 9 tháng qua.   2. Kinh tế vĩ mô quý I ở Việt Nam mặc dù ổn định nhưng vẫn chứa đựng bất ổn, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng năm 2023 2.1. Tăng trưởng kinh tế đạt thấp Theo số liệu của GSO, tăng trưởng quý I/2023 đạt 5,46% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức 6,12% của quý I/2023. Nguyên nhân chính là do sự giảm sút của tiêu dùng, tiêu dùng cuối cùng chỉ tăng 6,87% so với cùng kỳ năm 2023, thấp hơn rất nhiều so quý I/2023 là 8,67%. Xét theo phía cung, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản suy giảm và tốc độ tăng khu vực công nghiệp và xây dựng sụt giảm. Cụ thể, tăng trưởng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm (-) 1,23% và công nghiệp và xây dựng  chỉ tăng 6,72% so với cùng kỳ năm trước. Khu vực dịch vụ tăng  ứng 6,13% so với cùng kỳ năm trước,cao hơn con số 5,68% của quý I/2023. (Hình 1)

Hình 1: Tăng trưởng kinh tế quý I qua các năm. (Nguồn: GSO)

2.2. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tiếp tục đà tăng thấp, nhưng nếu không được kiểm soát tốt vẫn có thể vượt quá mục tiêu dưới 5% năm 2023 CPI tháng 2 tăng 0,42% so với tháng trước, dẫn đến 2 tháng đầu năm chỉ số CPI tăng 0,42% so với tháng 12 năm trước. Nguyên nhân CPI tăng cao là do sức tiêu thụ và mua sắm hàng hoá của người dân trong dịp Lễ Tết đầu năm 2023, điều này dẫn đến giá cả của nhóm hàng hoá như nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,12% so với tháng 12 năm trước. CPI tháng 3/2023 tăng 0,57% so với tháng trước, chủ yếu là do tác động tăng giá của nhóm hàng hóa dịch vụ y tế và giáo dục. Cụ thể, nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 24,34%, trong đó, dịch vụ y tế tăng 32,9%. Giá giáo dục tăng 0,66% là do sự điều chỉnh tăng giá của 06 tỉnh, thành phố theo Nghị định số 86/2023/NĐ-CP ngày 02/10/2023 của Chính phủ. Như vậy, tính chung 03 tháng đầu năm, CPI đã tăng 0,99% so với tháng 12, tăng 1,69% so với cùng kỳ năm trước và CPI bình quân quý I/2023 tăng 1,25% so với bình quân cùng kỳ năm 2023. 2.3. Xuất nhập khẩu tăng chậm Xuất khẩu tăng chậm: Tính chung 3 tháng đầu năm, tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước đạt 37,9 tỷ USD, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 27,1 tỷ, tăng 5,8%. Có thể thấy, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu quý I/2023 tăng thấp nếu so với con số tăng trưởng cùng kỳ của các năm trước đó (38,71% năm 2011; 24,48% năm 2012; 17,52% năm 2013, 14,27% năm 2014 và 6,94% năm 2023). Nhập khẩu tiếp tục giảm, 3 tháng đầu năm kim ngạch hàng hóa nhập khẩu toàn nền kinh tế ước đạt 37,1 tỷ USD, giảm 4,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực có vốn nước ngoài nhập khẩu 22,2 tỷ USD, giảm 5,7% so với cùng kỳ năm trước và chiếm tới 61,35% tổng kim ngạch nhập khẩu; khu vực trong nước nhập khẩu 13,34 tỷ USD, giảm 11,9% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 36,65% tổng kim ngạch nhập khẩu. Như vậy, tính riêng quý I/2023, cán cân thương mại hàng hóa thặng dư 776 triệu, trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu là 4,05 tỷ USD và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 4,83 tỷ USD. Con số xuất siêu của quý là không bền vững, nguyên nhân chính là do xuất khẩu và nhập khẩu đều giảm, trong đó chủ yếu là do nhập khẩu giảm sâu. Bên cạnh đó, con số xuất siêu này phụ thuộc chủ yếu vào xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. (Hình 2) Hình 2: Xuất nhập khẩu và cán cân thương mại hàng hóa qua các quý. (Nguồn: GSO)

2.4. Đầu tư vẫn duy trì tăng trưởng ở mức khá, nhưng đầu tư công tăng nhanh, nợ chính phủ cao, ngân sách nhà nước tiếp tục khó khăn – Vốn đầu tư tăng, nhưng chủ yếu là do nguồn vốn đầu tư nước ngoài tăng So với cùng kỳ năm 2023, vốn đầu tư thực hiện đã tăng 1 điểm % từ 9,7% của năm 2023 lên thành 10,7% năm 2023, song sự tăng lên của nguồn vốn này chủ yếu là do tăng vốn đầu tư thực hiện của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cụ thể, vốn đầu tư thực hiện khu vực nhà nước tăng 7,8% (năm 2023 là 7,7%), vốn đầu tư thực hiện khu vực ngoài Nhà nước tăng 11,5% (năm 2023 là 11,4%) và vốn đầu tư thực hiện của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 13,5% (năm 2023 là 10,2%). – Đầu tư công tăng nhanh Toàn bộ chi đầu tư đều phải dựa vào nguồn vay nợ của Chính phủ, làm tăng áp lực nợ công và áp lực trả nợ. Nợ Chính phủ đến cuối năm 2023 là 50,3% GDP.  – Đầu tư từ ngân sách Nhà nước Với những chính sách của Chính phủ trong năm 2023 về định hướng về những nhiệm vụ, giải pháp thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2023 nói chung và lĩnh vực đầu tư nói riêng nhằm huy động nguồn lực đầu tư trong xã hội và đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân vốn ngân sách nhà nước. Theo đó, vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 273,6 nghìn tỷ đồng, tăng 10,7% so với cùng kỳ năm trước và bằng 32,2% GDP. Đây là mức tăng vốn tương đối cao trong bối cảnh kinh tế quý I đạt thấp. Đối với vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước trong quý I ước đạt 42,4 nghìn tỷ đồng chiếm 43,8% tổng vốn khu vực nhà nước, trong đó vốn do Trung ương quản lý đạt 9,3 nghìn tỷ đồng, vốn do địa phương quản lý đạt 33,1 nghìn tỷ đồng. Tổng thu ngân sách nhà nước không đủ đảm bảo nguồn chi thường xuyên và trả nợ. Cụ thể, tính đến thời điểm 15/03/2023, tổng thu ngân sách ước đạt 182,4 nghìn tỷ đồng thấp hơn mức 187,6 nghìn tỷ đồng của chi phát triển sự nghiệp kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể (155,7 nghìn tỷ đồng) và chi trả nợ và viện trợ (31,9 nghìn tỷ đồng). – Đầu tư trực tiếp nước ngoài Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện quý I ước đạt 3,5 tỷ USD, tăng 14,8% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chính của sự tăng lên mạnh mẽ này là do sự cải thiện đáng kể của môi trường đầu tư. Tuy nhiên, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu đi vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Cụ thể, ngành này thu hút lượng vốn đăng ký khoảng 2908 triệu USD và chiếm khoảng 72,2% tổng vốn đăng ký. Nếu xét theo đối tác đầu tư, các đối tác đầu tư lớn vào Việt Nam như Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 513,5 triệu USD, chiếm 18,7% tổng vốn đăng ký cấp mới (năm 2023 khoảng 314,2 triệu USD, chiếm 25,8%). Như vậy, tổng vốn đăng ký vào Việt Nam đã tăng mạnh và đầu tư nước ngoài đang dần chuyển vào Việt Nam nhiều hơn. 2.5. Tiêu dùng đang có xu hướng giảm Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ quý I/2023 ước đạt 859,6 nghìn tỷ đồng, tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước và nếu loại trừ yếu tố giá chỉ tăng 7,9%, thấp hơn rất nhiều so với con số tăng 9,2% của cùng kỳ năm 2023. Xét theo ngành hàng: Lương thực, thực phẩm tăng 13,2%; may mặc tăng 10,5%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 9,7%; phương tiện đi lại tăng 8,3%; vật phẩm văn hoá, giáo dục tăng 0,1%. 2.6. Thị trường ngoại hối ổn định, tăng trưởng tín dụng khả quan Tỷ giá bán tại nhiều NHTM phổ biến ở mức USD/VND = 22.325 – 22.340 VND/USD trong hơn 1 tháng gần đây, giảm 1% (tương đương mức giảm 200 đồng/1USD) so với thời điểm cuối năm 2023. Nguyên nhân là do: Thứ nhất, nguồn cung ngoại tệ là tương đối dồi dào do các nguồn như FDI, kiều hối tăng mạnh và Việt Nam xuất siêu trong quý I. Thứ hai, với các chính sách hạ lãi suất USD và áp dụng cơ chế điều hành tỷ giá trung tâm khiến diễn biến tỷ giá không quá căng thẳng như thời điểm cuối năm 2023. Tính đến thời điểm 31/03/106, theo Thông tư 24/2023/TT-NHNN ngày 8/12/2023  của Ngân hàng Nhà nước quy định cho vay bằng ngoại tệ của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng vay là người cư trú kể từ ngày 31/3/2023, các NHTM sẽ chấm dứt cho vay bằng ngoại tệ và chuyển sang mua bán Đôla Mỹ (USD) thuần túy. Đã có rất nhiều lo ngại của các doanh nghiệp và các cá nhân về việc khó khăn trong tiếp cận nguồn tín dụng USD. Tuy nhiên, trong Thông tư có quy định rõ cho từng đối tượng và đã tạo ra bước ngoặt quan trọng trong điều hành chính sách nhằm hạn chế được những đối tượng “trục lợi” từ việc hưởng chênh lệch lãi suất. Như vậy, Thông tư này có thể là điểm sáng trong việc điều hành tỷ giá trong thời gian tới. Tính đến thời điểm 21/03/2023, tổng phương tiện thanh toán tăng 3,08% so với tháng 12/2023, cao hơn mức tăng 2,09% của cùng kỳ năm trước. Tăng trưởng tín dụng tăng 1,54% so với tháng 12/2023, cao hơn mức tăng 1,25% của cùng kỳ năm 2023. Thêm vào đó, huy động vốn tăng 2,26% so với thời điểm cuối năm 2023 và cao hơn rất nhiều so với con số 0,94% của cùng kỳ năm 2023. 2.7. Mặt bằng lãi suất huy động tăng nhẹ, lãi suất cho vay khó có thể giảm trong thời gian tới Những tháng đầu năm 2023, lãi suất huy động tại các NHTM có dấu hiệu tăng nhẹ. Cụ thể, lãi suất huy động các kỳ hạn ngắn dưới 6 tháng được duy trì ở mức 4 – 5,5%/năm; với kỳ hạn từ 6 – 12 tháng, lãi suất huy động từ 5,4 – 6,8%/năm; kỳ hạn từ 12 tháng trở lên lãi suất từ 6 – 8%/năm. Trong khi đó, mặt bằng lãi suất cho vay hầu như không có biến động so với cuối năm 2023. Lãi suất cho vay các lĩnh vực ưu tiên phổ biến ở mức 6% – 7%/năm đối với ngắn hạn và 9 – 10%/năm đối với trung và dài hạn. Lãi suất cho vay các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường ở mức 6,8% – 9%/năm đối với ngắn hạn; 9,3 – 11%/năm đối với trung và dài hạn. Các yếu tố khiến lãi suất huy động tăng nhẹ bao gồm: (1) Lạm phát tăng cao hơn so với cùng kỳ năm 2023, mặc dù vẫn ở mức tương đối thấp; (2) những lo ngại về rủi ro tỷ giá và sự mất giá của đồng VND; (3) dự thảo sửa đổi Thông tư 36 theo hướng thắt chặt hơn quy định về tỷ lệ vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn cũng khiến các NHTM gia tăng lãi suất huy động trung và dài hạn để đảm bảo an toàn hệ thống. Lãi suất huy động tăng, thêm vào đó, các NHTM phải tiếp tục trích lập dự phòng rủi ro cho các khoản nợ xấu trước đây, nên lãi suất cho vay khó có thể giảm trong năm 2023.  2.8. Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư sửa đổi đã tạo môi trường thông thoáng hơn cho thành lập cũng như kinh doanh của các doanh nghiệp Doanh nghiệp thành lập mới tăng mạnh về số vốn đăng ký. Tính đến hết tháng 3 năm 2023, cả nước có thêm 23767 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với số vốn đăng ký là 186 tỷ đồng, tăng 24,8% về số doanh nghiệp và tăng 67,2% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ. Điều này cho thấy nhiều nhà đầu tư đang có xu hướng đầu tư trở lại, khi nền kinh tế đã đạt được những dấu hiệu tích cực trong năm 2023. Tuy nhiên, số doanh nghiệp tạm ngừng và doanh nghiệp giải thể vẫn tăng lên so với cùng kỳ năm trước Số doanh nghiệp ngừng hoạt động trong quý I là 20044 doanh nghiệp, tăng 23,9% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 có 16175 doanh nghiệp, tăng 14,2% so với cùng kỳ năm trước nữa). Trong đó, có 8026 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động có thời hạn và 12023 doanh nghiệp ngừng hoạt động có đăng ký. Các doanh nghiệp khó khăn phải tạm ngừng hoạt động hoặc phá sản chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ chiếm hơn 90% số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động và giải thể. Nguyên nhân chính là do khả năng thích ứng và khả năng cạnh tranh còn thấp. Thêm vào đó, sự khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn đã dẫn đến những trở ngại trong đầu tư và hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy, Chính phủ cần phải có những giải pháp phù hợp hơn đối với các loại hình doanh nghiệp này để duy trì và thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh. Số doanh nghiệp tạm ngừng quay trở lại hoạt động tăng mạnh. Số doanh nghiệp ngừng hoạt động quay trở lại hoạt động trong quý I năm nay là 9376 doanh nghiệp, tăng 84,1% so với cùng kỳ năm trước, và cao hơn rất nhiều con số 5094 (tăng 10,2% so với cùng kỳ năm 2014) của quý I/2023. Điều này cho thấy các giải pháp của Chính phủ nhằm tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh đã phát huy tác dụng.     Các doanh nghiệp lạc quan hơn về tình hình sản xuất kinh doanh Với kết quả điều tra về xu hướng kinh doanh của GSO cho thấy có tới gần 73% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý I/2023 là ổn định và khả quan hơn, trong khi đó, chỉ có khoảng 27% đánh giá tình hình khó khăn hơn. Bên cạnh đó, có 89% doanh nghiệp đánh giá xu hướng ổn định và tốt hơn trong quý II/2023 với với sự tăng lên của sản xuất, khối lượng xuất khẩu, các đơn đặt hàng và sự ổn định của chi phí sản xuất, giá cả và tồn kho sản phẩm. 3. Dự báo tốc độ tăng trưởng năm 2023 và một số giải pháp duy trì đà tăng trưởng 3.1. Triển vọng kinh tế thế giới Tăng trưởng kinh tế thế giới có thể tăng chậm trong năm 2023, OECD dự báo tăng trưởng 3,3% (thấp hơn mức dự báo trước đó, 3,6%) nguyên nhân chính là do nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục suy giảm. Theo đó, các nền kinh tế phát triển như Mỹ sẽ tiếp tục khả quan, Nhật Bản có thể đạt mức tăng trưởng 1%. Trong khi đó, nền kinh tế Trung Quốc vẫn có thể tiếp tục suy giảm khi phải đối mặt với những khó khăn như sự suy giảm của xuất nhập khẩu và dự trự ngoại hối. 3.2. Cho dù tăng trưởng quí I thấp, nhưng Việt Nam vẫn có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế   Từ thực trạng kinh tế quý I cho thấy, trong năm 2023, Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức và khó khăn để duy trì tốc độ tăng trưởng tích cực của năm 2023 như: Thứ nhất, tiêu dùng đang có xu hướng tăng chậm và không đạt được như kỳ vọng của năm 2023. Cụ thể, có thể thấy được tốc độ tăng tiêu dùng cuối cùng của quý I/2023 (ước đạt 6,87%) giảm gần 2 điểm % so với cùng kỳ năm 2023 (8,67%). Thứ hai, thời tiết diễn biến bất thường sẽ tác động tiêu cực tới sản xuất nông nghiệp và giá lương thực trên thị trường. Cụ thể, giá trị sản xuất nông nghiệp gặp khó khắn do khí hậu khắc nghiệt làm hạn chế việc sản xuất hoa màu và tình trạng nước mặn xâm nhập ở Đồng bằng sông Cửu Long, làm giảm năng suất lúa. Bên cạnh đó, thời tiết khó khăn và ô nhiễm nguồn nước cũng có ảnh hưởng mạnh tới nuôi trồng thủy sản. Thứ ba, đồng USD dự báo tiếp tục lên giá khi FED tuyên bố sẽ tăng lãi suất 2 lần từ nay đến cuối năm 2023, điều này sẽ có ảnh hưởng tiêu cực tới thương mại thế giới. Thứ tư, việc kiểm soát lạm phát còn nhiều thách thức khi giá dầu thế giới diễn biến phức tạp theo chiều hướng tăng trở lại và việc tăng giá các hàng hóa dịch vụ công (y tế, giáo dục). Trên cơ sở đó, bài viết này đưa ra hai kịch bản dự báo kinh tế cho năm 2023 như sau: (Hình 3)

Kịch bản thứ nhất (kịch bản cao): Kịch bản này được dự báo khi Chính phủ có nhiều chính sách nhằm cải thiện mạnh mẽ nhằm tăng tiêu dùng của nền kinh tế. Bên cạnh đó, với hàng loạt các hiệp định thương mại sẽ phát huy tối đa hiệu quả trong năm 2023 và những dấu hiệu tác động tích cực từ bên ngoài tới nền kinh tế Việt Nam. Do đó, mặc dù kết quả tăng trưởng quí I thấp, nhưng vẫn có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng 6,8% vào cuối năm và lạm phát vẫn có thể duy trì vào khoảng 3,17%. Kịch bản thứ hai (kịch bản thấp): Kịch bản này được đưa ra khi tiêu dùng trong nước không có nhiều cải thiện và các hiệp định thương mại còn gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, những khó khăn từ thiên tai, dịch bệnh và những khó khăn từ bên ngoài tác động tới nền kinh tế Việt Nam. Với kịch bản này, tăng trưởng của Việt Nam năm 2023 chỉ đạt khoảng 6,35% và lạm phát ở khoảng 2,56%. 3.3. Một số giải pháp cho nền kinh tế trong năm 2023 Để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2023, trong thời gian tới, cần phải thực hiện một số giải pháp sau đây: Thứ nhất, kiểm soát chặt chẽ lạm phát, xây dựng cơ chế phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa, giảm gánh nặng tăng tổng cầu lên chính sách tiền tệ và hạn chế dần sự lấn át của chính sách tài khóa lên chính sách tiền tệ. Mặc dù mức tăng CPI quí I còn thấp, nhưng áp lực tăng giá sản phẩm, dịch vụ công theo cơ chế thị trường còn rất lớn. Mặt khác, giá dầu có dấu hiệu hồi phục sẽ tác động nhiều đến CPI. Vì vậy, Chính phủ cần tiếp tục kiểm soát chặt chẽ tổng cầu đề duy trì lạm phát ở mức thấp tạo đà cho tăng trưởng.  Thứ hai, giảm chi phí hoạt động NHTM để từ đó, tạo cơ sở cho giảm lãi suất tiền vay qua việc giảm trích lập dự phòng rủi ro nợ xấu bằng cách cho các NHTM chuyển nợ xấu thành vốn góp doanh nghiệp như kinh nghiệm xử lý của Trung Quốc trong thời gian gần đây. Thứ ba, duy trì kỷ luật tài khóa, giảm chi tiêu thường xuyên bằng cách giao tự chủ tài chính cho các đơn vị hành chính sự nghiệp công, chuyển một số hoạt động hành chính và dịch công sang khu vực tư nhân đảm nhiệm. Thứ tư, kiểm soát chặt chẽ đầu tư công, cắt giảm dự án  đầu tư công hiệu quả thấp, chỉ tập trung đầu tư vào các dự án trọng điểm có sức lan tỏa và xây dựng tiêu chí rõ ràng, công khai cho việc lựa chọn các dự án này. Sử dụng đồng bộ các giải pháp nêu trên lạm phát sẽ được kiểm soát, kinh tế vĩ mô sẽ ổn định và tăng trưởng kinh tế vẫn có thể đạt được từ 6,35 đến 6,70% như dự báo.   TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Báo cáo tình hình kinh tễ xã hội các tháng và quý của Tổng cục Thống kê. 2. Website Tổng cục Hải quan. 3. Website Tổng cục Thống kê. 4. Website Ngân hàng Nhà nước. 5. Website Cục Ðầu tư nước ngoài.   (Tạp chí Ngân hàng số 8, tháng 4/2023)

Cập nhật thông tin chi tiết về Tiếp Tục Triển Khai Quyết Liệt, Có Hiệu Quả Các Nhiệm Vụ, Giải Pháp Góp Phần Ổn Định Vĩ Mô, Phục Hồi Kinh Tế trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!