Bạn đang xem bài viết Tiếp Tục Đổi Mới, Sắp Xếp Tổ Chức Bộ Máy Hành Chính Nhà Nước Theo Yêu Cầu Của Nghị Quyết Hội Nghị Trung Ương Lần Thứ 6, Khóa Xii được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Qua 02 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW Hội nghị Trung ương lần thứ 6, khóa XII, việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước đã thu được một số kết quả bước đầu. Trong thời gian tới, nhiệm vụ này cần tiếp tục được triển khai thực hiện đồng bộ và căn bản để đáp ứng yêu cầu tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
1. Thực trạng tổ chức bộ máy hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020
1.1. Kết quả đạt được
Trên cơ sở đánh giá việc sắp xếp cơ cấu tổ chức Chính phủ các nhiệm kỳ (từ khóa XII đến nay)(1) và tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khoá X(2), thực trạng cải cách hành chính, thu gọn đầu mối và tinh giản biên chế khu vực hành chính, sự nghiệp(3) và một số kết quả bước đầu triển khai thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW Hội nghị Trung ương lần thứ 6 khóa XII (Nghị quyết số 18-NQ/TW)… có thể đánh giá chung về những kết quả đạt được trong việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính nhà nước từ năm 2011 đến nay như sau:
Hai là, giữ ổn định số lượng các cơ quan thuộc Chính phủ (08 cơ quan)(4). Để bảo đảm tính thống nhất trong quản lý nhà nước đối với các hoạt động của các cơ quan thuộc Chính phủ, đã phân công các thành viên Chính phủ trực tiếp chỉ đạo và thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực về hoạt động của các cơ quan thuộc Chính phủ.
Ba là, chức năng, nhiệm vụ của các bộ, cơ quan ngang bộ tập trung vào quản lý vĩ mô; ban hành chính sách, chiến lược, quy hoạch đối với ngành, lĩnh vực; hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm thuộc phạm vi quản lý theo phân công của Chính phủ và quy định của pháp luật; từng bước tách chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực với chức năng quản lý, giám sát của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Bốn là, cơ cấu tổ chức bên trong của bộ, cơ quan ngang bộ được kiện toàn, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng quản lý, tính chất hoạt động và tiếp tục được đổi mới, sắp xếp theo hướng tinh gọn, giảm cấp trung gian theo đúng tinh thần Nghị quyết số 18/NQ-TW và Nghị quyết số 56/2017/QH14 ngày 24/11/2017 của Quốc hội về tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả (Nghị quyết số 56/2017/QH14). Cụ thể là:
– Quy định cụ thể các tiêu chí (gắn với quy định về biên chế tối thiểu) để thành lập vụ, cục, tổng cục thuộc bộ; tiêu chí thành lập các vụ, cục thuộc tổng cục. Việc thành lập mới các tổ chức từ cấp vụ, cục trở lên nếu làm tăng số lượng tổ chức thì phải báo cáo Bộ Chính trị cho ý kiến trước khi trình Chính phủ xem xét, quyết định.
- Quy định cục thuộc bộ chỉ có một loại với tiêu chí thành lập được áp dụng thống nhất đã thể hiện sự đổi mới trong cách thức tiếp cận và thiết kế cơ cấu tổ chức bộ máy thuộc bộ.
– Quản lý chặt chẽ số lượng phòng trong vụ, số lượng phòng và chi cục thuộc cục thuộc bộ; số lượng chi cục thuộc cục của tổng cục thuộc bộ đã góp phần hạn chế được tổ chức trung gian không cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức. Theo Nghị quyết số 18-NQ/TW, Chính phủ ban hành tiêu chí thành lập các tổ chức này và phân cấp cho bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ quyết định thành lập.
– Đẩy mạnh phân cấp thẩm quyền và trách nhiệm người đứng đầu các tổng cục và tổ chức tương đương; cục, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc bộ được quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh lãnh đạo, quản lý của các đơn vị thuộc cấp mình quản lý, bảo đảm nguyên tắc cấp nào quản lý, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức thì cấp đó quyết định bổ nhiệm, cách chức để gắn thẩm quyền với trách nhiệm.
– Các đơn vị sự nghiệp công lập hiện có hoạt động phục vụ công tác quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực thuộc bộ như: nghiên cứu chiến lược, chính sách về ngành, lĩnh vực; báo; tạp chí; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; thông tin hoặc tin học được quy định tại Nghị định của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ; các đơn vị sự nghiệp công lập khác hiện có thuộc bộ được rà soát, sắp xếp phù hợp với quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập theo ngành, lĩnh vực và định hướng đổi mới cơ chế tự chủ và đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động cung ứng dịch vụ sự nghiệp công thuộc ngành, lĩnh vực theo tinh thần Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Trung ương lần thứ 6 khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp cộng lập (Nghị quyết số 19-NQ/TW).
– Về tổ chức bên trong của các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc Chính phủ: 1) Vụ và tương đương thuộc bộ, cơ quan ngang bộ là 254, giảm 11; 2) Cục thuộc bộ, cơ quan ngang bộ là 171, tăng 37; 3) Tổng cục và tổ chức tương đương là 36, giảm 04; 4) Đơn vị sự nghiệp công lập thuộc bộ, cơ quan ngang bộ là 124, giảm 09.
– Về tổ chức bên trong của các cơ quan thuộc Chính phủ: 1) Ban (vụ) thuộc cơ quan thuộc Chính phủ là 52, giảm 01; 2) Đơn vị sự nghiệp thuộc các cơ quan thuộc Chính phủ là 144, giảm 22.
Năm là, số lượng các tổ chức quản lý chuyên ngành có xu hướng chuyển đổi từ các tổ chức chỉ thực hiện chức năng tham mưu (vụ) sang loại hình tổ chức vừa thực hiện chức năng tham mưu, vừa tổ chức thực thi (cục) theo phân cấp, ủy quyền của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ để đáp ứng yêu cầu phát triển thực tế và nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước các chuyên ngành, lĩnh vực.
Sáu là, đẩy mạnh trao quyền cho chính quyền địa phương cấp tỉnh, cấp huyện quyết định sắp xếp tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc cấp mình quản lý trên cơ sở phù hợp với quy định khung của Chính phủ, bảo đảm thu gọn đầu mối, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, phân định rõ hơn chức năng và mô hình tổ chức của chính quyền ở đô thị với chính quyền ở nông thôn và hải đảo.
Bảy là, thực hiện thí điểm hợp nhất các cơ quan ở địa phương theo Kết luận số 34-KL/TW ngày 07/8/2018 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 580/2018/UBTVQH14 ngày 04/10/2018 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
1.2. Một số hạn chế
Thời gian qua, việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy đạt được kết quả tích cực, đã khắc phục được nhiều bất hợp lý trong tổ chức bộ máy của hệ thống hành chính nhà nước, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế, đó là:
Thứ nhất, tổ chức bộ máy bên trong của một số bộ, cơ quan ngang bộ vẫn cồng kềnh, còn tầng nấc trung gian; chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cơ quan hành chính nhà nước tuy đã cơ bản khắc phục được sự chồng chéo, nhưng trên một số lĩnh vực vẫn còn giao thoa, đan xen hoặc phân công chưa thực sự phù hợp hoặc chưa đủ rõ, dẫn đến khó xác định trách nhiệm khi có vấn đề xảy ra.
Thứ hai, công tác phối hợp thực hiện chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ, cơ quan ngang bộ còn hạn chế, chưa thực hiện nguyên tắc một việc chỉ giao cho một cơ quan, một người chủ trì, chịu trách nhiệm chính. Thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực vẫn còn phức tạp, rườm rà, chậm được khắc phục.
Thứ ba, việc quy định về tổ chức trong các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành không thuộc lĩnh vực tổ chức nhà nước làm phát sinh việc tăng đầu mối tổ chức, gây trở ngại cho việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy theo yêu cầu cải cách hành chính.
Thứ tư, số lượng cấp phó tại một số tổ chức hành chính vượt so với quy định, còn mất cân đối giữa số lượng người giữ chức danh lãnh đạo, quản lý và số công chức tham mưu tại một số tổ chức hành chính.
Thứ năm, số lượng các sở được tổ chức thống nhất tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương còn nhiều và chưa phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị và điều kiện, tình hình phát triển kinh tế – xã hội của từng địa phương theo yêu cầu của Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015. Một số chi cục thuộc sở chưa được tổ chức lại cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao, tạo ra tầng nấc trung gian.
Thứ sáu, việc chuyển giao một số nhiệm vụ từ cơ quan hành chính nhà nước cho các tổ chức xã hội thực hiện còn hạn chế. Tổ chức bộ máy và biên chế công chức tại các cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương chưa giảm, tinh giản biên chế còn gặp nhiều khó khăn.
Thứ bảy, một số nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương chưa được quy định rõ, vẫn còn một số nhiệm vụ cả cấp tỉnh, cấp huyện hoặc cấp xã cùng thực hiện nhưng chưa rõ thẩm quyền và trách nhiệm của từng cấp trong quản lý.
Thứ tám, việc thành lập và quản lý theo quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập theo ngành, lĩnh vực chưa được coi trọng, dẫn đến làm tăng cả về tổ chức và biên chế (số lượng người làm việc) trong các đơn vị sự nghiệp công lập.
Thứ chín, một số chính sách là điều kiện quan trọng để thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp công lập (như học phí, viện phí…) cũng như nhiều định mức kinh tế kỹ thuật, tiêu chuẩn ngành còn thiếu (định mức giờ giảng, định mức biên chế theo lĩnh vực, theo ngành, nghề…) chưa được ban hành hoặc sửa đổi kịp thời; các định mức chi và cơ chế quản lý chi chậm đổi mới, chưa gắn với kết quả hoạt động nên hạn chế tính tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp. Đây cũng là nguyên nhân làm chậm quá trình đẩy mạnh xã hội hóa đối với một số lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công.
1.3. Nguyên nhân của hạn chế
Một là, luật và một số văn bản hướng dẫn thi hành được ban hành trước thời điểm có Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XII, các nghị quyết, kết luận của Trung ương nên chưa kịp cụ thể hóa các chủ trương, định hướng lớn và mới được ban hành của Đảng, Quốc hội. Một số bộ luật chưa thể hiện được hết tư tưởng mới của Hiến pháp năm 2013.
Hai là, vấn đề giáp ranh, đan xen, giao thoa về chức năng, nhiệm vụ giữa một số bộ, ngành là do bản thân những vấn đề quản lý rất phức tạp nên không đơn giản phân định về mặt hành chính, nhất là trong điều kiện thiếu cơ chế phối hợp hiệu quả, nên vẫn chưa giải quyết được dứt điểm các vấn đề bất hợp lý trong quá trình tổ chức thực hiện.
Ba là, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của nhiều cơ quan, tổ chức hành chính nhà nước chưa cụ thể hoá đầy đủ; thiếu quy định khung về việc thành lập cơ quan, tổ chức hành chính nhà nước.
Bốn là, mô hình tổng thể về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương các cấp chưa được hoàn thiện, một số quy định của pháp luật chưa phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới, đặc biệt là việc phân định rõ mô hình tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị với chính quyền nông thôn, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt.
Năm là, quy định về thành lập tổ chức hành chính chưa được tuân thủ nghiêm, vẫn còn tình trạng quy định thành lập tổ chức bộ máy ngay trong các luật chuyên ngành và các nghị định gây khó khăn trong việc hướng dẫn tổ chức thực hiện, sắp xếp, kiện toàn các tổ chức bộ máy hành chính nhà nước.
Sáu là, chưa quy định cụ thể, đầy đủ tiêu chí xác định số lượng cấp phó trong các tổ chức hành chính nhà nước, dẫn đến thiếu thống nhất trong tổ chức thực hiện.
Bảy là, hạn chế trong việc phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị chủ yếu là do còn trùng lặp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm; hạn chế trong việc chia sẻ thông tin quản lý và thiếu các quy định về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm phối hợp trong thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực.
Tám là, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tuyên truyền, triển khai cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở một số bộ, ngành và địa phương chưa được quan tâm đúng mức. Nhiều đơn vị sự nghiệp công lập chưa chủ động xây dựng phương án tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính trong từng giai đoạn trình cơ quan chủ quản cấp trên xem xét thẩm định, phê duyệt. Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong đơn vị sự nghiệp công lập nhận thức chưa đầy đủ về nội dung, mục đích và yêu cầu về thực hiện giao quyền tự chủ đối với đơn vị sự nghiệp công lập, vẫn còn tâm lý ỷ lại, trông chờ bao cấp của nhà nước, không muốn thay đổi cơ chế quản lý.
1.4. Bài học kinh nghiệm
Thứ nhất, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò giám sát của cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và nhân dân; bám sát Cương lĩnh, Hiến pháp, Điều lệ và các văn kiện của Đảng trong việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của cả hệ thống chính trị.
Thứ hai, kết hợp hài hoà giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển; gắn đổi mới tổ chức bộ máy với đổi mới phương thức lãnh đạo, tinh giản biên chế và cải cách chế độ tiền lương; cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; thu hút người có đức, có tài; bố trí đủ nguồn lực cần thiết và có cơ chế, chính sách phù hợp đối với những người chịu tác động trực tiếp trong quá trình sắp xếp.
Thứ ba, việc hoàn thiện tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, cải cách hành chính phải được tiếp tục thực hiện toàn diện trên tất cả các ngành, lĩnh vực và các địa phương, bảo đảm tuân thủ các mục tiêu, quan điểm, yêu cầu, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Thứ tư, cần phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cấp, từng ngành, từng cơ quan, tổ chức để bảo đảm không chồng chéo, trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị, giữa Trung ương với địa phương. Cần sáp nhập những cơ quan, tổ chức tương đồng về chức năng, nhiệm vụ. Không nhất thiết Trung ương có tổ chức nào thì địa phương có tổ chức đó. Bảo đảm một cơ quan thực hiện nhiều việc và một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính. Việc xây dựng mô hình và quy mô tổ chức bộ máy phải phù hợp với tính chất, đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan và địa phương.
Thứ năm, khẩn trương tổng kết việc thực hiện thí điểm các mô hình tổ chức bộ máy để đánh giá, rút kinh nghiệm và đưa vào triển khai thực hiện nếu thấy phù hợp, hiệu quả.
Thứ sáu, cần xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích việc sắp xếp tinh gọn tổ chức, tinh giản biên chế cho phù hợp.
2. Định hướng tiếp tục đổi mới tổ chức bộ máy hành chính nhà nước trong thời gian tới
Quan điểm của Đảng về vấn đề này là:
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội và quyền làm chủ của nhân dân; bám sát Cương lĩnh, Hiến pháp, Điều lệ và các văn kiện của Đảng trong việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; đặt trong tổng thể nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng; thực hiện đồng bộ với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Thứ hai, có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, hiệu quả. Lãnh đạo tập trung, thống nhất; thực hiện thường xuyên, liên tục, tích cực, mạnh mẽ, có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình, bước đi vững chắc, đáp ứng yêu cầu cả trước mắt và lâu dài. Những việc đã rõ, cần thực hiện thì thực hiện ngay; những việc mới, chưa được quy định, hoặc những việc đã có quy định nhưng không còn phù hợp thì mạnh dạn chỉ đạo thực hiện thí điểm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, từng bước hoàn thiện, mở rộng dần, không cầu toàn, không nóng vội; những việc chưa rõ, phức tạp, nhạy cảm, còn có ý kiến khác nhau thì tiếp tục nghiên cứu, tổng kết để có chủ trương, giải pháp phù hợp.
Thứ ba, giữ vững các nguyên tắc tổ chức, hoạt động và đề cao kỷ luật, kỷ cương của Đảng, pháp luật của Nhà nước; nghiêm túc thực hiện nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo việc đổi mới, sắp xếp và quản lý tổ chức bộ máy, biên chế của hệ thống chính trị. Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của Trung ương, đồng thời phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của từng cấp, từng ngành, từng địa phương; xác định rõ trách nhiệm của tập thể và cá nhân, nhất là người đứng đầu.
Thứ tư, bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ, liên thông; kết hợp hài hoà giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển; gắn đổi mới tổ chức bộ máy với đổi mới phương thức lãnh đạo, tinh giản biên chế và cải cách chế độ tiền lương; cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; thu hút người có đức, có tài; bố trí đủ nguồn lực cần thiết và có cơ chế, chính sách phù hợp đối với những người chịu tác động trực tiếp trong quá trình sắp xếp.
Thứ năm, thực hiện nguyên tắc một cơ quan thực hiện nhiều việc và một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính. Mô hình và quy mô tổ chức bộ máy phải phù hợp với tính chất, đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị, địa phương.
Thứ sáu, làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên về đổi mới, sắp xếp tổ chức, bộ máy, tinh giản biên chế; tăng cường tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tạo sự thống nhất cao trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội, không để các thế lực thù địch, các phần tử xấu lợi dụng xuyên tạc, chống phá, chia rẽ nội bộ.
Thứ bảy, đẩy mạnh xã hội hoá, nhất là trong các ngành, lĩnh vực và địa bàn mà khu vực ngoài công lập làm được và làm tốt; huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển lành mạnh thị trường dịch vụ sự nghiệp công trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện công khai, minh bạch, không thương mại hoá. Bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa các đơn vị sự nghiệp công lập và ngoài công lập.
Thứ tám, thực hiện quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trong quá trình đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, gắn với đổi mới hệ thống chính trị và cải cách hành chính, đồng thời có lộ trình và bước đi phù hợp, có trọng tâm, trọng điểm; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết thực tiễn để kịp thời bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách.
Thứ chín, cả hệ thống chính trị thống nhất nhận thức và hành động, quyết tâm thực hiện tinh giản biên chế, nhưng không làm ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao.
Thứ mười, tinh giản biên chế đi đôi với cải cách tiền lương và đổi mới tổ chức bộ máy của cả hệ thống chính trị, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Tỉ lệ tinh giản biên chế được xác định theo từng cơ quan, tổ chức, đơn vị, phù hợp với thực tế số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan, đơn vị.
Trong thời gian tới cần tiếp tục thực hiện đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy hành chính nhà nước đồng bộ với bộ máy của hệ thống chính trị, bảo đảm tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cụ thể là:
2.1. Nhiệm vụ chủ yếu giai đoạn 2021-2030
– Xây dựng nền hành chính trong sạch, vững mạnh, quản lý thống nhất, thông suốt, tinh gọn, hợp lý, linh hoạt ứng phó với các vấn đề có tính toàn cầu, đáp ứng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế
– Tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ với vai trò là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội; rà soát chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, cơ quan ngang bộ để tổ chức lại việc phân định chức năng quản lý nhà nước về các ngành, lĩnh vực và hoàn thiện mô hình bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực với quy mô phù hợp, bảo đảm tính liên thông, thống nhất, thông suốt trong hoạt động quản lý đối với các ngành, lĩnh vực.
– Kiện toàn cơ cấu tổ chức của Chính phủ tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả bảo đảm thực hiện tốt vị trí pháp lý, chức năng, nhiệm vụ đã được Hiến pháp quy định; xây dựng Chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động, phục vụ nhân dân.
– Sắp xếp, kiện toàn cơ cấu tổ chức bên trong của bộ, cơ quan ngang bộ, bảo đảm tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo hướng tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, luật pháp, cơ chế, chính sách; nâng cao năng lực chỉ đạo, điều hành và hiệu quả tổ chức thực hiện; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra việc chấp hành.
– Rà soát lại bộ máy các sở, ban, ngành ở địa phương để kiện toàn các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh, cấp huyện theo hướng thu gọn đầu mối, giảm bớt khâu trung gian, quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Chú ý phân biệt rõ mô hình chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn.
– Nghiên cứu tổ chức lại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện theo hướng tập trung vào chức năng tham mưu cho UBND cùng cấp quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực và phân cấp cho chính quyền địa phương quyết định sắp xếp phù hợp với quy định khung của Chính phủ, bảo đảm phân định rõ hơn tổ chức bộ máy chính quyền ở đô thị, nông thôn, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt… Nghiên cứu thành lập các cơ quan tổ chức thực thi chính sách (cung cấp dịch vụ hành chính công theo khu vực) trong địa bàn cấp tỉnh.
– Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền phù hợp với khả năng tự chủ về ngân sách của các địa phương gắn với đề cao trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực và chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương.
– Hoàn thiện hệ thống pháp luật để thể chế hoá các chủ trương của Đảng về đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính, tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập; tiếp tục thực hiện việc giảm đầu mối, phấn đấu chỉ còn các đơn vị sự nghiệp công lập phục vụ nhiệm vụ chính trị, phục vụ quản lý nhà nước và các đơn vị cung ứng các dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu; giảm bình quân 15% chi trực tiếp từ ngân sách nhà nước cho đơn vị sự nghiệp công lập so với giai đoạn 2021 – 2025.
2.2. Nhiệm vụ trọng tâm của Kế hoạch 5 năm 2021-2025
– Triển khai đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy hành chính nhà nước theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW, Nghị quyết số 56/2017/QH14, Kết luận số 34-KL/TW, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức chính quyền địa phương và các văn bản hướng dẫn thi hành.
– Nghiên cứu, chuẩn bị Đề án cơ cấu tổ chức của Chính phủ nhiệm kỳ khoá XV theo yêu cầu tiếp tục tinh gọn, hợp lý hơn, với số lượng các bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ tương đồng với các nước phát triển trong khu vực. Sắp xếp, kiện toàn cơ cấu tổ chức bên trong của bộ, cơ quan ngang bộ, bảo đảm tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
– Hoàn thiện các quy định về tiêu chí thành lập tổ chức, biên chế tối thiểu và số lượng cấp phó tối đa trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc bộ, ngành và địa phương.
– Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền phù hợp với khả năng tự chủ về ngân sách của các địa phương gắn với đề cao trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực và chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương.
– Hoàn thiện việc tổng kết các thí điểm: kiêm nhiệm chức danh người đứng đầu cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy và cơ quan chuyên môn của chính quyền có chức năng, nhiệm vụ tương đồng cấp tỉnh, cấp huyện ở những nơi có đủ điều kiện; hợp nhất cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy với cơ quan chuyên môn (hoặc tham mưu) thuộc UBND có chức năng, nhiệm vụ tương đồng cấp tỉnh, cấp huyện ở những nơi có đủ điều kiện; hợp nhất các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện; hợp nhất Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội, Văn phòng HĐND và Văn phòng UBND cấp tỉnh thành một văn phòng tham mưu, giúp việc chung ở những nơi có đủ điều kiện, tiết tới triển khai áp dụng trên phạm vi toàn quốc nếu được đánh giá là phù hợp và có hiệu quả cao.
– Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật để thể chế hoá chủ trương của Đảng về đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính, tổ chức và hoạt động đơn vị sự nghiệp công lập; tiếp tục giảm tối thiểu bình quân cả nước 10% đơn vị sự nghiệp công lập.
– Phấn đấu có tối thiểu 20% đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài chính; 100% đơn vị sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác có đủ điều kiện chuyển đổi thành công ty cổ phần; tiếp tục giảm bình quân 10% chi trực tiếp từ ngân sách nhà nước cho đơn vị sự nghiệp công lập so với giai đoạn 2016-2020./.
Ghi chú:
(1) Chính phủ, Tờ trình số 39/TTr-TTg ngày 28/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ về cơ cấu tổ chức Chính phủ và số Phó Thủ tướng nhiệm kỳ khoá XIII (tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khoá XIII).
(2) Ban Cán sự đảng Bộ Nội vu, Báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khóa X về đổi mới, kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước (kèm theo Công văn số 26-CV/ BCSĐ ngày 06/3/2013).
(3) Ban Cán sự đảng Bộ Nội vụ, Đề án “Đẩy mạnh cải cách hành chính, thu gọn đầu mối và tinh giản biên chế khu vực hành chính, sự nghiệp” (kèm theo Tờ trình số 43-TTr/BCSĐ ngày 15/4/2013).
(4) Chuyển Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh về trực thuộc Ban Bí thư và thành lập mới Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
TS Vũ Hải Nam, Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức – Biên chế (Bộ Nội vụ)
Theo: http://tcnn.vn
Kho Bạc Nhà Nước Hà Nội Tổ Chức Hội Nghị Công Bố Quyết Định Sắp Xếp Tổ Chức Bộ Máy.
Ngày 30/09/2019, tại Hội trường Kho bạc Nhà nước (KBNN) Hà Nội đã diễn ra Hội nghị công bố quyết định sắp xếp tổ chức bộ máy theo Quyết định số 1618/QĐ-BTC của Bộ Tài chính và Quyết định số 4525/QĐ-KBNN của Kho bạc Nhà nước. Thành phần tham dự gồm có bà Nguyễn Thị Thanh Hương – Bí thư Đảng ủy, Giám đốc KBNN Hà Nội – Chủ trì Hội nghị, Ban lãnh đạo KBNN Hà Nội và toàn thể công chức KBNN Hà Nội.
Đồng chí, Nguyễn Thị Thanh Hương – Giám đốc KBNN Hà Nội phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị
Phát biểu tại Hội nghị Bà Nguyễn Thị Thanh Hương, Giám đốc KBNN Hà Nội nêu nội dung Quyết định số 1618/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Kho bạc Nhà nước ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Quyết định số 4525/QĐ-KBNN về việc Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các phòng và Văn phòng thuộc Kho bạc Nhà nước ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Công văn số 4527/KBNN-TCCB ngày 04/9/2019 về việc hướng dẫn triển khai sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy của KBNN cấp tỉnh, huyện; đồng thời bà nêu ra những khó khăn, vướng mắc thực tế trong quá trình thực hiện; bên cạnh đó động viên ghi nhận những cố gắng của tập thể cán bộ công chức KBNN Hà Nội trong giai đoạn chuyển giao, sáp nhập.
Sau quá trình sắp xếp, kiện toàn, tổ chức bộ máy cụ thể của KBNN Hà Nội giảm từ 10 phòng còn 7 phòng, bao gồm các phòng: Văn phòng, Tài vụ – Quản trị, Thanh tra – Kiểm tra, Kế toán nhà nước, Kiểm soát chi Trung ương 1, Kiểm soát chi Trung ương 2 và Kiểm soát chi Địa phương. Về KBNN quận huyện, thị xã giảm 10 phòng tại 5 KBNN có tổ chức phòng: Hoàn Kiếm, Ba Đình, Hai Bà Trưng, Đống Đa và Hà Đông. Lãnh đạo các phòng và công chức chuyên môn nghiệp vụ được sắp xếp lại phù hợp với chức năng nhiệm vụ. Việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy cơ cấu tổ chức nhận được sự đồng thuận, nhất trí cao của toàn thể Ban Lãnh đạo, công chức KBNN Hà Nội./.
Một số hình ảnh tại Hội nghị:
admin kho bac
Nhiều Giải Pháp Thực Hiện Nghị Quyết Trung Ương 4 (Khóa Xii)
STO – Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), Thành ủy Sóc Trăng đã xây dựng chương trình hành động cụ thể và đề ra nhiều giải pháp để thực hiện nghị quyết. Qua đó, nhận thức của cán bộ, đảng viên được nâng lên, thể hiện ý thức tự nhận diện các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và đề ra hướng khắc phục, từng bước nâng cao sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên.
Nhằm ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, ngoài tổ chức cho cán bộ, đảng viên học tập, quán triệt nghị quyết, Ban Thường vụ Thành ủy còn quan tâm chỉ đạo việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình tập thể, cá nhân gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 và Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị, đi đôi với kiểm tra, giám sát việc thực hiện.
Theo Phó Bí thư Thành ủy Sóc Trăng Nguyễn Tuấn Thành, Thành ủy đã nhận diện trong Đảng bộ thành phố có 6 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, 3 biểu hiện về đạo đức, lối sống. Trước thực trạng đó, Thành ủy tìm hiểu nguyên nhân và đề ra các giải pháp khắc phục, trong đó tập trung thực hiện các nhiệm vụ cụ thể như ban hành các công văn, kế hoạch chỉ đạo đảng viên viết bài thu hoạch, cam kết thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, nhất là trong kiểm điểm tự phê bình và phê bình của tập thể, cá nhân phải đề ra giải pháp khắc phục, sửa chữa những hạn chế, thiếu sót. Đồng thời, phân công ủy viên Ban Thường vụ theo dõi, giám sát nhằm đảm bảo hiệu quả mang lại cao nhất.
Đồng chí Nguyễn Tuấn Thành cho biết thêm, bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) ở Đảng bộ thành phố cũng còn hạn chế là một số đơn vị chưa nhận diện đầy đủ các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, suy thoái về đạo đức, lối sống, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nên chưa có biện pháp ngăn ngừa hiệu quả… Những hạn chế này sẽ được Ban Thường vụ nghiên cứu có giải pháp khắc phục trong thời gian tới, nhằm xây dựng tổ chức đảng ngày càng trong sạch vững mạnh.
chúng tôi
Đổi Mới, Sắp Xếp Tổ Chức Bộ Máy: Cần Sự Quyết Tâm Của Cả Hệ Thống Chính Trị
Ngày 25/10/2017, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả“ với mục tiêu chung là tổ chức lại bộ máy gọn hơn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn và phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội. Gắn tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; giảm chi thường xuyên, góp phần cải cách chính sách tiền lương.
Quán triệt tinh thần đó, ngày 09/4/2018, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa đã ban hành Kế hoạch số 81-KH/TU để lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện trong toàn Đảng bộ. Trên cơ sở Kế hoạch của Tỉnh ủy, các cấp ủy đảng, tổ chức, cơ quan, đơn vị đã cụ thể hóa thành những kế hoạch, chương trình hành động phù hợp với tình hình, điều kiện thực tế của địa phương, đơn vị và sau một năm thực hiện đã đạt những kết quả bước đầu khá quan trọng.
Nỗ lực giảm đầu mối, tinh gọn tổ chức bộ máy
Sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy là việc làm rất cấp thiết, nhưng cũng hết sức khó khăn, vì có ảnh hưởng, tác động trực tiếp đến việc làm, vị trí công tác, lợi ích của mỗi cán bộ, công chức, viên chức. Song, với sự nỗ lực, quyết tâm của các cấp, các ngành từ tỉnh đến cơ sở, tổ chức bộ máy của nhiều đơn vị, địa phương trong hệ thống chính trị của tỉnh bước đầu tinh gọn hơn, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Đến nay, 6/6 cơ quan tham mưu, giúp việc Tỉnh ủy đã sắp xếp lại đầu mối trực thuộc, giảm 11 đầu mối; mỗi đơn vị đều giảm số lượng đầu mối bên trong ít hơn 01 đơn vị so với quy định tối đa của Trung ương, trong đó, 5/6 đơn vị giảm 02 đầu mối. Nhiều đơn vị có tỉ lệ giảm số đầu mối khá cao như Ban Dân vận Tỉnh ủy, giảm 50%; Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy và Ban Tổ chức Tỉnh ủy cùng giảm 40%; Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy giảm 33%… Đối với các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, nhiều đơn vị cũng đã chủ động sắp xếp lại tổ chức bộ máy bên trong, trong đó Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Ngoại vụ, Thanh Tra tỉnh, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội mỗi đơn vị giảm một đầu mối; UBND tỉnh cũng đã quyết định hợp nhất 04 ban chỉ đạo các chương trình trọng điểm của tỉnh thành một ban chỉ đạo.
Với tinh thần đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn gắn với đổi mới hệ thống tổ chức, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, nhiều đơn vị sự nghiệp thuộc các sở, ngành đã và đang tổ chức, sắp xếp lại, như hợp nhất các trung tâm: Phòng chống HIV/AIDS, Y tế dự phòng, Phòng chống sốt rét – ký sinh trùng, Nội tiết, Chăm sóc sức khỏe sinh sản thành Trung tâm Kiểm soát dịch bệnh; tổ chức lại ba trung tâm Xúc tiến Đầu tư, Thông tin Xúc tiến Du lịch, Khuyến công và Xúc tiến thương mại thành Trung tâm Xúc tiến Đầu tư trực thuộc UBND tỉnh; sáp nhập Trung tâm Y tế và Trung tâm Dân số kế hoạch hóa gia đình thành một đầu mối; Trung tâm Điện ảnh và Trung tâm Văn hóa, thể thao thành một đầu mối; hợp nhất ban quản lý rừng ở các địa phương liền kề thành một ban quản lý rừng liên vùng; sáp nhập Trung tâm Giáo dục thường xuyên và hướng nghiệp với Trường Trung cấp nghề ở hai huyện Khánh Sơn và Khánh Vĩnh… Sau khi tổ chức lại, toàn tỉnh giảm 14 đơn vị sự nghiệp thuộc các sở.
Cùng với thu gọn đầu mối bên trong, chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan, đơn vị cũng được điều chỉnh, bổ sung phù hợp hơn với tinh thần một cơ quan, tổ chức làm nhiều việc nhưng một việc chỉ giao cho một cơ quan, tổ chức chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính; đồng thời, được phân cấp, ủy quyền hợp lý hơn. Điển hình như nhiệm vụ thường trực Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp và công tác tham mưu, giúp Thường trực Tỉnh ủy định kỳ tổ chức tiếp công dân trước đây Văn phòng Tỉnh ủy đảm nhận nay được giao Ban Nội chính Tỉnh ủy phụ trách; công tác văn phòng, phục vụ của các đơn vị thuộc Tỉnh ủy được tập trung về một đầu mối thuộc Văn phòng Tỉnh ủy; sắp xếp tổ chức bộ máy, chuyển giao nhiệm vụ, biên chế của Ban Bảo vệ chăm sóc sức khỏe cán bộ tỉnh về Ban Tổ chức Tỉnh ủy và Bệnh viện Đa khoa tỉnh để nâng cao hiệu quả hoạt động; chuyển giao nhiệm vụ xây dựng hương ước từ cơ quan tư pháp và công chức tư pháp hộ tịch cấp xã sang cơ quan văn hóa và công chức phụ trách văn hóa – xã hội cấp xã…
Đẩy mạnh thí điểm mô hình mới, giảm biên chế, giảm vị trí lãnh đạo
Thực hiện thí điểm một số mô hình mới về tổ chức bộ máy và kiêm nhiệm chức danh để tinh gọn đầu mối là một trong những mục tiêu cụ thể mà Nghị quyết số 18-NQ/TW đã đề ra đến năm 2021. Quán triệt tinh thần đó, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã yêu cầu các huyện, thị, thành ủy phải tập trung lãnh đạo thực hiện, trước hết là đẩy mạnh thực hiện nhất quán chủ trương trưởng ban tuyên giáo đồng thời là giám đốc trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện và thí điểm trưởng ban dân vận đồng thời là chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp huyện ở những nơi có điều kiện. Đến nay, toàn tỉnh có 8/8, đạt 100% địa phương bố trí trưởng ban tuyên giáo đồng thời là giám đốc trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện; 4/8, đạt 50% địa phương hoàn thành việc bố trí trưởng ban dân vận đồng thời là chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp huyện.
Với tinh thần sắp xếp, tổ chức lại bộ máy gắn với tinh giản biên chế, giảm cấp trung gian, giảm cán bộ lãnh đạo. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã quy định theo hướng giảm 02 vị trí lãnh đạo cấp phó của các cơ quan tham mưu giúp việc Tỉnh ủy; Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội cấp tỉnh, trừ Hội Cựu chiến binh, mỗi đơn vị giảm một cấp phó, đến nay số cấp phó của các đơn vị này giảm 05 vị trí, nâng số lãnh đạo cấp phó của các cơ quan khối Đảng, Mặt trận và đoàn thể cấp tỉnh giảm 07 vị trí. Đối với lãnh đạo cấp phòng cũng giảm đáng kể sau khi sắp xếp lại tổ chức bộ máy, toàn tỉnh đã giảm 32 vị trí trưởng, phó phòng và tương đương, trong đó, các cơ quan khối Đảng giảm 28; khối Mặt trận và đoàn thể giảm 04; sau khi sắp xếp tổ chức bộ máy, toàn tỉnh giảm 12 biên chế hành chính, nâng tổng số biên chế hành chính giảm năm 2018 lên 33 biên chế; giảm 38 viên chức do sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp, nâng tổng số biên chế sự nghiệp giảm trong năm 2018 lên 599, trong đó cấp tỉnh giảm 199, cấp huyện giảm 400.
Cần sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị
Sau gần một năm thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW trên địa bàn tỉnh đã đạt những kết quả tích cực, quan trọng bước đầu. Các cấp ủy đảng, tổ chức từ tỉnh đến cơ sở đều quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, ban hành văn bản tổ chức triển khai thực hiện có trọng tâm và lộ trình thực hiện cụ thể. Hầu hết đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức đều nhận thức rõ tầm quan trọng và nhiệm vụ cấp thiết phải tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị trong giai đoạn hiện nay. Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị từng bước được thu gọn đầu mối gắn với tinh giản biên chế; một số nhiệm vụ được phân định lại rõ ràng hơn theo hướng giảm chồng chéo, trùng lắp. Nhiều địa phương, đơn vị triển khai quyết liệt, có nơi vừa làm vừa nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm để hoàn thiện, cũng còn có nơi trông chờ hướng dẫn từ cấp trên, lo ngại xáo trộn nên chần chừ, chưa quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện.
Việc sắp xếp tổ chức để tinh gọn bộ máy, giảm biên chế là việc làm khó, dễ nảy sinh tư tưởng, tâm tư trong nội bộ… cần sự thận trọng, làm từng bước, có lộ trình, nhưng không vì thế mà chần chừ, trông chờ, làm ảnh hưởng tiến độ chung, sự quyết tâm của tỉnh, do đó rất cần sự quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Mỗi cấp ủy đảng, tổ chức, địa phương, đơn vị tiếp tục làm tốt công tác chính trị tư tưởng trong nội bộ, quán triệt đến mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức đầy đủ, đúng đắn việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả là yêu cầu cấp thiết, tất yếu khách quan đặt ra hiện nay; từ đó nêu cao tinh thần tự giác, tự nguyện, đặt lợi ích tập thể, tổ chức lên trên lợi ích cá nhân, nhất là với những người chịu tác động bởi việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế.
Cùng với việc xây dựng kế hoạch, chương trình, đề ra giải pháp, nhiệm vụ hằng năm, theo lộ trình để sắp xếp tổ chức, tinh gọn bộ máy, cần phải quyết liệt, nỗ lực trong triển khai thực hiện; sớm chuyển ý chí, quyết tâm của tổ chức, đơn vị, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu thành hành động cụ thể, thiết thực; thực hiện quyết liệt, đồng bộ những việc đã rõ, sớm hoàn thành những việc cần làm ngay, tạo tiền đề, cơ sở để thực hiện những việc theo lộ trình. Với mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, sẵn sàng hợp tác với tinh thần vì tập thể, tổ chức; cùng cộng đồng trách nhiệm trên cơ sở chức trách, nhiệm vụ được giao, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng này, đáp ứng sự kỳ vọng của nhân dân về một bộ máy của hệ thống chính trị tỉnh nhà thật sự tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả./.
Cập nhật thông tin chi tiết về Tiếp Tục Đổi Mới, Sắp Xếp Tổ Chức Bộ Máy Hành Chính Nhà Nước Theo Yêu Cầu Của Nghị Quyết Hội Nghị Trung Ương Lần Thứ 6, Khóa Xii trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!